KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THUẾ NHẬP KHẨU 1
1. Khái niệm, đặc trưng và vai trò của thuế nhập khẩu 1
2. Khái niệm về pháp luật thuế nhập khẩu 1
3. Nội dung pháp luật về thuế nhập khẩu 1
II. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ THUẾ NHẬP KHẨU 3
1. Những kết quả đạt được 4
2. Những khó khăn, tồn tại trong thực tiễn áp dụng pháp luật thuế nhập khẩu 4
III. HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT THUẾ NHẬP KHẨU 8
1. Đối với hệ thống pháp luật thuế nhập khẩu nói chung 8
2. Riêng đối với luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 2005 10
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 11
12 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3506 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Thực tiễn áp dụng thuế nhập khâu ở Việt Nam và phương hướng hoàn thiện, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THUẾ NHẬP KHẨU
1. Khái niệm, đặc trưng và vai trò của thuế nhập khẩu
a. Khái niệm thuế nhập khẩu
Xét về phương diện kinh tế, thuế NK được quan niệm là khoản đóng góp bằng tiền của tổ chức và cá nhân vào NSNN theo quy định của pháp luật, khi họ có hành vi NK hàng hoá qua biên giới một nước.
Xét về phương diện pháp lý, thuế NK có thể hình dung như là quan hệ pháp luật phát sinh giữa nhà nước (người thu thuế) với tổ chức, cá nhân (người nộp thuế), về việc tạo lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý cho các bên trong quá trình hành thu thuế NK.
b. Đặc trưng thuế nhập khẩu
Thuế NK có 3 đặc trưng sau đây:
- Thuế NK có đối tượng chịu thuế là các hàng hoá được phép vận chuyển qua biên giới.
- Thuế NK không hoàn toàn là thuế trực thu hoặc thuế gián thu.
- Thuế NK có chức năng đặc trưng là bảo hộ sản xuất trong nước và điều tiết hoạt động NK.
c. Vai trò thuế nhập khẩu
Thuế NK có 3 vai trò đó là:
- Tạo nguồn thu cho NSNN. Thuế NK không chỉ trực tiếp tạo ra nguồn thu cho ngân sách nhà nước mà còn có tác động tới số lượng và cơ cấu các nguồn thu từ các sắc thuế khác có liên quan. Trong mối quan hệ hữu cơ với các sắc thuế khác, thuế NK ảnh hưởng trực tiếp đến số thu ngân sách từ những hình thức thuế gắn với hoạt động kinh doanh, thương mại như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế thu nhập doanh nghiệp…
- Điều tiết hoạt động kinh tế. Thuế NK là công cụ điều tiết hoạt động sản xuất kinh doanh của nhà nước đối với nền kinh tế. Thông qua thuế NK nhà nước điều chỉnh quá trình phân bổ và phân bổ lại các nguồn lực của nền kinh tế. Với việc tác động trực tiếp đến giá cả của hàng hóa trong thương mại quốc tế, thuế NK điều chỉnh khả năng cạnh tranh của hàng hóa chịu thuế trên thị trường và như vậy tạo ra sự phân bổ lại nguồn lực trong các ngành sản xuất.
- Thuế NK là công cụ hỗ trợ và bảo vệ nền sản xuất trong nước. Thông qua thuế NK nhà nước gián tiếp tác động vào việc điều tiết sản xuất trong nước. Thuế NK đánh thuế ở mức khác nhau đối với từng loại hàng hóa nhập khẩu, từ đó điều chỉnh khả năng cạnh tranh của hàng hóa chịu thuế trên thị trường và từ đó tạo ra sự phân bổ lại nguồn lực cho các ngành sản xuất.
2. Khái niệm về pháp luật thuế nhập khẩu
Pháp luật về thuế NK là danh từ dùng để chỉ tập hợp các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình đăng ký kê khai, tính thuế, nộp thuế, quyết toán thuế, hoàn thuế, miễn giảm thuế và xử lý các vi phạm, tranh chấp về thuế NK phát sinh giữa nhà nước với người nộp thuế.
3. Nội dung pháp luật về thuế nhập khẩu
a. Chủ thể tham gia pháp luật thuế nhập khẩu
- Người nộp thuế
Theo quy định Điều 4 LTXKTNK 2005, người nộp thuế là tổ chức, cá nhân có hàng hoá NK chịu thuế NK theo quy định của thuế NK. Về nguyên tắc, một tổ chức hai cá nhân chỉ được xem là người nộp thuế NK khi chủ thể thoả mãn hai điều kiện:
+ Là người trực tiếp đứng tên là thủ tục NK hàng hoá với nước ngoài.
+ Hàng hoá do chủ thể đó NK với nước ngoài thuộc đối tượng NK theo quy định của pháp luật về thuế NK.
Trong thực tiễn pháp lý, người nộp thuế NK thường bao gồm:
+ Người nhận uỷ thác NK cho chủ thể khác.
+ Người trực tiếp đứng tên làm thủ tục NK hàng hoá cho chính mình (kể cả trường hợp tổ chức, cá nhân Việt Nam NK hàng hoá NK từ nước ngoài được bán ở Việt Nam với tư cách là bên đại lý tiêu thụ sản phẩm).
- Người thu thuế
Để thực hiện chức năng hành thu thuế NK một cách hiểu quả, nhà nước không chỉ trao quyền cho Tổng cục hải quan với tư cách là cơ quan chịu trách nhiệm chính, mà còn trao quyền rộng rãi cho một số cơ quan hữu quan khác cùng phối hợp với tổng cục hải quan trong việc hành thu thuế NK như Bộ tài chính, Kho bạc nhà nước, Tổng cục thuế, Uỷ ban nhân dân các chính quyền địa phương…
b. Căn cứ làm phát sinh quan hệ pháp luật về thuế nhập khẩu
- Các quy phạm quốc gia về thuế NK
Pháp luật quốc gia về thuế NK thường chiếm vị trí quan trọng nhất trong việc điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động hành thu thuế NK ở một nước. Ở Việt Nam hiện nay phần lớn các quy định về thuế XK, thuế NK được thể hiện tập trung trong luật thuế XK, thuế NK ban hành ngày 14 tháng 6 năm 2005.
- Các quy phạm pháp luật quốc tế về thuế NK
Thực tế cho rằng các quy phạm pháp luật quốc tế có liên quan đến thuế NK thể hiện trong các điều ước quốc tế như hiệp định GATP, hiệp định CEPT hay hiệp định Việt Nam - Hoa kì và các hiệp định thương mại khác.
- Các sự kiện pháp lý:
+ Một là, chủ thể thực hiện hành vi chính là người nộp thuế hoặc cơ quan thu thuế.
+ Hai là, hành vi pháp lý làm pháp sinh quan hệ pháp luật về thuế NK đều được dự liệu rõ trong các văn bản pháp luật về thuế NK và phải được chứng minh bằng các chứng cứ cụ thể.
c. Căn cứ tính thuế nhập khẩu
- Trị giá hải quan (trị giá tính thuế): Nguyên tắc cơ bản nhất cần tuân thủ khi xác định trị giá hải quan để tính thuế NK là cần phải tôn trọng giá trị thực tế của hàng hoá vốn dĩ được xác định theo giá cả thị trường tại thời điểm phát sinh giao dịch, theo các điều kiện bình thường trong giao dịch thương mại quốc tế. Thông thường trị giá hải quan (hay trị giá tính thuế) được xác định bằng cách lấy giá tính thuế của đơn vị hàng hoá NK nhân với số lượng hàng hoá NK được ghi trong tờ khai hải quan.
- Thuế suất: Thuế NK chỉ cần căn cứ vào biểu thuế suất. Tuy nhiên để đảm bảo khả năng điều tiết của các hoạt động kinh tế trong nước một cách hiểu quả, các mức thuế suất cụ thể trong biểu thuế NK sẽ do chính phủ quy định phù hợp với khung thuế suất do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định. Biểu thuế suất này có thể được thay đổi và điều chỉnh theo đề nghị của Bộ tài chính và Bộ thương mại cho phù hợp với yêu cầu điều tiết hoạt động kinh tế.
d. Trình tự, thủ tục hành thu thuế nhập khẩu
Theo quy định hiện hành của pháp luật thuế Việt Nam, trình tự thủ tục hành thu thuế NK bao gồm các bước sau:
- Thứ nhất, kê khai thuế và tính thuế NK. Theo luật định mỗi lần có hàng hoá NK, tổ chức và cá nhân đứng tên làm thủ tục NK hàng hoá phải tiến hành kê khai số lượng, giá tính thuế đối với từng mặt hàng NK và tự tính số thuế NK cần phải nộp. Theo quy định pháp luật hiện hành, việc kê khai và tính thuế NK phải được tiến hành ngay tại thời điểm và nơi đăng kí tờ khai hàng hoá NK. Sau đó tờ khai hàng hoá NK phải được nộp cho cơ quan hải quan nơi làm thủ tục NK để cơ quan này tiến hành kiểm hoá và xác định mức thuế phải nộp cho người nộp thuế.
- Thứ hai, nộp thuế và đảm bảo nghĩa vụ nộp thuế NK. Nghĩa vụ nộp thuế NK chỉ phát sinh từ thời điểm người nộp thuế đăng kí tờ khai hải quan, trong đó xác định rõ về số thuế họ phải nộp. Đây cũng là điểm khởi đầu để xác định thời hạn nộp thuế theo luật định và trên cơ đó có thể xác định người nộp thuế có hành vi chậm nộp tiền thuế hay không để ra quyết định xử phạt hành chính đối với họ. Điều này có nghĩa là người nộp thuế phải thực hiện nghĩa vụ của mình trong thời hạn nộp thuế theo luật định, nếu quá thời hạn đó mà nghĩa vụ nộp thuế mới được thực hiện hoặc không thực hiện thì họ bị coi là vi phạm nghĩa vụ nộp thuế và sẽ bị chế tài.
đ. Chế độ miễn giảm hoàn thuế và truy không thuế nhập khẩu
- Miễn, giảm thuế NK
Vẫn đề miễn thuế NK đặt ra để giúp nhà nước thực hiện chính sách về kinh tế, văn hoá xã hội, chính trị, ngoại giao hay an ninh quốc phòng.
Ở Việt Nam các trường hợp được xét miễn giảm thuế NK được quy định tại Điều 16, 17 và 18 LTXKTNK 2005.
- Hoàn thuế và truy thu thuế NK
Hoàn thuế NK là việc cơ quan thu thuế ra quyết định trả lại cho đương sự số tiền thuế mà họ đã nộp thừa mà cơ quan thuế đã thu mà không có cơ sở pháp lý.
Ở Việt Nam tại Điều 19 LTXKTNK 2005 quy định rõ các trường hợp người nộp thuế NK có thể được xếp hoàn lại số tiền thuế đã nộp.
Về nguyên tắc, để được xét hoàn thuế NK người nộp thuế phải lập hồ sơ xin hoàn thuế gửi cho cơ quan thu thuế. Trong hồ sơ đó người nộp thuế phải xuất trình các bằng chứng chứng minh số thuế mình đã nộp thừa thuộc một trong những trường hợp được hoàn thuế sau đây. Căn cứ vào các bằng chứng nêu trong hồ sơ xin hoàn thuế và trên cơ sở đối chiếu hồ sơ đó với các trường hợp được hoàn thuế theo quy định của pháp luật, cơ quan thu thuế có thể chấp nhận hoặc từ chối hoàn thuế cho đương sự trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ.
THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ THUẾ NHẬP KHẨU
1. Những kết quả đạt được
Pháp luật về thuế NK đang ngày càng hoàn thiện phần nào đã đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển kinh tế cũng như đảm bảo được việc thực hiện chức năng quản lý hoạt động xuất NK cũng như chức năng quản lý nền kinh tế của nhà nước trong bối cảnh hội nhập nhiều cơ hội nhưng cũng đầy khó khăn và thách thức. Sau khi LTXKTNK 2005 ra đời, đặc biệt là kể từ khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO, pháp luật về thuế NK đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận.
Về mặt kinh tế - chính trị - xã hội: pháp luật về thuế NK đã tạo nên một hành lang pháp lý vững chắc cho việc thực hiện các chính sách về thuế quan góp phần thúc đẩy hoạt động NK hàng hóa. Khi chính sách về thuế NK ngày càng được nới rộng, mức độ mở cửa thị trường ngày càng đòi hỏi các nhà sản xuất trong nước phải cải tiến kỹ thuật nâng cao năng suất lao động, chất lượng để tăng cường khả năng cạnh tranh với hàng hóa NK. Khi đó người tiêu dùng có thêm cơ hội để được sử dụng những mặt hàng có chất lượng tốt hơn và giá thành lại rẻ hơn, góp phần thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng trong nước. Và như vậy, có thể nói pháp luật về thuế NK đã gián tiếp tác động tới sự phát triển của nền kinh tế trong nước.
Pháp luật về căn cứ tính thuế hiện nay đã phản ánh được chủ trương mở rộng hợp tác kinh tế, mở rộng quan hệ ngoại gia “cùng hợp tác, cùng có lợi, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền quốc gia”.
Những kết quả đạt được trong nhiệm vụ thu ngân sách nhà nước: pháp luật về thuế NK cùng với hệ thống pháp luật về thuế đã tạo một hành lang pháp lý vững chắc đảm bảo cho việc thực hiện mục tiêu thu NSNN. Trong những năm gần đây ngành Hải quan luôn nỗ lực hết mình để hoàn thành những chỉ tiêu về thu ngân sách được Đảng và nhà nước giao phó. Trong nguồn thu hàng năm của ngành Hải quan thì thu từ thuế NK luôn chiếm một tỷ trọng cao. Theo báo cáo của Tổng cục hải quan tính đến hết tháng 7/2007 ngành hải quan đã thu được 44.898 tỷ đồng đạt 64,23% kế hoạch được giao và tăng 34,5% so với cùng kỳ năm 2006. Thực hiện luật quản lý thuế có hiệu lực ngày 01/07/2007 ngành Hải quan đã tích cực thực hiện các biện pháp và hành động hoàn thành chỉ tiêu thu nộp NSNN theo đúng kế hoạch. Tính đế 31/11/2008 toàn ngành hải quan đã thu được 117.394 tỷ đồng, đạt 138,87% kế hoạch (117.394tỷ/84.500 tỷ) và bằng 130,39% chỉ tiêu phấn đấu (117.394 tỷ/89.000 tỷ).
Cùng với những kết quả thu thếu đảm bảo hoàn thành chỉ tiêu, ngành hải quan đã có các biện pháp thực hiện ổn định thị trường như: triển khai thực hiện mục tiêu ổn định thị trường, kiềm chế lạm phát năm những năm gần đây đặc biệt là năm 2008 khi khủng hoảng kinh tế toàn cầu theo đúng tiến độ và phân công nhiệm vụ cụ thể tới từng đơn vị; chỉ đạo trong toàn ngành về tăng cường các biện pháp chống buôn lậu, gian lận thương mại và thất thu thuế tại các cục hải quan địa phương trọng điểm.
2. Những khó khăn, tồn tại trong thực tiễn áp dụng pháp luật thuế nhập khẩu
Kể từ tháng 11/2006, Việt Nam đã chính thức gia nhập WTO. Sự kiện này chắc chắn có những ảnh hưởng đối với công tác thu NSNN của ngành hải quan vì Việt Nam phải thực hiện nhiều cam kết gia nhập WTO trong đó có liên quan đến lĩnh vực thuế NK. Đây là những khó khăn đối với công tác thu NS của ngành hải quan với thực tế là thuế NK hàng hóa liên tục giảm mạnh theo cam kết hội nhập quốc tế.
a. Thực tiễn áp dụng pháp luật về căn cứ tính thuế
Thứ nhất, thực tiễn áp dụng pháp luật về giá tính thuế NK. Kể từ khi hiệp định GATT được thực hiện ở Việt Nam, mức độ gian lận qua giá tính thuế đang một gia tăng và tập trung chủ yếu vào hình thức giảm giá theo số lượng hàng hóa. Theo quy định, giá thực thanh toán là giá thực tế phải thanh toán hay sẽ phải thanh toán, được xác định theo các phương pháp xác định trị giá, chủ yếu dừng ở giá giao dịch. Giá thanh toán sẽ là giá hóa đơn cộng với khoản được cộng và trừ với khoản được trừ. Đây chính là điểm để các doanh nghiệp lợi dụng tối đa khoản được trừ để khai báo hải quan. Không ít doanh nghiệp lợi dụng quy định “việc giảm giá được lập thành văn bản trước khi xếp hàng lên phương tiện vận chuyển và có số liệu, chứng từ hợp lệ” (Hiệp định trị giá GATT). Theo thống kê của ngành hải quan thì số vụ trốn thuế NK của ngành hải quan thì số vụ gian lận giá tính thuế chiếp tỷ lệ cao nhất và trập trung chủ yếu vào các hình thức:
- Khai thấp dần trị giá khai báo so với các lô hàng cùng loại, tương tự NK trước đó;
- Dựa trên danh mục dự liệu giá của cơ quan hải quan để khai báo trị giá các lô hàng giống hệt, tượng tựu với giá thấp hơn giá giao dịch;
- Dựa vào xác nhận giá của sứ quán, tham tán thương mại, phòng thương mại tại nước XK để khai trị giá thấp hơn giá giao dịch thực tế;
- Khai thấp giá trị đối với hàng hóa thử, sau đó nhập ồ ạt theo trị giá thất đã khai trước đó;
- Khai thấp trị giá đối với những mặt hàng nhạy cảm có thuế suất cao, NK số lượng lớn rồi bỏ trốn hoặc giải thể;
- Lợi dụng quy định hàng khuyến mại để gian lận;
- Lợi dụng quy định về chiết khấu, giảm giá.
Với những thủ đoạn như trên, đòi hỏi cán bộ hải quan phải thu thập các nguồn thông tin và bằng các kĩ năng nghiệp vụ giỏi mới có cơ sở bác bỏ trị giá khai báo của doanh nghiệp nhập khẩu. Tuy nhiên cũng có nhiều trường hợp công tác xác định trị giá tình thuế gặp nhiều khó khăn khi tham vấn giá với các doanh nghiệp. Cụ thể là:
Bán hàng độc quyền, trị giá tính thuế khai báo cực thấp và riêng với mặt hàng ấy chỉ có duy nhất một công ty nhập và phân phối trên thị trường. Nếu xây dựng cơ sở dữ liệu giá sẽ gặp khó khăn và không thể cập nhật chính xác giá NK vì nhà sản xuất không bao giờ cung cấp mà chỉ định đến liên hệ với đại lý của chính hãng – chính là doanh nghiệp NK. Những trường hợp này thường xảy ra với những ngành hàng rượu và mỹ phẩm.
Trị giá thanh toán hay sẽ phải thanh toán của nhà NK cho nhà XK sẽ được khai thấp hơn so với trị giá giao dịch thực tế nhờ sự thông đồng của cả hai bên như đã phân tích ở trên.
Việc xác định mối quan hệ đặc biệt trong giao dịch có ảnh hưởng đến trị giá giao dịch đối với những người trong gia đình hay theo mô hình công ty mẹ con. Đối với những tình huống này đòi hỏi cán bộ hải quan phải có nguồn thông tin có sẵn, phải có nghiệp vụ kiểm toán và được quyền đọc sổ sách tài chính của công ty, nếu không rất khó bác bỏ trị giá mà doanh nghiệp khai báo.
Việc XK sản phẩm đến nước của nhà NK nhưng không phải đóng thuế NK tại nước đó cùng là một trường hợp khó xác định. Sản phẩm khi được bán thông qua đó đánh giá được nhu cầu thị trường mở rộng nguồn tiêu thụ hoặc trưng bày quảng cáo thương hiệu sản phẩm mới, được thông qua hàng F.O.C như trên hoặc tính gộp vào giá hàng nhập, đôi bên đều có lợi: nhà NK được lợi từ trị giá hàng hóa sau khi bán, nhà XK không cần tốn chi phí quảng cáo thăm dò thị trường.
Ngoài ra công tác xác định giá gặp nhiều khó khăn do hệ thống GTT22 chưa thể xem là hoàn hảo vì chưa có hình ảnh dữ liệu về mốn hàng. Định giá qua mô tả thì không tể chính xác, chỉ khi có hình ảnh chi tiết như các trang Web bán hàng qua mạng thị việc xác định giá sẽ đảm bảo độ chính xác cao, không như hiện nay phải yêu cầu doanh nghiệp mang mẫu đến.
Thứ hai, thực tiễn áp dụng pháp luật về thuế suất thuế NK. Thuế suất thuế NK là căn cứ quan trọng nhất để xác định số thuế NK mà nhà NK phải nộp cho nhà nước. Trong quá trình hội nhập kinh tế chúng ta đã cam kết cắt giảm hàng rào thuế quan theo lộ trình nhất định. Việc quy định thuế suất là rõ ràng trong các văn bản pháp luật và cam kết quốc tế, song việc áp dụng thuế suất trên thực tế lại vô cùng phức tạp. Các nhà NK có vô vàn cách biến hóa nhằm trốn thuế, hoặc hưởng thuế suất thấp hơn để thoát khỏi hoặc giảm bớt một phần nghĩa vụ thuế với nhà nước.
Một trong số những “ảo thuật” mà nhà NK sử dụng được coi là ngày càng tinh vi là việc gian lận giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (C/O). Thủ đoạn khai sai nguồn gốc xuất xứ hàng hóa nhằm hưởng lợi từ việc ưu đãi về thuế đối với các nước mà Việt Nam có cam kết giảm thuế. Theo quy định, thuế suất thuế ưu đãi đặc biệt được áp dụng cho hàng hóa NK có xuất xứ từ nước trong khối ASEAN, nhằm tạo thuận lợi cho giao lưu thương mại biên giới. Hàng hóa để được áp dụng thuế suất ưu đãi đặc biệt phải đáp ứng điều kiện sau: hàng hóa NK phải có C/O từ nước hoặc khối nước có thỏa thuận ưu đãi đặc biệt về thuế NK đối với Việt Nam; C/O phải phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành; hàng hóa NK là những mặt hàng được quy định cụ thể trong danh mục hàng hóa được hưởng thuế suất ưu đãi đặc biệt cho từng nước hoặc khối nước do Chính phủ hoặc cơ quan được Chính phủ ủy quyền công bố. Lợi dũng chính sách này, thời gian qua đã có không ít doanh nghiệp đã làm C/O để được hưởng mức thuế ưu đãi đặc biệt đối với hàng hóa NK.
Thủ đoạn gian lận khác mà nhà NK sử dụng là khai báo gian dối về tên hàng hóa NK để được áp mã và hưởng thuế suất thấp hơn.
b. Thực tiễn áp dụng pháp luật về quy trình hành thu thuế nhập khẩu
Thứ nhất, thực tiễn áp dụng pháp luật về kê khai thuế NK. Theo quy định hiện hành của pháp luật thuế NK, việc kế khai thuế NK là do chủ thể tiến hành NK tự thực hiện, điều này đòi hỏi nhà NK phải thực hiện tự giác, trung thực, nghiêm chỉnh.
Nội dung kê khai thuế trong các tờ khai hải quan bao gồm kê khai về mặt hàng NK, số lượng hàng nhập và trị giá hải quan. Cả ba nội dung này, trên thực tế đều không được kê khai một cách trung thực và khó thể dựa trên ý thức tự giác của nhà NK. Về vấn đề hàng hóa, rất khó có thể phân biệt và mã hóa loại hàng hóa NK một cách chính xác, bởi lẽ hàng hóa NK là vô cùng đã dạng về chủng loại. Về số lượng, nếu cán bộ hải quan không ra bãi kiểm tra một cách trực tiếp thì không thể hoàn toàn tin tưởng vào số lượng mà nhà NK khai báo. Phần lớn các lô hàng NK đều có số lượng thừa rất nhiều so với số lượng khai báo, đặt biệt là đối với nguyên liệu dệt may, rất khó có thể kiểm tra được chính xác số lượng mà doanh nghiệp khai báo và kèm theo trong lô hàng có hàng lậu hay không. Hiện nay, công tác kiểm tra của hải quan chủ yếu được tiến hành thủ công. Bên cạnh đó là năng lực cán bộ hải quan còn nhiều yếu kém nên thực tế công việc không thể kiểm soát hết được hàng hóa và hàng lậu thì vẫn theo những lô hàng hợp pháp tràn vào Việt Nam một cách tự do. Về trị giá hải quan nhà NK có vô vàn màn ảo thuật về giá và giá mà nhà NK đưa ra bao giờ cũng là giá thấp nhất so với thực tế. Công tác xác định giá trị hải quan hàng NK hiện nay còn có rất nhiều khó khăn và chưa thể giải quyết dứt điểm tình trạng này.
Thứ hai, thực tiễn áp dụng pháp luật về nộp thuế NK. Mặc dù Điều 15 LTXNTNK 2005 quy định khá rõ về thời hạn nộp thuế, nhưng trong thực tế đã xảy ra rất nhiều trường hợp lợi dụng chính sách ân hạn thuế để gây thất thu thuế cho nhà nước. Theo tổng kết năm năm đấu tranh chống buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại của bộ Công an, thủ đoạn lợi dụng chính sách ân hạn thuế 30 ngày như trên tính đến nay đã có hơn 7000 doanh nghiệp trên toàn quốc có nợ 2900 tỷ đồng, trong đó có 1000 doanh nghiệp ảo và khoảng 700 tỷ đồng tiền thuế đã mất hẳn. Các con số trên cho thấy lợi dụng kẽ hở của pháp luật, thiệt hại mà bọn buôn lậu trốn thuế gây ra cho nhà nước là rất lớn.
Thứ ba, thực tiễn áp dụng pháp luật về miễn, giảm thuế NK. Một trong những nội dung quan trọng của quá trình hành thu thuế NK là vấn đề xác định hàng hóa NK nào nằm trong diện được miễn thuế NK. Lợi dụng những ưu đãi của pháp luật, nhiều người đã nhập hàng hóa dưới chiêu bài hàng miễn thuế. Cụ thể là :
Theo quy định tại khoản 5 Điều 16 LTXKTNK 2005 hàng hóa nhập khẩu trong tiêu chuẩn hành lý miễn thuế của người nhập cảnh được miễn thuế.
Theo quy định tại khoản 4 Điều 16 LTXKTNK2005 thì hàng hóa NK theo một hợp đồng gia công cho bên nước ngoài rồi XK cũng nằm trong diện được miễn huế.
Lợi dụng chính sách tạm nhập tái xuất, đối tượng buôn lậu chuyển hàng bằng tàu biển đến khu vực giáp ranh biên giới Việt - Trung, mở kẹp chì chuyển thuốc lá lậu sang ca nô siêu tốc tự tạo với công suất 1800 mã lực chạy sát bờ biển Việt Nam rồi chuyển hàng sang ca nô nhỏ hoặc thuyền đánh cá và đưa sâu vào nội địa.
Từ những phân tích ở trên nhóm em xin đưa ra một số nguyên nhân nhân chính dẫn đến những tồn tại trong thực tiễn áp dụng pháp luật thuế NK:
Nguyên nhân khách quan:
Thứ nhất, pháp luật về thuế NK còn nhiều bất cập và thiếu sót. Trong khi kinh tế - xã hội luôn biến động, khoa học - kỹ thuật ngày càng phát triển, làm xuất hiện nhiều hình thức gian lận mới, tinh vi hơn, hiệnđại hơn. Do vậy các nhà làm luật không thể dự tính hết được sự đa dạng trong sự phát triển của các mối quan hệ xã hội. Không những thế những chế tài xử phạt gian lận thuế chưa thực sự nghiêm khắc chưa đạt được mục đích răn đe.
Thứ hai, tiến trình hội nhập về kinh tế, với việc thực thi những cam kết quốc tế về thuế NK cũng có tác động không nhỏ tớ sự gia tăng tình hình gian lận thuế.
Nguyên nhân chủ quan:
Thứ nhất, ý thức chấp hành pháp luật của các chủ thể khi tham gia vào quan hệ XK, NK hàng hóa chưa cao trong khi công tác tuyên truyền pháp luật còn nhiều hạn chế.
Thứ hai, việc triển khai các biện pháp phòng chống gian lận thuế, đặc biệt là đấu tranh với loại tội phạm kinh tế có yếu tố nước ngoài còn phải đối mặt với rất nhiều khó khăn vướng mắc cần tháo gỡ. Một trong số đó là sự phối hợp và phân công nhiệm vụ của một số ngành chưa hợp lý.
Thứ ba, hiện nay một số cán bộ thuế chưa làm tròn trách nhiệm thậm chí thoái hóa, biến chất, vì lợi ích riêng để lợi dụng, tiếp tay cho những hành vi vi phạm pháp luật.
HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT THUẾ NHẬP KHẨU
1. Đối với hệ thống pháp luật thuế nhập khẩu nói chung
Để có thể đáp ứng được yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế và nhằm khắc phục những hạn chế trong quá trình áp dụng các quy định về thuế NKvào thực tiễn, cần có hướng hoàn thiện pháp luật thuế NK. Pháp luật cần bổ sung thêm một số quy định chi tiết và cụ thể hơn nữa nhằm tạo một phần hành lang pháp lý đầy đủ và thống nhất cho hoạt động NK, đây là giải pháp đòi hỏi có tính đồng bộ nhằm tránh việc mâu thuẫn chồng chéo giữa các quy định của luật và văn bản dưới luật. Trên cơ sở các cam kết của quá trình hội nhập, chúng ta phải nội luật hóa, từ đó xây dựng một hệ thống pháp luật tương thích với những nguyên tắc chung trong thương mại quốc tế, hướng đến một hệ thống pháp luật minh bạch, phù hợp và có tính khả thi. Cụ thể:
Thứ nhất, Pháp luật cần bổ sung, điều chỉnh một số quy định cho phù hợp với thực tiễn: Trong xu hướng hội nhập kinh tế như hiện nay, Việt Nam ký kết và tham gia nhiều điều ước song phương và đa phương như hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa kỳ, là thành viên của WTO…Sự tham gia vào những hiệp định này đánh dấu một bước mới trong sự hội nhập phát triển kinh tế của nước ta. Vì vậy, để tạo điều kiện cho việc áp dụng và phù hợp với nhưng cam kết quốc tế của Việt Nam ký kết trước hết pháp luật cần hoàn thiện các quy định của luật TNK hiện hành, trên tinh thần đó phải có những quy định mang tính tương thích với những nguyên tắc chung trong thương mại quốc tế, phù hợp với pháp luật quốc tế về thuế nhập khẩu.
Thứ hai, Hoàn thiện các quy định về TNK để tự vệ, chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, thuế chống đối xử để đảm bảo lợi ích của Việt Nam trên trường quốc tế. Cần ban hành các luật chống phân biệt đối xử và luật tự vệ trong thương mại để tạo hành lang pháp lý cho các bên tham gia. Hiện nay có một số quy định của luật TNK còn khó hiểu, gây khó khăn cho việc tìm hiểu và áp dụng. Vì vậy yêu cầu đặt ra phải có sự điều chỉnh theo hướng ngôn ngữ dễ hiểu, dễ áp dụng. Ví dụ: Điều 2 luật TNK có quy định về đối tượng chịu thế và Điều 3 luật TNK quy định những đối tượng chịu thuế đã hướng dẫn những hàng hóa nào khi có sự vận chuyển thì phải chịu TNK, trường hợp nào thì không phải chịu thuế. Có thể thấy cách sử dụng cụm từ này mang ý nghĩa trừu tượng, khó hiểu; nên chăng có sự thay đổi ngôn từ thành hàng hóa chịu TNK thì sẽ dễ hiểu trong quá trình áp dụng hơn. Hơn nữa pháp luật cũng quy định không áp dụng thuế nhập khẩu đối với các dịch vụ, vì thế thay đổi ngôn từ như trên sẽ dễ áp dụng hơn.
Thứ ba, Cần quy định thống nhất giữa các văn bản pháp luật về TNK với các văn bản pháp luật hiện hành: Hiện nay giữa luật TNK và các văn bản pháp luật khác có nhiều điểm chưa thống nhất với nhau. Vì vậy yêu cầu cần thiết phải có sự điều chỉnh cho phù hợp để thống nhất cho việc áp dụng. Bên cạnh việc hoàn thiện các quy định hiện hành của pháp luật về TNK thì cần có các quy định cụ thể hướng dẫn chi tiết các quy định của luật TNK. Hiện nay mặc dù đã có Nghị định 87/2010 quy định chi tiết thi hành một số điều của luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nhưng các quy định này vẫn chưa thật sự cụ thể trong việc hướng dẫn áp dụng các quy định của pháp luật hiện hành.
Thứ tư, pháp luật thuế NKphải xây dựng một hàng rào bảo hộ thuế quan hợp lý. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, điển hình là việc chúng ra gia nhập WTO đòi hỏi chúng ta cắt giảm hàng rào thuế quan, do đó cần thiết phải xây dựng và hoàn thiện nhanh chóng các loại thuế NK bổ sung như thuế NK để tự vệ, chống bán phá giá, chống trợ cấp, chống phân biệt đối xử trong NK hàng hóa. Trong LTXKTNK 2005 thì những quy định về các loại thuế này chỉ mang tính hình thức, quy định cho có chứ chưa làm rõ và phát huy được vai trò của các loại thuế này. Trong hoàn cảnh hội nhập hiện nay, khi vai trò của thuế NK buộc phải giảm dần theo các cam kết quốc tế thì việc nâng cao vai trò của các loại thuế NK bổ sung là vô cùng cần thiết.
Thứ năm, đối với những cải cách trong thủ tục hải quan. Hiện nay ngành hải quan đang nỗ lực trong việc cải cách, đơn giản hóa thủ tục hải quan, đây là dấu hiệu đáng mừng cho hoạt động NK được thực hiện một cách nhanh gọn và hiệu quả. Song một số quy định của luật tuy rất tiến bộ nhưng lại chưa phù hợp với thực tế. Theo những quy định của pháp luật thuế và hải quan, kể từ 2006 chính thức thực hiện quy định thủ tục hải quan thực hiện kỹ thuật quản lý rủi ro. Quản lý rủi ro được hiểu là dựa vào phân tích thông tin để tiến hành các thủ tục hải quan đối với hàng NK từ khâu tiếp nhận hồ sơ, kiểm tra sơ bộ, đăng ký tờ khai, thông quan và kiểm tra sau thông quan đối với hàng hóa NK. Thông tin này bao gồm thông tin về lịch sử doanh nghiệp, thông tin đối tác nước ngoài và thông tin giá cả thị trường của hàng hóa. Loại thông tin thứ nhất thì sẵn có nhưng loại thông tin thứ hai thì không dồi dào do công tác hợp tác quốc tế chưa thật hiệu quả. Loại thứ 3 lại phụ thuộc khá nhiều vào hệ thống cơ sở dữ liệu giá (GTT22) mà hệ thống này lại chưa được hoàn chỉnh. Cơ sở dữ liệu giá này đóng vai trò vô cùng quan trọng trong công việc xác định tên, chủng loại, mã và trị giá hàng hóa NK. Tuy nhiên, GTT22 hiện còn rất lạc hậu (thông tin chưa được cập nhật đầy đủ, không được trang bị bằng hình ảnh..). Do vậy, cần thiết phải cập nhật thông tin và hình ảnh một cách kịp thời và chi tiết, bám sát với sự phát triển của thị trường, có thế nới giúp cơ quan hải quan kiểm soát hàng hóa NK dễ dàng hơn.
Thứ sáu, về mặt cán bộ quản lý, thực tế NK hàng hóa cho thấy hải quan Việt Nam còn thiếu và còn yếu. Lực lượng hải quan còn mỏng và chất lượng cán bộ còn chưa đồng đều. Nhiều vụ gian lận thuế, trốn thuế có sự cấu kết, thông đồng với cán bộ hải quan. Vì vậy, muốn giảm bớt buôn lậu, trốn thuế cần nâng cao trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ.
2. Riêng đối với luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 2005
Về cách gọi “đối tượng nộp thuế” nhà NK là những chủ thể hợp tác đối với nhà nước trong quá trình xây dựng đất nước và phát triển kinh tế. Họ có nghĩa vụ trong việc đóng thuế - góp phần hình thành NSNN, vì vậy những người thực hiện nghĩa vụ nộp thuế NK, cần sửa đổi cụm từ “đối tượng nộp thuế” thành “chủ thể nộp thuế”.
Về các quy định thuế suất NK, theo quy định của luật thì “thuế suất thông thường được quy định không quá 70% so với thuế suất ưu đãi của từng mặt hàng tương ứng do Chính phủ quy định”. Quy định này dễ gây hiểu sang hướng thuế suất thông thường thấp hơn thuế suất ưu đãi, tức thuế thông thường tối đa bằng 70% thuế suất ưu đãi chứ không phải là 170% theo cách hiểu của nhà làm luật. Vì thế nên đổi lại cách diễn đạt cho phù hợp và dễ hiểu.
Về thời hạn nộp thuế, hiện nay luật đưa ra tiêu chí để xác định thời hạn nộp thuế là thời hạn xác định mặt hàng NK và thời hạn xác định theo sự chấp hành pháp luật thuế của chể thể nộp thuế. Vì thế, chỉ nên lấy một tiêu chí là mức độ chấp hành pháp luật của chủ thể nộp thuế quy định. Như thế sẽ vừa phù hợp với quy định của Luật hải quan đã sửa đổi, bổ sung 2005, vừa khuyến khích sự chủ động tự giác tuân thủ pháp luật của chủ thể nộp thuế. Nếu dựa trên mặt hàng nộp thuế để xác định thời hạn nộp thuế, vô hình chung đã đánh đồng người NK chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật và những người không chấp hành nghiêm chỉnh với nhau, đồng thời tạo những kẽ hở cho những doanh nghiệp “ma” lợi dụng chính sách ân hạn thuế của nhà nước để trục lợi trốn thuế.
Về thuế suất, hiện nay thuế suất thông thường được bộ tài chính quy định áp dụng thống nhất ở mức bằng 150% thuế suất ưu đãi. Quy định này mang nặng tính duy ý chí, và vô tình lấn át cả quy định của luật (luật cho phép dao động ở mức 100% đến 170%). Vì thế, cần phải có những quy định cụ thể, trường hợp nào áp dụng thuế suất thông thường là bao nhiêu nhằm khắc phục sự cứng nhắc trong áp dụng thuế suất, đồng thời đảm bảo khung thuế không áp dụng tùy tiện, chủ quan cho từng trường hợp riêng lẻ nào.
Đối với vấn đề truy thu thuế, quy định của pháp luật còn tạo kẽ hở để chủ thể nộp thuế trốn tránh hoặc gian lân thuế. Cụ thể pháp luật mở ra quy định không tiến hành truy thu đối với hàng hóa thuộc diện miễn, xét miễn thuế (khoản 1 điều 21 Nghị định 149/2005/NĐ-CP). Với quy định này, nếu nhà NK cấu kết tổ chức, cá nhân thuộc diện miễn, xét thuế hoặc với cán bộ hải quan làm giả hồ sơ thì Nhà nước sẽ mất đi một khoản thuế quan trọng. Vì vậy, pháp luật cần quy định cơ chế giám sát chuyển nhượng này.
Tóm lại, thuế xuất nhập khẩu là một trong các sắc thuế đã tạo nguồn thu không nhỏ cho ngân sách nhà nước, tác động tích cực tới nền kinh tế. Qua việc tìm hiểu về thực tiễn áp dụng pháp luật thuế nhập khẩu đã thấy được những mặt tích cực của pháp luật thuế nhập khẩu. Nhưng bên cạnh đó vẫn còn những hạn chế mà pháp luật thuế nhập khẩu còn vướng mắc. Việc đưa ra những giải pháp để khắc phục những hạn chế này la vô cùng cần thiết.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật thuế Việt Nam, Nxb. Công An, Hà Nội, 2008
Đại học Quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật tài chính, Hà Nội, 2007
Luật Quản lý thuế năm 2006
Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005 và các văn bản hướng dẫn liên quan
Kiều Dương , Pháp luật Việt Nam về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế : Luận văn thạc sĩ luật học /; Người hướng dẫn khoa học: Ts. Võ Đình Toàn, 2005
Phạm Văn Tưng, Quá trình hình thành, phát triển của Luật Thuế xuất khẩu - thuế nhập khẩu và phương hướng hoàn thiện : Khoá luận tốt nghiệp, 1997
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thực tiễn áp dụng Thuế nhập khâu ở Việt Nam và phương hướng hoàn thiện.doc