Đề tài Tác động tiêu cực của dong vốn FDI

Lời mở đầu MỤC LỤC I. Tổng quan về FDI và các nước đang phát triển: 1 1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài(FDI): 1 a)Khái quát FDI: 1 b)Các hình thức FDI: 1 i.Phân theo bản chất đầu tư 1 +Đầu tư phương tiện hoạt động: 1 +Mua lại và sáp nhập: 1 ii. Phân theo tính chất dòng vốn 1 +Vốn chứng khoán: 1 +Vốn tái đầu tư:. 1 +Vốn vay nội bộ hay giao dịch nợ nội bộ: 2 iii.Phân theo động cơ của nhà đầu tư 2 +Vốn tìm kiếm tài nguyên: 2 +Vốn tìm kiếm hiệu quả 2 +Vốn tìm kiếm thị trường: 2 2. Các nước đang phát triển: 3 a)Định nghĩa: 3 b)Đặc điểm chung: 3 II. Những ảnh hưởng tiêu cực của FDI với các nước đang phát triển 5 1. Tình hình thu hút FDI ở các quốc gia đang phát triển trong những năm gần đây : 5 2. Ảnh hưởng tiêu cực của FDI: 7 a)Nguy cơ trở thành bãi rác công nghệ: 9 b)Ảnh hưởng đến môi trường và làm khánh kiệt tài nguyên thiên nhiên 12 c)Tác động tiêu cực tới đời sống kinh tế- xã hội 15 i) Tác động tới kinh tế : 15 ii) Cạnh tranh với kinh tế trong nước. 17 iii) FDI và lạm phát. 20 iv) Các tác động khác 20 + Sự cách biệt giàu nghèo 20 + Nguy cơ chảy máu chất xám 21 + Nới lỏng các qui định về lao động 22 III. Những kiến nghị giải quyết những hạn chế của vốn FDI ở các quốc gia đang phát triển 23 1.Đối với các quốc gia đang phát triển đang hàng ngày tiếp nhận nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài 24 2.Đối với những doanh nghiệp, tổ chức và người dân 25 3.Việt Nam cũng nằm trong số các quốc gia đang phát triển có chiến lược thu hút vốn FDI để phát triển đất nước 25 Kết luận Tài liệu tham khảo Lời mở đầu Năm 2007, Việt Nam tổng kết 20 năm đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Sau 20 năm, tổng số vốn FDI mà các tập đoàn đa quốc gia đã đầu tư vào Việt Nam là 98 tỷ USD, trong đó riêng năm 2007 đã là 20,3 tỷ USD. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là lời giải cho bài toán thiếu vốn của các nước đang phát triển. Nhất là trong thời kỳ hiện nay khi nhu cầu mở rộng sản xuất càng lớn thì việc thu hút thêm càng nhiều vốn FDI càng tốt. Vẫn biết những hiệu quả mà luồng vốn này đem lại là vô cùng lớn, nhưng không thể phủ nhận những ảnh hưởng trái chiều không mong muốn mà nó đem lại. Có được khối lượng lớn vốn FDI là cố gắng, cũng như là mục tiêu của không chỉ các nước đang phát triển mà thậm chí còn của các nước phát triển. Phải khẳng định rằng thu hút được nhiều FDI là thành quả đáng khích lệ, là thành công của nước nhận đầu tư. Tuy nhiên, nhận nhiều vốn nhưng cũng cần tỉnh táo để không trở thành người bị thiệt trong cuộc chơi chung là điều mà các nước nên quan tâm. Với mong muốn hiểu thêm về dòng vốn FDI, nhóm thực hiện đã tiến hành nghiên cứu, tìm hiểu một trong những tác động của FDI: Tác động tiêu cực, với phạm vi nghiên cứu là các nước đang phát triển- nhóm những nước nghèo, lạc hậu vè công nghệ, cần vốn để tiến hành sản xuất nhiều nhất. Có được bài tiểu luận này, nhóm thực hiện đề tài muốn gửi lời cảm ơn sâu sắc tới cô: Nguyễn Thị Hải Yến- giảng viên môn Kinh tế phát triển vì những hướng dẫn, gợi ý quý giá của cô. Trong quá trình thực hiện không tránh khỏi đôi chỗ sai sót, vì thế nhóm thực hiện rất mong nhận được sự phản hồi từ phía độc giả.

doc32 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5244 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tác động tiêu cực của dong vốn FDI, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. Tổng quan về FDI và các nước đang phát triển: 1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài(FDI): a) Khái quát FDI: Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI = Foreign Direct Investment) là hình thức đầu tư dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác bằng cách thiết lập cơ sở sản xuất, kinh doanh. Cá nhân hay công ty nước ngoài đó sẽ nắm quyền quản lý cơ sở sản xuất kinh doanh này. b) Các hình thức FDI: i. Phân theo bản chất đầu tư Đầu tư phương tiện hoạt động: Đầu tư phương tiện hoạt động là hình thức FDI trong đó công ty mẹ đầu tư mua sắm và thiết lập các phương tiện kinh doanh mới ở nước nhận đầu tư. Hình thức này làm tăng khối lượng đầu tư vào. Mua lại và sáp nhập: Mua lại và sáp nhập là hình thức FDI trong đó hai hay nhiều doanh nghiệp có vốn FDI đang hoạt động sáp nhập vào nhau hoặc một doanh nghiệp này (có thể đang hoạt động ở nước nhận đầu tư hay ở nước ngoài) mua lại một doanh nghiệp có vốn FDI ở nước nhận đầu tư. Hình thức này không nhất thiết dẫn tới tăng khối lượng đầu tư vào. ii. Phân theo tính chất dòng vốn • Vốn chứng khoán: Nhà đầu tư nước ngoài có thể mua cổ phần hoặc trái phiếu doanh nghiệp do một công ty trong nước phát hành ở một mức đủ lớn để có quyền tham gia vào các quyết định quản lý của công ty. • Vốn tái đầu tư: Doanh nghiệp có vốn FDI có thể dùng lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh trong quá khứ để đầu tư thêm. • Vốn vay nội bộ hay giao dịch nợ nội bộ: Giữa các chi nhánh hay công ty con trong cùng một công ty đa quốc gia có thể cho nhau vay để đầu tư hay mua cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp của nhau. iii. Phân theo động cơ của nhà đầu tư Vốn tìm kiếm tài nguyên: Đây là các dòng vốn nhằm khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên rẻ và rồi rào ở nước tiếp nhận, khai thác nguồn lao động có thể kém về kỹ năng nhưng giá thấp hoặc khai thác nguồn lao động kỹ năng rồi rào. Nguồn vốn loại này còn nhằm mục đích khai thác các tài sản sẵn có thương hiệu ở nước tiếp nhận (như các điểm du lịch nổi tiếng). Nó cũng còn nhằm khai thác các tài sản trí tuệ của nước tiếp nhận. Ngoài ra, hình thức vốn này còn nhằm tranh giành các nguồn tài nguyên chiến lược để khỏi lọt vào tay đối thủ cạnh tranh. Vốn tìm kiếm hiệu quả: Đây là nguồn vốn nhằm tận dụng giá thành đầu vào kinh doanh thấp ở nước tiếp nhận như giá nguyên liệu rẻ, giá nhân công rẻ, giá các yếu tố sản xuất như điện nước, chi phí thông tin liên lạc, giao thông vận tải, mặt bằng sản xuất kinh doanh rẻ, thuế suất ưu đãi, v.v... Vốn tìm kiếm thị trường: Đây là hình thức đầu tư nhằm mở rộng thị trường hoặc giữ thị trường khỏi bị đối thủ cạnh tranh giành mất. Ngoài ra, hình thức đầu tư này còn nhằm tận dụng các hiệp định hợp tác kinh tế giữa nước tiếp nhận với các nước và khu vực khác, lấy nước tiếp nhận làm bàn đạp để thâm nhập vào các thị trường khu vực và toàn cầu 2. Các nước đang phát triển: a) Định nghĩa: Các nước đang phát triển là các nước thuộc thế giới thứ ba – các nước có nền nông nghiệp lạc hậu, hoặc các nước nông – công nghiệp đang từ sản xuất nhỏ tiến lên con đường công nghiệp hóa. Những nước này được chia làm ba loại: những nước có mức thu nhập trung bình, đạt mức GDP/người trên 2000 USD, những nước có mức thu nhập thấp đạt mức trên 600 USD/người và những nước mức thu nhập rất thấp đạt dưới 600 USD/người. b) Đặc điểm chung: - Mức sống ở các nước đang phát triển nói chung đều rất thấp thể hiện mức thu nhập bình quân đầu quân đầu người (GNI/người). Nếu lấy mức 2000 USD/ người làm mốc phản ánh khả năng giải quyết được những nhu cầu cơ bản của con người, đạt được mức này phản ánh sự biến đổi về chất trong hoạt động kinh tế và đời sống xã hội thì hiện nay vẫn còn khoảng 100 nước đang phát triển có mức thu nhập dưới 2000 USD/người, trong đó có khoảng 40 nước có thu nhập bình quân dưới 600 USD/người. - Các nước đang phát triển phải đối đầu với một thách thức là năng suất lao động thấp. Do không có cơ hội được học hành đầy đủ, tỷ lệ biết chữ ở mức rất thấp nên lao động ở các nước đang phát triển thường có tay nghề không cao, chủ yếu là lao động phổ thông. Hơn thế nữa, do thiếu vốn và công nghệ, các nước đang phát triển càng gặp khó khăn trong việc nâng cao năng suất lao động. Đây luôn là vấn đề gây đau đầu cho các nhà hoạch định chính sách ở các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. - Tốc độ gia tăng dân số, vấn đề người ăn theo, gánh nặng phụ thuộc là những khó khăn đã đeo đẳng các nước đang phát triển từ rất lâu. Nó như là một trở lực kìm hãm sự phát triển đi lên của những nước này. Dân số những nước này vốn đã đông, sự bùng nổ về dân số ở những quốc gia nàyđã tạo ra một hạn chế lớn cho phát triển kinh tế. Tỷ lệ gia tăng dân số thường ở mức cao hơn tỷ lệ tăng trưởng kinh tế đã làm cho mức sống của nhân dân ngày càng giảm. Thu nhập giảm tất yếu dẫn đến giảm sức mua và tỷ lệ tiết kiệm, sự mất cân đối giữa tích lũy và đầu tư đã làm kìm hãm sản xuất, trong khi dân số tiếp tục gia tăng, tạo áp lực về việc làm và làm cho năng suất lao động không tăng lên được. - Do áp lực tăng dân số, quy mô kinh tế không được mở rộng, làm cho nhiều lao động không kiếm được việc làm. Do họ thường không có tay nghề, chỉ là lao động thủ công, chưa qua đào tạo cho nên ở nhưng nước này xảy ra tình trạng thừa lao động giản đơn và thiếu lao động có trình độ cao. Để giải quyết vấn đề này, đòi hỏi rất nhiều thời gian cũng như chi phí để đào tạo lao động, điều này thì rất khó với các nước đang phát triển do họ thiếu thốn về kinh nghiệm cũng như tài chính để thực hiện dự án này hiệu quả. Trong một nền kinh tế tri thức như hiện nay, muốn phát triển nhanh và bền vững thì chỉ có con đường là giáo dục đào tạo thì mới có thể đưa đất nước tiến nhanh về kinh tế. - Nền kinh tế phụ thuộc vào sản xuất nông nghiệp và xuất khẩu sản phẩm thô có trình độ kỹ thuật sản xuất thấp. Lịch sử phát triển kinh tế đã chứng minh rằng nền kinh tế không thể chuyển động đi lên nếu không có công nghiệp phát triển. Sự ra đời của các phương thức sản xuất mới luôn đi đôi với cách mạng công nghiệp. Các nên kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao đều có nguồn gốc từ tốc độ tăng của ngành công nghiệp. Các nước đang phát triển đã bị các nước phát triển bỏ xa về trình độ công nghệ từ 3 - 6 thập kỷ, khoảng cách công nghệ quá lớn làm cho các nước đang phát triển khó tận dụng được lợi thế của các nước đi sau do quá trình phân công lao động quốc tế mới đưa lại. II. Những ảnh hưởng tiêu cực của FDI với các nước đang phát triển 1.Tình hình thu hút FDI ở các quốc gia đang phát triển trong những năm gần đây. Các quốc gia đang phát triển phần lớn có xuất phát điểm thấp, nền kinh tế còn lạc hậu với đầu tầu phát triển chính là nông nghiệp. Vì thế nhu cầu về vốn, về khoa học kỹ thuật ở các nước này vô cùng lớn.Nguồn vốn trong nước không thể đáp ứng nhu cầu phát triển nên vốn đầu tư nước ngoài được xem là cứu cánh giúp các nước này phát triển kinh tế, cũng như trước đây nguồn vốn này đã giúp Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore trở thành các con rồng châu Á. Theo số liệu của Ngân hàng Thế Giới thì vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chiếm phần lớn nhất trong tổng nguồn vốn đầu tư nước ngoài của toàn thế giới(khoảng gần 50%, năm 2006 đạt mức 1.306 tỷ USD – mức cao thứ 2 từ trước đến nay). Vậy sự thật thì tình hình đầu tư FDI ở các nước đang phát triển đang diễn ra như thế nào? Source: UNCTAD (percent) Như vậy, tính đến năm 2005 thì nguồn vốn đổ vào các quốc gia đang phát triển chiếm khoảng 35.9% ( tăng khá so với 20.3% năm 1980 ) và có xu hướng ngày một tăng lên ( trong khi nguồn FDI đầu tư vào các quốc gia phát triển có xu hướng giảm đi về mặt tỷ trọng trong tổng FDI toàn cầu) Vậy những nguồn vốn khổng lồ này xuất phát từ đâu? Theo các nghiên cứu gần đây của UNCTAD thì các tập đoàn đa quốc gia(TNCs ) đang là nguồn cung cấp chủ yếu FDI cho toàn cầu. Và mục tiêu của các tập đoàn này là các quốc gia đang phát triển ( đặc biệt là các nước Đông Á, Nam Á và Đông Nam Á- 2/3 số vốn FDI đầu tư cho các nước đang phát triển tập trung ở đây). Nguyên nhân là do các nước này có các chính sách thu hút vốn đặc biệt hấp dẫn, đem lại nguồn lợi nhuận khổng lồ cho các nhà đầu tư – điều mà họ không thể tìm được ở nước mình. Sau cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ châu Á 1997( nguyên nhân được cho là do sự đổ vào ồ ạt và rút ra quá nhanh của vốn đầu tư nước ngoài), các nước đang phát triển đều có thái độ e ngại khi tiếp nhận vốn đầu tư nước ngoài. Nhưng hiện nay tình hình đã hoàn toàn khác, để giải quyết những khó khăn về vốn, hầu hết các nước đang phát triển đều có thái độ hồ hởi đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Các nước này đều cố gắng tạo điều kiện tốt nhất cho các nhà đầu tư như giảm thuế, đưa ra những chính sách giảm bớt phiền hà cho các nhà đầu tư nước ngoài. Do thế mà nguồn vốn FDI đổ vào các quốc gia có chính sách mở ngày một tăng. 2. Ảnh hưởng tiêu cực của FDI: FDI thực sự phát huy được vai trò chiến lược của nó từ sau chiến tranh thế giới thứ II, khi Mỹ đổ tiền ào ạt vào châu Âu theo kế hoạch Marshall để vực dậy lục địa bị chiến tranh tàn phá này. Sau đó là sự đầu tư lẫn nhau của các nước châu Âu thực hiện liên minh tư bản, tăng cường khả năng kinh tế chống lại độc quyền của nhà đầu tư Mỹ. Cho đến ngày nay, FDI trở thành tất yếu kinh tế trong điều kiện quốc tế hóa sản xuất và lưu thông. Sẽ không có một quốc gia nào không cần đến nguồn lực đầu tư trực tiếp nước ngoài và coi đó là nguồn lực quan trọng để từng bước hòa nhập với cộng đồng. Ở thời kỳ đầu mới phát triển, trình độ kinh tế của các nước thế giới thứ 3 thấp, do đó khả năng tích lũy trong nội bộ nền kinh tế gặp hạn chế. Trong khi đó nhu cầu về vốn để phát triển nhằm rút ngắn khoảng cách với nhóm các nước công nghiệp phát triển lại lớn. Vòng luẩn quẩn của đói nghèo sẽ không bị phá vỡ nếu không có cú huých từ ngoài tác động vào. Và Fdi trở thành một cú huých có lực tác động mạnh nhất. Dòng vốn đổ vào nền kinh tế của các quốc gia nghèo đói, giống như nước đối với một người khát vậy. Những khu chế xuất, khu công nghiệp, những nhà máy mọc lên mỗi ngày. Cùng với nó, lượng lao động được giải quyết việc làm tăng theo cấp số nhân, kinh tế từng bước được chuyển dịch hợp lý hơn, tích cực hơn. Nền sản xuất trong nước được tiếp cận với những công nghệ mới, tư duy kinh tế mới, và đi cùng với nó, năng lực cạnh tranh của các quốc gia trên thị trường thế giới được cải thiện. Hoạt động FDI còn góp phần làm phong phú, đa dạng và sâu sắc quan hệ đối ngoại của các nước đang phát triển. Kinh tế trong nước dần tham gia sâu rộng hơn vào nền kinh tế khu vực và thế giới, tạo điều kiện để các nước tham gia các hiệp định hợp tác song phương và đa phương. Nhưng cái gì cũng có tính 2 mặt của nó. Và việc thu hút FDI cũng không nằm ngoài quy luật này. Trên thực tế những nhà nghiên cứu cũng như các chuyên gia đã sớm nhận thấy những hạn chế của FDI và đưa ra những cảnh báo tới các nước đang phát triển, như I. Wanter - một nhà hoạt động môi trường của Mỹ từng nói về một trong những hạn chế đó: “ Việc xuất khẩu chất bẩn gián tiếp thông qua đầu tư tư bản là quốc sách của các nước công nghiệp phát triển, và người thực hiện là các TNCs”. Nhìn chung lại, đầu tư trực tiếp nước ngoài thường có những tác động tiêu cực sau: • Nếu phía nước ngoài nắm quá nhiều quyền sở hữu thì nguy cơ “giảm vốn” có thể xảy ra: Tức là các công ty nước ngoài khi làm ăn có lãi thì bắt đầu chuyển vốn về nước chủ đầu tư tức là đồng nội tệ sẽ được đổi ra đồng tiền của nước chủ đầu tư, chuyển ra nước ngoài khiến vốn sẽ bị chuyển ra khỏi nước nhận đầu tư. • Doanh nghiệp FDI trở thành đối thủ cạnh tranh trực tiếp hoặc tiềm tàng của các doanh nghiệp trong nước: FDI là công cụ thâm nhập thị trường có sức mạnh như “ phát đại bác xuyên thủng hàng rào nội địa”, có khả năng bóp chết những doanh nghiệp nội địa nhờ tính khoa học và hiệu quả vượt trội của mình • Nguy cơ trở thành bãi rác công nghệ: • Ô nhiễm môi trường, cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên: • Lợi ích kinh tế và lợi ích chính trị bị ảnh hưởng Trong đó 3 hạn chế thường được nhắc đến và đang ngày càng bộc lộ rõ đó là: (1) Nguy cơ trở thành bãi rác công nghệ,(2) Ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên,(3) Lợi ích kinh tế và lợi ích chính trị bị ảnh hưởng. Những hạn chế này không phải chỉ tập trung trong một vài nhóm nước mà đang trở thành nguy cơ phổ biến, nhỡn tiền ở hầu hết các nước nhận đầu tư. Vì thế việc tìm ra biểu hiện, nghiên cứu nguyên nhân và tìm ra giải pháp đang là những ưu tiên hàng đầu cho các nước này. a) Nguy cơ trở thành bãi rác công nghệ: Độc quyền về công nghệ là sức mạnh, là con át chủ bài của các công ty đa quốc gia. Như một nguyên tắc các TNCs không bao giờ chuyển giao những công nghệ tiên tiến nhất của mình cho các chi nhánh ở các nước đang phát triển. Không phải lúc nào việc chuyển giao công nghệ cũng mang ý nghĩa tốt đẹp. Mục đích của các tập đoàn đa quốc gia là tiết kiệm tư bản, tiếp tục kéo dài chu kỳ sống của công nghệ đã trở nên lạc hậu tại nước họ, mang nó đến những nước đang khát vốn và nghèo về công nghệ. Điều này đã được đề cập đến trong Lý thuyết “ Vòng đời quốc tế của sản phẩm” ( International product life cycle- IPLC) của Raymond Vernon. Theo đó sau khi đã sử dụng hết khấu hao dây chuyền công nghệ, khi nhu cầu về sản phẩm trong nước giảm, trong khi nhu cầu ở nước ngoài lại tăng thì sản xuất được mở rộng thông qua FDI, những nhà máy ở nước ngoài bắt đầu được xây dựng. Và nước xuất khẩu thì đang nghiên cứu để áp dụng công nghệ vượt trội hơn, hiệu quả hơn, còn nước nhập khẩu thì xây dựng vòng đời mới cho những kỹ thuật bị bỏ đi. Các TNCs đã nhận ra tính hai mặt của việc đầu tư công nghệ tại các nước đang phát triển. Họ cho rằng một mặt, khi chia sẻ bí mật bản quyền trí tuệ với các chi nhánh tại các nước nhận đầu tư rất dễ dẫn đến việc rò rỉ các thông tin về bí mật công nghệ, về bản quyền trí tuệ. Mặt khác, nếu các công ty liên doanh ở bản địa có tham vọng thì họ rất có thể tận dụng những kinh nghiệm, những kỹ thuật họ đã được tiếp cận để phát triển thương hiệu riêng của mình. Khi điều này xảy ra, các TNCs phải đối mặt với những đối thủ đầy nguy hiểm, hiểu rõ về mình. ( Vì thế chuyển giao những công nghệ đã qua sử dụng, những công đã lạc hậu, gây hao mòn ở chính quốc cho các nước nhận đầu tư là một cách để sản phẩm sản xuất ra tại các nước đang phát triển không đủ sức cạnh tranh cũng như đánh bại sản phẩm của công ty mẹ trên thị trường quốc tế và chính quốc. Có thể nói xu hướng của các nhà đầu tư là không muốn phổ biến công nghệ của mình, đặc biệt dưới hình thức liên doanh. Một ví dụ điển hình là các nhà đầu tư Nhật Bản rút từ đầu tư nước ngoài về đẩu tư trong nước trong thời gian gần đây với khối lượng lớn nhằm bảo toàn công nghệ .(Nguồn: Hay hiện nay, trong quá trình điều chỉnh cơ cấu ngành nghề và thay đổi phương thức tổ chức sản xuất trên phạm vi toàn cầu của các công ty xuyên quốc gia, các ngành chế tạo của thế giới đang không ngừng chuyển đến Trung Quốc. Các nhà đầu tư nước ngoài không chỉ sản xuất các sản phẩm lớn, trình độ kỹ thuật thấp tại Trung Quốc mà cũng sản xuất cả những sản phẩm cỡ vừa, trình độ kỹ thuật cao. Năm 2004, Trung Quốc xuất khẩu 165,5 tỷ USD sản phẩm công nghệ cao, trong đó có 87% là của doanh nghiệp có vốn nước ngoài, 65% là của doanh nghiệp do nước ngoài đầu tư 100% (đầu tư 100% có lợi cho việc nhà đầu tư nước ngoài kiểm soát bí mật kỹ thuật cơ bản, độc chiếm lợi nhuận cao) và nắm quyền xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao, mang lại lợi nhuận lớn. Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng quyết liệt, nhiều doanh nghiệp nước ngoài đã tăng cường việc kiểm soát bí quyết công nghệ, kỹ thuật độc đáo như căn cứ vào số tiền bán hàng thu được để tính tiền sử dụng li-xăng, sử dụng kỹ thuật độc đáo, tận dụng ưu thế kỹ thuật nắm được để thu lợi nhuận cao, khiến cho mức bội chi trong tài khoản sử dụng li-xăng tăng lên tương đối nhanh. Mức bội chi trong tài khoản sử dụng li-xăng tăng lên chứng tỏ việc sử dụng li-xăng của nước ngoài tăng tương đối nhanh còn kỹ thuật độc đáo, thương hiệu bản xứ tương đối ít. Nó cũng chứng tỏ trong quá trình đầu tư tại Trung Quốc, các công ty nước ngoài ít chuyển giao công nghệ cho Trung Quốc. Đó là điều trái với mong muốn ban đầu của Trung Quốc khi thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Như vậy, vô hình chung các nước đang phát triển trở thành nơi tập kết của những công nghệ lạc hậu, đã hết khấu hao ở các nước tư bản phát triển. Chẳng bao lâu sau khi các nhà đầu tư kết thúc công việc của mình, khi chuyển giao công nghệ được tiến hành, nước đang phát triển sẽ được chuyển giao những gì? Họ sẽ tiếp tục sản xuất với công nghệ đã quá lạc hậu. Chi phí họ bỏ ra để khắc phục những hậu quả từ công nghệ lỗi thời ấy: ô nhiễm môi trường, vấn đề an toàn lao động, năng suất thấp so với năng suất trung bình của thế giới là rất lớn. Rồi khi những công nghệ ấy đã quá xa so với công nghệ của thế giới thì họ sẽ giải quyết nó thế nào? Chưa có ai có được câu trả lời và cũng chưa có một giải pháp nào được đưa ra. Với chiêu bài xuất khẩu công nghệ, các nước phát triển thông qua các công ty đa quốc gia đã giải quyết được những công nghệ bỏ đi, không phù hợp với nền sản xuất của họ. Còn các nước đang phát triển tưởng như được mở rộng, được tiếp cận với quy trình kỹ thuật tiên tiến của thế giới. Nhưng chẳng bao lâu họ sẽ nhận ra rằng họ đang bị khống chế về công nghệ, khoảng cách của họ với các nước công nghiệp phát triển đang ngày càng xa dần, rằng họ đang trở thành sân sau, thành “ bãi rác công nghệ”, nơi tập trung những dây chuyền lạc hậu, nơi tồn đọng những công nghệ không còn được sủng ái nữa. b) Ảnh hưởng đến môi trường và làm khánh kiệt tài nguyên thiên nhiên Một trong những phê phán phổ biến nhất về FDI là các công ty đa quốc gia thường cố để chuyển các nhà máy ô nhiễm của họ đến những nơi luật môi trường ít chặt chẽ nhất, phần lớn là các nước đang phát triển, vốn có ít quy định về môi trường hơn, và ít khả năng để thực thi những luật này hơn các nước phát triển. Trong khi những chi phí lớn của doanh nghiệp là phí bảo toàn môi trường và luật lệ của các quốc gia phát triển rất nghiêm ngặt về vấn đề này, thì ở các nước nghèo, việc buông lỏng quản lí và những kẽ hở trong luật định về môi trường lại được coi là một trong những yếu tố giúp thu hút đầu tư. Họ lo sợ rằng việc nâng cao tiêu chuẩn môi trường sẽ đánh mất lợi thế cạnh tranh so với các quốc gia khác, và điều này, tất nhiên, lại khiến môi trường của nước chủ nhà bị khai thác kiệt quệ. Thor Chemical (Công ty dược phẩm Anh) sau khi bị uỷ ban sức khoẻ và an toàn chỉ trích vì để công nhân của họ bị nhiễm độ thuỷ ngân, đã di chuyển nhà máy đến Nam Phi, tiến hành sản xuất trong tình trạng như cũ mà không hề bị kiểm tra. Mexico là nước chủ nhà của 1800 nhà máy lắp ráp sản phẩm của TNCs Mỹ. Các nhà máy này đều nằm gần biên giới của 2 nước. Nhằm tránh những quy định chặt chẽ của Mỹ, lợi dụng kẽ hở trong luật môi trường của Mĩ. Mối liên hệ giữa FDI và phát triển cân bằng đã được Joseph Stiglitz, trưởng ban cố vấn của World Bank nêu ra trong nhận định: “It is not hard for a country rich in natural resources to find investors abroad willing to exploit those resources, especially if the price is right. Far more difficult, however, is creating an industrial or service based economy. In 1994, foreign investment in manufacturing was a mere 7 per cent, compared with 57 percent in natural resources. By 1997, non-natural resource investment dropped to a mere 3 percent” (Không khó cho một nước giàu tài nguyên tìm được nhà đầu tư nước ngoài sẵn lòng khai thác nguồn lợi này, nhất là với một giá cả phải chăng. Nhưng điều khó hơn là tạo ra một nền kinh tế dựa trên công nghiệp hoặc dịch vụ. Năm 1994, đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực sản xuất chỉ có 7%, so với 57% đầu tư vào tài nguyên. Tuy nhiên, đến 1997, tỉ lệ đầu tư vào lĩnh vực phi tài nguyên đã giảm xuống còn 3%). Khi FDI chỉ tập trung vào các nguồn lợi tự nhiên mà không hướng vào sản xuất, thì nền kinh tế nước tiếp nhận sẽ ngày một tụt hậu cũng với nguồn tài nguyên cạn kiệt. (nguồn: Papua New Guinea là một ví dụ. Khi tập đoàn Thép BHP Billiton (Anh- Australia: tập đoàn khai thác khoáng sản lớn nhất thế giới hiện nay) đầu tư khai thác mỏ vàng và đồng Ok Tedi năm 1984, GDP của nước này tăng vọt nhờ sản lượng quặng khai thác được. Nhưng hầu như toàn bộ thu nhập từ mỏ đều vào túi các ông chủ nước ngoài. Còn dân địa phương thì nhận được ô nhiễm. Các nhà khai mỏ đã đổ khoảng 90 triệu tấn phế phẩm xuống hệ thống sông ngòi ở địa phương, đầu độc nguồn nước của khoảng 40.000 người trong 120 thôn làng phía hạ lưu. Những chủ đất bản địa đã khởi kiện; BHP phải bồi thường hàng triệu đô la song gánh nặng khôi phục môi trường sống lại đè lên vai đất nước nhỏ bé này. Hiện nay hai trong số ba mỏ dầu lớn nhất thế giới được xác định là đã vượt “cao điểm dầu”: mỏ Cantarell Field tại Mexico (3/2006) và mỏ Burgan Field tại Kuwait (11/2005). Matthew Simmons (2005) cho rằng mỏ lớn nhất thế giới còn lại là Ghawar Field tại Saudi Arabia cũng đã có dấu hiệu đạt “cao điểm dầu” (“peak oil”: ám chỉ lúc mà một nửa các trữ lượng dầu đã bị khai thác và từ đó sản lượng sẽ giảm dần cho đến lúc khô kiệt) Hiện tượng FDI làm khánh kiệt tài nguyên thiên nhiên là một thực tế có thể xảy ra nhất là đối với các loại FDI nhắm vào tài nguyên và lao động rẻ tiền. Điều này có thể thấy được qua thực trạng ngành công nghiệp tanin ở Brazil, sản xuất phốt phát ở Bắc Phi, thăm dò dầu khí ở Amazon và Nigerial, xây dựng đường ống dẫn gas tự nhiên ở Burma, khai thác gỗ ở Đông Nam Á, khai thác vàng ở Indonesia…. Nhìn chung, FDI từ các quốc gia phát triển thuộc nhóm Tổ Chức vì Hợp tác và Phát triển Kinh Tế-OEDC (Organisation for Economic Co-operation and Development) thường tôn trọng rất tốt các luật lệ về môi trường nhưng cũng không ít trường hợp vi phạm của FDI từ các quốc gia không thuộc OECD như Hong Kong, Singapore, Đài Loan ( nguồn: c) Tác động tiêu cực tới đời sống kinh tế- xã hội Tác động tới kinh tế : Nếu phía nước ngoài nắm quá nhiều quyền sở hữu thì “giảm vốn” (decapitalization) có thể xảy ra. Khi các công ty nước ngoài bắt đầu đã thích nghi và có lãi, họ bắt đầu chuyển lợi nhuận về nước họ. Làm như vậy đồng nội tệ sẽ bị đổi sang ngoại tệ của nước đầu tư và vốn sẽ bị rút ra khỏi nước chủ nhà. Nếu công ty nước ngoài này đủ lớn thì nước chủ nhà sẽ phải đối mặt với khả năng kiệt quệ về vốn trầm trọng. Đây là một mối lo ngại lớn nếu trong thời gian khủng hoảng mà công ty nước ngoài lại đột nhiên chuyển toàn bộ lãi không chia về nước. Việc này sẽ gây nên một tác động tương tự như khi chủ nợ nước ngoài từ chối không cho đáo hạn các khoản nợ ngắn hạn, nước này sẽ bị đói vốn và tình hình kinh kế suy sụp có thể trở nên trầm trọng hơn nữa. Đôi lúc yếu tố này được coi là một trong những rủi ro lớn nhất nếu như một nước quá phụ thuộc vào FDI. Một số nhà nghiên cứu cho rằng, trong quá trình tăng thêm đầu tư và sử dụng một phần lợi nhuận để tái đầu tư, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ thu được lợi nhuận lớn, số tiền lợi nhuận đó ngày càng nhiều, cộng với tiền bán li-xăng sẽ được liên tục chuyển ra khỏi nước chủ nhà, khiến cho mức bội thu trong tài khoản vãng lai của nước chủ nhà bị thu hẹp, thậm chí chuyển thành bội chi, do đó làm cho cán cân thanh toán quốc tế của nước chủ nhà xấu đi, dẫn đến khủng hoảng tài chính. Tỷ suất lợi nhuận đầu tư cao hơn tỷ suất lợi nhuận đầu tư ở các nước đang phát triển là 16%-18%, ở các nước nghèo của châu Phi là 24%-30%. Khi số lợi nhuận này được chuyển ra khỏi nước chủ nhà đến một mức độ nào đó sẽ mang lại rủi ro cho cán cân tài khoản vãng lai, thậm chí là cho cán cân thanh toán quốc tế của nước chủ nhà Ở Mêhicô, từ năm 1991-1994, số tiền bội chi trong tài khoản vãng lai không ngừng tăng lên. Điều đó không chỉ là do nhập siêu thương mại tăng mà còn có một nguyên nhân quan trọng khác là lợi nhuận của nhà đầu tư nước ngoài tăng. Ở Malaixia, từ năm 1990-1997, số tiền lợi nhuận đầu tư chuyển ra nước ngoài liên tục tăng, trong đó có 4 năm, mức bội chi của tài khoản thu nhập đã vượt quá mức bội chi trong tài khoản vãng lai và chiếm hơn 50% số tiền đầu tư thu hút được. Từ năm 1990-1997, tài khoản thu nhập và tài khoản vãng lai luôn bội chi; hơn nữa số bội chi của tài khoản thu nhập chiếm tỷ trọng hết sức cao trong số bội chi của tài khoản vãng lai, trong đó năm 1994 là 80%, năm 1997 là 90%. Nghiêm trọng hơn nữa là trong các năm 1990, 1992, 1993, 1996, mức bội chi của tài khoản thu nhập đã cao hơn mức bội chi của tài khoản vãng lai. Tình hình thu chi quốc tế của Mêhicô từ năm 1991-1994 (Đơn vị: tỷ USD) Năm 1991 1992 1993 1994 Chênh lệch tài khoản thường xuyên -14,884 -24,442 -23,4 -29,662 Chênh lệch xuất nhập khẩu -7,279 -15,934 -13,481 -18,464 Chênh lệch thu nhập -8,265 -9,209 -11,030 -12,258 Mức tăng giảm dự trữ ngoại hối -8,154 -1,173 -6,057 18,398 Chú thích: Số âm trong mục tăng giảm dự trữ ngoại hối tức là dự trữ ngoại hối tăng. Nguồn tài liệu: Thống kê tài chính quốc tế năm 1999 của IMF. Với trường hợp Trung quốc, Theo ước tính của IMF, lợi nhuận đầu tư là 13% thì từ năm 1993 đến 2005, số tiền lợi nhuận mà các nhà đầu tư nước ngoài có quyền chuyển đi là 518 tỷ USD nhưng trên thực tế chỉ chuyển đi là 131,7 tỷ USD, còn lại 386,3 tỷ USD chưa chuyển đi mà được để lại Trung Quốc dưới hình thức tái đầu tư, tương đương với ½ lượng dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc. Do số tiền khổng lồ này nằm trong tay các nhà kinh doanh nước ngoài nên khi có những sự kiện bất ngờ về chính trị, kinh tế hoặc nhân tố khác xảy ra, số tiền lợi nhuận đầu tư trích lại qua các năm được chuyển đi một cách ồ ạt với quy mô lớn sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến cán cân thanh toán quốc tế của Trung Quốc và rất có khả năng dẫn đến khủng hoảng về thu chi quốc tế. ii. Cạnh tranh với kinh tế trong nước. Có thể tạo cạnh tranh không có lợi cho các công ty nội địa - đây thường được coi là một trong những yếu tố của sự “lan tràn tiêu cực” của FDI. Vì các công ty đa quốc gia thường có kỹ năng, công nghệ và vốn mà các công ty nội địa không thể theo kịp, FDI có thể tạo cạnh tranh bất lợi cho các công ty nội địa. Đây được coi là rủi ro đáng kể nhất, tuy việc đánh giá mức độ khá phức tạp. Chắc chắn là các công ty nội địa sẽ bị ảnh hưởng, kể cả phải rút ra khỏi ngành kinh doanh, và sẽ làm tăng số người bị thất nghiệp.. Vấn đề là liệu các công ty nội địa có thể nâng cao năng lực cạnh tranh hay họ sẽ bị khả năng cạnh tranh của các công ty nước ngoài bóp chết. Ngành công nghiệp giấy Việt Nam hiện nay thừa nguyên liệu bột giấy nhưng thiếu sản phẩm giấy cao cấp (giấy tráng), phải nhập cảng gần như toàn bộ loại này, trong khi đó lại xuất cảng gỗ dăm (1 triệu rưỡi tấn/năm, theo ông Vũ Ngọc Bảo, Tổng thư ký Hội Giấy Việt Nam). Các nhà máy Việt Nam chỉ làm ra được các loại giấy in báo, giấy in và viết, giấy lụa, giấy bao bì không tráng với trình độ KHKT khá thấp. Trên nguyên tắc, ngành giấy Việt Nam là một môi trường thích hợp để thu hút FDI. Tuy nhiên, nếu tiến hành không khéo, rất nhiều khả năng giá thành FDI làm ra sẽ rẻ hơn mà chất lượng tốt hơn, từ từ sẽ giết chết sản xuất giấy trong nước. Từ năm 1995-2004, kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gia công của Trung Quốc chiếm 55% tổng kim ngạch xuất khẩu, trong đó có ¾ là do các doanh nghiệp có vốn nước ngoài tạo ra. Điều này chứng tỏ các doanh nghiệp có vốn nước ngoài đã chiếm vị thế lũng đoạn trong lĩnh vực xuất khẩu, nhất là trong lĩnh vực xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao. Có thể nói, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tạo nên sự tăng trưởng của ngoại thương Trung Quốc. Khi đầu tàu này có trục trặc, tình hình thu chi về ngoại thương của Trung Quốc sẽ bị ảnh hưởng to lớn. Hơn thế nữa, ở Trung Quốc, đầu tư trực tiếp của nước ngoài không những dẫn đến ưu thế lũng đoạn rõ rệt của nước ngoài trong lĩnh vực xuất khẩu mà cả trong ngành sản xuất ô tô, hàng tiêu dùng (mỹ phẩm, bột giặt) để tiêu thụ ở thị trường trong nước, khiến cho hàng hoá mang nhãn hiệu nước ngoài tràn ngập khắp nơi. Trong lúc tư bản nước ngoài hăm hở chiếm lĩnh thị trường trong nước thì các doanh nghiệp Trung Quốc không những chỉ mất đi nhiều thị phần trong nước mà thị phần của họ ở nước ngoài cũng không tăng lên rõ rệt. Các công ty xuyên quốc gia cạnh tranh với các xí nghiệp Trung Quốc, nhanh chóng chiếm được và khống chế thị trường Trung Quốc, mua và sáp nhập với các doanh nghiệp Trung Quốc, hình thành tình thế tư bản nước ngoài “chen lấn” các nhà đầu tư trong nước Với ưu thế về nguồn vốn dồi dào, kỹ thuật tiên tiến và kỹ năng quản lý các công ty đa quốc gia có thể đẩy tất cả các công ty cạnh tranh nội địa ra khỏi thị trường. Một khi đã đoạt được độc quyền các công ty đa quốc gia có thể tăng giá, thu thêm lợi nhuận và xoá bỏ tất cả những lợi ích FDI có thể mang lại. Độc quyền cho dù có được bằng cách nào đi nữa thì vẫn là một rủi ro của FDI, loại rủi ro cần được xem xét kỹ lưỡng trong mọi trường hợp. Khi mọi người nhận ra là các công ty đa quốc gia nắm quá nhiều quyền, đặc biệt là độc quyền trong cách ngành dịch vụ công cộng như cấp nước, điện, dịch vụ điện thoại, thì người dân có thể sẽ bất bình và phản kháng. Việc này có thể dẫn tới môi trường kinh doanh thù địch, và mất trật tự xã hội và trong trường hợp xấu nhất có thể dẫn tới mất ổn định chính trị. Sự việc này đã xảy ra ở Cochabamba, Bolivia năm 2000, khi một tập đoàn nước ngoài đứng đầu là công ty Bechtel giành được quyền cung cấp nước, tăng giá nước lên gấp đôi dẫn đến một cuộc đình công lớn và giao thông hoàn toàn bị ngưng trệ. Trong trường hợp này chính phủ Bolivia thay ngược lại chính sách tư nhân hoá và Bechtel buộc phải rút ra khỏi Bolivia. Một ví dụ hoàn toàn khác là dịch vụ điện thoại ở một vài nước như Mexico, Brazil và Ấn độ, nơi các công ty nước ngoài bắt đầu tham gia vào ngành công nghiệp mà trước đây hoàn toàn nằm dưới quyền kiểm soát của chính phủ, và đã hạ giá dịch xuống rất thấp và cải thiện đáng để dịch vụ điện thoại. iii. FDI và lạm phát. Cần lưu ý là FDI có thể là nguyên nhân gây ra lạm phát trong nước vì lương nhân công sẽ được trả cao hơn, giá cả nguyên vật liệu sẽ tăng vọt cũng như tiền thuê mướn mặt bằng, giá sinh hoạt dịch vụ ngoại vi sẽ tăng dần lên và đưa đến lạm phát. Lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào VN năm nay lên tới con số kỷ lục 20,3 tỷ USD, điều này đã làm cho tất cả các dấu hiệu “bội thực” ngoại tệ hiển hiện trong nền kinh tế VN: bùng nổ tiêu dùng và xây dựng, đầu dựng đất đai và chứng khoán...Cũng do dòng vốn ngoại chảy vào VN quá nhiều, Ngân hàng Nhà nước đã phải bỏ ra hàng trăm nghìn tỷ VND để hút ngoại tệ ổn định tương đối tỷ giá hối đoái có lợi cho xuất khẩu và đấu tư. Ước tính dự trữ ngoại tệ của VN năm 2007 lên tới gần 20 tỷ USD, tăng tới 9 tỷ USD so với năm 2006. Trong khi vài năm trước, chỉ vài chục tỷ đồng được Ngân hàng Nhà nước bỏ ra mua ngoại tệ cũng đã đủ “khuynh đảo” thị trường tiền tệ trong nước iv. Các tác động khác + Điều đầu tiên dễ thấy là sự cách biệt giàu nghèo giữa các khu công nghiệp có doanh nghiệp FDI trú đóng và phần còn lại của quốc gia sẽ tăng dần lên và người dân có thể sẽ bỏ dần nông thôn và di chuyển về các nơi thành thị. Trong giai đoạn 2000-2005, việc làm mới được tạo ra bởi các doanh nghiệp FDI tăng trung bình 24,4%/năm (tăng gần gấp ba lần về mặt tuyệt đối, từ 227.000 người năm 2000 lên 667.000 người năm 2005), bỏ xa khu vực doanh nghiệp nhà nước và tư nhân (lần lượt là 3,3% và 2,3%). Kết quả là tỷ trọng việc làm được tạo ra bởi các doanh nghiệp FDI đã tăng từ 0,6% năm 2000 lên 1,6% năm 2005 ở VN. Theo một báo cáo của Mekong Economics năm 2002, một lao động trong doanh nghiệp FDI tạo ra 110 triệu đồng giá trị gia tăng năm 2000, so với 36 triệu đồng ở doanh nghiệp nhà nước và 40 triệu đồng ở doanh nghiệp tư nhân.Bởi vậy, trong ngắn hạn, làn sóng FDI sau khi VN gia nhập WTO có thể làm tăng sự bất bình đẳng về thu nhập không chỉ ở khu vực thành thị, mà cả giữa khu vực thành thị và nông thôn. Mức lương cao hơn ở khu vực thành thị sẽ kích thích làn sóng nhập cư từ nông thôn, trong khi thu nhập của lao động ở nông thôn không được cải thiện Ngay trong các doanh nghiệp FDI cũng có sự chênh lệch khá lớn về thu nhập. Theo điều tra của Viện công nhân và công đoàn, ở Việt Nam nhóm lao động phổ thông có thu nhập thấp nhất và nhóm lao động kỹ thuật và nhân viên quản lý doanh nghiệp có thu nhập cao nhất. Mức thu nhập của lao động có thể chênh lệch đến 5-10 lần. Sự chênh lệnh này ở các doanh nghiệp FDI phía Nam lớn hơn so với các doanh nghiệp khu vực phía Bắc. + Nguy cơ chảy máu chất xám: khu vực phi quốc doanh, đặc biệt là các doanh nghiệp FDI, với tốc độ tăng trưởng nhanh hơn sẽ cho phép họ tuyển mộ được (hay cạnh tranh để thu hút) những nhân viên ưu tú từ các doanh nghiệp nhà nước. Số liệu công bố qua các cuộc điều tra gần đây về tiền lương cho thấy các doanh nghiệp FDI đang thắng thế trong cạnh tranh thu hút nhân lực cấp cao, như các chức danh quản lý doanh nghiệp. Mức lương trả cho lao động quản lý trong các doanh nghiệp FDI trung bình là 12 triệu đồng/tháng (năm 2005), cao hơn nhiều so với mức lương tương ứng ở các doanh nghiệp nhà nước (4,3 triệu) và doanh nghiệp tư nhân (3 triệu). Doanh nghiệp FDI đã trở thành đối thủ cạnh tranh với các doanh nghiệp nhà nước trên thị trường nhân lực cấp cao. + Ngược laị, trên thị trường lao động phổ thông, có rất nhiều trường hợp vì muốn thu hút FDI nên quốc gia sở tại đã nới lỏng các qui định về lao động khiến quyền lợi của công nhân có thể bị xâm phạm, phúc lợi tập thể không được giải quyết thỏa đáng mà thiếu sự giúp đỡ của chính quyền địa phương. Theo kết quả khảo sát của Viện Công nhân và công đoàn, Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam tại một số địa phương có nhiều doanh nghiệp FDI như Tp.HCM, Hà Nội, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa-Vũng Tàu, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh và Hải Dương: Chỉ có khoảng 74% lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) có việc làm ổn định, 22% không có việc làm ổn định và 4% thiếu việc làm. Chỉ có 16,6% số lao động làm việc trong doanh nghiệp FDI có tâm trạng thoải mái khi làm việc. 26,3% số lao động cho biết có quan hệ tốt với người sử dụng lao động. 44,4% số lao động cho rằng doanh nghiệp trả lương thấp, không đủ sống. 15,4% số lao động bức xúc vì phải làm tăng ca, tăng giờ thường xuyên. Khảo sát cũng cho thấy người lao động làm việc ở khu vực FDI phải làm việc với cường độ cao, thời gian kéo dài, song thu nhập bình quân của người lao động không cao hơn so với mặt bằng thu nhập của lao động trong các loại hình doanh nghiệp khác. Phần lớn lao động có mức thu nhập thấp từ 800.000-1.000.000 đ/tháng. Tuy nhiên, các doanh nghiệp đều lấy mức đó làm mức để trả lương cơ bản (không có hệ số). Chính vì thế chỉ có 1/3 số lao động được hỏi có mức thu nhập tạm đủ sống. Điều kiện làm việc cũng rất vất vả, hiện còn khoảng 6,5% lao động trong doanh nghiệp FDI phải làm việc bình quân trên 10 tiếng/ngày, 18% làm từ 8-10 tiếng, trong khi đó chỉ có 52% lao động làm việc 8 tiếng/ngày. Nhưng lại có khoảng 65% lao động làm việc 6 ngày/tuần, 25% làm 7 ngày/tuần. Bên cạnh đó, vi phạm hình thức hợp đồng lao động cũng là tình trạng khá phổ biến trong các doanh nghiệp FDI. 3,2% số lao động làm việc từ 11-15 năm vẫn chỉ được ký hợp đồng miệng, 1,6% ký hợp đồng lao động thời hạn dưới 1 năm. Những lao động làm việc tại doanh nghiệp từ 6-10 năm chỉ có 71,5% được ký hợp đồng lao động không xác định thời hạn. Tỉ lệ này thấp hơn nhiều ở những lao động làm việc trong doanh nghiệp từ 1-3 năm. Mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp FDI chưa thực sự hài hòa về quyền lẫn lợi ích. III. Những kiến nghị giải quyết những hạn chế của vốn FDI ở các quốc gia đang phát triển Từ quan điểm nhìn nhận trên về vốn FDI, có thể thấy rằng FDI là một trong những công cụ hữu hiệu giúp cho những quốc gia đang phát triển có thể đẩy nhanh hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế của mình thông qua sự giúp đỡ “đôi bên cùng có lợi” từ những quốc gia đã phát triển.Tuy nhiên, mọi vấn đề đều có hai mặt và để phát huy được mặt tốt chúng ta cần phải giảm thiểu sự tác động tiêu cực của mặt trái vấn đề. Vốn FDI cũng vậy, khi nó sang các nước đang phát triển dù ít hay nhiều,dù muốn hay không muốn nó vẫn mang theo những vấn đề cho họ. Vì vậy, khi tiếp cận vốn FDI, các quốc gia đang phát triển nên giảm bớt đi một số những ca ngợi và sự quan tâm đến các con số về tổng số vốn đã thu hút được và khả năng sử dụng vốn hay tốc độ giải ngân,mà hãy ngồi lại và bàn bạc và cân nhắc xem nên giải quyết những mặt hạn chế đang tồn tại, để vốn FDI thực sự mang lại hiệu quả thiết thực góp phần cho sự phát triển bền vững của một nền kinh tế. Đối với các quốc gia đang phát triển đang hàng ngày tiếp nhận nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.Chính phủ luôn là người tiên phong và là nhân tố đóng vai trò then chốt quyết định việc thu hút,tiếp nhận và sử dụng vốn FDI, nên họ cũng sẽ là người đóng vai chính trong việc giải quyết những vướng mắc này.Thực tế, xét về chiều sâu vốn FDI có mục đích là phát triển kinh tế và mục đích cuối cùng của phát triển kinh tế đó là cuộc sống tốt đẹp của người dân. Thế nên chính phủ là người ra quyết định trước một dự án FDI nên đứng ở vị trí của một người dân để nghiêm túc xem xét cả hai mặt tốt và xấu của vốn FDI. Họ nên cân nhắc kỹ lưỡng xem nếu thực thi dự án này thì có những lợi ích như thế nào, những thiệt hại ra sao và liệu có thể khắc phục đối với những nhược điểm kia hay không. Đối với nhược điểm của FDI chúng ta có thể thấy rằng có những cái hiển nhiên như: ô nhiễm môi trường,cạn kiệt tài nguyên,chảy máu chất xám...nhưng có những thứ là những thứ rất tiềm ẩn như:nguy cơ trở thành bãi rác công nghệ,nguy cơ lợi ích chính trị và kinh tế bị ảnh hưởng...Và với vai trò là nhà hoạch định chính sách chính phủ nên có tầm nhìn vĩ mô lẫn vi mô để sử dụng,đề phòng giảm thiểu và ngăn chặn những rủi ro đối với những hạn chế không mong đợi của vốn FDI.Tuy nhiên cũng đừng vì vậy mà có cái nhìn quá khắt khe có thể dẫn đến những sai lầm và rồi có thể bỏ lỡ những cơ hội tốt trong khi chi phí cơ hội là rất nhỏ.Việt Nam là một ví dụ rất điển hình khi vào đầu thập niên 90 chúng ta đã để lỡ mất cơ hội phát triển đất nước cho Trung Quốc bởi vì sự cân nhắc thái quá. Đành rằng suy nghĩ kĩ lưỡng là một điều tốt,nhưng hãy để cho sự cân nhắc đó tạo ra những hướng giải quyết tốt và sự tận dụng cơ hội một cách khôn ngoan và đúng thời điểm.Việt Nam hiện nay đang đi trên đoạn đường mà đáng lẽ chúng ta đã phải bước 13 năm trước đó. Đối với những doanh nghiệp, tổ chức và người dân, tuy không phải là người ra quyết định, nhưng họ lại là những người được hưởng quyền lợi trực tiếp từ nguồn vốn này.Vậy nên họ cũng phải có trách nhiệm nếu được tham gia vào quy trình sử dụng vốn FDI bằng cách nhìn nhận đúng đắn về vốn FDI là sự hỗ trợ phải hoàn lại và họ chính là người trực tiếp làm điều đó. Trung Quốc, một trong những nền kinh tế đi lên từ vốn FDI đã “Thống nhất quan điểm từ cấp lãnh đạo,các doanh nghiệp cho tới những người dân”. Điều đó giúp cho tất cả mọi người trong nền kinh tế được tiếp nhận vốn FDI có ý thức tốt và từ đó sẽ có những hành động đúng đắn khi sử dụng nguồn vốn này. Việt Nam cũng nằm trong số các quốc gia đang phát triển có chiến lược thu hút vốn FDI để phát triển đất nước.Và điều này cũng không loại trừ khả năng nguồn vốn FDI đang hàng ngày đổ vào nền kinh tế của chúng ta cũng mang theo những vấn đề, những hạn chế không mong muốn như trên. Sẽ rất dề dàng để cho chúng ta có thể bắt gặp trên các phương tiện thông tin đại chúng về những con số về tổng vốn FDI, và làm cách nào để có một chiến lược thu hút vốn hiệu quả, nhưng sẽ rất hiếm họa để chúng ta có thể bắt gặp một ý kiến nhìn nhận sát thực, phân tích kỹ lưỡng tới sự tác động của nó đối với không những là nền kinh tế mà cả đời sống xã hội của người dân. Nếu như chúng ta không tập trung để giải quyết những mặt hạn chế đó thì có thể mục tiêu xây dựng một nền kinh tế phát triển bền vững sẽ khó để thực hiện được.Vậy Việt Nam nên có những biện pháp như thế nào cho vấn đề trên? Như chúng ta đã biết những khu công nghiệp hay những dự án từ nguồn vốn FDI đang làm biến đổi môi trường sống. Sự ô nhiễm môi trường nặng nề có thể thấy được rất rõ từ chất thải hay môi trường sống của người dân xung quanh hay từ lượng chất thải không được xử lý triệt để do sự kiểm soát lỏng lẻo của cơ quan quản lý môi trường. Hơn nữa, chính phủ Việt Nam lại luôn ưu đãi cho nhà đầu tư FDI thực thi dự án của họ ở những vị trí rất gần khu dân cư đông đúc,nên ảnh hưởng của sự ô nhiễm môi trường lại càng nguy hiểm. Để giải quyết vấn đề này, trước hết phải là phần việc của Bộ Kế hoạch và đầu tư. Cơ quan này trước khi phê duyệt một dự án phải xem xét xem dự án đó có khoảng cách như thế nào tới khu dân cư và sự ảnh hưởng có thể xảy ra tới môi trường xung quanh dự án. Những vị trí gần khu dân cư hay có thể tác động đến cuộc sống của người dân như dự án tại khu công nghiệp Nam Thăng Long ở Hà Nội thì không nên cho xây dựng. Chúng ta không nên vì một môi trường đầu tư hấp dẫn mà hi sinh đi nhiều thứ quan trọng không thể thay thế. Cùng với Bộ Kế hoạch đầu tư là phần trách nhiệm không thể thiếu của Bộ Tài nguyên và Môi trường. Bộ này nên bằng sự cần mẫn của mình kiểm soát lượng chất thải, sự xử lý các chất thải của các dự án FDI. Nếu cần thiết bộ này nên có những pháp chế và mức xử phạt đích đáng với những dự án vi phạm quy định và nếu sự chấp hành không nghiêm túc,bộ có thể kiến nghị với chính phủ cho ngừng dự án. Đối với người dân,họ nên có kiến nghị và sự phản ánh đối với các cơ quan hữu quan nếu thấy sự vi phạm của các dự án FDI ảnh hưởng tới sức khỏe và đời sống của bản thân họ. Đối với nguy cơ trở thành bãi rác công nghệ, nếu cứ để nó tiếp diễn khả năng trở thành một nước công nghiệp phát triển sẽ rất mù mờ.Trước hết chính phủ nên giảm thiểu hoặc ngừng tiếp nhận đầu tư đối với các dự án có công nghệ lạc hậu mà tập trung tiếp nhận đối với các dự án có hàm lượng công nghệ cao hay công nghệ hiện đại. Để làm được điều này chúng ta lại phải có một cơ sở hạ tầng có sự phát triển tương đương. Cơ sở hạ tầng đó bao gồm cả đường sá, cầu cống…và cả lực lượng nhân công có tay nghề cao. Con người vẫn là yếu tố quan trọng nhất. Bộ giáo dục và đào tạo nên có những chiến lược đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao không những để đáp ứng yêu cầu trên thông qua sự đào tạo trong nước và ngoài nước. Bộ Khoa học và Công nghệ nên thiết lập ra một cơ quan trực thuộc chuyên thẩm định công nghệ, kĩ thuật của các dự án FDI và cũng phải có các viện trực thuộc chuyên nghiên cứu các công nghệ mới, hiện đại để học hỏi và từ đó có thể sáng tạo những công nghệ mới. Đối với các dự án FDI, chúng ta cũng nên có những yêu cầu và phấn đấu để tăng hàm lượng nội địa để về lâu dài,chúng ta phải có một nền công nghiệp ô tô hay nền công nghiệp điện tử phát triển như Trung Quốc hay Malaysia đã từng làm. Đối với nguy cơ ảnh hưởng tới đời sống xã hội, nếu chúng ta không kịp thời điều chỉnh sẽ ảnh hưởng đến mục tiêu phát triển kinh tế bởi sự liên quan mật thiết giữa chúng. Nguy cơ đó là chảy máu chất xám vào các dự án FDI, quyền lợi của người lao động bị ảnh hưởng,văn hóa truyền thống bị nhuốm màu, sự phân biệt giàu nghèo… Điều này nếu không được giải quyết nhanh chóng, sẽ xảy ra hiện tượng chảy máu chất xám ngay cả ở trong nước. Hơn nữa phần lớn kinh phí đào tạo nguồn nhân lực này chủ yếu từ chính phủ nên vấn đề này không những gây ra thất thoát chất xám mà thất thoát cả tiền của nhà nước. Chính phủ nên có chính sách thu hút nguồn nhân lực về phía mình bằng cách cải tổ lại chế độ tiền lương và lề thói làm việc trì trệ cố hữu của mình để thu hút nguồn nhân lực xây dựng nền kinh tế phát triển bằng nội lực. Ngoài ra đối với nguồn nhân lực đang làm việc trong các dự án FDI, là những người học hỏi được phong cách làm việc của nước ngoài và kiến thức thực tế tốt, chính phủ nên kéo họ về làm cho nhà nước để đảm bảo cho không thất thoát chất xám và cũng giúp cho chúng ta sẽ học hỏi được các kinh nghiệm và kiến thức của nước ngoài.Và có nên chăng chính phủ nên tạo ra những “gián điệp” trong các dự án FDI? Đối với người lao động trong các dự án FDI ở Việt Nam, Bộ Lao động thương binh và xã hội nên quan tâm nhiều hơn tới họ thông qua các điều luật về lao động và thúc đẩy hoạt động công đoàn trong các dự án FDI. Chúng ta cũng không nên có cái nhìn phiến diện về sự đình công của lao động trong các dự án FDI bởi đối với họ chỉ khi nào quyền lợi cơm áo bị ảnh hưởng họ mới làm như vậy. Chính phủ hãy quan tâm nhiều hơn đến người lao động trong các dự án FDI bởi chính họ mới là những người góp phần vào tốc độ tăng trưởng GDP cao trong những năm vừa qua. Sự di chuyển của văn hóa có nguồn gốc từ các dự án FDI cũng nên được Bộ Văn hóa thông tin kiểm soát để đảm bảo ngăn chặn các luồng tư tưởng xấu ảnh hưởng đến chính trị cũng như sự ảnh hưởng tới bản sắc văn hóa trong quá trình hội nhập.Tất nhiên cũng không vì thế mà chúng ta quá hà khắc với những điều mới mẻ, tốt đẹp mà sự hội nhập mang lại cho chúng ta. Sự phân biệt giàu nghèo là không thể tránh khỏi trong một nền kinh tế phát triển cao.Tuy nhiên nếu vì sự tác động của con người thì cần phải ngăn chặn. Sự phân bổ nguồn vốn FDI cũng là một trong những tác nhân. Bộ Kế hoạch và đầu tư nên phân chia nguồn lực FDI một cách hợp lý để đảm bảo cho sự phát triển cân bằng tương đối giữa các vùng để tránh việc giải quyết hậu quả sự mất cân bằng trong xã hội. Với tư cách là những người dân nhận thức về những cái đang tác động trực tiếp hay gián tiếp lên cuộc sống của bản thân mình, nhóm thực hiện đề tài mong muốn những kiến nghị này sẽ góp phần thiết thực vào việc hoạch định chính sách của chính phủ và các cơ quan hữu quan của Việt Nam và nếu có thể là các nước phát triển đang nhận sự đầu tư trực tiếp từ nước ngoài. Kết luận: Có thể thấy rằng FDI từ lâu đã trở thành nhân tố không thể thiếu trong nền kinh tế của một quốc gia. Có điều cần có cái nhìn khách quan hơn, tỉnh táo hơn, thận trọng hơn trong thu hút nguồn vốn này, vì ngoài những gì tốt đẹp mà nó đem lại cho tăng trưởng hàng năm thì nó cũng đang tiềm ẩn những đe dọa làm tổn thương nên kinh tế, nhất là những nền kinh tế đang phát triển đang hội nhập với những nền kinh tế đã quá nhiều kinh nghiệm trong sân chơi chung toàn cầu. Nói đến những ảnh hưởng tiêu cực của FDI không có nghĩa là đưa ra lời kêu gọi tẩy chay dòng vốn này. Vấn đề ở chỗ các quốc gia cần nhận thức được một cách đầy đủ những gì mà nó mang tới, để từ đó, tận dụng những ưu điểm nhưng sớm ngăn chặn những yếu điểm của FDI. Song song với nó chính là tăng cường nguồn vốn tích lũy của nội tại nền kinh tế, tránh phụ thuộc hoàn toàn vào yếu tố nước ngoài. Lời mở đầu MỤC LỤC I. Kết luận Tài liệu tham khảo Lời mở đầu Năm 2007, Việt Nam tổng kết 20 năm đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Sau 20 năm, tổng số vốn FDI mà các tập đoàn đa quốc gia đã đầu tư vào Việt Nam là 98 tỷ USD, trong đó riêng năm 2007 đã là 20,3 tỷ USD. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là lời giải cho bài toán thiếu vốn của các nước đang phát triển. Nhất là trong thời kỳ hiện nay khi nhu cầu mở rộng sản xuất càng lớn thì việc thu hút thêm càng nhiều vốn FDI càng tốt. Vẫn biết những hiệu quả mà luồng vốn này đem lại là vô cùng lớn, nhưng không thể phủ nhận những ảnh hưởng trái chiều không mong muốn mà nó đem lại. Có được khối lượng lớn vốn FDI là cố gắng, cũng như là mục tiêu của không chỉ các nước đang phát triển mà thậm chí còn của các nước phát triển. Phải khẳng định rằng thu hút được nhiều FDI là thành quả đáng khích lệ, là thành công của nước nhận đầu tư. Tuy nhiên, nhận nhiều vốn nhưng cũng cần tỉnh táo để không trở thành người bị thiệt trong cuộc chơi chung là điều mà các nước nên quan tâm. Với mong muốn hiểu thêm về dòng vốn FDI, nhóm thực hiện đã tiến hành nghiên cứu, tìm hiểu một trong những tác động của FDI: Tác động tiêu cực, với phạm vi nghiên cứu là các nước đang phát triển- nhóm những nước nghèo, lạc hậu vè công nghệ, cần vốn để tiến hành sản xuất nhiều nhất. Có được bài tiểu luận này, nhóm thực hiện đề tài muốn gửi lời cảm ơn sâu sắc tới cô: Nguyễn Thị Hải Yến- giảng viên môn Kinh tế phát triển vì những hướng dẫn, gợi ý quý giá của cô. Trong quá trình thực hiện không tránh khỏi đôi chỗ sai sót, vì thế nhóm thực hiện rất mong nhận được sự phản hồi từ phía độc giả. Nhóm 15: Trưởng nhóm: Bùi Thị Hải Anh Thành viên: Đỗ Thị Diễm Thành viên: Ngô Trần Thanh Hiền Thành viên: Phan Thị Trang Thành viên: Hoàng Đức Trung Thành viên: Nguyễn Đình Vượng (Lớp:Trung3-K44H- ĐH Ngoại Thương) Tài liệu tham khảo: Giáo trình Kinh tế phát triển, Khoa Kế hoạch và phát triển- ĐH Kinh tế quốc dân, NXB LĐXH 2006 Giáo trình Đầu tư nước ngoài World Investment Report 2006. Unctad World Investment Report 2007, Unctad www.mpi.gov.vn www.moi.gov www.unctad. Org www.oecd. Org

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCD219.doc
Luận văn liên quan