Đề tài Thực trạng hoạt động tiêu thụ sản phẩm thuỷ sản nước ta sau khi hội nhập WTO

MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU 1 CHƯƠNG I: NHỮNG LÍ LUẬN CƠ BẢN VỀ TIÊU THỤ 2 SẢN PHẨM NGÀNH THUỶ SẢN 2 I. Vai trò và đặc điểm của tiêu thụ sản phẩm ngành thuỷ sản 2 1. Vai trò của tiêu thụ sản phẩm 2 2. Đặc điểm TTSP thủy sản 3 II. Nội dung hoạt động tiêu thụ sản phẩm của cơ sở sản xuất kinh doanh thuỷ sản 4 1. Nội dung hoạt động TTSP của cơ sở sản xuất kinh doanh thuỷ sản 4 2. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hoạt động tiêu thụ sản phẩm. 9 III. Những nhân tố ảnh hưởng đến tổ chức tiêu thụ sản phẩm của cơ sở sản xuất kinh doanh thủy sản. 10 2. Nhóm nhân tố về cơ sở vật chất – Kỹ thuật và công nghệ của sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. 11 3. Nhóm nhân tố về chính sách vĩ mô 12 CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TTSP THUỶ SẢN NƯỚC TA SAU KHI GIA NHẬP WTO 14 I. Đăc điểm kinh tế - kĩ thuật và quá trình phát triển của ngành Thuỷ sản. 14 1. Vị trí, vai trò của ngành Thuỷ sản đối với nền kinh tề Việt Nam. 14 2. Đăc điểm kinh tế - kỹ thuật của ngành thuỷ sản. 21 3. Quá trình phát triển ngành thuỷ sản 28 II.Thực trạng tiêu thụ sản phẩm của ngành thuỷ sản hiện nay 33 1. Tác động của WTO đến ngành Thuỷ sản 33 2. Thực trạng tiêu thụ thuỷ sản của ngành thuỷ sản ở nước ta 39 III. Đánh giá chung về thực trạng tiêu thụ thuỷ sản 50 1. Những kết quả đạt được và vấn đề đặt ra đối với tiêu thụ thuỷ sản nước ta 50 2. Phân tích SWOT đối với tiêu thụ thuỷ sản của Việt Nam 53 CHƯƠNG III: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHO HOẠT ĐỘNG TIÊU THỤ THUỶ SẢN CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY 57 I. Quan điểm, mục tiêu, phương hướng, nhiêm vụ phát triển của ngành thuỷ sản Việt Nam 57 1. Quan điểm phát triển ngành thuỷ sản 57 2. Mục tiêu phát triển ngành thuỷ sản 57 3. Phương hướng nhiệm vụ phát triển của ngành thuỷ sản đến năm 2010 58 II. Giải pháp cho hoạt động tiêu thụ thuỷ sản 60 1. Giải pháp phát triển chung cho ngành thuỷ sản 60 2. Giải pháp phát triển từ phía các doanh nghiệp 61 III. Môi trường và điều kiện cần thiết để thực hiện các giải pháp. 66 1. Những lựa chọn về chính sách phát triển thuỷ sản của Việt Nam đến 2010 66 2. Một số đề xuất chính sách đối với Nhà nước nhằm phát triển thuỷ sản của Việt Nam trong những năm mới 74 KẾT LUẬN 83 TÀI LIỆU THAM KHẢO 84

doc86 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2595 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng hoạt động tiêu thụ sản phẩm thuỷ sản nước ta sau khi hội nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khẩu đạt yêu cầu chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm. Đào tạo kiến thức về quản lý an toàn vệ sinh, tuyên truyền sâu rộng trong doanh nghiệp, ngư dân và tất cả những ngừi liên quan đến sản xuất kinh doanh thuỷ sản. Các cơ quan quản lý nhà nước của Trung ương và địa phương cần phối hợp đồng bộ dể kiểm soát, ngăn chặn, xử lý nghiêm khắc các hiện tượng sai trái trong việc làm hàng giả, sử dụng hoá chất không được cho phép, huỷ hoại chất lượng nguyên liệu. 2.3 Các giải pháp nhằm đổi mới, tăng cường năng lực công nghệ chế biến để nâng cao giá trị sản phẩm xuất khẩu và đa dạng hoá cơ cấu mặt hàng xuất khẩu Đầu tư vào một số doanh nghiệp có vốn Nhà nước chiếm cổ phần chi phối, có thị trường tiêu thụ, kinh doanh có hiệu quả, với quy mô lớn, công nghệ hiện đại đạt trình độ tiên tiến của thế giới dể đảm nhiệm vai trò đầu tàu về thị trường và công nghệ trong chế biến xuất khẩu. Khuyến khích các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản tích cực và chủ động đầu tư đổi mới công nghệ, sửa chữa, cải tạo nâng cấp hiện đại hoá điều kiện sản xuất để áp dụng quản lý chất lượng theo hệ thống HACCP> Khuyến khích các doanh nghiệp phát triển các mặt hàng mới có hàm lượng công nghệ cao và nâng tỷ trọng mặt hàng có giá trị cao lên 17 – 20% vào năm 2010. Các giải pháp đẩy mạnh công tác thị trường Các doanh nghiệp xây dựng bộ phận marketing bao gồm các cán bộ có trình độ chuyên mônhoá cao, có kinh nghiệm trong nghiên cứu tình hình từng thị trường cụ thể trên cơ sở đó hoạch định được chiến lược kinh doanh từ khâu đảm bảo nguyên liệu sản xuất đến đầu tư chế biến nâng cao chất lượng sản phẩm phù hợp với yêu cầu thị trường, của khách hàng. đầu tư nghiên cứu tiếp tục mở rộng các thị trường trọng điểm EU, Nhật bản, Mỹ,… khi thuỷ sản của Việt Nam đã có vị trí vững chắc tại các thị trường này thì việc mở rộng và phát triển thương mại thuỷ sản tại các thị trường khác sẽ không quá khó khăn. Tăng cường công tác xúc tiến thưpng mại, phát triển thị trường Xây dựng hệ thống thông tin một cách có hiệu quả từ nhiều kênh khác nhau như: thu thập từ địa bàn, từ Internet, từ các thương vụ, cử đại diện ra nước ngoài… làm tốt công tác dự báo về cung, cầu, giá cả phục vụ cho các doanh nghiệp khi tam gia vào thị trường quôc tế. Đa dạng hoá thị trường tránh việc lệ thộc quá nhiều vào một thị trường, phòng ngừa những rủi ro có thể xảy ra. Đẩy mạnh công tác quảng cáo, tiếp thị hướng dẫn tiêu dùng, tích cực tham gia vào các hội chợ quốc tế nhằm quảng bá sản phẩm ký kết được nhiều hợp đồng kinh doanh. Nhìn chung, ngành thuỷ sản Việt Nam đã và đang thực hiện tót tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Trong quá trình đó ngành đã liên tục điều chỉnh cơ chế quản lý nhằm đáp ứng nhu cầu hội nhập, mặt khác đã được chứng minh qua thị phần, kim ngạch và tốc độ xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam những năm qua. Điều đó chứng tỏ sự phát triển của ngành thuỷ sản Việt Nam gắn rất chặt với hôi nhập kinh tế thế giới, đã và đang góp phần tích cực vào công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 2.4. Xây dựng phát triển thương hiệu trên thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu thủy sản Trong vài năm gần đây, vấn dề xây dựng thương hiệu đã được nhắc đến khá nhiều ở nước ta và được xem như vấn đề cần thiết của doanh nhgiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Điều này được xuất phát từ tác dụng to lớn của thương hiệu đối với doanh nghiệp và khách hàng của doanh nghiệp. Đối với khách hàng, một thương hiệu có uy tín luôn mang lại niềm tin và sự lựa chọn của khách hàng. Rõ ràng,những sản phẩm mang một thương hiệu nổi tiếng, kể cả những sản phẩm mới được tung ra thị trướngẽ dễ thuyết phục khách hàng lựa chọn hơn những sản phẩm cùng loại nhưng mang thương hiệu kếm nổi tiếng hơn. Do vậy, vấn đề xây dựng và phát triển thương hiệu của doanh nhgiệp cũng là một biện pháp cần thiết để doanh nghiệp phát triển tiêu thụ sản phẩm. Xây dựng và phát triển thương hiệu là vấn đề bao gồm nhiều hoạt động đa dạng và lâu dài ở phậm vi doanh nghiệp. Xuất phát từ điều kiện thực tế hiện nay, những biện pháp chủ yếu nhằm xây dựng và phát triển thương hiệu trong các doanh nghiệp Việt Nam, bao gồm: Nâng cao nhận thức trong doanh nghiệp về sự cần thiết và tác dụng của việc tạo lập thương hiệu của mình, Một mặt, nhận thức về thương hiệu cần được quán triệt đến toàn thể cán bộ trong doanh nghiệp từ lãnh đạo đến người trực tiếp sản xuất kinh doanh và nhân viên tạp vụ. Mặt khác nhận thức về thương hiệu pjải được phẩn ánh đầy đủ trong mọi khâu, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, từ việc lựa chọn nguyên liệu, xử lý nguyên liệu, đến khâu sản xuất, bao gói, đưa sản phẩm đến người tiêu dùng và các dịch vụ hậu mãi. Các doanh nghiệp dành chi phí thích hợp choviệc xây dựng và phát triển thương hiệu của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp muốn tạo dựng thương hiệu phải đầu tư đổi mới công nghê, nghiên cứu phát triển sản phẩm,… nhằm tạo ra những sản phẩm có chất lượng và mức giá hợp lý, đồng thời doanh nghiệp phải đaàu tư cho hoạt độngquảng cáo sản phẩm, thiếp thị sản phẩm đến người tiêu dùng… Chính vì vậy, việc xây dựng và phát triển thương hiệu là hoaạt động dài và tốn kém. Tuy nhiên, trong thực tế nước ta, các doanh nghiêp nhỏ do hạn chế tiềm lực tài chính đã thường cắt giảm những khoản chi phí cần thiết cho việc xây dựng và quảng bá thương hiệu, hoặc chỉ tập trung vào một số khâu trong hoạt động sản xuất kinh doanh, hoặc không đảm bảo chi phí thực hiện một cách thường xuyên. Đây là vấn đề mà các doanh nghiệp Việt Nam cần chú trọng trong quá trình xây dựng và phát triển thương hiệu. Hoạt động xây dựng và phát triển thương hiệu của doanh nghiệp mang tính đồng bô, lâu dài và tốn kém, do đó, để thực hiện một cách có hiệu quả, các doanh nghiệp cần phải xem xét hoạt động này như một bộ phận quan trọng, thậm chí phải xây dựng thành chiến lược phát triển thương hiệu trong chiến lược marketing. Chỉ có như vậy các doanh nghiệp mới có thể đảm bảo hoạt động xây dựng và quảng bá thương hiệu được thực hiện thường xuyênvới mức chi phí hợp lý và đảm bảo tính tập trung ở các thị trường mục tiêu của doanh nghiệp. Tạo dựng được thương hiệu cho doanh nghiệp đã khó, nhưng bảo vệ, giữ gìn và phát triển thương hiệu một cách lâu dài còn khó khăn hơn nhiều. Để làm được điều đó, doanh nghiệp cần đề cao “chữ tín” trong kinh doanh trên cơ sở không ngừng tăng cao chất lượng sản phẩm và phát triển mạng lưới bán hàng. 2.5 Nâng cao vai trò của Hiệp hội thủy sản trong việc hỗ trợ doanh nghiệp phát triển xuất khẩu. Nâng cao năng lực bộ máy lãnh đạo của Hiệp hội thuỷ sản. Nâng cao năng lực hỗ trợ cho doanh nghiệp thông qua hoạt động cung cấp thông tin, tư vấn cho doanh nghiệp. Hiệp hội cần hỗ trợ các doanh nghiệp đào tạo cán bộ, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn cao, đáp ứng được yêu cầu quốc tế. Tăng cường công tác xúc tiến thương mại của Hiệp hội thủy sản. Phát triển các dịch vụ xúc tiến, hỗ trợ doanh nghiệp thâm nhập thị trường. Tăng cường mối quan hệ của Hiệp hội thủy sản với các cấp chính quyền nhằm nâng cao vai trò của Hiệp hội thủy sản trong vai trò thúc đẩy xuất khẩu cho các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu thủy sản. Cần tăng cường hơn nữa vai trò của Hiệp hội thủy sản trog quan hệ đối ngoại và xử lý các tranh chấp trong thương mại quốc tế. III. Môi trường và điều kiện cần thiết để thực hiện các giải pháp. 1. Những lựa chọn về chính sách phát triển thuỷ sản của Việt Nam đến 2010 1.1. Những vấn đề đặt ra trong việc lựa chọn chính sách của Chính phủ đối với lĩnh vực thuỷ sản. Trong điều kiện của nền kinh tế kém phát triển, đang ở giai đoạn đầu của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đang trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá, tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hệ thống các chính sách kinh tế của nhà nước nói chung và các chính sách phát triển sản xuất, xuất khẩu nói riêng ở Việt Nam hiện nay có thể được lựa chọn theo hướng: Áp dụng các phương pháp và công cụ can thiệp của Nhà nước đến thị trường phù hợp với yêu cầu và cơ chế vận hành của một nền kinh tế thị trường để kích thích sản xuất và gia tăng xuất khẩu. Từ đó, đối với sản xuất và xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam, những chính sách phát triển thuỷ sản có thể lựa chọn được bao gồm: Thứ nhất, các chính sách tăng sản lượng sản xuất và giá trị xuất khẩu thuỷ sản trong thời kỳ đến năm 2010 cần chuyển mạnh từ khuyến khích phát triển theo chiều rộng sang chính sách khuyến khích phát triển theo chiều rộng sang chính sách khuyến khích phát triển theo chiều sâu, đặc biệt cần tập trung vào yêu cầu nâng cao năng suất và chất lượng của sản phẩm. Thực tế phát triển sản xuất thuỷ sản ở Việt Nam trong những năm vừa qua đã cho thấy có sự mở rộng đáng kể các khu vực sản xuất trên phạm vi cả nước. Thực tế này bắt nguồn từ những lý do chủ yếu sau: 1, tiềm năng sản xuất thuỷ sản ở nước ta trải dài từ Bắc tới Nam, có ở mọi địa phương và rất dễ khai thác; 2, Các kỹ thuật trong sản xuất thuỷ sản dễ tiếp cần và điều quan trọng hơn là có thể nhanh chóng giải quyết được vấn đề và nuôi trồng thuỷ sản để đáp ứng nhu cầu nội địa ngày càng tăng lên và tăng nhanh xuất khẩu thuỷ sản trong thời gian tới. Cụ thể, các chính sách tạo nguồn nguyên liệu thuỷ sản cần tập trung vào các phương diện sau: Đối với nuôi trồng thuỷ sản: + Tăng cường công tác quy hoạch phát triển nuôi trồng thuỷ sản của từng địa phương, từng vùng, đặc biệt là ở các vùng nuôi trồng thuỷ sản của từng đại phương, từng vùng, đặc biệt là ở các vùng nuôi trồng thuỷ sản như: đồng bằng sông Cửu Long, Vịnh Hạ Long và Hải Phòng… + Dựa trên quy hoạch ch itiết về phát triển nuôi trồng thuỷ sản. Nhà nước cần có chính sách phát triển các vùng nuôi thuỷ sản tập trung quy mô lớn với công nghệ tiên tiến theo mô hình sinh thái bền vững tại các vùng trọng điểm để có thể kiểm soát môi trường và tạo nguồn nguyên liệu tập trung với quy mô đủ lớn cho các cơ sở chế biến: + Nhà nước cần có những chính sách cung ứng các đối tượng nuôi có giá trị kinh tế cao như: Tôm sú, tôm càng xanh, các vược, cá song, cá cam và các loài cá nước ngọt khác. + Khuyến khích các cơ sở nuôi tôm quảng canh chuyển mạnh sang quảng canh cải tiến và bán thâm canh trên diện rộng và kết hợp nuôi nhiều đối tượng theo phương thức xen canh và luân canh; + Nhà nước cần có chính sách đầu tư xây dựng hệ thống dịch vụ kỹ thuật như: lai tạo và cung ứng giống tốt, thức ăn công nghiệp, phòng trừ dịch bệnh và bảo quản sau thu hoạch; đào tạo kỹ thuật nuôi…. Đối với khai thác thuỷ sản. Để tăng sản lượng khai thác, chính sách của Nhà nước cần tập trung phát triển khai thác xa bờ, cụ thể: + Thăm dò, đánh giá nguồn lợi hải sản vùng biển xa bờ một cách có hệ thống, lập bản đồ phân bố nguồn lợi… trong đó, tập trung vào các ngư trường Vinh Bắc bộ, vùng biển Trung bộ, vùng biển Đông Nam bộ, vùng đảo Trường Sa, Vùng Tây nam bộ. + Nhà nước cần có chính sách khuyến khích đầu tư đóng mới và cải hoàn tàu đánh bắt hải sản xa bờ. Đồng thời, khuyến khích các nước có nghề cá tiên tiến, có khả năng về vốn, công nghệ vàod dầu tư và khai thác hải sản vùng xa bờ; + Để giảm sức em đối với nguồn lợi ven bờ, Nhà nước cần áp dụng chính sách phát triển nuôi biển và áp dùng công nghệ thay thế, thực hiện chặt chẽ các biện pháp bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản; + Nhà nước cần áp dụng chính sách khuyến khích đầu tư xây dựng cầu cảng và các công trình dịch vụ hậu cần như điện nước, nhiêu liệu, nước đá… trong đó, tập trung hỗ trợ đầu tư: 6 trung tâm nghề cá (Hải Phòng, Đà Nẵng, Bình Thuận, Bà Rịa – Vũng Tàu, Cà Mau, Kiên Giang); xây dựng mới và nâng cấp các cơ sở hạ tầng ven biển, đảo, bao gồm 16 cầu cảng và bến cá; + Đầu tư đào tạo nguồn nhân lực, bao gồm đội ngũ thuyền trưởng, thuỷ thủ để đáp ứng yêu cầu phát triển của các đội tầu, đặc biệt là đào tạo kiến thứuc biển để phát hiện và khai thác nguồn hải sản. Đối với chính sách nhập khẩu nguyên liệu thuỷ sản. Hiện nay, tình trạng thiếu nguyên liệu cho tái chế biến xuất khẩu đang diễn ra ở nhiều vùng và nhiều doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản. Để hỗ trợ cho các doanh nghiệp chế biến có đủ nguyên liệu, khai thác tói đa công suất, Nhà nước xây dựng chính sách nhập khẩu nguyên liệu thuỷ sản. Cụ thể: (-) Miễn lâu dài thuế nhập khẩu nguyên liệu và phụ liệu thuỷ sản bao gồm cả thuế GTGT. (-) Khuyến khích mọi hình thức hợp tác với người nước ngoài trong việc đưa nguyên liệu thuỷ sản vào Việt Nam để chế biến hoặc gia công tái xuất. (-) Nguyên cứu hình thành một số khu vực cảng cá tự do, miễn thuế để thu hút các tàu đánh cá nước ngoài vào bán nguyên liệu thuỷ sản. 1.2. Những vấn đề, chính sách nhằm phát triển công nghệ chế biến Hiện nay hàng thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là dươi dạng sản phẩm đông lạnh (gồm tôm, cá, mực và các nhuyễn thể khác chiếmk khoảng 70%) hàng khô (khoảng 10 – 15%), hàng tươi sống (tôm, cua, cá ngừ đại dương), đồ hộp… Mặc dù, ngành công nghiệp chế biến của Việt Nam đã phát triển khá nhanh trong hơn 10 năm qua, nhưng vẫn còn nhiều tồn tại và hạn chế. Để khắc phục những hạn chế đó, chính sách phát triển ngành công nghiệp chế biến thuỷ sản ở nước ta trong những năm tới cần chú trọng đến các vấn đề sau: - Đẩy nhanh quá trình cổn phần hoá các doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực chế biến thuỷ sản. Điều này không chỉ giúp giải quyết vấn đề thiếu vốn của doanh nghiệp hiện nay, mà còn phát huytính năng động của các doanh nghiệp trong việc đa dạng hoá sản phẩm, tìm kiếm thị trường tiêu thụ và nâng cao hiệu quả đầu tư và kinh doanh sản xuất. Bên cạnh đó, nhà nước cần có chính sách hỗ trợ vốn tín dụng ưu đãi cho các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cấp điều kiện sản xuất… - Nhà nước cần có chính sách khuyến khích hoạt động R&D trong chế biến thuỷ sản, nhất là việc tìm ra và áp dụng những công nghệ chế biến phù hợp với điều kiện Việt Nam và tăng giá trị gia tăng. - Nhà nước cần nghiên cứu áp dụng chính sách khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài tham gia ngành công nghiệp chế biến thuỷ sản, thay vì chỉ đặt trọng tâm thu hút vào lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng như hiện nay. - Tăng cường hoàn thiện năng lực và hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về kiểm tra và chứng nhận an toàn vệ sinh thuỷ sản trên cơ sở Trung tâm kiểm tra và chứng nhận an toàn vệ sinh thuỷ sản (NAFIQACEN) hiện nay. - Khuyến khích các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản đầu tư nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm. Các doanh nghiệp cũng cần phải cải tiến mẫu mã của sản phẩm, nhanh chóng xây dựng thương hiệu cho sản phẩm. Đồng thời thực hiện việc mã số hoá vùng nuôi, trên cơ sở đó các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu thực hiện việc ghi xuất xứ sản phẩm trên bao bì và thương hiệu trên sản phẩm của doanh nghiệp. - Đầu tư vào việc xây dựng các kho lưu trữ nguyên liệu thuỷ sản có quy mô lớn để phục vụ cho việc lưu trữ và bảo quản nguyên liệu thuỷ sản phục vụ cho ngành công nghiệp chế biến. 1.3. Những vấn đề, chính sách nhằm phát triển thị trường Trong điều kiện nền kinh tế thị trường thì vấn đề thị trường tiêu thụ sản phẩm có ý nghĩa sống còn đối với hoạt động sản xuất kinh doanh. Để xây dựng cơ cấu thị trường theo hướng đa dạng hoá, giảm dần tỷ trọng các thị trường trung gian và tăng tỷ trọng các thị trường tiêu thụ trực tiếp hàng thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam, tăng tính chuyển động trong phát triển thị trường tiêu thụ nội địa, những vấn đề chủ yếu trong phát triển thị trường tiêu thụ nội địa, những vấn đề chỷ yếu trong chính sách phát triển thị trường cần chú ý là: + Nhà nước có chính sách khuyến khích thành lập các cơ quan hỗ trợ phát triển thị trường cho các doanh nghiệp thuỷ sản. Các dịch vụ chủ yếu do các cơ quan này cung cấp cho các doanh nghiệp như: thông tin thị trường, các hoạt động xúc tiến thương mại để mở rộng hơn nữa thị trường xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam, các dịch vụ nghiên cứu thị trường, phát triển sản phẩm mới, tổ chức kênh phân phối sản phẩm… + Nhà nước có chính sách hỗ trợ hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam (VASEP) hình thành các quỹ hỗ trợ cho các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu thuỷ sản như: quỹ đào tạo đội ngũ cán bộ kinh doanh cho các doanh nghiệp có trình độ và hiểu biết để bảo vệ hàng thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam và đối phó với các rào cản của nước ngoài; quỹ hỗ trợ các doanh nghiệp tham gia các hội trợ triển lãm, mở các văn phògn đại diện ở nước ngoài, tiếp cận với các siêu thị để giới thiệu hàng thuỷ sản Việt Nam, nhất là hàng chế biến đạt chất lượng cao; quỹ hỗ trợ các doanh nghiệp đổi mới công nghệ, hiện đại hoá sản xuất, tạo nên các mặt hàng có hàm lượng công nghệ cao hơn… + Nhà nước xây dựng và áp dụng các chính sách khuyến khích (về thuế, tín dụng) để các doanh nghiệp phát triển các kênh phân phối tiêu thụ sản phẩm cả trên thị trường trong nước và nước ngoài, đa dạng hoá thị trường xuất khẩu thuỷ sản để hạn chế những rủi ro và tổn thất do những biến động đột ngột của thị trường gây ra, ổn định và phát triển sản xuất. + Để phát triển thị trường trong nước thì cải thiện thu nhập, tăng việc làm là những giải pháp lâu dài để mở rộng nhu cầu hàng thuỷ sản, nhưng trước mắt cần khuyến khích nhu cầu tiêu thụ thuỷ sản của người dân vùng sâu, vùng xa, các hộ nông dân đối nghèo thông qua các biện pháp chính sách hỗ trợ cước, trợ giá, chính sách nguồn cung tại chỗ. + Nghiên cứu và có chính sách xây dựng mô hình sở giao dịch thuỷ sản. Trước hết, nên sớm xây dựng thí điểm mô hình này ở vùng nguyên liệu trọng điểm (vùng đồng bằng sông Cửu Long) để rút kinh nghiệm, hoàn thiện và nhân rộng ra các vùng sản xuất thuỷ sản lớn khác trong cả nước. + Tổ chức hộ chợ quốc tế chuyên ngành thuỷ sản hàng năm (Cần Thơ) để tạo điều kiện xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường cho các sản phẩm thuỷ sản… 1.4. Những vấn đề, chính sách nhằm phát triển đào tạo nguồn nhân lực thuỷ sản Đào tạo nguồn nhân lực là mối quan tâm ở cả quy mô doanh nghiệp, quy mô quốc gia và quốc tế. Vì vậy, phương châm Nhà nước và nhân dân cùng tham gia đầu tư cho việc xây dựng nguồn nhân lực sẽ mang lại hiệu quả. Trong đó, sự hỗ trợ kỹ thuật và tài chính của nhà nước và cộng đồng quốc tế là rất quan trọng trong vấn đề phát triển nguồn nhân lực cho việc phát triển sản xuất và xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam. Vì vậy, về phương diện chính sách, nhà nước cần tập trung vào những vấn đề sau: Nhà nước kết hợp với các chương trình quốc gia lớn về giáo dục và đào tạo, về xoá đối giảm nghèo, phát triển kinh tế vùng sâu, vùng xa… để nâng cao trình độ văn hoá và tay nghề cho ngư dân. Những chương trình này thường thu hút sự quan tẩm ất lớn của cộng đồng quốc tế và hiện dang là một hướng ưu tiên trong viện trợ phát triển quốc tế (ODA). Chính sách của nhà nước phải hỗ trợ tăng cường năng lực tiếp nhận viện trợ phát triển, đẩy mạnh việc giải ngân các nguồn vốn này và có các biện pháp để sử dụng hiệu quả nguồn ODA. - Trong công tác khuyến ngư, cần tăng cường mở các lớp tập huấn miễn phí, hướng dẫn kỹ thuật đánh bắt, nuôi trồng thuỷ sản, việc hướng dẫn này nên được thực hiện tại chỗ, tránh cho ngư dân phải đi lại vất vả và tốn kém. Phát động các phong trào thanh niêm tình nguyện trong các trường đại học, trung học chuyên nghiệp, các cơ sở đào tạo để các sinh viên tham gia… - Cải cách hệ thống giáo dục đào tạo quốc gia hiện nay theo huyướng hiện đại hoá, đưa những tri thức tiên tiến của nhân loại phù hợp với điều kiện thực tế nước nhà vào nộid ung giáo dục và áp dụng các phương pháp giáo dục đào tạo đa dạng, chú trọng nâng cao kỹ năng thực hành, phát huy tính tích cực, chủ động tham gia của học viên… để nâng cao nhanh chóng chất lưonựg giáo dục đào tạo của đất nước. 1.5. Những vấn đề, chính sách nhằm phát triển cơ sở hạ tầng ngành thuỷ sản Cung cấp cơ sở hạ tầng là một trong những chức năng quan trọng của nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Do đó, chính sách phát triển cơ sở hạ tầng ngành thuỷ sản của Nhà nước cần được đặc biệt quan tâm trên các vấn đề chủ yếu như: Nhà nước cần có chính sách ưu tiên phân bổ vốn cho các công trình trọng điểm của ngành thuỷ sản. Đồng thời, nhà nước cần có chinhs ách tăng cường quản lý các dự án đầu tư và quản lý vốn, tiến độ, chất lượng công trình; Xây dựng khuôn khổ pháp lý thuận lợi cho việc thu hút các nguồn vốn đầu tư của mọi thành phần kinh tế vào lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng ngành thuỷ sản; Sử dụng có hiệu quả viện trợ và các hoạt động hợp tác quốc t, thu hút ccs hoạt động có vốn đầu tư trực tiếp, đặc biệt trong nuôi trồng thuỷ sản và chế biến các đối tượng có giá trị thương mại cao. 1.6. Những vấn đề, chính sách trong công tác - Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ xây dựng năng lực cho các trung tâm khuyến ngư,khuyến nông để họ hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ khuyến như: - Tăng cường hoạt động tuyên truyền, giáodục, vận động nhân dân tham gia thực hiện đường lối chủ chương chính sách pháp luật của đảng và Nhà nước về phát triển nuôi trồng và đánh bắt hải sản; - Huy động mọi nguồn lực để tổ chức các lớp tập huấn trang bị kỹ thuật, kiến thức cho lao động nghề cá để họ có thể tham gia hoạt động đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản một các tích cực và hiệu qủa; - Phối hợp với các cơ quan nghiên cứu khoa học và công nghệ trong việc triển khai ứng dụng các kết quả nghiên cứu vào thực tiễn đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản; - Phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng ( báo chí, đài, ti vi) để đưa tin và phổ biến kiến thức khoa học về nuôi trồng đánh bắt thuỷ hải sản.. . 1.7. Những vấn đề, chính sách nhằm tăng cường hợp tác quốc tế để phát triển sản xuất, xuất khẩu thuỷ sản - Bộ Thuỷ sản phối hợp với Bộ Kế Hoạch và đầu tư và các bộ ngành có liên quan tranh thủ nguồn tài trợ của các tổ chức quốc tế để có thêm nguồn vốn đầu tư trực tiếp và đào tạo cán bộ. - Triển khai hoạt động hợp tác quốc tế song phương và đa phương với các tổ chức quốc tế để tiến hành điều tra các nguồn lợi thuỷ sản, tiếp thu các công nghệ mới, phục vụ tốt cho công tác khai thác hải sản đặc biệt là khai thác xa bờ.Tiếp thu những kiến thức mới về khai thác hải sản, đào tạo đội ngũ cán bộ và ngư dân nhằm nhanh chóng thích ứng với công nghệ khai thác hiện đại. - Tiếp tục thực hiện đàm phán với các tổ chức quốc tế như Ngân hàng thế giới, Quỹ tiền tệ quốc tế, Ngân hàng đầu tư và phát triển châu Á, các nước khác để tìm kiếm các nguồn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nghề cá, điều tra nguồn lợi, đào tạo lao động.. . Khuyến khích cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực nuôi trồng và chế biến thuỷ sản. - Từng bước nghiên cứu, mở rộng việc đầu tư gián tiếp,cho phép thực hiện các dự án nghiên cứu nguồn lợi và thực hiện cộng cụ khai thác phù hợp với các vùng xa bờ. - Để tạo nguồn vốn công nghệ cao cho chương trình đánh bắt hải sản xa bờ,đề nghị nhà nước cho phép ngành Thuỷ sản được hợp tác, liên doanh đánh bắt hải sản vùng biển khơi Trung bộ với một số nước có chọn lọc để tăng cường thăm dò tài nguyên hải sản xa bờ và tìm kiếm công nghệ mới, tiến tới thàng lập các công ty liên doanh theo Luật đầu tư. 1.8 Những vấn đề, chính sách nhằm phát triển và ứng dụng khao học và công nghệ trong đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản. Để đáp ứng những yêu cầu của người tiêu dùng, việc phát triển các cơ sở chế biến thuỷ sản đáp ứng được các tiêu chuẩn HACCP là rất cần thiết. Đặc biệt bước sang thế kỷ XXI, các quốc gia và khu vực thị trường ngày càng quan tâm đến tiêu chuẩn chất lượng an toàn thực phẩm (CLATTP) EU đã ban hành sách trắng về CLATTP, xây dựng hoàn toàn mới hệ thống các quy định, luật lệ về đảm bảo CALLTP và thành lập cơ quan thú y cũng đang tăng cường các điều kiện đảm bảo CLATTP Thuỷ sản nhập khẩu và tiêu thụ nội địa. Trong khi đó, thực trạng chất lượng hàng thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam hiện nay đang gặp nhiều khó khăn do trình độ công nghệ chế biến không theo kịp những yêu cầu của thị trường Thuỷ sản thế giới. Theo báo cáo của NAFIQUACEN, từ đầu năm 2001 đến nay hàng thuỷ sản Việt Nam đang phải đối mặt với rất nhiều rào cản xuất khẩu, trong đó đáng chú ý là việc EU, Mỹ, Hàn Quốc, Canađa, Thái Lan, Thuỵ Điển tăng cường kiểm tra dự lượng kháng sinh, Bên cạnh đó, hàng Thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam còn bị tác động bởi quy định về bảo vệ các heo trong khai thác tôm bằng lưới kéo đáy của Mỹ; ngăn chặn lây lan bệnh đốm trắng trong sản phẩm xuất khẩu là nuôi tôn của Australia, Thái Lan… Tất cả những rào cản kể trên chung quy thuộc về quy trình đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm và bảo vệ môi trường, từ khâu nuôi trồng, khai thác, bảo quản đến khâu chế biến sản phẩm. Trước những thách thức và yêu cầu khắt khe đó, đòi hỏi Việt Nam phải có những chính sách thích hợp về phát triển công nghệ, phát triển các cơ sở chế biến và nâng cao chất lượng hàng thuỷ sản chế biến xuất khẩu. Các chính sách hỗ trợ đối với yêu cầu phát triển công nghệ nói chung và phát triển công nghệ trong cơ sở chế biến thuỷ sản trong thời gian tới là: - Nhà nước áp dụng các chính sách hỗ trợ đầu tư đổi mói công nghệ đối với một số doanh nghiệp chế biến thuỷ sản có vốn nhà nước chiếm cổ phần chi phối đạt trình độ tiên tiến của thế giới đảm nhiệm vai trò tiên phong và hướng dẫn về thị trường và công nghệ trong chế biến xuất khẩu. Nhà nước chiếm cổ phần chi phối đạt trình độ tiên tiến của thế giới và đảm nhiệm vai trò tiên phong và hướng dẫn về thị trường và công nghệ trong chế biến xuất khẩu. Nhà nước cho phép các doanh nghiệp trong khu vực chế biến tăng tỷ lệ khấu hao tài sản cố định lên 20 – 30%/năm để tạo điều kiện đổi mới nhanh thiết bị công nghệ. Thành lập hội đồng công nghệ của ngành thuỷ sản để tuyển chọn và đưa ra khuyến cáo trong việc ứng dụng các công nghệ tiên tiến, nhất là công nghệ sinh học, công nghệ thông tin trong đánh bắt, nuôi trồng và chế biến thuỷ sản tạo ra những đột phá và công nghệ. Nhà nước cần sớm ban hàng các chính sách khuyến khích về thuế đối với nhập khẩu các công nghệ hiện đại, bí quyế công nghệ và các chính sách hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp thuê chuyên gia giỏi ở nước ngoài. Trong chính sách phát triển công nghệ, Nhà nước cần tăng cường hỗ trợ phát triển các công nghệ sản xuất giống chất lượng đối với các loài có giá trị kinh tế và thương mại cao. Đẩy mạnh các chương trình hợp tác song phương và đa phương ngắn và dài hạn với các quốc gia có công nghệ hiện đại về thuỷ sản để chuyển giao có công nghệ hiện đại về thuỷ sản để chuyển giao công nghệ cho các doanh nghiệp. Chính phủ hỗ trợ các doanh nghiệp để tiếp nhận chuyển giao công nghệ cao và ứng dụng tạo ra sản phẩm. Ban hành chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp chuyển mạnh sang phương thức kiểm tra chất lượng theo hệ thống đồng bộ và toàn diện từ khâu sản xuất đến khâu chế biến và xuất khẩu. Đảm bảo các yêu cầu vệ sinh thực phẩm của khu vực chế biến thuỷ sản, áp dụng các phương thức quản lý chất lượng theo hệ thống, như quy phạm sản xuất (GMP), quy phạm vệ sinh (SSOP) … Hiện nay việc kiểm soát chất lượng thuỷ sản đang gặp phải một số khó khăn, 2. Một số đề xuất chính sách đối với Nhà nước nhằm phát triển thuỷ sản của Việt Nam trong những năm mới 2.1. Về chính sách thuế Trong điều kiện ngày nay khi lợi thế cạnh tranh của hàng thuỷ sản đã giảm nhiều do các chi phí như giá lao động, chi phí tàu thuyền, dầu tư máy móc thiết bị mới ngày càng tăng và nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào ngành thuỷ sản ngày càng giảm, Nhà nước cần có những chính sách thuế hợp lý để nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành thuỷ sản. Cụ thể là: + Nhà nước điều chỉnh và áp dụng thuế suất thuế nhập khẩu nguyên liệu sản xuất thức ăn nuôi thuỷ sản do chính sách bảo hộ ngành chế biến thức ăn nuôi thuỷ sản. + Nhà nước cần xem xét để giảm thế thu nhập doanh nghiệp đối với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thuỷ sản nói chung và nhất là các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản. + Để khuyến khích các doanh nghiệp và ngư dân phát triển hoạt động khai thác cá xa bời, đề nghị Nhà nước áp dụng thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp thấp nhất đối với ngành nghề khai thác thuỷ sản xa bờ, do mức độ rủi ro cao nhưng lợi nhuận và tiền lương hiện nay chưa cao. + Để không gây áp lực tâm lý nặng nề và đảm bảo khả năng thu đối với thuế thu nhập cá nhân, Nhà nước cần nghiên cứu đơn giản hoá các biện pháp thu thuế, cách tính thu nhập chịu thuế giữa thu nhập chịu thế ở các mức thuế suất khác nhau. + Đối với thuế sử dụng đất, để đảm bảo thu nhập cho các hộ nông dân nói chung và ngư dân nói riêng ổn định đời sống và phát triển sản xuất Nhà nước cần: a) Giảm 50 – 70% hoặc miễn tiền sử dụng đất trong trường hợp được giao đất phải trả trong suốt thời gian hoạt động của dự án tuỳ theo địa bàn đầu tư. b) Miễn tiền thuê đất tối thiểu 3 năm và miễn toàn bộ tiền thuê đất phải trả trong suốt thời gian hoạt động của dự án tuỳ theo địa bàn đầu tư; c) Miễn thuế sử dụng đất. Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, để thu hút vốn đầu tư nước ngoài cho ngành thuỷ sản, cần thực hiện các ưu đãi về thuế sử dụng đất cho nuôi trồng thuỷ sản đối với lĩnh vực đầu tư ưu tiên: nuôi công nghiệp và các nghề yểm trợ cho nuôi công nghiệp. + Tăng mức thuế suất thuế tài nguyên đối với khai thác thuỷ sản gần bờ, để hạn chế hoạt động khai thác, đảm bảo nguồn tài nguyên thuỷ sản đang bị cạn kiệt và bảo vệ môi trường. Đồng thời, giảm mức thuế suất thuế tài nguyên đối với khai thác thuỷ sản xa bờ để khuyến khích ngư dân và doanh nghiệp tăng nhanh sản lượng và lợi nhuận khai thác. Tuy nhiên việc giảm bớt thế tài nguyên cho khai thác xa bờ cần phải kèm theo quy định xử phạt nghiêm minh để đảm bảo môi trường sinh thái. + Mức thuế mặt nước cần có sự giảm hơn nữa để khuyến khích nuôi trồng thuỷ sản. Tuy nhiên, không nên miễn loại thuế tài nguyên mặt nước và cần tăng mức xử phạt nhằm tạo thêm nguồn thu ngân sách chi nhà nước và giảm thiểu ô nhiễm, nâng cao ý thức bảo vệ môi trường. + Giảm các loại chi hí dịch vụ như điện, giao thông, thuỷ lợi, nước, cảng, giá cước container…để tạo điều kiện khuyến khích đầu tư nước ngoài vào ngành thuỷ sản…Phấn đấu áp dụng cùng một giá các chi phí xuất với các doanh nghiệp Việt Nam; + Bỏ thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài và bỏ hoàn thuế lợi tức tái đầu tư, thay bằng việc công bố áp dụng rộng rãi danh mục dự án khuyến khích đầu tư vào ngành thuỷ sản. 2.2. Về chính sách tín dụng. Để khắc phục hạn chế về nguồn vốn và lưu chuyển các nguồn vốn ở nước ta nói chung và trong lĩnh vực thuỷ sản nói riêng, chính sách tính dụng của nhà nước cần được sửa đổi một số nội dung sau: + Hiện nay, theo qui định, lãi suất tín dụng ưu đãi chỉ bằng khoảng 50 – 70% so với lãi suất tín dụng bằng ngoại tệ thì lãi suất tín dụng ưu đãi cao hơn đến hơn 1,5 lần. Nghĩa là, nếu tỷ giá của đồng Việt Nam ổn định thì mức lãi suất tín dụng ưu đãi xuất khẩu hiện nay không có ý nghĩa đối với việc tăng sức cạnh tranh của cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu trong nước trước các doanh nghiệp nước ngoài (khi họ chỉ vay với lãi suất thị trường). Vì vậy, trong những năm tới, nhà nước cần xem xét mức ưu đãi lãi suất tín dụng tối thiểu bằng lãi suất tín dụng ngoại tệ công với chỉ số lạm phát trong năm, hoặc thậm chí có thể thấp hơn (thực hiện lãi suất tín dụng ưu đãi âm như Hàn Quốc đã áp dụng) khi cần tăng khuyến khích vào các dự án đặc biệt. + Về thời hạn cho vay: Đối với vốn vay lưu động, thời hạn vay vốn thuộc loại ngắn hạn (trên dưới 1 năm) có thể căn cứ vào độ dài thời vụ và hoặc cộng với thời hạn giao hàng xuất khẩu cộng với thời hạn thanh toán sau khi giao hàng, thường kéo dài khoảng trên dưới 1 năm tuỳ theo quy cách sản phẩm và độ chế biến; Đối với vốn vay đầu tư sửa chữa hay đầu tư mới vào tài sản cố định của cơ sở sản xuất, thời hạn vay vốn ở tầm trung và dài hạn (thường 2 – 5 năm) nên căn cứ vào quy định khấu hao tài sản của nhà nước. Nếu nhà nước quy định tỷ lệ khấu hao nhanh thì thời hạn cho vay có thể ngắn hơn so với quy định tỷ lệ khấu hao chậm. Đồng thời, nhà nước nên xem xét kéo dài thời hạn cho vay vốn của các dự án đầu tư. Có như vậy mới phù hợp với đặc thù của ngành thuỷ sản là cần nguồn vốn với khối lượng lớn, cần đầu tư lâu dài, phụ thuộc nhiều vào ngư trường, thời tiết, biến động giá cả… + Về vốn đối ứng: Theo quyết định 159/1998/QĐ- TTg Thủ tướng Chính phủ, chủ đầu tư kinh doanh ngành nghệ thuỷ sản phải có ít nhất 15% vốn tự có để đảm bảo năng lực tài chính của mình. Dưới góc độ ngân hàng, mức vốn tự có như trên là quá thấp so với tổng mức đầu tư của một dự án cho vay, nhưng dưới góc độ của người đi vay (ngư dân), nguồn vốn tự có như trên là quá lớn so với tài sản hiện có của họ. Chẳng hạn, để đóng mới một con tàu phục vụ cho khai thác thuỷ sản xa bờ, tổng vốn đầu tư là khoảng 1,3 – 1,5 tỷ đồng, thì mức vốn tự có của người dân cũng lên tới trên 200 triệu đồng - mức mà nhiều ngư dân không có được. Như vậy, nhà nước đảm nhận việc thẩm định tính cụ thể và yêu cầu các Ngân hàng đảm nhận việc thẩm định tính khả thi của dự án vay vốn. Với những dự án được thẩm định có tính khả thi cao, ngân hàng có thể chấp nhận mức vốn tự có thấp hơn qui định 15%, ngược lại với dự án ít khả thi, ngân hàng có thể từ chối cho vay vốn. Đồng thời, ngân hàng cần phối hợp với các cấp chính quyền cơ sở trong việc xác minh đúng vốn tự có của người đi vay. +Về tài sản thế chấp: Theo quyết định 67/1999/QĐ –TTG của Thủ tướng Chính phủ, các hộ nuôi trồng thuỷ sản vay vốn dưới 10 triệu đồng không cần thế chấp, nhưng phải nộp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Còn trường hợp vay vốn trên 10 triệu đồng thì phải dùng tài sản thế chấp. Tuy nhiên, qui định về mức vay cần tài sản thế chấp này là không phù hợp với khả năng thế chấp tài sản của các hộ nông dân nghèo ở các vùng cần chuyển dịch cơ cấu sản xuất sang nuôi trồng thuỷ sản. Vì vậy, nhà nước có thể giải quyết vướng mắc về tài sản thế chấ vay vốn để nuôi trồng thuỷ sản thông qua việc áp dụng mô hình cho vay vốn bằng hiện vật và bằng tiền (chủ yếu để làm vốn lưu động). Để thực hiện mô hình này, nhà nước cần có chính sách đảm bảo lợi ích cho các bên: Ngân hàng – doanh nghiệp - người vay vốn, tránh những tình trạng xấu xảy ra sau giai đoạn "hậu tín dụng". + Về mức vay tối thiểu: Hiện nay nhu cầu về vốn đang trở thành một trong những trở ngại lớn cho công tác phát triển ngành nghề nuôi trồng và khai thác thuỷ sản. Nếu so với tiềm năng và nhu cầu của nghề này, thì mức cho vay đầu tư hiện có còn rất thấp, mới chỉ đạt khoảng 20%. Chẳng hạn, mức cho vay trung bình một dự án đánh bắt xa bờ là 500 triệu đồng, chỉ đủ chu đầu tư làm tàu thuyền nhỏ, chứ chưa có ngư cụ hoặc đầu tư tàu thuyền quy mô lớn. Để khắc phục vấn đề này, Nhà nước và chính quyền địa phương cần khẩn trương quy hoạch chi tiết các vùng nuôi trồng thuỷ sản, giúp nhân dân lập các dự án cho vay có tính khả thi để có điều kiện vay vốn. Các tỉnh, thành phố phải thành lập ra các cơ quan chức năng để xác nhận cho các hộ dân về quy mô đầu tư (mức trang trại là mức độ sản xuất nhỏ), nhu cầu đánh bắt hải sản (quy mô, kích cỡ tàu thuyền, máy móc, ngư cụ), tiềm năng hiện có, nhu cầu vay vốn… Có như vậy các chi nhành ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng mới có căn cứ thực tế để dựa vào tiêu chí do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quy điịnh để cho vay vốn theo từng quy mô dự án đáp ứng nhu cầu đầu tư của các dự án quy mô hớn. +Về tiếp cận nguồn vốn tín dụng đầu tư vào khu vực thuỷ sản, Nghị quyết trung ương Đảng khoá IX và quyết định của Thống đốc Ngân hàng nhà nước ngày 1/6/2002 đã chỉ rõ: các ngân hàng thương mại thực hiện cơ chế cho vay theo lãi suất thoả thuận, xoá bỏ hoàn toàn sự phân biệt giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau trong việc tiếp cận vốn ngân hàng. Tuy nhiên, nhà nước vẫn cần tiếp tục tháo gỡ những rào cản hạn chế sự tiếp cận các nguồn vốn tín dụng chính thức đối với khu vực kinh tế tư nhân hiện nay, như: do hiểu biết về luật pháp, về quản lý đầu tư, về thủ tục lập dự án đầu tư, lập hồ sơ vay vốn.. . . của doanh nghiệp vẫn vòn nhiều hạn chế, nên ngân hàng cần chủ động nâng cao hiểu biết cho các doanh nghiệp thông qua các hội nghị khách hàng hàng năm, thành lập các tổ tư vấn, thường xuyên gửi thông báo về các vấn đề có liên quan đến các khách hàng của mình… Việc thẩm định dự án (chủ yếu thẩm định khả năng trả nợ, khả năng tổ chức, hàng nghề…) ngân hàng phải kết hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương trong việc tìm hiểu người vay, tìm hiểu nghề nghiệp của ngư dân, tìm hiểu kinh nghiệm của ngư dân với quy trình khi thác - chế biến – tiêu thụ hải sản tìm hiểu quy trình đóng mới, cải hoán một con tàu hoặc quy trình sản xuất, nhân giống; Cần mở rộng việc bảo lãnh của Quỹ hỗ trợ phát triển cho các doanh nghiệp, tổ chức tín dụng. Nhà nước cũng cần xúc tiến nhanh chóng đưa quỹ bảo lãnh cho doanh nghiệp vừa và nhỏ và hoạt động, kết hợp với các quy định nới lỏng, cởi mở hơn khi bảo lãnh cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thuỷ sản. +Nhà nước cần quy định thực hiện chế độ đào tạo bắt buộc đối với các chủ đầu tư khi vay vốn tín dụng. Đặc điểm chung của lực lượng ngư dân là tư tưởng sản xuất nhỏ, thật thà chất phác, trình độ văn hoá còn hạn chế, hiểu biết pháp luật còn thất không hiểu biết về vận hành máy móc, kỹ thuật nuôi mà chủ yếu chỉ dựa vào kinh nghiệp, cho nên hoạt động sản xuất kinh doanh và chế biến thuỷ sản thương mại tính tự phát và có nguy cơ rủi ro cao. Vì vậy việc đào tạo bắt buộc về kiến thức kinh doanh thuỷ sản là cần thiết đối với ngư dân. + Các chính sách, biện pháp thu hồi vay nợ một cách có hiệu quả: Mặc dù, đã có các chính sách nhằm tháo gỡ những khó khăn trong việc trả nợ, nhưng hiện vẫn chưa có những dấu hiệu chuyển biến tích cực. Vì vậy, Nhà nước vần cần có các chính sách quy định làm tăng trách nhiệm trả nợ của người vay, như: quy định bắt buộc về việc mua bảo hiểm thân tàu để đảm bảo tài sản cho vay của Nhà nước và đảm bảo quyền lợi cho ngư dân trong trường hợp xảy ra rủi ro, mất mùa; xây dựng cơ chế chính sách để thu hồi được nợ và đẩy mạnh sản xuất.. +Mở rộng hoạt động bảo lãnh tín dụng xuất khẩu cho các doanh nghiệp. Theo quyết định 133/2001/QĐ – TTg của Chính phủ về việc ban hành Quy chế tín dụng hỗ trợ xuất khẩu doanh nghiệp thuộc một thành phần kinh tế xuất khẩu thuỷ sản vào tất cả các thị trường sẽ được ưu tiên vay vốn tín dụng ngắn hạn hỗ trợ xuất khẩu. Tuy nhiên, thêm vào đó, Chính phủ nên cho phép các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản được bán hàn theo phương thức thanh toán chậm. Trong trường hợp, nếu tiềm lực tài chính doanh nghiệp còn yéu, đề nghị Nhà nước hỗ trợ bằng cách mua lại các khoản nợ này, hoặc bảo lãnh cho các khoản nợ này để họ có thể chiết khấu chứng từ tại các Ngân hàng thương mại. (Vấn đề bảo lãnh cho các doanh nghiệp xuất khẩu, Chính phủ đã quyết định giao cho Bộ tài chính thực hiện kể từ cuối năm 2002 thông qua nghị quyết số 05/2002). 2.3. Chính sách huy động và phân bổ vốn đối với sản xuất, xuất khẩu thuỷ sản Để tiếp tục phát triển, ngành thuỷ sản cần thực hiện các chính thu hút vốn trong và ngoài nước để đảm bảo phân bổ vốn cho nhu cầu phát triển. Để đảm bảo khả năng huy động mọi nguồn vốn trong và ngoài nước, Nhà nước cần thực hiện một số chính sách biện pháp sau: + Xây dựng ngân hàng cổ phẩn thuỷ sản nhằm đáp ứng nhu cầu vốn của các cơ sở sản xuất, kinh doanh và xuất khẩu thuỷ sản. Trong đó, cần có chính sách thu hút các (nậu vựa), các công ty thuỷ sản lớn tham gia và hoạt động của ngân hàng. + Xây dựng hệ thống các quỹ tín dụng nghề cá tại các vùng nuôi trồng và khai thác thuỷ sản trọng điểm với mục tiêu huy động nguồn vốn nhàn rỗi, tạo ra sự lưu chuyển vốn liên tục trong nội bộ ngư dân và các cơ sở sản xuất, chế biến. + Khuyến khích thu hút nguồn vốn FDI thông qua các hình thức liên doanh, 100% vốn nước ngoài vào phát triển ngành thuỷ sản, chủ yếu trong lĩnh vực đánh cá xa bờ, nuôi thuỷ sản biển, nuôi tôm công nghiệp, chế biến kỹ thuật cao, sản xuất cấp thiết bị lạnh kỹ thuật cao, dịch vụ tín dụng nghề các và dịch vụ ngoại thương. +Điều chỉnh các quy định quản lý về vốn nước ngoài một cách phù hợp để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước có thể vay từ các doanh nghiệp, ngân hàng ngoài nước… Về chính sách phân bổ các nguồn vốn Nguồn vốn ngân sách nhà nước chủ yếu dành để đầu tư và hỗ trợ đầu tư vào các khâu; xây dựng cơ sở hạ tầng cho các trung tâm nghề cá, cảng cá, khu neo đậu, trú bão, tàu dịch vụ hậu cần cho các địa phương ven biển và các đảo lớn; đầu tư cho công tác điều tra nguồn lợi hải sản, hệ thống thông tin liên lạc phục vụ hoạt động khai thác hải sản (thuộc lĩnh cực khai thác hải sản); đầu tư công tác quy hoạch các vùng nuôi, xây dựng hệ thống thuỷ lợi, chuyển đổi mục đích vùng sản xuất lúa ven biển sang phát triển nuôi trồng thuỷ sản; xây dựng các trung tâm giống quốc gia, các trạm quan trắc, dự báo môi trường, kiểm định thuỷ sản (thuộc lĩnh vực nuôi trồng); đầu tư xây dựng hệ thống phòng thí nghiệm, xây mới nâng cấp theo chiều sâu cơ quan kiểm tra chất lượng thuỷ sản xuất khẩu, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất cho trung tâm công nghệ chế biến thuỷ sản và hệ thống thông tin thị trường (thuộc lĩnh vực chế biến thuỷ sản). Nguồn vốn tín dụng: + Đối với hệ thống cung cấp vốn tín dụng thương mại Nhà nước có chính sách khuyến khích các ngân hàng thương mại các tổ chức tín dụng xây dựng chi nhánh hoạt động tại các vùng sản xuất, xuất khẩu thuỷ sản trọng điểm để cung cấp tín dụng cho tất cả các thành phần kinh tế tham gia phát triển sản xuất, kinh doanh ngành thuỷ sản, bằng các biện pháp như: cấp bù một phần lãi suất thông qua lãi suất tái chiết khấu giữa ngân hàng Nhà nước với các tổ chức tín dụng; hay áp dụng thuế suất ưu đãi đối với tổ chức tính dụng này; hay áp dụng các khuyến khích theo số lượng tín dụng và các khuyến khích khác. + Đối với hệ thống tín dụng ưu đãi của Nhà nước (từ các Quỹ tín dụng hỗ trợ của Nhà nước), do hạn chế về vốn của các quỹ hỗ trợ tín dụng, nhằm tăng sức kích thích của chính sách đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh có năng lực và hiệu quả thực sự, Trong đó, về lĩnh vực hỗ trợ, Nhà nước cần tập trung và khâu đánh bắt hải sản xa bờ, nuôi trồng thuỷ sản có quy mô công nghiệp và tỷ lệ xuất khẩu lớn, các cơ sở chế biến thuỷ sản phục vụ xuất khẩu đã có thương hiệu. Về đối tượng thụ hưởng chính sách ưu đãi, Nhà nước cần tập trung các các cơ sở thuỷ sản có quy mô lớn, hay các cơ sở có khả năng phát triển thành các tập đoàn kinh doanh thuỷ sản lớn. Đối với nguồn vốn FĐI: để tạo môi trường hấp dẫn cho các doanh nghiệp FĐI đầu tư vào nuôi trồng (đặc biệt ở các vùng đất cát ven biển) ở qui mô lớn, ưu đãi cho các xí nghiệp đi tiên phong trong phát triển nuôi biển, nuôi công nghiệp và các nghề yến trợ cho nuôi công nghiệp… Đối với nguồn vốn ODA: Nhà nước cần khuyến khích các địa phương sử dụng vốn ODA vào xây dựng cơ sở hạ tầng nghề cá, cảng, chợ cá, phòng tránh bão, giao thông, nâng cấo xây dựng cơ sở chế biển thuỷ sản xuất khẩu, sản xuất thức ăn nuôi trồng; phát triển công nghệ cao, thuê chuyên gia phục vụ các chương trình khai thác, nuôi trồng, chế biến và xuất khẩu thuỷ sản. 2.4 Các chính sách khác +Nhà nước cần soạn thảo, ban hàng và thực thi các luật nghề cá, luật nuôi trồng thuỷ sản, luật bảo vệ môi trường, luật về vệ sinh thực phẩm, luật về quyền sở hữu trí tuệ… Trong từng luật đó, cần quy định rõ ràng quyền và nghĩa vụ của các bên có liên quan khi bị người khác xâm hại, hay gây hại cho người khác, trong các vấn đề như thương hiệu, vấn đề trách nhiệm đối với người tiêu dùng… + Cùng với việc sửa đổi và xây dựng hệ thống luật pháp chính sách liên quan trực tiếp đến ngành thuỷ sản, cũng cần phải xây dựng cạnh tranh và kiểm soát độc quyền, xây dựng pháp lệnh về đối xử tối huệ quốc gia và đối xử quốc gia, tiến tới thống nhất giữa luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và luật đầu tư trong nước…, đồng thời phải thành lập các cơ quan pháp chế trong bộ máy quản lý thuỷ sản để hỗ trợ thực hiện các điều khoản luật pháp, chính sách đã ban hành. + Xây dựng chính sách xuất nhập khẩu thuỷ sản ổn định, đảm bảo sự thông nhất theo các chương trình mục tiêu dài hạn đã định của Nhà nước; xây dựng chính sách mặt hàng thuỷ sản xuất nhập khẩu theo định hướng tăng xuất khẩu các sản phẩm có hàm lượng công nghệ chế biến, giảm dần xuất khẩu hàng thô; không nên quản lý giá với hàng xuất khẩu; xây dựng cơ cấu thị trường hợp lý theo mục tiêu đa phương hóa, đa dạng hóa… + Xây dựng các cơ chế, chính sách để tạo môi trường thuận lợi cho công tác khuyến ngư, trong đó cần chú trọng các chính sách hỗ trợ đối với các cán bộ khuyến ngư, cán bộ khoa học kỹ thuật tham gia hoạt động khuyến ngư. +Ngoài quy định của Nhà nước về mức hỗ trợ 0,2% tổng kim ngạch xuất khẩu từ Quĩ hỗ trợ xuất khẩu, Chính sách cần khuyến khích các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tạo quỹ để hỗ trợ doanh nghiệp kinh phí tham gia hội trợ, quảng bá sản phẩm xuất khẩu; hỗ trợ kinh phí và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các doanh nghiệp khảo sát thị trường nước ngoài, thành lập chi nhánh và văn phòng đại diện ở nước ngoài, thành lập chi nhánh và văn phòng đại diện ở nước ngoài để đẩy mạnh hoạt động tiếp thị; xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường. + Tiếp tục thực hiện và mở rộng chế độ thưởng xuất khẩu và tất cả thị trường và cho tất cả mọi doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, không áp dụng cho các trường hợp hàng hóa xuất khẩu trả nợ, hàng hóa xuất khẩu theo Hiệp định của chính phủ, hàng hóa xuất khẩu theo hình thức đổi hàng, tái xuất. Ngoài quỹ thưởng xuất khẩu ở Trung Ương, cần khuyến khích các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương xây dựng và phát triển các quỹ thưởng xuất khẩu của địa phương + Bộ Thuỷ sản có thể xem xét thành lập cơ quan thông tin tiếp thụ thuỷ sản để theo dõi sát diễn biến tính hình thị trường thuỷ sản thế giới, kịp thời thông tin cho Chính phủ, Bộ Thuỷ sản, các doanh nghiệp và ngư dân tham gia sản xuất, nuôi trồng và chế biến hàng thuỷ sản. để kịp thời xử lý những tình huống phức tạp nảy sinh, dự báo chính xác được cung cầu thuỷ sản trên thị trường thế giới ở từng thời điểm nhất định, cũng như trong việc thương lượng với các tổ chức quốc tế, các tổ chức quốc gia nhằm loại bỏ những hàng rào kỹ thật và phi thuế quan bất hợp lý do các tổ chức và các nước đưa ra để hạn chế hàng xuất khẩu thuỷ sản kinh tế quốc tế và các nước đưa ra để hạn chế hàng xuất khẩu thuỷ sản của ta. Cơ quan này cũng sẽ tiến hành nghiên cứu có hệ thống các thị trường truyền thống, các thị trường mới, thị trường tiêu thụ nội địa…, kịp thời cung cấp thông tin tin cậy cho các doanh nghiệp và các cơ quan quản lý nhà nước, khuyến khích phát triển các hoạt động thông tin tiếp thị ở các doanh nghiệp. +Nhà nước cần tăng cường chính sách hỗ trợ phát triển các ngành dịch vụ của nền kinh tế nói chung, đặc biệt các ngành dịch vụ phân phối và các ngành dịch vụ mới. Đối với hoạt động sản xuất kinh doanh thuỷ sản, Nhà nước cần thực thi một số biện pháp như: Đẩy nhanh quá trình hình thành các thị trường cung cấp dịch vụ trong nền kinh tế, đặc biệt là việc xây dựng, hình thành các tổ chức cung cấp dịch vụ của Nhà nước và các thành phần kinh tế trên cơ sở cải cách, đổi mới hoạt động của các cơ quan sự nghiệp như các việc nghiên cứu, các trường đào tạo, các trung tâm triển lãm quảng cáo,… Hạn chế việc phân bổ, chưa nhỏ nguồn vốn hỗ trợ phát triển các dịch vụ hỗ trợ theo ngành sản xuất, mà nên tập trung các nguồn vốn hỗ trợ để tăng cường hỗ trợ tài chính, khuyến khích các chủ thể cung cấp dịch vụ của nền kinh tế nâng cao năng lực chuyên môn, mở rộng lĩnh vực hoạt động… Để nâng cao hiệu quả của chính sách, Nhà nước cần tăng cường giáo dục ý thức pháp luật cho các đối tượng thụ hưởng chính sách bằng các biện pháp sau: Qui định rõ rằng, chi tiết về các vi phạm và các hình thức xử phạt hành chính, mức xử phạt đối tượng thụ hưởng chính sách ưu đãi nhưng có vi phạm; xây dựng các chương trình, các hình thức phổ biến đường lối, chủ trương chính sách, cũng như nội dung và các vấn đề có liên quan trong các chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với lĩnh vực sản xuất kinh doanh thuỷ sản; tăng cường các biện pháp kiểm tra, giám sát và tư vấn của các cơ quan quản lý đối với các đối tượng thụ hưởng chính sách KẾT LUẬN Thuỷ sản Việt Nam là một ngành được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn. Nó đóng vai trò rất lớn trong việc mở rộng quan hệ Thương Mại quốc tế đảm bảo được an toàn lương thực quốc gia, tạo việc làm và xoá đối giảm nghèo cung cấp cho người dân hàng ngàn tấn mỗi năm và thu hút được ngày càng nhiều người lao động. Hiện nay, thuỷ sản Việt Nam đã có mặt trên 130 quốc gia và vùng lãnh thổ. Trong năm 2006, Thuỷ sản Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Bên cạnh đó, cũng còn những tồn tại những hạn chế bất cập. Một trong nhữg hạn chế đáng lo ngại nhất là năng lực quản lý hiện tại của ngành chưa được đáp ứng đòi hỏi của quá trình sản xuất, việc đối phó với nguy cơ có thể xảy ra trong sản xuất và trên thị trường vẫn còn chạy theo vụ việc chưa có tính chủ động. Trong điều kiện Việt Nam đã và đang hội nhập kinh tế quốc tế, dưới sự đòi hỏi khắt khe của thị trường thế giới. Ngành Thuỷ sản phải tăng cường hơn nữa công tác quản lý chất lượng, an toàn sản phẩm ngay từ những khâu đầu tiên cho đến suốt quá trình sản xuất, để có thể đảm bảo các yêu cầu của các nước nhập khẩu, đồng thời bảo vệ người tiêu dùng nội địa. Trên cơ sở thành công và hạn chế những năm qua, Chính phủ và ngành Thuỷ sản đã xác định được những mục tiêu, phương hướng phát triển thuỷ sản đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. Mặc dù những chỉ tiêu rất cao, nhưng với năng lực sản xuất của ngành, với trình độ công nghệ chế biến đạt mức tiên tiến trong khu vực và đôi ngũ nhân lực của ngành, hiện vẫn chưa có hạn chế lớn nào có thể làm chậm bước phát triển tiếp theo. Trước những năng, triển vọng của ngành thuỷ sản,của Nhà nước, chúng ta có thể kì vọng rằng, đến năm 2010, Thuỷ sản Việt Nam lại đạt đến một bước ngoặt mới, xuất khẩu thuỷ sản vượt qua 5 tỉ USD kim ngạch xuất khẩu, đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ thuỷ sản trong nước và quốc tế. Mặc dù, đã có nhiều cố gắng nhưng đề án môn học của em khó tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong sự góp ý của thầy,cô giáo. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ, hướng dẫn tận tình của GS.TS Đặng Đình Đào, cùng với thầy, cô giáo khoa Thương Mại, để em hoàn thành đề án môn học. Sinh viên Hoàng Thị Thu Hiền TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo giáo trình kinh tế thương mại. Giáo trình quản trị doanh nghiệp thương mại. Giáo trình quản trị doanh nghiệp nông nghiệp. Giáo trình hậu cần doanh nghiệp. Tiến trình hội nhập vào WTO. Tạp chí thủy sản Các website: www.mot.gov.vn www.mofa.gov.vn www.mofi.gov.vn. www.vnexpress.net www.ficen.org.vn và một vài website khác MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThực trạng hoạt động tiêu thụ sản phẩm thuỷ sản nước ta sau khi hội nhập WTO.DOC
Luận văn liên quan