MỤC LỤC
Danh mục các từ viết tắt . 5
Phần A. Mô hình tăng trưởng kinh tế . 6
I.Mô hình cổ điển . 6
1. Xuất phát điểm của mô hình 6
2. Các yếu tố tăng trưởng kinh tế và quan hệ giữa chúng . 7
3. Phân chia các nhóm người trong xã hội và thu nhập của họ 8
4. Quan hệ cung cầu và vai trò của Chính sách với tăng trưởng kinh tế 9
II. Mô hình của K. Marx 9
1. Các chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng . 9
2. Các yếu tố tăng trưởng kinh tế . 10
3. Sự phân chia giai cấp trong xã hội tư bản 10
4. Chu kì sản xuất và vai trò của chính sách kinh tế 11
III. Mô hình Tân cổ điển 11
Những quan điểm giống mô hình Cổ điển . 12Những nội dung mới của mô hình Tân cổ điển 12Hàm sản xuất Cobb – Douglas 13
IV. Mô hình của Keynes . 14
Nội dung cơ bản của mô hình 14
Sự cân bằng của nền kinh tế . 14
Vai trò của tổng cầu trong việc xác định sản lượng 15
Vai trò của chính sách kinh tế tới tăng trưởng . 15
Mô hình Harrod – Domar . 16Sự phê phán mô hình Harrod – Domar của Trường phái Tân cổ điển 16
3.1 Nguyên nhân 16
3.2 Mô hình Solow . 17
V. Lí Thuyết tăng trưởng kinh tế hiện đại 18
1. Nội dung cơ bản 18
1.1Sự cân bằng của nền kinh tế . 18
1.2 Các yếu tố tác động đến tăng trưởng kinh tế 19
2. Vai trò của Chính phủ trong tăng trưởng kinh tế . 20
Phần B. Tăng trưởng kinh tế của trung Quốc 21
I. Tổng quan về nền kinh tế Trung Quốc . 21
1. Đo lường tăng trưởng . 21
2. Thành tựu cụ thể 23
II. Chính sách của Trung Quốc . 24
Nội dung cải cách 24Thay đổi sâu sắc các chính sách vĩ mô 25Cải tổ to lớn hệ thống ngân hàng . 26Cải cách doanh nghiệp Nhà nước 26
III. Mục tiêu phát triển . 27
IV. Đằng sau sự tăng trưởng thần ki . 30
Mất cân đối vĩ mô nghiêm trọng 30Ô nhiễm môi trường . 32Khoảng cách giàu nghèo ngày càng rộng 33Sự lão hoá dân số . 33
V. Kinh nghiệm cho Việt Nam . 34
Kết luận 38
Tài liệu tham khảo . 39
PHẦN A. CÁC MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG KINH TẾI. Mô hình cổ điển( Nhà kinh tế tiêu biểu David Ricardo)1. Xuất phát điểm của mô hình. David Ricardo được coi là tác giả cổ điển xuất sắc nhất là cha đẻ của mô hình cổ điển về tăng trưởng kinh tế với tác phẩm: các nguyên tắc chính trị kinh tế học và thuế khoá. Các quan diểm của D. Ricardo đều xuất phát từ tư tưởng của nhà kinh tế học Adam Smith và T.R Malthus.Tác phẩm “Của cải của các nước” của Adam Smith được coi là tác phẩm dầi tiên trình bày một cách đầy đủ và có hệ thống nhất những luận điểm về kinh tế học, với các học thuyết sau:
- Học thuyết “Giá tri lao động”: lao động là nguồn gốc cơ bản tạo ra mọị của cải cho đất nước.
- Học thuyết “Bàn tay vô hình”: theo A. Smith, tự người lao động biết rõ nhất cái gì có lợi cho họ, do vậy nếu không bị Chính phủ kiểm soát lợi nhuận sẽ thúc đẩy người lao động sản xuất hàng hoá và dịch vụ. Chính phủ không nên can thiệp vào nền kinh tế mà hãy để mọi việc tự xảy ra, thị trường sẽ giải quyết tất cả.
- Lí thuyết về phân phối thu nhập theo nguyên tắc ai có gì được nấy: tư bản có vốn thì có lợi nhuận, địa chủ có đất đai thu được địa tô, công nhân có sức lao đông thì nhận được tiền công. A Smith cho rằng sự phân phối này là hợp lí.
Cùng với tư tưởng kinh tế của Adam Smith, D Ricardo còn chịu ảnh hưởng của lí thuyết kinh tế về dân số của Malthus đó là: tiền công tăng khích thích kết hôn và sinh đẻ dẫn đến tăng dân số. Khi dân số tăng lại đáp ứng nhu cầu lao động của nhà tư bản và tiền công lại giảm xuống ở mức đủ sống.
40 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3379 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o nguyên tắc ai có gì được nấy: tư bản có vốn thì có lợi nhuận, địa chủ có đất đai thu được địa tô, công nhân có sức lao đông thì nhận được tiền công. A Smith cho rằng sự phân phối này là hợp lí.
Cùng với tư tưởng kinh tế của Adam Smith, D Ricardo còn chịu ảnh hưởng của lí thuyết kinh tế về dân số của Malthus đó là: tiền công tăng khích thích kết hôn và sinh đẻ dẫn đến tăng dân số. Khi dân số tăng lại đáp ứng nhu cầu lao động của nhà tư bản và tiền công lại giảm xuống ở mức đủ sống.
2.Các yếu tố tăng trưởng và mối quan hệ giữa chúng
Theo D.Ricardo, nông nghiệp là ngành kinh tế quan trọng nhất. Ông cho rằng các yếu tố cơ bản của tăng trưởng kinh tế là đất đai, lao động, vốn. Trong từng ngành với một trình độ nhất định thì các yếu tố này kết hợp với nhau theo một tỉ lệ cố định. Ví dụ, để sản xuất một lượng lương thực là A thì cần một Ka vốn và La lao động. Để sản xuất một lương thực B = 2A thì vốn Kb = 2Ka và lao động Lb = 2La , vì thế đường đồng sản lượng có dạng chữ L.
K
Kb
Ka
La
Lb
L
Hình 1. Đường đồng sản lượng.
Hao phí của các yếu tố trong sản xuất có xu hướng khác nhau giữa nông nghiệp và công nghiệp. Trong nông nghiệp khi nhu cầu lương thực thực phẩm tăng, sản xuất trên đất đai kém mầu mỡ làm chi phí sản xuất tăng lên và lợi nhuận giảm. Trong công nghiệp sản xuất gia tăng theo quy mô thì lợi nhuận cũng tăng lên.
Trong các yếu tố vốn. lao động, đất đai thì đất đai là yếu tố quan trọng nhất và ông cho rằng đất đai là giới hạn của tăng trưởng. Lí giải cho quan điểm trên như sau: khi nhu cầu về lương thực tăng lên thì phải canh tác trên cả những mảnh đất kém màu mỡ điều này dẫn đến năng suất giảm. Mà lương thực lại là phần quan trọng nhất đảm bảo đời sống cho công nhân do đó, khi lượng lương thực không đủ thì giá sẽ tăng lên và tiền công danh nghĩa cua công nhân phải tăng theo tương ứng lợi nhuận của nhà tư bản giảm. Cứ tiếp tục như thế thì cho đến một lúc nào đó lợi nhuận hạ thấp không đủ bù đắp mọi rủi ro trong kinh doanh làm nền kinh tế trở nên bế tắc. Như vậy, đất đai là giới hạn của tăng trưởng.
Trước tình hình đó, Ricardo manh nha hình thành mô hình hai khu vực kinh tế là công nghiệp và thương mại dịch vụ để phát triển sản xuất sản phẩm công nghiệp và xuất khẩu hàng hoá.
3.Phân chia nhóm người trong xã hội và thu nhập của họ.
Tương ứng với các yếu tố tăng trưởng, Ricardo chia xã hội thành ba nhóm người: địa chủ, tư bản, công nhân. Tương ứng với đó thì địa chủ có đất đai sẽ thu về địa tô, tư bản có vốn thì nhận được lợi nhuận còn công nhân với sức lao động bỏ ra sẽ nhận được tiền công. Từ đó, tổng thu nhập của xã hội bao gồm lợi nhuận, địa tô và tiền công.
Trong khâu sản xuất, nhà tư bản giữ vai trò quan trọng hơn cả. Họ là người tổ chức sản xuất bằng việc kết hợp các yếu tố đầu vào đồng thời cũng là người thực hiện tích luỹ phát triển sản xuất.
Trong phân phối, nhà tư bản cũng là người chủ động. Nhà tư bản nắm trong tay đặc quyền nên công nhân chỉ nhận được mức lương tối thiểu, đủ sống. Khi các nhà tư bản tích luỹ nhanh chóng làm sản xuất phát triển thì họ sẽ cạnh tranh với nhau trong việc thuê công nhân và làm tiền công tăng lên. Nhưng sự tăng lên này chỉ là nhất thời vì theo lí thuyết của Malthus tiền công tăng kính thích kết hôn và sinh để làm sự gia tăng dân số sẽ thoả mãn nhu cầu lao động của nhà tư bản và tiền công lại giảm xống.
Như vây, nhà tư bản giữ một vị trí quan trọng trong xã hội với việc chủ động trong sản xuất và phân phối.
4.Quan hệ cung-cầu và vai trò của chính sách kinh tế với tăng trưởng
Các nhà kinh tế cổ điển cho rằng, thị trường có khả năng tự điều chỉnh những mất cân đối thông qua giá và tiền công. Họ cho rằng “cung tạo nên cầu”. Theo đó thì đường tổng cung tức là AS luôn thẳng đứng ở mức sản lượng tiềm năng, quyết định sản lượng và việc làm của nền kinh tế. Còn tổng cầu AD là hàm cung tiền, được xác định bởi mức giá, không phụ thuộc vào sản lượng.
Trong mô hình này, các nhà kinh tế còn cho rằng các chính sách của Chính phủ có khi còn hạn chế khả năng phát triển kinh tế. Ví dụ, chính sách thuế: khi Chính phủ đánh thuế, tất cả các loại thuế đều được lấy từ lợi nhuận sẽ làm giảm bớt nguồn tích luỹ hạn chế khả năng mở rộng sản xuất; khi thuế đánh vào nông sản làm tăng giá mặt hàng này làm tiền công tăng, tương ứng lợi nhuận giảm và theo đó tích luỹ cũng giảm giảm khả năng mở rộng sản xuất.
Theo quan điểm của mô hình này, những người làm việc trong các lĩnh vực quản lí, an ninh quân đội do không trực tiếp hoặc gián tiếp tạo ra sản phẩm nên là những công nhân không sinh lời. Do vậy, việc Chính phủ sử dụng một phần sản lượng quốc gia để chi tiêu cho cho những hoạt động đó là đã giảm bớt tiềm lực phát triển kinh tế.
II. Mô hình của K. Marx
- K.Marx chia hoạt động xã hội ra hai lĩnh vực: sản xuất vật chất và phi sản xuất.
- Theo Marx chỉ có lĩnh vực sản xuất vật chất mới sáng tạo ra sản phẩm xã hội.
- Dựa vào thuộc tính hai mặt của lao động chia sản phẩm xã hội thành hai hình thái: hiện vật và giá trị.
1. Các chỉ tiêu tổng hợp phản ánh sự tăng trưởng
Để đánh giá hoạt động của nền kinh tế, Marx đưa ra hai chỉ tiêu đó là tổng sản phẩm xã hội và tổng thu nhập quốc dân:
- Tổng sản phẩm xã hội là toàn bộ sản phẩm được sản xuất ra trong một thời gian nhất định (thường là một năm). Về mặt hiện vật, tổng sản phẩm xã hội gồm tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng. Về mặt giá trị gồm tư bản bất biến, tư bản khả biến và giá trị thặng dư.
- Thu nhập quốc dân là phần còn lại của tổng sản phẩm xã hội sau khi đã trừ đi các chi phí trong sản xuất và toàn bộ tư liệu tiêu dùng. Về mặt giá trị bao gồm tư bản khả biến và giá trị thặng dư.
2. Các yếu tố tăng trưởng kinh tế
Các nhà kinh tế cổ diển cho rằng có ba yếu tố tăng trưởng kinh tế đó là: vốn, đất đai, lao động. Theo Marx có thêm một yếu tố nữa là tiến bộ kĩ thuật.
Trong các yếu tố trên ông quan tâm đặc biệt tới yếu tố lao động bởi lao động tạo ra giá trị thặng dư. Sức lao động đối với nhà tư bản là một hàng hoá đặc biệt. Nó giống với hàng hoá khác ở điểm cũng được mua trên thị trường và tiêu thụ trong quá trình sản xuất. Nhưng khác biệt với các hàng hoá khác là có thể tạo ra giá trị lớn hơn giá trị bản thân nó, giá trị đó bằng giá trị sức lao động cộng với giá trị thặng dư.
Về yếu tố kĩ thuật, Marx phân tích: mục đích của nhà tư bản là tăng giá trị thặng dư. Để tăng giá trị thặng dư nhà tư bản có thể tăng thời gian làm việc của công nhân, giảm tiền công hoặc nâng cao năng suất lao động bằng cải tiến kỹ thuật. Nhưng tăng thời gian làm việc và giảm tiền công có giới hạn vì một ngày chỉ có 24h và người công nhân chỉ chấp nhận làm việc một thời gian nhất định; giảm tiền công cũng chỉ có giới hạn là mức tiền công tối thiểu nếu giảm hơn sẽ không thuê được công nhân vì vậy để tăng giá trị thặng dư nhà tư bản chủ yếu dựa vào cải tiến kỹ thuật.
Tiến bộ kĩ thuật là làm tăng số máy móc và dụng cụ lao động giành cho người thợ để làm được điều này nhà tư bản cần phải có nhiều vốn. Cách duy nhất để gia tăng vốn là tiết kiệm, nhà tư bản không được tiêu dùng hết giá trị thặng dư. Do vậy giá trị thặng dư được nhà tư bản chia làm hai phần một phần để tiêu dùng và một phần để tích luỹ phát triển sản xuất. Đó là nguyên lí tích luỹ của CNTB.
3.Sự phân chia giai cấp trong xã hội tư bản.
Marx cũng cho rằng khu vực sản xuất ra của cải vật chất gồm 3 nhóm người:
- Địa chủ: địa tô.
- Tư bản: lợi nhuận.
- Công nhân: tiền công.
Nhưng K. Marx cho rằng sự phân phối thu nhập này mang tính chất bóc lột. Vì ông dựa trên quan điểm của Adam Smith cho rằng lao động là nguồn gốc tạo ra mọi của cải. Do vậy là vô lí khi người công nhân là người trực tiếp lao động mà chỉ nhận được mức tiền công tối thiểu. Một phần tiền công lẽ ra người công nhân được hưởng đã bị địa chủ và tư bản chiếm không.
Vì vậy Marx còn chia ba nhóm người này thành hai giai cấp: giai cấp bóc lột (tư bản và địa chủ) và giai cấp bị bóc lột là công nhân.
4. Chu kì sản xuất và vai trò của chính sách kinh tế.
Ông bác bỏ lý thuyết cổ điển về “Cung tạo nên cầu” và quan điểm đất đai là giới hạn đối với sự tăng trưởng. Vì theo ông nguyên tắc cơ bản của sự vận động tiền và hàng trên thị trường là phải đảm bảo sự thống nhất giữa giá trị và hiện vật. Lưu thông hàng hoá phải đảm bảo sự phù hợp giữa khối lượng hàng hoá mua và bán. Nếu khối lượng cần bán và sức mua của người tiêu dùng không phù hơp sẽ dẫn đến khoảng cách, khoảng cách lớn thì gây ra khủng hoảng. Khủng hoảng của CNTB thường là khủng hoảng thừa, xảy ra khi cung vượt cầu quá nhiều, thiếu nhu cầu tiêu thụ.
Theo Marx, khủng hoảng là một giải pháp nhằm khôi phục thế thăng bằng đã bị rối loạn. Để thoát khỏi tình trạng khủng hoảng các nhà tư bản phải tiến hành đổi mới tài sản cố định làm nền kinh tế trở nên phục hồi, hưng thịnh và như vậy quá trình phát triển kinh tế đã diễn ra theo chu kì. Lúc này, các chính sách kinh tế của Nhà nước có vai trò quan trọng đặc biệt là chính sách nâng cao mức cầu hiện có.
III. Mô hình Tân cổ điển về tăng trưởng kinh tế.
- Ra đời cuối thế kỷ 19.
- Đứng đầu trường phái là Alfred Marshall, tác phẩm chính của ông là “Các nguyên lý của kinh tế học”.
- Hoàn cảnh: Khoa học – kỹ thật có sự chuyển biến mạnh mẽ. Hàng loạt các phát minh khoa học và các nguồn tài nguyên được khai thác phục vụ cho sản xuất.
1. Những quan điểm giống mô hình cổ điển
Các nhà kinh tế cổ điển và Tân cổ điển đều cho rằng nền kinh tế luôn luôn đạt được sự cân bằng ở mức sản lượng tiềm năng.
Họ cũng cho rằng, khi nền kinh tế có biến động thì sự linh hoạt của giá cả và tiền công là nhân tố cơ bản khôi phục nền kinh tế về mức sản lượng tiềm năng với việc sử dụng hết nguồn lao động.
Theo các nhà kinh tế thì các chính sách của chính phủ chỉ ảnh hưởng tới giá cả không thể tác động vào sản lượng do vậy vai trò của chính phủ là mờ nhạt trong nền kinh tế.
2. Những nội dung mới của mô hình Tân cổ điển
Khác với mô hình cổ điển cho rằng sản xuất trong một tình trạng nhất định đòi hỏi những tỷ lệ nhất định về lao động và vốn, họ cho rằng có nhiều cách khác nhau trong việc kết hợp các yếu tố đầu vào. Đó là:
- Gia tăng vốn phù hợp với gia tăng lao động (công nghệ trung hoà): phát triển kinh tế theo chiều rộng.
- Sử dụng công nghệ nhiều lao động.
- Sử dụng công nghệ nhiều vốn: phát triển kinh tế theo chiều sâu.
Các nhà kinh tế còn cho rằng tiến bộ kỹ thuật là yếu tố cơ bản để thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xu hướng thay đổi trong kỹ thuật là các sáng chế có khuynh hướng dùng vốn tiết kiệm nhân công.
3. Hàm sản xuất Cobb – Douglas
Hàm Cobb-Douglas được sử dụng để giải thích nguồn gốc của tăng trưởng. Hàm số này nêu lên mối quan hệ giữa sự tăng lên của đầu ra với sự tăng lên của các yếu tố đầu vào: K (vốn), L (lao động), R (tài nguyên), T (khoa học-công nghệ), Y (đầu ra).
Y = f (K,L,R,T)
- Một dạng của kiểu phân tích này là hàm Cobb-Douglas có dạng :
là cá số luỹ thừa phản ánh tỷ lệ cận biên ﻷ của các yếu tố đầu vào.
- Sau khi biến đổi Cobb-Douglas thiết lập được mối quan hệ theo tốc độ tăng trưởng của các biến số.
Trong đó :
g: tốc độ tăng trưởng GDP
k, l, r: tốc độ tăng trưởng của các yếu tố đầu vào
t: phần dư còn lại, phản ánh tốc độ của khoa học-công nghệ.
Ví dụ: giả sử các biến số của phương trình như sau:
g = 0.06 (tốc độ tăng trưởng của GDP là 6%)
k = 0.07 (vốn tăng 7%)
l = 0.02 (lao động tăng 2%)
r = 0.01 (tài nguyên tăng 1%)
= 0.3 (vốn chiếm 30%)
= 0.6 (lao động chiếm 60%)
= 0.1 (tài nguyên chiếm 10%)
Thay các số liệu vào phương trình ta có:
0.06 = t + (0.3 x 0.07) + (0.6 x 0.02) + (0.1 x 0.01)
t = 0.026 cho biết rằng trong số 6% tăng GDP thì tác động của khoa học công nghệ là 2.6%.
Như vậy có 4 yếu tố tác động đến tăng trưởng kinh tế và các nhà kinh tế tân cổ điển cho rằng khoa học công nghệ có vai trò quan trọng nhất.
IV. Lí thuyết của Keynes
Ra đời năm 1936 với tác phẩm “ Lý thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ”. Tác phẩm đã đánh dấu sự ra đời của một học thuyết kinh tế mới.
1. Nội dung cơ bản của mô hình.
1.1. Sự cân bằng của nền kinh tế
Keynes cho rằng có thể đạt tới và duy trì một sự cân đối ở một mức sản lượng nào đó, dưới mức công ăn việc làm đầy đủ cho mọi người, tại nơi mà đầu tư được hình thành từ tiết kiệm.
Theo ông, cân bằng của nền kinh tế không nhất thiết ở mức sản lượng tiềm năng, mà thông thường sản lượng thực tế đạt được ở mức cân bằng nhỏ hơn mức sản lượng tiềm năng(Y0 <Y*).
1.2. Vai trò của tổng cầu trong việc xác định sản lượng
Keynes đánh giá cao vai trò của tiêu dùng trong việc xác định sản lượng. Thu nhập của các cá nhân sẽ được sử dụng cho tiêu dùng và tích luỹ. Nhưng xu hướng chung là khi mức thu nhập tăng thì xu hướng tiêu dùng trung bình sẽ giảm và xu hướng tiết kiệm trung bình sẽ tăng.Việc giảm xu hướng tiêu dùng sẽ làm cho cầu tiêu dùng giảm dẫn đến sự trì trệ trong hoạt động kinh tế.
Đầu tư đóng vai trò quyết định đến quy mô việc làm.Nhưng khối lượng đầu tư lại phụ thuộc vào lãi suất cho vay và hiệu suất cận biên của vốn.
Keynes sử dụng lý thuyết về việc làm và sản lượng do cầu quyết định để giải thích mức sản lượng thấp và thất nghiệp cao kéo dài trong những năm 30 ở các nước công nghiệp phương Tây.Do đó lý thuyết này còn được gọi là lý thuyết trọng cầu.
Vì vậy theo Keynes nên phát triển nhiều hình thức hoạt động để nâng cao tổng cầu và việc làm trong xã hội.
1.3. Vai trò của chích sách kinh tế tới tăng trưởng
Qua phân tích tổng quan, Keynes đi đến kết luận muốn thoát khỏi khủng hoảng, thất nghiệp Nhà nước phải thực hiện điều tiết bằng các chích sách kinh tế nhằm tăng cầu tiêu dùng. Gồm các chích sách như:
- Sử dụng ngân sách của Nhà nước để kích thích đầu tư thông qua các đơn đặt hàng và trợ cấp vốn cho các doanh nghiệp.
- Thực hiện lạm phát có mức độ. Tức là tăng lượng tiền trong lưu thông để kích thích đầu tư nhưng phải có mức độ.
- Đánh giá cao vai trò của thuế khoá, công trái Nhà nước, qua đó góp phần bổ sung cho ngân sách.
- Giảm lãi suất ngân hàng để khuyến khích đầu tư và đánh thuế thu nhập theo luỹ tiến làm cho phân phối trở nên công bằng hơn.
- Tán thành việc đầu tư của chích phủ vào các công trình công cộng.
2.Mô hình Harrod-Domar
Mô hình Harrod – Domar được nghiên cứu một cách độc lập bởi hai nhà kinh tế Roy Harrod và Evsay Domar dựa theo tư tưởng của Keynes. Mô hình này giải thích mối quan hệ giữa sự tăng trưởng và thất nghiệp ở các nước phát triển.
Theo mô hình thì dù là một công ty, một nghành công nghiệp hay toàn bộ nền kinh tế thì đầu ra của nó đều phụ thuộc vào số vốn đầu tư nó nhận được.
- Nếu gọi đầu ra là Y, tỷ lệ tăng trưởng của đầu ra là g:
- Nếu goi s là tỉ lệ tích luỹ trong GDP và mức tích luỹ:
- Vì tiết kiệm là nguồn gốc của đầu tư cho nên về lý thuyết đầu tư luôn bằng tiết kiệm: (S=I):
- Đầu tư là cơ sở tạo ra vốn sản xuất do đó nếu gọi k là tỷ số gia tăng giữa vốn-đầu ra ta có:
Vì: => g=
k là hệ số gia tăng vốn đầu ra: vốn đươc tạo ra bằng đầu tư là yếu tố cơ bản của tăng trưởng; tiết kiệm là nguồn gốc của đầu tư.
3. Sự phê phán mô hình Harrod- Domar của trường phái Tân cổ điển.
3.1 Nguyên nhân
Mô hình Harrod – Domar bị phê phán vì họ cho rằng tăng trưởng kinh tế là kết quả của tiết kiệm và đầu tư.Tuy nhiên thực tế thì có trường hợp:
- tăng trưởng không phải vì lý do đầu tư .
- ngược lại đầu tư không có hiệu quả vẫn tăng trưởng kinh tế
- nếu đầu tư có hiệu quả thì sự gia tăng tỷ lệ tiết kiệm cũng chỉ có thể tạo nên gia tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn chứ không thể đạt được trong dài hạn.
3.2 Mô hình Solow
Năm 1956, dựa trên tư tưởng thị trường tự do của lý thuyết Tân cổ điển, Solow đã xây dựng nên mô hình tăng trưởng mang ý tưởng mới, còn được gọi là mô hình tăng trưởng Solow. Mô hình Solow đã đưa thêm nhân tố: lao động và tiến bộ công nghệ vào phương trình tăng trưởng. Mô hình đã cho biết thêm những nhân tố ảnh hưởng tới mức sản lượng và tốc độ tăng trưởng của một nền kinh tế là:
- tiết kiệm,
- sự gia tăng dân số
- tiến bộ công nghệ (là yếu tố quyết định).
Mô hình này đặc biệt quan tâm tới sự tác động của tiết kiệm đến tăng trưởng kinh tế. Xét một hàm sản xuất Cobb – Douglas giản đơn chỉ có vốn (K), lao động (L) thì sản lượng Y sẽ là: Y = Kᾳ . K1-ᾳ
Nếu tính mức sản lượng bình quân trên đầu người thì phương trình trên sẽ là:
y = kᾳ
Với y = Y/L (thu nhập bình quân công nhân) và k = K/L (mức vốn bình quân công nhân).
Ta có I = sY (I là đầu tư, s là tỉ lệ tiết kiệm quốc gia). Nếu chia cả hai vế cho L ta có I/L = sY/L hay i = sy (i: mức đầu tư bình quân công nhân).
Tại mỗi thời điểm, lượng vốn là yếu tố quyết định sản lượng của nền kinh tế nếu vốn tăng theo thời gian dẫn tới tăng trưởng kinh tế. Lượng vốn thay đổi được xác định bởi hai nhân tố đó là đầu tư và khấu hao. Trong đó,đầu tư làm tăng lượng vốn và khấu hao làm giảm lượng vốn như vậy:
Lượng vốn thay đổi = Đầu tư – Khấu hao.
Mô hình Solow đã chứng minh rằng: nếu nền kinh tế nằm ở trạng thái ổn định thì nó sẽ đứng nguyên ở đó, và nếu nền kinh tế chưa nằm ở trạng thái ổn định thì nó sẽ có xu hướng tiến về trạng thái đó. Do đó trạng thái ổn định là cân bằng dài hạn của nền kinh tế.
Mô hình Solow cho rằng nếu tỷ lệ tiết kiệm cao, thì nền kinh tế sẽ có mức sản lượng lớn hơn. Nhưng tỷ lệ tiết kiệm cao chỉ đưa đến việc tăng trưởng nhanh trong một thời gian ngắn, trước khi nền kinh tế đạt tới trạng thái ổn định. Nếu một nền kinh tế duy trì một tỷ lệ tiết kiệm cao nhất, sẽ duy trì được mức sản lượng cao nhưng không duy trì được tốc độ tăng trưởng cao.Đây là kết luận hoàn toàn khác với kết luận của mô hình Harrod- Domar.
Nếu hai nền kinh tế do điều kiện lịch sử mà xuất phát với hai mức vốn khác nhau, vậy thì quốc gia có mức thu nhập thấp hơn tất yếu sẽ tăng trưởng nhanh hơn, dần đuổi kịp quốc gia có mức thu nhập cao hơn, nhờ tăng tỷ lệ tiết kiệm.
V. Lí thuyết tăng trưởng kinh tế hiện đại
Các nhà kinh tế của trường phái này ủng hộ xây dựng một nền kinh tế hỗn hợp, tức là :
- Thị trường trực tiếp xác định những vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế
- Nhà nước tham gia điều tiết có mức độ nhằm hạn chế những mặt tiêu cực của thị trường.(Thực chất của nền kinh tế hỗn hợp chính là kết hợp học thuyết tân cổ điển và học thuyết kinh tế của keynes.)
Những ý tưởng của học thuyết được trình bày trong tác phẩm “ Kinh tế học” của P.A Samuelson xuất bản năm 1948.
1.Những nội dung cơ bản
1.1 Sự cân bằng của nền kinh tế
Kinh tế học hiện đại quan niệm về sự cân bằng kinh tế dựa theo mô hình của Keynes: sự cân bằng của nền kinh tế thường ở dưới mức sản lượng tiềm năng, trong điều kiện hoạt động bình thường nền kinh tế vẫn có thất nghiệp và lạm phát. Nhà nước cần xác định tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên và mức lạm phát có thể chấp nhận được.
Sự cân bằng được xác định tại giao điểm của tổng cung và tổng cầu. Tổng cung AS là khối lượng hàng hoá mà các ngành kinh doanh sẽ sản xuất và bán ra trong điều kiện khả năng sản xuất, chi phí sản xuất và giá cả đã được xác định. Tổng cầu AD là khối lượng hàng mà người tiêu dùng, các doanh nghiệp và Chính phủ sẽ mua trong điều kiện giá cả, mức thu nhập đã được xác định.
1.2 Các yếu tố tác động đến tăng trưởng kinh tế.
Lý thuyết tăng trưởng kinh tế hiện đại giống mô hình kinh tế cổ điển cho rằng tổng mức cung của nền kinh tế được xác định bởi các yếu tố đầu vào của sản xuất: nguồn lao động, vốn sản xuất, tài nguyên thiên nhiên và khoa học công nghệ.
Y = f(K,L,R,T)
Về mối quan hệ của các yếu tố tăng trưởng, thống nhất với kiểu phân tích của hàm sản xuất Cobb-Douglas về sự tác động của các yếu tố đến tăng trưởng:
Y = T. Kα.Lβ.Lγ
g = t + αk + βl + γr
Trong đó:
g: Tốc độ tăng trưởng của GDP
k, l, r: Tốc độ tăng trưởng của các yếu tố đầu vào.
t: Phần dư còn lại, phản ánh tác động của khoa học công nghệ.
Cũng thống nhất với mô hình cổ điển tức là các nhà sản xuất có thể lựa chọn kỹ thuật sử dụng nhiều vốn (phát triển kinh tế theo chiều sâu) hoặc sử dụng nhiều lao động (phát triển kinh tế theo chiều rộng).
Lí thuyết này cũng thống nhất với mô hình Harrod – Domar về vai trò của vốn đầu tư với tăng trưởng kinh tế. Ngày nay hệ số ICOR vẫn được sử dụng để xác định tỉ lệ đầu tư cần thiết phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Samuelson cũng đề cập đến các yếu tố tác động đến tổng mức cầu như cách đề cập của Keynes: Y = (C,G,I,NX).
2.Vai trò của Chính phủ trong tăng trưởng kinh tế
Lí thuyết này cho rằng thị trường là yếu tố cơ bản điều tiết hoạt động của nền kinh tế. Sự tác động qua lại giữa tổng mức cung và tổng mức cầu tạo ra mức thu nhập thực tế, việc làm – thất nghiệp, mức giá – tỉ lệ lạm phát là cơ sở để giải quyết ba vấn đề cơ bản của nền kinh tế.
Khác với các nhà kinh tế cổ điển và Tân cổ điển các nhà kinh tế học hiện đậi ngày càng đề cao vai trò của Chính phủ trong đời sống kinh tế,Chính phủ có bốn chức năng cơ bản:
- Thiết lập khuôn khổ pháp luật.
- Xác định chính sách ổn định kinh tế vĩ mô.
- Tác động vào việc phân bổ tài nguyên để cải thiện hiệu quả kinh tế.
- Thiết lập các chương trình tác động tới việc phân phối thu nhập.
Theo Samuelson chính phủ cần tạo ra môi trường ổn định cho các DN và các hộ gia đình trong sản xuất vầ trao đổi. Cần đưa ra những định hướng cơ bản về phát triển kinh tế và ưa tiên cần thiết cho từng thời kỳ và sử dụng các công cụ như: thuế quan, chương trình tín dụng, trợ giá. Thực hiện phân phối lại thu nhập của cải giữa các DN và và các hộ gia đình. Thực hiện phúc lợi xã hội. Đồng thời chính phủ cần khuyến khích một tỷ lệ tăng trưởng kinh tế bền vững, chống lạm phát và giảm ô nhiễm môi trường.
PHẦN B: TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ CỦA TRUNG QUỐC (1978 - 2010)
I. Tổng quan về nền kinh tế Trung quốc.
1. Đo lường tăng trưởng.
Sau 1/3 thế kỷ cải cách thể chế, xúc tiến mở cửa, Trung Quốc có sự phát triển vượt bậc, tạo bước ngoặt lịch sử; làm thay đổi hẳn diện mạo kinh tế-xã hội đất nước. Từ đầu thập niên năm 1980 đến 1996, kinh tế Trung Quốc lúc nào cũng tăng trưởng trên dưới 10% (có năm lên đến 15%), trừ hai năm 1989 và 1990 là thời kỳ kinh tế bị ảnh hưởng bởi sự kiện Thiên An Môn (1989). Sau cuộc khủng hoảng tài chính ở châu Á (1997- 1998), tốc độ tăng trưởng của hầu hết các nước trong khu vực giảm nhanh nhưng Trung Quốc vẫn duy trì trong khoảng 7-10% cho đến bây giờ.
- Với tăng trưởng trên 30 năm ở mức bình quân 9,7%/năm (đứng đầu thế giới).
- Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đã vượt Anh, Pháp, Đức và Nhật Bản để đứng hàng thứ 2 thế giới (sau Mỹ). GDP cả năm 2010 của Trung Quốc tăng 10,3%, mạnh nhất trong 3 năm qua, đạt 6,04 nghìn tỷ USD. Tốc độ tăng trưởng GDP của Trung Quốc đạt mức 9,8% trong quý 4/2010, vượt dự báo trước đó của giới quan sát.
- Tăng trưởng hàng năm đạt 4,6% trong nông nghiệp, 11,4% về công nghiệp và dịch vụ 10,8% trong thập niên 1997-2007, cơ cấu GDP đãchuyển hóa tích cực với mức đóng góp 11,3% từ nông nghiệp.
- Tỷ trọng công nghiệp 48,6%.
- Thu nhập bình quân đầu người trên 4000 USD/năm. Trung Quốc đã vượt qua 4000 USD để bước vào nhóm nước thu nhập trung bình khá.
Biểu đồ 1. Tỷ lệ tăng GDP của Trung Quốc (1978-2010)
Biểu đồ 2. GDP của Trung Quốc và Mỹ (1970-2009)
Tốc độ tăng trưởng số liệu kinh tế Trung Quốc 2010 cao gấp 7 lần so với mức tăng của kinh tế Mỹ trong thập kỷ qua (316% so với 43%).
Mức tăng trưởng này được đánh giá là bền vững và nhanh nhất trong lịch sử kinh tế thế giới 50 năm qua. Độ lớn của nền kinh tế TQ (nếu tính theo giá cả hiện thời) đã vượt tổng các nền kinh tế của các quốc gia chủ yếu trong Cộng đồng châu Âu. Với đà tăng trưởng này, OECD dự báo TQ có thể trở thành nhà xuất khẩu lớn nhất thế giới trong đầu thập niên tới.
2. Những thành tựu cụ thể
- Nông nghiệp: năm 1978 đạt 304,7 triệu tấn, 1987 đạt 402 triệu tấn, 1997 đạt 494,1 triệu tấn. Năm 2005 cung cấp 46% thịt lợn thế giới, 24% bông, 15% ngũ cốc, 70% lê, 40% táo,, 30% cà chua. Đứng đầu thế giới về rau khô, nấm chế biến, tỏi. Sự phát triển của nông nghiệp tạo điều kiện cho sự phát triển của kinh tế, cung cấp mặt hàng cho công nghiệp và xuất khẩu.
- Công nghiệp: Sản xuất công nghiệp tăng trưởng với tốc độ cao, giá trị sản phẩm CN năm 1997 tăng 14 lần so với 1978, bình quân mỗi năm 14,9%.Năm 2006 sản lượng gang 193,2 triệu tấn, thép thô 199,47 triệu tấn, 3,89 triệu xe ô tô, trong đó 2,01 triệu xe con tăng 53,2% so với 2005. Sự phát triển công nghiệp luôn cao hơn các ngành khác và thúc đẩy công nghiệp hóa ở Trung Quốc tiến lên giai đoạn mới.
- Trung Quốc hiện đã là "nông trại" và "công xưởng" của thế giới; theo dự đoán của các chuyên gia, đến năm 2040 Trung Quốc sẽ vượt qua Mỹ để trở thành nước có quy mô GDP lớn nhất thế giới. Trung Quốc đang giữ kỷ lục thế giới về số năm tăng trưởng liên tục (27 năm) và về tốc độ tăng trưởng cao (cứ khoảng 8 năm là GDP tăng gấp đôi), là nước có tỷ lệ tích lũy so với GDP cao nhất thế giới và liên tục tăng lên (từ năm 2002 đã vượt qua mốc 40%, trong đó từ năm 2004 đã đạt 45%). Trung Quốc là nước có kim ngạch xuất khẩu lớn thứ ba thế giới, chỉ sau Đức, Mỹ và trong quan hệ buôn bán với nước ngoài, Trung Quốc luôn luôn ở vị thế xuất siêu ngày một lớn. Thị phần xuất khẩu hàng hóa của Trung Quốc vừa lớn, vừa rộng khắp không chỉ ở khu vực có mật độ cao về nhân công không có tay nghề mà ngay cả ở khu vực có cường độ công nghệ lớn (chiếm 15% hàng nhập khẩu của Mỹ, 13% của châu Âu). Dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc đã đạt trên 900 tỉ USD, vượt qua Nhật Bản lên đứng đầu thế giới.
II. Các chính sách của chính phủ:
Theo tổ chức Hợp tác kinh tế và phát triển (OECD), tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc (TQ) đã tăng tốc kể từ khi bắt đầu chính sách đổi mới kinh tế cách đây đúng 25 năm, bình quân 9,5%/năm và sẽ còn duy trì các năm về sau. Đằng sau sự tăng trưởng thần kỳ này là một cuộc cách mạng sâu sắc, từ các chính sách kinh tế vĩ mô đến sự thay đổi tận gốc năng suất - hiệu quả của các doanh nghiệp.
1. Nội dung cải cách:
Chủ trương: xây dựng một nền kinh tế hàng hóa xã hội chủ nghĩa và nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ( từ 1992 ). Khôi phục và duy trì nền kinh tế nhiều thành phần: Đa dạng hóa các loại hình sở hữu. Kinh tế tư nhân được khuyến khích phát triển, các hình thức kinh tế tư bản nhà nước được chú trọng. Áp dụng các chính sách khoán cho cả nông nghiệp và công nghiệp. Trong hoạt động kinh tế cho phép tự do cạnh tranh, giải thể doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, thi hành chế độ hợp đồng lao động. Nông nghiệp: cho phép quyền sở hữu ruộng đất, cho phép chuyển nhượng theo phương châm “ li điền bất li hương”.Nhờ đó đa dạng hóa các ngành nghề thúc đẩy nông thôn phát triển và thu nhập người dân tăng lên. Chủ trương điều chỉnh lại cơ cấu nền kinh tế vốn đã mất cân đối từ trước. Chuyển từ thứ tự ưu tiên “ CN nặng- CN nhẹ- nông nghiệp” sang “ nông nghiệp- CN nhẹ- CN nặng”. Thực hiện hiện đại hóa công nghiệp bằng hiện đại hóa công nghệ và hiện đại hóa cơ cấu kinh tế. Nông nghiệp làm cơ sở, công nghiệp nặng hỗ trợ cho công nghiệp nhẹ phát triển.
Chủ trương thực hiện chính sách mở cửa: Đây là đường lối chiến lược không thay đổi và là điều kiện cơ bản để hiện đại hóa. Trao đổi hàng hóa với các nước trên thế giới đặc biệt là các nước phát triển, thu hút đầu tư, mở rộng du lịch và xuất khẩu lao động. Đặc biệt: chú trọng xây dựng cơ sở hạ tầng.
Tiến hành cải cách thể chế chính trị: Bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, tăng cường pháp chế. Nhận định chức năng lãnh đạo của Đảng và chức năng thực hiện của nhà nước. Giảm số lượng và tăng chất lượng đội ngũ cán bộ nhànước.
2. Thay đổi sâu sắc các chính sách vĩ mô.
Chính sách kinh tế đã liên tục được thay đổi theo hướng nới lỏng ngày càng nhiều hơn sự kiểm soát của chính phủ đối với thị trường, bắt đầu từ khu vực nông nghiệp cách đây hơn 20 năm, sau đó mở rộng sang công nghiệp rồi cuối cùng là khu vực dịch vụ. Đồng thời với việc xóa bỏ kiểm soát giá cả, chính phủ ban hành luật doanh nghiệp, trong đó lần đầu tiên cho phép thể nhân sở hữu doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn. Chính phủ cũng thi hành mạnh mẽ luật về cạnh tranh để thống nhất thị trường trong nước, trong khi đó môi trường kinh doanh được cải thiện sâu sắc hơn bằng cách cho phép đầu tư trực tiếp nước ngoài vào TQ, giảm thuế, bãi bỏ độc quyền kinh doanh xuất nhập khẩu của nhà nước và chấm dứt chế độ áp dụng nhiều tỉ giá hối đoái.
Động lực hướng về một nền kinh tế tự do hơn được tiếp sức với việc Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại quốc tế (WTO) năm 2001 và kết quả là Trung Quốc đã tiêu chuẩn hóa một số lượng lớn các luật và qui định, tạo ra triên vọng cắt giảm thuế quan nhiều hơn nữa. . Thật ra sự thay đổi nền tảng là việc sửa đổi hiến pháp năm 2004, nhấn mạnh vai trò của bộ phận không thuộc nhà nước quản lý trong việc khuyến khích hoạt động kinh tế quốc nội và bảo vệ tài sản tư nhân khỏi sự cưỡng đoạt chuyên chế. Năm 2005, các qui định ngăn cản sự thâm nhập của các công ty tư nhân vào một số lĩnh vực của nền kinh tế như hạ tầng cơ sở, các ngành phục vụ công cộng và dịch vụ tài chính bị xóa bỏ. Nhìn chung, những thay đổi này cho phép sự nổi lên một bộ phận tư nhân hùng mạnh trong nền kinh tế TQ và bộ phận này đã đóng một vai trò chủ chốt.
3. Cải tổ to lớn hệ thống ngân hàng.
Điều quan ngại của chính quyền trong việc tiến tới một tỉ giá hối đoái linh hoạt hơn có lẽ do lo lắng ngân hàng dễ bị tác hại bởi các khoản vay nước ngoài và bởi sự yếu kém của hệ thống này. Tuy nhiên, công việc cải tổ đang được tiến hành một cách mạnh mẽ. Cho đến năm 1995, các ngân hàng phải tập trung phân bổ tín dụng theo chính sách của nhà nước. Kết quả của chính sách này đã làm cho nợ khó đòi tích lũy trong hệ thống ngân hàng lên đến 4 tỉ nhân dân tệ, chủ yếu là các món vay thời kỳ trước 1999. Kể từ sau thời điểm 1999, TQ bắt đầu tiến hành cải tổ sâu rộng hệ thống ngân hàng. Các ngân hàng đã bắt đầu hiện đại hóa các phương pháp cho vay và quản lý rủi ro. Ngân hàng nhà nước đưa vào áp dụng phương pháp tính toán cân đối phân tán rủi ro và hệ thống phân loại nợ quá hạn cho các ngân hàng.
Tháng 7-2005, Chính phủ TQ đã đánh giá lại giá trị của đồng nhân dân tệ cùng với thay đổi liên quan đến sắp xếp tỉ giá hối đoái, cho phép TQ linh động hơn trong việc kìm hãm lạm phát trên thị trường sản phẩm và tài sản. Bằng cách này, sức mạnh thị trường sẽ đóng vai trò hơn nữa trong việc xác định lãi suất ngân hàng của nền kinh tế TQ.
4. Cải cách doanh nghiệp nhà nước.
Chính phủ đã tiến hành chương trình cải cách sâu rộng ở bộ phận thuộc nhà nước sở hữu. Đây là thành phần chủ yếu của nền kinh tế TQ vào những năm 1990. Các xí nghiệp sở hữu nhà nước được chuyển đổi thành tập đoàn theo hình thức do pháp luật qui định và nhiều công ty loại này được niêm yết trên các thị trường chứng khoán.
Thị trường chứng khoán đã bắt đầu hoạt động từ đầu những năm 1990. Từ năm 1998 chính sách để các doanh nghiệp nhỏ mua và tái cấu trúc các công ty lớn được thực hiện một cách thành công. Chương trình này làm cho số lượng các xí nghiệp công nghiệp do nhà nước kiểm soát giảm hơn một nửa trong vòng năm năm.
Hợp đồng lao động được qui định linh hoạt hơn làm cho lao động trong bộ phận công nghiệp tăng hơn 14 triệu người trong năm năm, tính đến năm 2003. Quá trình này được trợ giúp bởi các chương trình trợ cấp xã hội và trợ cấp thất nghiệp nhằm chuyển trách nhiệm bồi thường do giảm biên chế lao động dôi dư từ doanh nghiệp sang cho nhà nước. Cuối cùng trong năm 2003, chính phủ hợp lý hóa sự kiểm soát trên các doanh nghiệp do nhà nước kiểm soát hơn nữa bằng cách tạo ra một cơ quan chịu trách nhiệm thực thi quyền sở hữu của nhà nước và thúc đẩy thành quả của những doanh nghiệp này.
III. Mục tiêu phát triển
Trong thế kỷ XXI, mục tiêu phát triển của trung Quốc đólà phải phát triển với tốc độ nhanh để đuổi kịp nước Mỹ. Vậy câu hỏi đặt ra là trong thế kỷ này, Trung Quốc có đuổi kịp Mỹ không? Nếu đuổi kịp được thì hàm ý đuổi kịp Mỹ là gì?
Thứ nhất, Trung Quốc phải rút ngắn cho được khoảng cách GDP giữa Mỹ và Trung Quốc. Năm 1988, theo tính toán của Augus Maddoson năm 2015, Trung Quốc sẽ vượt Mỹ về tổng lượng GDP nhưng lúc đó GDP bình quân đầu người của Trung Quốc vẫn còn thấp hơn Mỹ. Vì thế, để rút ngắn khoảng cách GDP bình quân đầu người với Mỹ thì phảicần một thời gian lâu dài.
Thứ hai, Trung Quốc phải ưu tiên rút ngắn khoảng cách về chỉ tiêu phát triển con người (HDI). Theo số liệu thống kê của Liên Hiệp Quốc, chỉ tiêu HDI của Trung Quốc: năm 1975 mới đạt 60,2%, năm 1997 cũng mới bằng 75% chỉ tiêu HDI của Mỹ. Trong đó ở Bắc Kinh và Thượng Hải, chỉ tiêu này đã bằng 90% so với Mỹ. Điều này chứng tỏ khoảng cách về chỉ tiêu phát triển con người giữa Trung Quốc và Mỹ ngắn hơn so với khoảng cách về GDP bình quân đầu người giữa Mỹ và Trung Quốc.
Thứ ba, Trung Quốc phải rút ngắn cho được khoảng cách về mặt tri thức, giáo dục và thông tin giữa Trung Quốc và Mỹ. Điều này có lợi cho việc rút ngắn hai khoảng cách đã nói trên.
- Khoảng cách về giáo dục giữa Trung Quốc và Mỹ ngắn hơn khoảng cách giữa GDP bình quân, giữa khoa học, giữa thông tin so với Mỹ. Cho nên chiến lược đuổi kịp và vượt Mỹ của Trung Quốc trong thế kỷ XXI về thực chất là chiến lược phát triển xúc tiến tri thức.
- Muốn rút ngắn ba khoảng cách lớn giữa Trung Quốc và Mỹ (tri thức, giáo dục, thông tin), yêu cầu có sự điều chỉnh phương hướng đầu tư của nhà nước, từ đầu tư vào khu vực có tính cạnh tranh chuyển sang đầu tư vào khu vực không có tính cạnh tranh, từ đầu tư phần cứng sang đầu tư phần mềm. Dẫu cho Trung Quốc là nước có đầu tư trong nước cao nhất thế giới về tỷ suất cũng như tổng số là 42% tổng ngân sách, cao hơn nước Mỹ (18%), nhưng đại bộ phận ở phần cứng (nhà xưởng, thiết bị), còn phần mềm (chi R&D, giáo dục, vệ sinh công cộng, y tế cộng đồng...) chiếm tỷ trọng trong GDP còn rất thấp, chưa bằng một nửa của Mỹ. Trong mấy chục năm sau này, Trung Quốc phải tăng tốc đầu tư vào phần mềm này.
Thứ tư, Trung Quốc phải tìm cách rút ngắn khoảng cách về cơ sở hạ tầng giữa Trung Quốc và Mỹ, hơn nữa phải xem đây là một trong những lĩnh vực chủ yếu yêu cầu mở rộng đầu tư trong nước lâu dài. Diện tích đất đai Trung Quốc lớn hơn Mỹ, nhưng quốc lộ chỉ mới bằng 7,3%, lộ trình đường sắt mới bằng 27,4%, ống dẫn dầu bằng 3,5%, ống dẫn hơi đốt mới bằng 2,8%, thị trường vận chuyển hàng không mới bằng 9,1%, tổng số xe hơi đăng ký mới bằng 3,5% nước Mỹ. 20 năm sau này sẽ là thời kỳ hoàng kim của Trung Quốc trong phát triển hạ tầng cơ sở, bao gồm phát triển đường sắt, đường bộ, đặc biệt là đường cao tốc, đường hàng không, vận chuyển bằng đường ống, vận chuyển hàng không và hàng hải. Từ đó mở rộng nhu cầu đầu tư trong nước, sản xuất nhiều thiết bị phương tiện cơ sở, giảm được nhập khẩu.
Thứ năm, Trung Quốc cần phải tăng nhanh tiến trình xã hội hóa dịch vụ, rút ngắn khoảng cách lớn giữa Trung Quốc và Mỹ về ngành dịch vụ, hơn nữa xem ngành dịch vụ là con đường tựu nghiệp chủ yếu của tương lai, trở thành nguồn quan trọng của tăng trưởng kinh tế và tăng trưởng mậu dịch. Hiện nay, lực lượng lao động ở ngành dịch vụ Trung Quốc mới chiếm tỷ trọng chưa đầy 30% tổng lực lượng lao động. Trong đó, lao động nữ trong ngành dịch vụ chỉ chiếm 11%. Con đường chủ yếu để phát triển ngành nghề dịch vụ là phải đập tan sự lũng đoạn này của một số ngành kinh tế quốc hữu, thủ tiêu sự bảo hộ dẫn đến thực hiện cơ chế cạnh tranh, cải cách mở cửa thị trường ngành nghề dịch vụ trong nước.
Thứ sáu, Trung Quốc cần phải tăng tiến trình đô thị hóa. Từ nay đến 50 năm sau, đô thị hóa là động lực thúc đẩy chủ yếu để phát triển kinh tế Trung Quốc. Tỷ suất đô thị hóa càng cao càng sáng tạo nhu cầu tiêu dùng cá nhân, hơn nữa cũng sáng tạo nhu cầu sử dụng hạ tầng cơ sở ở thành thị.
Kết luận:
Trong thế kỷ XXI, Trung Quốc đuổi kịp Mỹ thì không có nghĩa Mỹ là mô thức mục tiêu của phát triển hiện đại hóa Trung Quốc. Bởi vì tình hình 2 nước hoàn toàn khác nhau, không thể làm giống như kiểu của Mỹ. Thông qua sự so sánh giữa 2 nước là để phát hiện sự khác nhau giữa các chỉ tiêu hiện đại hóa, để tìm con đường ngắn nhất rút ngắn sáu khoảng cách nói trên. Trung Quốc là nước hiện đại sau, rất rõ ràng là có ưu thế của nước đi sau như tích cực dẫn tiến bộ kỹ thuật và trang bị mới phát minh. Trung Quốc có cơ hội rất lớn để phát triển nhanh hơn, không ngừng rút ngắn khoảng cách giữa Trung Quốc với các nước phát triển đặc biệt là nước Mỹ.
Phát triển xúc tiến tri thức là chiến lược đuổi kịp và vượt Mỹ của Trung Quốc trong thế kỷ XXI. Mục tiêu phát triển của nó là “Lấy con người làm gốc”, “Lấy con người làm trung tâm”, nhấn mạnh phát triển tri thức, đầu tư cho tri thức .
IV. Đằng sau sự tăng trưởng thần kỳ (tác động đến xã hội).
Nhiều năm qua, mặc dù gặt hái nhiều thành tựu to lớn, nhiều dự đoán cho rằng kinh tế Trung Quốc sắp vượt qua Nhật Bản để đứng thứ hai thế giới, tuy nhiên, đằng sau bức tranh kinh tế - xã hội của đất nước có diện tích khổng lồ này đã bộc lộ những khiếm khuyết đe dọa đến sự phát triển bền vững của
chính họ.
1. Mất cân đối vĩ mô nghiêm trọng:
So với các nước đang phát triển cũng có ảnh hưởng tương đối lớn như Ấn Độ và Brazil thì: Trung Quốc có tỉ lệ công nghiệp trong GDP cao hơn nhưng lại có tỉ lệ dịch vụ trong GDP nhỏ hơn rất nhiều. Để thúc đẩy cho sự tăng trưởng ồ ạt của thành phần công nghiệp, Trung Quốc đã đưa ra những chính sách hỗ trợ không những làm méo mó sự phân bổ tài nguyên kinh tế mà còn kìm hãm khả năng phát triển của nhu cầu tiêu thụ nội địa. Ví dụ: sự hạn chế mức tăng trưởng tiền lương sẽ giúp các nhà sản xuất nhưng lại cản trở khả năng tăng thu nhập của công nhân để họ có thể tăng mức tiêu thụ).
Chủ tịch Ngân hàng xây dựng Trung Quốc - ngân hàng lớn thứ hai cả nước xếp về tổng giá trị tài sản mới đây đã đưa ra cảnh báo về những hiểm họa mà sự tăng trưởng kinh tế quá nhanh có thể gây ra cho Trung Quốc. Đó là sự bùng nổ tín dụng của năm 2009 khi mà các ngân hàng, dưới sự bảo trợ từ gói kích thích kinh tế khổng lồ của chính phủ đã "vung tay" cho vay, đưa tổng dư nợ tín dụng mới của nước này trong năm 2009 lên tới con số kỷ lục 9600 tỷ NDT, tương đương với 1400 tỷ đôla Mỹ, tăng gấp đôi so với năm 2008.
Trong khi đó, thị trường bất động sản sôi động đã dẫn đến mức tăng mạnh về doanh thu bán đất trong năm 2009 ở Trung Quốc, khiến sự kỳ vọng giá nhà sẽ còn tăng cao hơn nữa. Nhiều công ty, đặc biệt là các tập đoàn quốc doanh với quỹ dồi dào, có xu hướng đầu tư vào bất động sản để kiếm lợi nhuận nhanh chóng. Bản thân chính quyền địa phương còn “dựa dẫm” vào chuyện bán đất để có nguồn thu tài chính, họ cũng không muốn kiềm chế tình trạng giá tăng chóng mặt.
Ở khía cạnh khác, Trung Quốc còn phải đối mặt với gánh nặng nợ nần của các địa phương. Nhận định của nhóm các chuyên gia tài chính, đứng đầu là Giáo sư Kenneth Rogoff của Đại học Harvard cho rằng, bong bóng khổng lồ tạo nên bởi gói kích thích kinh tế cùng với kỷ lục cho vay 1.400 tỉ đô la Mỹ riêng năm 2009 của chính quyền các địa phương đã khiến lạm phát trở nên khó kiểm soát và tạo nên “bong bóng nợ” (debt-fueled bubble).
Ngân hàng Trung ương Trung Quốc có thể gặp nguy hiểm nếu các cơ quan tài chính do chính quyền ở các địa phương thành lập để đầu tư vào địa ốc và hạ tầng cơ sở không thể trả nổi món nợ quá cao. Ðiều này có thể đưa đến các rủi ro, vì một số cơ sở có sự hậu thuẫn tài chính của chính quyền địa phương, nhưng nhiều chính quyền địa phương rất khó khăn trong việc cân bằng cán cân ngân sách của họ.
Theo giới truyền thông Trung Quốc, các công ty tài chính trực thuộc chính quyền địa phương đã vay khoảng 6 ngàn tỉ NDT ( tương đương 880 tỉ USD). Tuy nhiên, một nhà nghiên cứu ở Mỹ, ông Victor Shih tại trường Đại học Northwestern Univesity, ước lượng rằng con số các chính quyền địa phương Trung Quốc vay mượn từ năm 2004 đến 2009 lên đến 12 ngàn tỉ NDT (khoảng 1,6 ngàn tỉ USD).
Không chỉ dừng lại ở phạm vi trong nước, sự tăng trưởng mất cân đối của Trung Quốc cũng đang gây ra những khó khăn trên trường quốc tế. Trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu, vấn đề thường hay được nhắc đến là chính sách tỉ giá của Trung Quốc. Từ nhiều năm, nhiều nước đã chỉ trích việc Trung Quốc cố giữ đồng NDT (NDT) yếu so với đồng đô la nhằm thúc đẩy xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu.
Ngoài ra, những chính sách hỗ trợ công nghiệp đã duy trì sự tồn tại của các doanh nghiệp nhà nước kém hiệu quả và dẫn đến hiện tượng dư thừa công sức không những gây ra lãng phí mà còn tạo sức ép bán rẻ sang các nước khác.
Hơn nữa, sự tập trung vào các ngành công nghiệp nặng, tiêu thụ nhiều năng lượng (chẳng hạn như thép, nhôm, và hóa chất) buộc Trung Quốc phải tìm kiếm không ngừng nghỉ các nguồn cung cấp năng lượng trong nước cũng như khắp nơi trên thế giới. Điều này làm quá trình tăng trưởng thiếu tính chất bền vững và không hài hòa với bối cảnh kinh tế toàn cầu.
2. Ô nhiễm môi trường gia tăng
Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc từ lâu đã khiến các nước khác thèm muốn, nhưng việc mở rộng phát triển công nghiệp trong 3 thập kỷ qua cũng đang dần biến họ thành một trong những nước “độc hại” nhất thế giới. Vô số thành phố đang bị bao phủ bởi khói bụi trong khi hàng trăm triệu người không có cơ hội tiếp cận với nước sạch sinh hoạt.
Sự phát triển ồ ạt của các ngành công nghiệp đã gây ra sự tàn phá môi trường ở phạm vi rộng lớn. Trong 30 thành phố ô nhiễm nhất thế giới thì 20 là ở Trung Quốc. Và Trung Quốc hiện nay đã vượt qua Mỹ để trở thành nước xả khí thải cacbon lớn nhất thế giới.
Bên cạnh đó, với 70% hệ thống sông hồ bị ô nhiễm và hơn 300 triệu dân không có nước sạch để uống, sức khỏe của nhiều người dân, đặc biệt là dân nghèo, đã bị ảnh hưởng nặng nề. Theo báo cáo năm 2007 của Ngân hàng thế giới, mỗi năm có 750.000 người Trung Quốc chết sớm do không khí và nước bị ô nhiễm. Hai phần ba số thành phố của Trung Quốc không đạt tiêu chuẩn chất lượng không khí và 10% số vụ tử vong của người lớn ở Thượng Hải có nguyên nhân từ ô nhiễm không khí. Để khắc phục khó khăn về năng lượng, chính phủ Trung Quốc đã đặt ra mục tiêu giảm lượng tiêu thụ điện 20% cho mỗi một đơn vị tăng trưởng - một mục tiêu có lẽ là quá xa vời.
Ngoài ra, Trung Quốc hiện nay cũng là một trong những trở lực lớn trong quá trình giải quyết các vấn đề liên quan đến môi trường. Trước nỗ lực chống biến đổi khí hậu toàn cầu, việc Trung Quốc từ chối các cam kết về mức độ cắt giảm khí thải CO2 cũng như sự giám sát của quốc tế trong quá trình thực hiện cắt giảm, đã góp phần ngăn cản các nước đi đến một hiệp định chung có tính pháp lý ràng buộc tại hội nghị về biến đổi khí hậu ở Copenhagen vừa qua.
3.Khoảng cách giàu nghèo ngày càng rộng:
Hệ số Gini (một thước đo về mức độ bất bình đẳng thu thập; hệ số này đi từ 0 đến 1, với con số càng cao thì mức độ bất bình đẳng càng cao) của Trung Quốc đã tăng liên tục trong nhiều năm qua, từ 0.257 trong năm 1990 lên đến 0.473 trong năm 2007. Giữa các thành phần trong xã hội, sự cách biệt nghiêm trọng nhất là giữa thành thị và nông thôn. Trung Quốc càng tăng trưởng thì khoảng cách về thu nhập giữa hai khu vực này càng rộng ra. Hiện nay, thu nhập bình quân đầu người ở khu vực thành thị cao hơn gấp ba lần khu vực nông thôn. Với hơn 700 triệu dân vẫn ở các vùng thôn quê, sự cách biệt này đã và đang tạo ra hàng loạt các vấn đề nhức nhối trong phạm vi toàn xã hội. Theo thông báo của Cơ quan thống kê Quốc gia Trung Quốc, thu nhập bình quân đầu người ở khu vực thành thị của nước này trong năm 2009 là 17.175 NDT (2.500 USD), trong khi ở nông thôn chỉ là 5.153 NDT. Tuy chiếm có 10% dân số Trung Quốc, song tầng lớp trung và thượng lưu hiện kiểm soát tới 45% thu nhập toàn quốc.
4. Sự lão hóa dân số
Trung Quốc đã áp dụng chính sách một con để giảm áp lực của gia tăng dân số nhưng hệ quả là dân số lao động mỗi năm giảm 10 triệu từ năm 2005, và dân số trẻ từ 20-24 tuổi sẽ giảm 25% trong thập niên tới.
Trong khi lực lượng lao động trẻ giảm xuống, số người cao niên tăng theo nhịp điệu lũy tiến: năm 2008, Trung Quốc có 169 triệu người trên 60 tuổi (13% dân số), dự kiến sẽ tăng lên 250 triệu trong 10 năm nữa và đến năm 2050, cứ 3 người dân thì có 1 người già. Vấn đề càng nghiêm trọng hơn là số người già sống đến 80 tuổi càng ngày càng đông, cứ 5 người già thì có 1 người già 80 tuổi vào năm 2050. Việc săn sóc và vấn đề an sinh người già là vấn đề trọng đại cho quốc gia và gia đình. Ngoài việc gồng gánh gia đình, người trẻ tuổi trong tuổi lao động hôm nay còn phải đóng góp quỹ hưu bỗng càng lúc càng nặng để nuôi người già càng lúc càng tăng. Năm 1980, 13 người làm việc để nuôi 1 người già, tỷ lệ này giảm xuống còn 3/1 năm 2030, và đến năm 2050, cứ 2 người làm việc để nuôi 1 người già. Đó là một viễn ảnh kinh tế đen tối mà chính phủ Trung Quốc phải đối diện.
Trung Quốc hiện nay có 41 000 nhà dưỡng lão, như vậy cứ 1000 người chỉ có thể đáp ứng được 11 chỗ nghĩ dưỡng trong khi đó tỷ lệ này ở các quốc gia phát triển là từ 50 đến 70 chỗ nghỉ.
V. Kinh nghiệm cho Việt Nam.
Theo nhiều cách khác nhau, Trung Quốc có vẻ như là một mô hình để Việt Nam học tập. Tương tự như Việt Nam, Trung Quốc là một nước chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường, chỉ khác là Trung Quốc chuyển đổi sớm hơn Việt Nam gần một thập kỷ. Thế nhưng liệu Trung Quốc có phải là một “tấm gương thần” mà mỗi khi muốn biết trước tương lai của mình Việt Nam có thể soi vào? Trên phương diện các vấn đề chuyển đổi như sự trở lại với sản xuất nông nghiệp hộ gia đình, những vấn đề liên quan tới cải cách DNNN, và những khó khăn trong quá trình xây dựng nền tài chính hiện đại và lành mạnh, có nhiều điều Việt Nam có thể học từ kinh nghiệm của Trung Quốc. Tuy nhiên, trong một số lĩnh vực khác, Trung Quốc tỏ ra rất đặc biệt và do vậy, kinh nghiệm của Trung Quốc trong những lĩnh vực này tỏ ra không thích hợp với Việt Nam.
Trung Quốc đạt hiệu quả thu hút vốn đầu tư nước ngoài qua chính sách “xây tổ ấm đón Phượng hoàng”. Để thu hút vốn đầu tư nước ngoài Việt Nam cần tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư đó là: Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi: về luật pháp, chính trị, chính sách đãi ngộ. Cải cách hành chính giảm bớt các thủ tục rườm rà, không cần thiết… tập trung hoàn thiện hệ thống luật pháp và cơ chế chính sách phù hợp với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế đã cam kết, góp phần tạo môi trường thuận lợi để thu hút nguồn lực của các thành phần kinh tế, cả trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển. Phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả các loại thị trường (bất động sản, vốn, dịch vụ, lao động và khoa học công nghệ). Theo dõi, giám sát việc thi hành pháp luật về đầu tư và doanh nghiệp để kịp thời phát hiện và xử lý các vướng mắc phát sinh.
Việt Nam cần học tập việc Trung Quốc đã tận dụng rất tốt việc gia nhập WTO, đặc biệt là những quy định về chống phá giá hàng hoá. Thứ nhất, họ sử dụng những quy định của WTO để bảo vệ các lợi ích kinh tế của mình. Có thể thấy hầu hết các điều tra về chống bán phá giá đều nhằm trực tiếp vào Trung Quốc, nhưng Trung Quốc cũng chủ động điều tra nhằm vào các nước khác. Đó là một bài học có thể rút ra từ Trung Quốc, và một bài học nữa là Trung Quốc sử dụng các quy định của WTO nhưng cũng thay đổi chúng để tăng lợi thế cho mình. Có một bài học rất thú vị, và cũng là bài học cho Việt Nam, đó là khi đàm phán, nếu các nước công nhận Trung Quốc là nền kinh tế thị trường, điều sẽ có lợi trong các vụ kiện chống bán phá giá, Trung Quốc sẽ nhường một số điều khoản liên quan đến lợi ích kinh tế. Rõ ràng là Trung Quốc không vi phạm các quy định của WTO, nhưng biến đổi chúng theo hướng có lợi cho mình. Đây là điều đáng để Việt Nam học tập vì trong các vụ kiện bán phá giá, việc chúng ta bị coi là nền kinh tế phi thị trường là một trở ngại lớn.
Việt Nam cần giảm số lượng và tăng chất lượng đội ngũ cán bộ công chức nhà nước. Đặc biệt trong chống tham nhũng, lãng phí – Hệ số ICOR của Việt Nam cao chủ yếu do tình trạng lãng phí, thất thoát và đục khoét vốn đầu tư còn rất lớn.
Áp dụng khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại vào các lĩnh vực đặc biệt là nông nghiệp (vì hiện nay nông nghiệp của nước ta còn lạc hậu chủ yếu là thủ công) để nâng cao năng suất cũng như chất lượng nông sản tăng cường xuất khẩu thu ngoại tệ.
Rút ra bài học về tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc, Việt Nam cần quan tâm tới sự tác động của tăng trưởng kinh tế đến xã hội: tăng trưởng đi đôi với cân đối vĩ mô, bảo vệ môi trường.
Xây dựng cơ sở hạ tầng cần thiết cho sự tăng trưởng kinh tế và xu hướng đô thị hoá đặc biêt là mạng lưới giao thông. Hiện nay đường xá Việt Nam còn chưa đồng bộ, nhiều tuyến đường chủ chốt đã xuống cấp nghiêm trọng.
Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế của các doanh nghiệp trong nước. Đôi khi việc bảo hộ các doanh nghiệp trong nước của Chính phủ lại làm lãng phí nguồn lực và làm tăng tính ỷ lại, thụ động của các doanh nghiệp trong nước.
Phát huy lợi thế so sánh của nước ta : xuất khẩu nông sản (gạo,cà phê …) và du lịch. Yêu cầu đặt ra là không chỉ xây dựng cơ sở hạ tầng, bảo vệ môi trường ở các khu du lịch mà còn phát triển các dịch vụ đi kèm vừa tăng doanh thu vừa thu hút khách du lịch.
Việt Nam nâng cao chất lượng giáo dục để tạo ra một đội ngũ lao động có tri thức, có sáng tạo… Đó là lực lượng vô cùng quan trọng để phát triển đất nước. Trung Quốc cũng đã rất thành công trong việc xây dựng một nhóm trường đại học và viện nghiên cứu tinh hoa. Ngày nay, những trường đại học tốt nhất của Trung Quốc đang thực hiện nhiều nghiên cứu có tính tiên phong và ngày càng xây dựng được những mối liên kết hiệu quả với khu vực công nghiệp.
KẾT LUẬN
Trong bối cảnh hiện nay, khi mà tài chính thế giới đang khủng hoảng, nhiều nước phải đối mặt với những thiên tai gây hậu quả nghiêm trọng như động đất, sóng thần, lũ lụt… hầu hết trên thế giới, tăng trưởng kinh tế chậm lại thậm chí có quốc gia rơi vào suy thoái. Sự kiện kinh tế Trung Quốc tăng trưởng nhanh và vươn lên là nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới là một điểm sáng trong bức tranh kinh tế toàn cầu. Nhưng bước sang năm 2011, kinh tế Trung Quốc đang chững lại và lạm phát thì leo thang. Liệu sự tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc có bền vững?
Do giới hạn về tài liệu tham khảo và vốn kiến thức nên chúng tôi chưa phản ánh được đầy đủ tất cả những thông tin về kinh tế Trung Quốc trong bài tiểu luận. Mong Cô và các bạn cho y kiến để bài tiểu luận được hoàn thiện hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Kinh tế phát triển – ĐH Kinh tế Quốc dân – TS. Phạm Ngọc Linh và TS. Nguyễn Thị Kim Dung.
Giáo trình Lịch sử các học thuyết kinh tế - ĐH Kinh tế Quốc dân – GS.TS. Trần Bình Trọng.
Trang web: www.vietbao.com- BộThông tin và Truyền thông
Trang web: www.vneconomy.vn- Thời báo Kinh tế Việt Nam
Trang web: www.vietnamnet.vn- Báo điện tử Viêt Nam
Trang web: www.tin180.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc.doc