Lời Nói đầu
Hiện nay, thời đại của chúng ta là thời đại mang xu hướng toàn cầu hoá và khu vực hoá. Hoà nhập với không khí này, Việt nam vừa gia nhập và là thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO. Khi được trở thành viên của tổ chức thương mại thế giới thì đồng nghĩa Việt Nam cũng gặp nhiều khó khăn và đồng thời cũng gặt hái được nhiều thành công. Để thu được kết quả tốt từ quá trình hội nhập chúng ta phải đánh giá, nhận định về cơ hội cũng như là thách thức đang đặt ra, chúng ta phải biết đâu là thế mạnh mình phải phát huy và đâu là điểm yếu cần phải khắc phục. Và đặc biệt hơn nữa chúng ta phải nhận định được xu hướng đi chung của Thế giới, những yếu tố nào các nước đang chú trọng.
Chính vì điều đó, mà em thấy rằng thị trường chứng khoán trên thế giới hiện nay là một thị trường nóng bỏng và có nhiều triển vọng đi lên. Nó không chỉ là một kênh huy động vốn có hiệu quả cho hoạt động đầu tư trong nền kinh tế mà còn là nhân tố thúc đẩy hoạt động của nền kinh tế diễn ra suôn xẻ hơn. Cho nên em chọn đề tài môn học của mình là “Thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam và giải pháp nâng cao hoạt động của thị trường này”.
Đối tượng của đề tài
Thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam , hoạt động đầu tư chứng khoán và một số giải pháp nhằm nâng cao hoạt động của thị trường chứng khoán.
Mục đích nghiên cứu
Thấy được thực trạng của thị trường chứng khoán Việt Nam, vẫn đang là thị trường non yếu. Nhưng nó là nhân tố quan trọng để thúc đẩy kinh tế Việt Nam đi lên hoà nhập với xu hướng chung của Thế giới. Và từ đó tìm ra giải pháp thích hợp cho thị trường chứng khoán nước ta.
Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận cơ bản về thị trường chứng khoán, nghiên cứu thống kê, phân tích số liệu, nắm bắt thông tin từ các phương tiện thông tin đại chúng nhằm tìm ra những thành công và những thất bại của thị trường chứng khoán Việt Nam.
Nội dung của đề tài môn học bao gồm:
Chương I: Lý luận chung về thị trường chứng khoán.
Chương II: Thực trạng của thị trường chứng khoán ở Việt Nam
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hoạt động của thị trường chứng khoán ở Việt Nam.
Vì sự hiểu biết và thời gian có hạn cho nên nội dung đề tài của mình không tránh khỏi những sai xót. Do vậy, em mong nhận được sự giúp đỡ, chỉ bảo của thầy cô và của bạn bè để cho đề tài của em thêm hoàn thiện.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn thầy Nguyễn Hồng Minh thầy đã giúp em hoàn thành tốt đề tài này.
135 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3245 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam và giải pháp nâng cao hoạt động của thị trường này, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lợi
84 tỷ đồng
đã được cấp phép niêm yết
17
CTCP Cảng Đoạn Xá
35 tỷ đồng
đang xem xét
18
CTCP Lương thực thực phẩm SAFOCO
27 tỷ đồng
đang xem xét
19
CTCP Đại lý vận tải SAFI
11,38 tỷđồng
đang xem xét
20
CTCP VITALY
40 tỷ đồng
đang xem xét
21
CTCP Gốm sứ công nghiệp Taicera
50 tỷ đồng
đang xem xét
22
CTCP cao su Đà Nẵng
92,47 tỷ đồng
đang xem xét
23
CTCP Cavico Khai thác mỏ và xây dựng
31 tỷ đồng
đang xem xét
24
CTCP XD&KD địa ốc Hoà Bình
56,4 tỷ đồng
đang xem xét
25
CTCP giống cây trồng Trung ương
14,12 tỷ đồng
Chấp thuận phát hành và niêm yết
(nguồn: tạp chí Đầu tư chứng khoán số 43 năm 2006)
Qua bảng số liệu trên cho chúng ta thấy tình hình niêm yết của thị trường chứng khoán năm 2006 không co tiến triển về số lượng là mấy so với năm 2005. Mặc dù số doanh nghiệp đăng ký tham gia niêm yết cũng tương đối nhiều nhưng số doanh nghiệp được niêm yết thì lại rất ít. Không như mong đợi của chung ta.
2. kết quả giao dịch của thị trường chứng khoán trong thời gian vừa qua
Sau đây là kết quả giao dịch của một số tháng gần đây, những kết quả này muốn nói nên tính sối động của thị trường chứng khoán trong những tháng gần đây.
Nhìn một cách tổng thể, tháng 7,8, và 9 năm 2006 thị trường chứngkhoán Việt Nam nằm trong xu hướng tăng trưởng, mặc dù diễn biến của các phiên giao dịch không đồng đều, nhiều phiên tăng mạnh tới 40% khối lượng và giá trị giao dịch so với phiên trước, nhưng cũng ngay sau đó lại sụt giảm mạnh với khối lượng tương ứng. Tuy nhiên, quy mô khớp lệnh của các phiên giao dịch có xu hướng tăng. Đến 5/9/2006 tổng số loại cổ phiếu và chứng chỉ quỹ giao dịch trên thị trường chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh lên 50 loại. Trong tháng 8 tổng cầu của toàn thị trường là97.860.290 cổ phiếu, chứng chỉ quỹ; trong khi tổng cung là92.222.120 cổ phiếu, chứng chỉ quỹ. Trong tháng 9 cung cầu thị trường gần như ở vào thế cân bằng, ổn định cung: 82.732.430 cổ phiếu; cầu: 81.985.560 cổ phiếu. Kỷ lục khớp lệnh của tháng 8 là 3,23 triệu cổ phiếu, trị giá 184 tỷ đồng đã bị phá vỡ ngay trong phiên giao dịch đầu tiên của tháng 9 (phiên 6/9, với 3,7 triệu cổ phiếu, trị giá 209 tỷ đồng). Càng về những phiên cuối tháng, thị trường càng sôi động. Những cổ phiếu tạo nên diện mạo diễn biến thị trường vẫn là những là những cổ phiếu nằm trong nhóm Bluchip gồm: STB, SJS, REE, GMD, VNM, VSH, BMP. Xu hướng chung là cổ phiếu là tăng giá. Đó là những thông tin chủ yếu về trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh. Còn trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội thì đến tháng 8 và 9 cũng có những khởi sắc, đến tháng 9 trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội có thêm 2 loại cổ phiếu đưa vào giao dịch vào ngày 20/9/2006, gồm 1000.000 cổ phiếu VTS của công ty cổ phần Gốm Từ Sơn và 750.000 cổ phiếu DAC của công ty cổ phần Gốm xây dựng Đông Anh, nâng tổng số loại cổ phiếu giao dịch trên trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội lên 14 loại. Qua các phiên giao dịch cổ phiếu PPC luôn giữ vị chí cao nhất về khối lượng và giá trị giao dịch (trên 50% quy mô giao dịch của thị trường) nên trở thành cổ phiếu dẫn dắt thị trường.
Nói tóm lại tình hình giao dịch trên thị trường chứng khoán trong thời gian vừa qua diễn ra khá sôi động. Và thị trường chứng khoán trong năm 2006 có đặc điểm khác biệt lớn nhất trong hoạt động 9 tháng đầu năm của các công ty niêm yết là việc phát hành cổ phiếu để huy động vốn cho các dự án đầu tư mới thay vì chỉ vay vốn của các ngân hàng. Phong trào khai thác lợi thế đất để tạo ra lợi nhuận của nhà đầu tư trong 2 năm 2004- 2005 đang chuyển dần sang xu hướng đầu tư tài chính. Tuy nhiên, chiến lược trở thành vấn đề lớn đối với sự phát triển của các doanh nghiệp. Có thể thấy, những doanh nghiệp đã tiến hành chuẩn bị cho mô hình tập đoàn và cải tiến chất lượng quản trị như REE, SAM, Gemadept... đang gặt hái nhiều kết quả, trong khi nhiều doanh nghiệp khác phải đối mặt với hiệu quả kinh doanh giảm dần.
3.Đầu tư cổ phiếu ngoài sàn OTC.
Trong nghiên cứu và công bố vào tháng 9/2006, HSBC nhận định, tại Việt Nam, một số loại cổ phiếu giao dịch trên OTC có tính thanh khoản cao và hấp dẫn hơn các cổ phiếu niêm yết. Số liệu của công ty chứng khoán Sài Gòn (SSI) cho thấy, hiện có gần 40 loại cổ phiếu được giao dịch thường xuyên trên thị trường OTC. Tổng giá trị vốn hoá của các loại cổ phiếu này lên tới 3,9 tỷ USD, trong khi toàn thị trường niêm yết có tổng giá trị vốn hoá chỉ khoảng 3 tỷ USD. Nếu bổ sung một cách đầy đủ, giá trị vốn hoá của thị trường OTC có thể nên tới 5-6 tỷ USD, tức là gần gấp đôi thị trường chính thức.
Đóng vai trò chủ đạo của thị trường OTC là 9 loại cổ phiếu có mức vốn hoá trên 100 triệu USD (phần lớn là ngân hàng: ABC, Techcombank, Eximbank, Đông á, PNB, VPBank...). Trên thị trường chính thức, số cổ phiếu có mức vốn hoá trên 100 triệu USD chỉ có 5 loại.
Quy mô lớn chưa phản ánh đầy đủ sự hấp dẫn của các cổ phiếu OTC, mà còn thể hiện qua doanh số giao dịch trên thị trường OTC một ngày khoảng 7,5 đến 30 triệu USD (cao hơn từ 1,5 đến 6 lần doanh số trên thị trường niêm yết và gần bằng doanh số trung bình/ngày trên thị trường Philippines – khoảng 38 triệu USD – từ tháng 1 đến tháng 6 năm 2006).
Nếu tập hợp các cổ phiếu đang “hot” nhất ( trong số hàng trăm loại đang được giao dịch) của 3 thị trường (tại Hà Nội, Tp. HCM và OTC) thì chỉ có 13 loại có mức vốn hoá trên 100 triệu USD, trong đó có 4 loại có mức vôn hoá trên 500 triệu USD (ACB, Vinamilk, Sacombank, Nhiệt điện Phả Lại); 5 loại có mức vốn hoá từ 200 triệu đến 500 triệu USD (Techcombank, Eximbank, Đông á, Thuỷ điện Vĩnh Sơn- Sông Hinh, Khoan và dịch vụ dầu khí); Vị trí tiếp theo là VPBank (gần 200 triệu USD), Gemadept, Kinh Đô, REE (gần 150 triệu USD).
Tính hấp dẫn của thị trường OTC.
Cũng theo số liệu của HSBC, chỉ số P/E (thị giá trên thu nhập) của thị trường niêm yết khoảng 22,1 lần trong năm 2005 và 16,1 lần tính cho 4 quý gần đây. Con số này cao hơn mức trung bình năm 2005 của Châu á (ngoại trừ Nhật Bản) đạt khoảng 14,3 lần và tương đương với thị trường ấn Độ- đạt khoảng 21,8 lần. P/B (thị giá trên giá trị sổ sách – book value) tại thị trường niêm yết Việt Nam khoảng 3,8 lần.
Nhiều nhà quản lý quỹ dự báo rằng, trong năm 2006, lợi nhuận ròng bình quân của các doanh nghiệp Việt Nam sẽ tăng khoảng 20- 25% và lợi nhuận trên cổ phiếu (EPS) sẽ đạt khoảng 10- 15%. Tính riêng trong khối ngân hàng, P/E trung bình của các ngân hàng đạt khoảng 29 lần, P/B đạt khoảng 6 lần (cao hơn mức trung bình của các ngân hàng Châu á, ví dụ P/B trung bình của các ngân hàng Trung Quốc chỉ có 2,6 lần). ROE (lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu) của các ngân hàng Việt Nam đạt khá cao, khoảng từ 13% đến 31%, lợi nhuận ròng hàng năm tăng 50%, trong số đó các ngân hàng có ROE trên 20% gồm ACB, Eximbank, Techcombank, VPBank...
Các đánh giá của Vina Capital, Merrill Lynch hay một số tổ chức đầu tư quốc tế khác cho thấy, cổ phiếu ngân hàng vẫn là loại cổ phiếu được chú ý nhiều nhất trong số các lĩnh vực được quan tâm gồm: thực phẩm đồ uống, viễn thông, dầu và khí đốt, khoáng sản,... Cổ phiếu ngân hàng còn có sức hút đặc biệt, bởi chính sách cổ tức và chia cổ phiếu khá hấp dẫn với cổ đông. Ngoài ra, cổ tức mà các ngân hàng đã chia trong năm 2005 và báo hiệu sẽ chia trong năm 2006 đều đạt mức trên dưới 30%.
Kết luận: Như trên chúng ta đã thấy thị trường OTC của chúng ta đang hoạt động tốt. Nói cách khác nó là nhân tố quan trọng thúc đẩy thị trường chứng khoán Việt Nam đi lên. Nhưng nói tóm lại thì chúng ta nên có nhiều biện pháp khuyến khích các doanh nghiệp tham gia niêm yết chứng khoán, để tạo cho thị trường giao dịch chính thức phát triển mạnh mẽ. Có như vậy thị trường chứng khoán Việt Nam mới nhanh chóng cải thiện về bộ mặt của mình. Phát huy tốt trên thị trường quốc tế.
Chúng ta có thể khẳng định lại một lần nữa thị trường chứng khoán Việt Nam tuy mới xuất hiện nhưng tính cho đến thời điểm này thì đã đạt được nhiều kết quả tốt. Và đặc biệt hơn nữa Thị trường chứng khoán trong năm 2005 đã có bước phát triển khá vững chắc, hoạt động thị trường khá sôi động, tạo niềm tin và hứng khởi cho các nhà đầu tư trong nước cũng như nước ngoài. Đồng thời nó là cơ sở để cho thị trường chứng khoán năm 2006 và những năm tiếp theo tiếp tục phát huy thế mạnh đó.
III- Đánh giá chung.
1. Những thành tựu đạt được.
Thứ nhất tích tụ và tập trung vốn cho đầu tư:
Thông qua việc phát hành chứng khoán thì các khoản vốn manh mún, rải rác trong dân cư và các tổ chức kinh tế có thể được huy động nhằm đáp ứng nhu cầu đầu tư và phát triển sản xuất kinh doanh của đơn vị phát hành. Việc thu hút vốn qua thị trường vốn có thể được thực hiện bằng cách phát hành cổ phiếu, trái phiếu chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp, trái phiếu chính quyền địa phương, chứng chỉ quỹ...
Thị trường chứng khoán Việt Nam đã bắt đầu được 6 năm và tính đến tháng 7 năm 2006 đã có 47 doanh nghiệp tham gia niêm yết. Tổng số vốn huy động được là 8000 tỷ VNĐ so với tổng quy mô vốn là 365 000 tỷ VNĐ. Nhưng thị trường chứng khoán diễn ra khá sôi động ở tháng 8 và 9 năm 2006. Tháng 8, thị trường có 3 loại cổ phiếu mới được đưa vào giao dịch, gồm: 3,4 triệu cổ phiếu COM của công ty cổ phần Vật tư xăng dầu (Comeco), trị giá 34 tỷ đồng chính thức giao dịch ngày 7/8; 4 triệu cổ phiếu TTC của công ty cổ phần Gạch men Thanh Thanh, trị giá 40 tỷ đồng, chính thức giao dịch ngày 8/8; 1,4 triệu cổ phiếu SHC của công ty cổ phần Hàng Hải Sài Gòn, trị giá 14 tỷ đồng, chính thức giao dịch ngày 15/8. Nói chung tháng 8 trung bình mỗi phiên đạt 2,4 triệu cổ phiếu, trị giá 114 tỷ đồng, trong khi tháng 7 trung bình mỗi phiên có 1,4 triệu cổ phiếu, trị giá 82 tỷ đồng. Sang đến tháng 9 thì khối lượng giao dịch toàn thị trường qua trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh đạt 95.209.531 chứng khoán, trị giá 6.856 tỷ đồng, giảm 9% về khối lượng và giảm 8,8% về giá trị so với tháng 8/2006.
Nói riêng đến thị trường OTC, có tới 40 loại cổ phiếu được giao dịch trên thị trường này. Tổng giá trị vốn hoá của gần 40 loại cổ phiếu này lên tới 3,9 tỷ USD. Nếu bổ sung một cách đầy đủ thì giá trị vốn hoá của thị trường OTC có thể lên tới 5-6 tỷ USD.
Tình hình về phát hành trái phiếu tính đên năm 2005 thì trái phiếu chính phủ đạt khoảng 60.000 tỷ VNĐ, trái phiếu chính quyền địa phương đạt 7.000 tỷ VNĐ, trái phiếu doanh nghiệp đạt 2.000 tỷ VNĐ. Sang đến năm 2006 tình hình có nhiều thay đổi, Bộ tài chính ban hành quyết định 2276/QĐ-BTC về việc tập trung đấu thầu trái phiếu chính phủ tại trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội ngày 20/6/2006. Tính từ ngày 31/7/2006 đến ngày 11/9/2006, Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội đã tổ chức thành công 4 phiên đấu thầu trái phiếu chính phủ. Tổng khối lượng trái phiếu gọi thầu là 1.500 tỷ đồng. Tổng khối trái phiếu đăng ký tham gia đấu thầu là 4.183 tỷ đồng (gấp 2,78 lần khối lượng gọi thầu). Kết quả khối lượng trái phiếu trúng thầu đạt 1.200 tỷ đồng. Tính đến ngày 11/9/2006, số trái phiếu phát hành theo phương thức bảo lãnh phát hành của kho bạc nhà nước và ngân hàng phát triển Việt Nam đăng ký giao dịch trên trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội có 38 loại, với tổng giá trị đạt 7.027 tỷ đồng, trong đó có 8 loại của kho bạc nhà nước và 30 loại của ngân hàng phát triển Việt Nam. Năm 2006, Kho bạc nhà nước có nhiệm vụ huy động vốn thông qua phát hành các loại trái phiếu, công trái là 54.500 tỷ đồng.
Thứ hai là tạo lập cơ chế đầu tư và thúc đẩy quá trình sử vốn có hiệu quả:
Việc huy động vốn thông qua thị trường vốn (thông qua cơ chế thị trường) đều phải trả gốc và lãi suất tương ứng với quyền sử dụng đồng vốn đó. Do đó chủ sử dụng nguồn vốn đó phải có trách nhiệm trước đồng vốn đó đối với chủ sở hữu nó. Phải trả gốc và lãi đúng hạn. Chính vì vậy chủ sử dụng đồng vốn đó luôn phải cân nhắc kỹ cơ hội đầu tư, việc sử dụng vốn như thế nào là có hiệu quả nhất tiết kiệm nhất, có như vậy chủ sử dụng đồng vốn đó mới trả cho chủ sở hữu nó được đúng thời hạn quy định. Nếu sử dụng đồng vốn không hợp lý thì chủ sử dụng đồng vốn đó dẫn đến hậu quả là không thể trả nợ được có thể bị truy cứu trách nhiệm pháp lý hoặc ít nhất thì cũng đã đánh mất lòng tin của các chủ sở hữu đồng vốn. Điều này có thể dẫn tới người này muốn kinh doanh nhưng không thể huy động được vốn bằng bất cứ hình thức nào thông qua thị trường vốn.
Thị trường vốn luôn yêu cầu tính minh bạch công khai ở mức độ cao, và tính tự giám sát hoạt động của mình. Tính minh bạch công khai ở thị trường chứng khoán Việt Nam còn chưa tốt còn có nhiều bất cập. Nhưng cuối cùng chúng ta có thể đi tới tính minh bạch, công khai, tự giám sát một cách cao hơn. Nhờ có đặc tính này của thị trường chứng khoán mà các chủ sở hữu vốn yên tâm hơn khi bỏ tiền vào để đầu tư vào chứng khoán. Tính minh bạch, công khai, tự giám sát giúp các đơn vị kinh tế muốn phát hành công cụ vay nợ thông qua thị trường chứng khoán thì phải xây dựng tốt hình ảnh của mình trong mắt công chúng, hay nói cách khác thì họ trước hết phải có kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh tốt hơn các đối thủ cạnh tranh, có đội ngũ cán bộ giỏi. Do đó đồng vốn sẽ được điều tiết một cách hợp lý hơn.
Tới đây chúng ta có thể nói rằng thị trường vốn như một cái van an toàn, nó tạo lập cơ chế phân bổ vốn từ nơi vốn thừa đến nơi vốn thiếu, từ nơi đồng vốn sử dụng kém hiệu quả đến nơi sử dụng có hiệu quả. Chính vì điều này nó thúc đẩy các nhà đầu tư sử dụng đồng vốn mà mình có được một cách sáng suốt hơn, để tránh đầu tư không hợp lý không hiệu quả. Nói một cách khác các nhà đầu tư khi sử dụng động vốn chịu ảnh hưởng của các quy luật kinh tế: quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu... Nếu họ sử dụng đồng vốn không có hiệu quả thì họ sẽ bị đào thải. Chính vì sự sống còn của mình mà họ càng có thêm nhiều nỗ lực để đưa hiệu quả kinh tế của họ đạt mức cao nhất.
Thứ ba là thu hút vốn đầu tư nước ngoài có tính cơ động cao:
Thị trường chứng khoán là một thị trường bao hàm trong nó là yếu tố mạo hiểm và đặc biệt hơn nữa nó đòi hỏi phải có nhiều kinh nghiệm. Do đó, các chủ thể đầu tư nước ngoài đặc biệt là những nước có nền kinh tế phát triển lâu đời thì kinh nghiệm của họ về thị trường chứng khoán đã có rất nhiều. Đối với Việt Nam là một nước kinh tế đang phát triển thì với họ đầu tư vào đây là thu được lợi nhuận cao và an toàn. Do đó chúng ta nên tận dụng là một nước đang phát triển.
Năm 2005 được đánh dấu là năm đạt mức cao nhất về thu hút đầu tư nước ngoài kể từ sau khủng hoảng tài chính khu vực diễn ra năm 1997 với tổng số vốn đầu tư mới đạt được khoảng 6,338 tỷ USD, tăng 39,8% so với năm 2004, vượt 40,8% so với mục tiêu đề ra cho cả nước năm 2005.
Thứ tư là góp phần làm tăng trưởng kinh tế mạnh hơn.
Điều này được thể hiện ở chỗ. Những công ty tham gia niêm yết chứng khoán trên sàn giao dịch thì có thể thu được lợi nhuận cao hơn qua các năm . Theo báo cáo của kết quả kinh doanh trong 9 tháng đầu năm 2006 cho thấy các doanh nghiệp tham gia niêm yết tiếp tục tăng trưởng tốt, còn một số doanh nghiệp khác thì tụt lùi so với cùng kỳ 2005. Dưới đây là kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của 9 tháng đầu năm 2006:
Thực hiện kế hoạch kinh doanh 9 tháng của một số công ty niêm yết:
Đơn vị: tỷ đồng
tt
Mã
Luỹ kế 9 tháng
Năm 2006
% so với kế hoạch
Năm 2006
CK
Doanh thu
LNST
Doanh thu
LNST
1
AGF
866,0
33,0
102%
121%
2
BBC
235,4
9,7
64%
76%
3
BPC
98,7
5,7
74%
74%
4
BT6
300,1
22,5
105%
120%
5
CAN
129,7
5,7
59%
78%
6
DPC
43,3
2,1
72%
84%
7
HTV
65,5
9,9
84%
112%
8
KDC
727,3
126,0
69%
97%
9
NKD
279,8
40,6
70%
102%
10
PNC
128,4
3,4
66%
65%
11
REE
623,1
171,6
80%
170%
12
SFC
475,5
6,1
76%
155%
13
SSC
111,4
22,5
77%
68%
14
TNA
185,1
4,1
99%
-
15
TS4
84,9
4,3
57%
138%
(nguồn: Tạp chí đầu tư chứng khoán số 44, 30 tháng 10 năm 2006)
2. Những tồn tại và nguyên nhân.
a - Những tồn tại
* Tồn tại trong thị trường cổ phiếu
Thứ nhất là thiếu hàng hoá cho hoạt động đầu tư
Thứ hai là hoạt động đầu tư chứng khoán chưa trở thành hoạt động đầu tư phổ biến trong dân cư
Thứ ba là hoạt động đầu tư của các cá nhân còn thiếu chiến lược dài hạn, và đầu tư mang tính chất tập trung.
Thứ tư là các doanh nghiệp tham gia niêm yết tăng trưởng không đồng đều.
Thứ năm là thị trường chứng khoán còn hiện tượng phát hành cổ phiếu giả ra thị trường trong nước và thị trường thế giới.
* Những tồn tại ở thị trường trái phiếu:
Thứ nhất vai trò của các nhà tạo lập thị trường chưa thể hiện rõ cả về nghĩa vụ và quyền lợi.
Thứ hai là lãi suất của trái phiếu hiện nay chưa hợp lý.
Thứ ba là cần xây dựng một thị trường trái phiếu chuyên biệt: kỳ hạn của trái phiếu chính phủ phát hành trong thời gian qua còn tương đối đơn điệu, chưa đáp ứng nhu cầu đa dạng của nhà đầu tư.
b- Nguyên nhân của những tồn tại trên.
Thứ nhất do hệ thống pháp luật của Việt Nam trong lĩnh vực này chưa hoàn chỉnh.
Thứ hai do sự giám sát còn lỏng lẻo của các cơ quan có chức năng đối với thị trường chứng khoán.
Thứ ba do sự hiểu biết của dân cư về thị trường chứng khoán còn quá ít. Dẫn đến tình trạng hoạt động đầu tư vào thị trường chứng khoán chưa trở thành hoạt động đầu tư phổ biến trong dân cư
Thứ tư do thị trường chứng khoán Việt Nam còn thiếu tính công khai, minh bạch, cơ chế tự giám sát. Do đó không tạo được lòng tin của dân chúng đối với các đơn vị phát hành.
Thứ năm là việc triển khai các luật các nghị định về thị trường chứng khoán còn chậm, chưa hợp lý hoặc không tuân thủ pháp luật đề ra.
Thứ sáu do kinh nghiệm của các đơn vị kinh tế không nhiều. Thiếu hiểu biết về thị trường chứng khoán. Không thích cổ phần hoá vì sợ bị mất quyền lực. Dẫn đến tình trạng các công ty tham gia niêm yết trên thị trường chứng khoán còn ít.
Nói tóm lại, có nhiều nguyên nhân để dẫn đến tình trạng hoạtđộng kém của thị trường chứng khoán Việt Nam. Nhưng trên đây là một số nguyên nhân khá phổ biến và thường thấy ở thị trường chứng khoán Việt Nam nó đồng thời là cơ sở để chúng ta đưa ra một số giải pháp để nâng cao tình hình hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam trong tương nai.
Chương III- Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường chứng khoán Việt nam.
I- Định hướng phát triển thị trường chứng khoán Việt Năm (2006-2010).
1. Định hướng phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam tới 2010.
Định hướng phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam được thể hiện thông qua quyết định 898/2005/QĐ-TTg.
Thứ nhất: Mở rộng thị trường chứng khoán có tổ chức, thu hẹp thị trường tự do; phấn đấu đến năm 2010 tổng giá trị vốn hoá thị trường chứng khoán có tổ chức đạt 10-15% GDP.
Thứ hai: Nâng cao tính minh bạch của hoạt động thị trường chứng khoán, áp dụng thông lệ tốt nhất về quản trị công ty đối với các công ty đại chúng và các tổ chức kinh doanh chứng khoán.
Thứ ba: Nâng cao quy mô và năng lực của các tổ chức kinh doanh, dịch vụ chứng khoán đáp ứng yêu cầu phát triển thị trường chứng khoán.
Thứ tư: Mở cửa thị trường dịch vụ chứng khoán theo lộ trình hội nhập đã cam kết; áp dụng các nguyên tắc về quản lý thị trường chứng khoán theo khuyến nghị của tổ chức quốc tế và các Uỷ ban chứng khoán phù hợp với từng giai đoạn phát triển thị trường.
2. Định hướng phát triển hoạt động đầu tư chứng khoán.
Cùng với định hướng phát triển thị trường chứng khoán trong giai đoạn tới, thì định hướng cho hoạt động đầu tư chứng khoán cũng được coi trọng theo hướng:
Thứ nhất: tăng cường hoạt động quản lý đầu tư theo hướng công bằng, công khai, minh bạch và đảm bảo lợi ích của nhà đầu tư.
Thứ hai: Tăng nguồn hàng cho hoạt động đầu tư chứng khoán.
Thứ ba: Thu hút ngày càng đông đảo nhà đầu tư, đặc biệt chú trọng phát triển nhà đầu tư có tổ chức, đầu tư theo chiến lược dài hạn.
Thứ tư: Thu hút đầu tư thông qua việc hợp tác, liên kết thị trường vốn với quốc tế.
Theo định hướng đến năm 2010 thị trường vốn của Việt Nam có thể huy động 100.000 tỷ đồng đối với trái phiếu chính phủ; 100.000 tỷ đồng đối với trái phiếu doanh nghiệp; 150.000 tỷ đồng đối với chương trình cổ phần hoá của nhà nước và có thể huy động 100.000 tỷ đồng trong các doanh nghiệp. Như vậy thị trường vốn Việt Nam có thể cung cấp một con số 30 tỷ USD, đó là một sự đóng góp khá lớn không chỉ về lượng mà cả về chất của thị trường vốn đối với nền kinh tế.
II- Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam.
1. Nhóm giải pháp về tăng cường quản lý hoạt động đầu tư.
Thứ nhất: Các công ty chứng khoán, các trung tâm giao dịch chứng khoán giám sát các hoạt động giao dịch trên thị trường, các hành vi vi phạm trên thị trường để kịp thời xử lý: như hoạt động mua bán nội gián, hoạt động làm lũng đoạn thị trường, hoạt động làm thiệt hại đến lợi ích của nhà đầu tư, hay việc tung ra những thông tin sai sự thật.
Thứ hai: Hoàn thiện khung pháp lý về việc xử lý các hành vi vi phạm: bằng việc bổ sung trong bộ luật hình sự các hoạt động sai trái trên thị trường chứng khoán.
Thứ ba: Kiểm soát tình trạng cầm cố chứng khoán trên thị trường. Tránh trường hợp cầm cố làm nhiều lần của các nhà đầu tư. Và sớm ban hành quy chế chuẩn về hoạt động cầm cố chứng khoán trên thị trường chứng khoán.
Thứ tư: Đưa ra những lời cảnh báo cho các nhà đầu tư về rủi ro, về tình trạng diễn biến thị trường, cung cấp thông tin đầy đủ đến các nhà đầu tư.
Thứ năm: Chú trọng đến việc phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho công tác giám sát hoạt động giao dịch chứng khoán, đặc biệt là công tác nghiên cứu, phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin trong việc giám sát hoạt động giao dịch. Khi đó công tác quản lý hoạt động đầu tư mới có thể đạt được hiệu quả như mong muốn.
Thứ sáu: Ban quản lý kinh doanh chứng khoán thuộc UBCK phải chịu trách nhiệm trực tiếp. Chủ trì xây dựng và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, các văn bản hướng dẫn về tổ chức kinh doanh, dịch vụ chứng khoán; Chủ trì xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách, chiến lược, kế hoạch dài hạn, hàng năm, đề án về tổ chức và hoạt động của các tổ chức kinh doanh, dịch vụ chứng khoán; Chủ trì phối hợp giám sát việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, các quyđịnh về kinh doanh, dịch vụ chứng khoán; Theo dõi, tổng hợp, đánh giá tình hình hoạt động của các tổ chức kinh doanh, dịch vụ chứng khoán; Thẩm định hồ sơ, trình chủ tịch Uỷ ban cấp hoặc thu hồi giấy phép hoạt động đối với các tổ chức kinh doanh, dịch vụ chứng khoán, giấy phép thành lập quỹ đầu tư và phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư, chứng chỉ hành nghề đối với các tổ chức, cá nhân hành nghề của các tổ chức kinh doanh, dịch vụ chứng khoán; Thẩm định hồ sơ, trình Chủ tịch Uỷ ban cấp hoặc thu hồi giấy phép đặt văn phòng đại diện các tổ chức kinh doanh, dịch vụ chứng khoán nước ngoài tại Việt Nam; giám sát hoạt động của văn phòng đại diện theo quy định của pháp luật; Phối hợp tổ chức các kỳ thi sát hạch cấp lại chứng chỉ hành nghề kinh doanh và dịch vụ chứng khoán; Phối hợp với các đơn vị thuộc Uỷ ban lựa chọn công ty kiểm toán thực hiện kiểm toán các tổ chức kinh doanh, dịch vụ chứng khoán; Tham mưu giúp chủ tịch Uỷ ban hướng dẫn, hỗ trợ các tổ chức hiệp hội chứng khoán thực hiện mục đích, tôn chỉ và điều lệ hoạt động của hiệp hội; Kiểm tra việc thực hiện các quy định pháp luật của các hiệp hội; Phối hợp các tổ chức trong và ngoài nước hỗ trợ phát triển các tổ chức kinh doanh, dịch vụ chứng khoán theo quy định của bộ trưởng Bộ tài chính và quyết định của chủ tịch Uỷ ban.
2. Nhóm giải pháp về nâng cao tính minh bạch trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Thứ nhất: Nhóm giải pháp về hoàn thiện khuân khổ pháp luật về công bố thông tin.
Luật chứng khoán dành một chương quy định về đối tượng và phương thức công bố thông tin; nghĩa vụ công bố thông tin của tổ chức phát hành, tổ chức niêm yết, công ty đại chúng, công ty chứng khoán (CtyCK), công ty quản lý quỹ (CtyQLQ), công ty đầu tư chứng khoán và sở giao dịch chứng khoán (SGDCK), Trung tâm giao dịch chứng khoán (TTGDCK). Các đối tượng này khi công bố thông tin phải đồng thời báo cáo Uỷ ban chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) về nội dung thông tin được công bố. Các thông tin phải thực hiện theo chuẩn mực chung đảm bảo tính kịp thời, rõ ràng, chính xác. Công bố thông tin được tiến hành theo chế độ thường xuyên, liên tục, định kỳ hoặc đột xuất thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, ấn phẩm của công ty và các phương tiện thông tin của SGDCK, TTGDCK. Nội dung và phương thức công bố thông tin của từng đối tượng do Bộ tài chính quy định.
Luật chứng khoán quy định rõ về hoạt động công bố thông tin của từng đối tượng cụ thể, các thông tin phải công bố, thời điểm công bố.
Về nghĩa vụ công bố thông tin của công ty đại chúng, tại điều 101 Luật chứng khoán quy định: công ty đại chúng phải công bố thông tin định kỳ về báo cáo tài chính (BCTC) năm trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày có BCTC năm được kiểm toán. Công ty đại chúng phải công bố thông tin bất thường trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi xảy ra một trong các sự kiện như: tài khoản của công ty tại ngân hàng bị phong toả hoặc tài khoản được phép hoạt động trở lại sau khi bị phong toả; tạm ngừng kinh doanh; công ty bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc Giấy phép thành lập và hoạt động hoặc Giấy phép hoạt động... Công ty đại chúng phải công bố thông tin bất thường trong thời hạn 72 giờ, kể từ khi xảy ra một trong các sự kiện như: quyết định vay hoặc phát hành trái phiếu có giá trị từ 30% vốn thực có trở lên; quyết định của hội đồng quản trị (HĐQT) về chiến lược, kế hoạch phát triển trung hạn và kế hoạch kinh doanh hàng năm của công ty; quyết định thay đổi phương pháp kế toán áp dụng; công ty nhận được thông báo của Toà án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản doanh nghiệp. Đồng thời, theo yêu cầu của UBCKNN, công ty đại chúng phải công bố thông tin khi xảy ra một trong các sự kiện: có thông tin liên quan đến công ty đại chúng ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư; có thông tin liên quan đến công ty đại chúng ảnh hưởng lớn đến giá trị chứng khoán và cần phải xác nhận thông tin đó.
Đối với tổ chức phát hành thực hiện chào bán trái phiếu ra công chúng, ngoài nghĩa vụ công bố thông tin định kỳ theo quy định tại khoản 1 Điều 101 của luật, tổ chức phát hành thực hiện chào bán trái phiếu ra công chúng thì phải công bố thông tin bất thường trong thời hạn 72 giờ, kể từ khi xảy ra một trong các sự kiện quy định tại điểm a,b và c tại khoản 2 và khoản 3 Điều 101 của luật.
Về nghĩa vụ công bố thông tin của tổ chức niêm yết, tại điều 103 Luật chứng khoán quy định, ngoài nghĩa vụ công bố thông tin quy định tại điều 101 của Luật này, tổ chức niêm yết còn phải công bố các thông tin trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi bị tổn thất tài sản có giá trị từ 10% vốn chủ sở hữu trở lên; công bố thông tin về BCTC quý trong thời hạn 5 ngày, kể từ ngày hoàn thành BCTC quý; công bố thông tin theo quy chế của SGDCK, TTGDCK. Tổ chức niêm yết khi công bố thông tin phải đồng thời báo cáo SGDCK hoặc TTGDCK về nội dung thông tin được công bố.
Đối với công ty chứng khoán, CtyQLQ, trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày có BCTC năm được kiểm toán, CtyCK, CtyQLQ phải công bố thông tin định kỳ về BCTC năm. Luật chứng khoán cũng quy định trường hợp xảy ra một số sự kiện như: có quyết định khởi tố một số thành viên HĐQT hoặc hội đồng thành viên, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, Phó Giám đốc hoặc phó Giám đốc, Kế toán trưởng; Đại hội đồng cổ đông hoặc hội đồng thành viên thông qua hợp đồng sáp nhập với một công ty khác hoặc công ty bị tổn thất 10% giá trị tài sản trở lên...thì trong thời hạn 24 giờ, CtyCK, CtyQLQ phải báo cáo SGDCK hoặc TTGDCK để các tổ chức này công bố thông tin. CtyCK, CtyQLQ phải công bố thông tin theo yêu cầu của UBCKNN khi có thông tin liên quan đến công ty ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư.
Riêng đối với CtyQLQ còn có nghĩa vụ công bố thông tin định kỳ, bất thường và công bố thông tin theo yêu cầu của UBCKNN liên quan đến hoạt động của quỹ đại chúng.
Về nội dung công bố thông tin của công ty đầu tư chứng khoán, tại điều 106 Luật Chứng khoán quy định, công ty đầu tư chứng khoán chào bán cổ phiếu ra công chúng có nghĩa vụ thực hiện công bố thông tin như đối với công ty đại chúng. Công ty đầu tư chứng khoán có cổ phiếu niêm yết tại SGDCK, TTGDCK phải thực hiện công bố thông tin như đối với các tổ chức niêm yết khác.
Đối với SGDCK, TTGDCK, tại điều 107 quy định SGDCK, TTGDCK phải công bố các thông tin về giao dịch chứng khoán tại SGDCK, TTGDCK; thông tin về tổ chức niêm yết tại SGDCK, TTGDCK; thông tin về CtyCK, CtyQLQ, quỹ đầu tư chứng khoán, công ty đầu tư chứng khoán và các thông tin giám sát hoạt động của thị trường chứng khoán.
Để chuẩn bị cho việc triển khai thi hành luật chứng khoán có hiệu lực từ ngày 1/1/2007, việc nhanh chóng, khẩn trương soạn thảo các văn bản hướng dẫn thi hành là một trong những nhiệm vụ quan trọng để sớm đưa Luật chứng khoán đi vào cuộc sống. Hiện nay, UBCKNN, Bộ tài chính đang được giao chủ trì soạn thảo các văn bản này, trong đó có một số biên bản liên quan đến việc công bố thông tin, tạo tính minh bạch cho thị trường chứng khoán như:
Một là nghị định hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của luật chứng khoán, Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán (hai dự thảo nghị định này dự kiến trình chính phủ tháng 11/2006);
Hai là thông tư của Bộ tài chính hướng dẫn về công bố thông tin (Nội dung, phương thức công bố thông tin của tổ chức phát hành, tổ chức niêm yết, công ty đại chúng, CtyCK, CtyQLQ, công ty đầu tư chứng khoán, SGDCK, TTGDCK), Thông tư hướng dẫn thi hành một số điều Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và TTCK (hai dự thảo thông tư này dự kiến trình Bộ tài chính vào tháng 11/2006).
Ba là Quyết định của Bộ trưởng Bộ tài chính về chế độ báo cáo của Trung tâm lưu ký chứng khoán và thành viên lưu ký (dự kiến của Bộ tài chính vào tháng 12/2006), Quyết định của chủ tịch UBCKNN ban hành quy tắc đạo đức nghề nghiệp ( dự kiến trình tháng 12/2006)...
Việc soạn thảo các văn bản trên sẽ được thực hiện theo một quy trình chặt chẽ, đảm bảo tiến độ, đảm bảo tính công khai, lấy ý kiến rộng rãi các thành viên thị trường, các hiệp hội, tổ chức liên quan, ý kiến góp ý của công chúng đầu tư, bảo đảm tính minh bạch ngay từ khâu ban hành chính sách.
Trong các quy định trên, cần thiết phải làm rõ vai trò, trách nhiệm của từng chủ thể từ cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán, đến từng chủ thể riêng rẽ trong việc công khai, minh bạch các thông tin nhằm mục đích cuối cùng là bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các nhà đầu tư.
Ngoài ra, cũng cần có những đề xuất để xây dựng một khuân khổ pháp lý thuận lợi cho sự ra đời của công tyđịnh mức tín nhiệm. Sự ra đời của các tổ chức này là hết sức cần thiết. Hệ thống định mức tín nhiệm một cách chuẩn mực đem lại niềm tin cho các nhà đầu tư, mang lại lợi ích to lớn cho thị trường chứng khoán, góp phần tăng thêm tính minh bạch trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Thứ hai: Nhóm giải pháp hoạt động kế toán, kiểm toán trên thị trường chứng khoán.
Trong bối cảnh nước ta vừa mới gia nhập WTO và thị trường chứng khoán rất cấn thu hút sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài, hệ thống kiểm toán kế toán là một trong những trọng điểm cần được cải tiến không ngừng nhằm nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm pháp lý của các doanh nghiệp, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các nhà đầu tư và góp phần hơn nữa vào việc phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam.
Một là, chuẩn hoá và ban hành đầy đủ hệ thống chuẩn mực kế toán, kiểm toán Việt Nam theo chuẩn mực quốc tế;
Hai là, cần có giải pháp thiết thực cụ thể để đưa ra các chuẩn mực kế toán, kiểm toán vào cuộc sống, trở thành văn hoá kinh doanh của từng doanh nghiệp.
Một khi các doanh nghiệp vẫn còn thấy rằng việc áp dụng đúng các chế độ kế toán, kiểm toán không phải là bắt buộc, không tìm thấy ích lợi từ việc tuân thủ theo quy định chung, thì việc các doanh nghiệp áp dụng đúng chuẩn mực kế toán, kiểm toán vẫn còn là một “thứ xa xỉ và khó tìm thấy” trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Một biện pháp cũng đang được đặt ra là nên chăng có quy định bắt buộc tất cả các doanh nghiệp phải tiến hành kiểm toán (Hiện nay, Luật chứng khoán đã có những yêu cầu chặt chẽ hơn nhưng không phải là tất cả các doanh nghiệp đều phải bắt buộc được kiểm toán);
Ba là, có giải pháp nâng cao chất lượng kiểm toán, lựa chọn các công ty kiểm toán có đủ năng lực, uy tín, đây chính là cơ sở để các thông tin được cung cấp cho thị trường chứng khoán có tính chính xác. Bên cạnh đó, việc này cần được tiến hành song song với việc nâng cao chất lượng đào tạo, phổ biến kiến thức cho công chúng đầu tư. Đây chính là tiền đề quan trọng để tiếp tục phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam trong tương lai.
Bốn là, nâng cao chất lượng các tổ chức kiểm toán, vai trò của các tổ chức tự quản (SGDCK, TTGDCK, và các hiệp hội) trong việc phối hợp đào tạo, nâng cao các quy chuẩn đạo đức nghề nghiệp. Việc đào tạo cần được tiến hành dưới hình thức xã hội hoá, đảm bảo chất lượng, gắn lý luận và thực tiễn.
Thứ ba: Nhóm giải pháp nâng cao trách nhiệm công bố thông tin của doanh nghiệp.
Như đã đề cập ở trên, Luật chứng khoán quy định về công bố thông tin áp dụng không chỉ với tổ chức niêm yết, CtyCK, CtyQLQ, công ty đầu tư chứng khoán, SGDCK, TTGDCK, mà còn áp dụng cả đối với tổ chức phát hành, công ty đại chúng.
Như vậy việc cụ thể hoá, chuẩn hoá các quy định của Luật chứng khoán trong quy chế, Điều lệ cùng với việc xử lý nghiêm các vi phạm sẽ góp phần nâng cao tính minh bạch trên thị trường chứng khoán, góp phần bảo vệ quyền lợi của công chúng đầu tư khi tham gia thị trường chính thức. Việc áp dụng công bố thông tin được tuân thủ bình đẳng giữa các công ty niêm yết và chưa niêm yết. Trong văn bản hướng dẫn, cần quy định rõ ràng việc xây dựng chế độ công bố thông tin, nội dung, hình thức, thời gian, phương tiện công bố.
Bên cạnh đó, cần bổ sung một số giải pháp như áp dụng các quy tắc nghề nghiệp, chuẩn mực kế toán, kiểm toán, tuyên truyền phổ biến kiến thức nâng cao nhận thức của các doanh nghiệp và công chúng đầu tư về sự cần thiết và lợi ích do tính minh bạch của thị trường mang lại, xử phạt nặng các đối tượng chậm trễ trong việc công bố thông tin để tạo thói quen và tiền lệ tốt cho thị trường...
Có thể nói, để tạo cơ sở vững chắc cho thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển thì không thể không quan tâm đến việc nâng cao tính minh bạch của từng chủ thể, đối tượng, cũng như trong các hoạt động diễn ra trên thị trường. Chúng ta hi vọng nhiều vào tiềm năng phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam, nhưng cũng không thể phủ nhận một thực tế hiện nay là thị trường vẫn còn thiếu thông tin; việc công khai, minh bạch thông tin đã có chuyển biến đáng kể nhưng vẫn bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém. Tuy nhiên, nhận thức được điều đó và có đánh giá thẳng thắn sẽ giúp chúng ta đề ra những giải pháp hữu hiệu để khắc phục và nâng cao tính minh bạch trên thị trường chứng khoán. Đó cũng là mục tiêu động lực của cơ quan quản lý thị trường, cũng như sự quan tâm, kỳ vọng của công chúng vào sự phát triển ổn định, vững chắc của thị trường chứng khoán Việt Nam.
3. Nhóm giải pháp cho thị trường trái phiếu.
Để giải quyết những vấn đề khó khăn đang đặt ra trên thị trường trái phiếu, đại diện Vietcombank đã đưa ra một số đề xuất rất thiết thực với thực tế thị trường hiện nay.
Thứ nhất là vấn đề phí giao dịch, cần có quy định cụ thể về phí bảo lãnh, phí đấu thầu và có cơ chế phí ưu đãi phí đối với các giao dịch mua bán trái phiếu, giao dịch mua bán lại (repo) để phát triển nghiệp vụ này; nên đa dạng hoá kỳ hạn của các loại trái phiếu và thả dần việc điều chỉnh lãi suất trần để thị trường tự điều tiết.
Thứ hai về cơ chế giao dịch có thể quy định cụ thể đối với các giao dịch lô lớn là 10 tỷ đồng hoặc 50 tỷ đồng, và cho phép kéo dài thời gian giao dịch đến 3 giờ chiều thay vì 11 giờ trưa như hiện nay; cần sớm thống nhất hoạt động của thị trường trái phiếu về một đầu mối. Đại diện của ngân hàng Công thương Việt Nam cũng đưa ra đề xuất nâng cao tính thanh khoản của trái phiếu bằng cách Bộ tài chính và Ngân hàng Nhà nước ưu tiên cho phép các ngân hàng được hoạt động trên thị trường mở và có những biện pháp hỗ trợ về tài chính như được làm các đại lý giao dịch sơ cấp. Hiện nay, Ngân hàng Công thương Việt Nam đang triển khai các bước để nâng cao vai trò của một nhà tạo lập thị trường, nhưng cũng đang gặp phải một rủi ro lớn về tính thanh khoản của trái phiếu.
Sau khi nghe những ý kiến phản hồi từ phía các đối tượng trực tiếp tham gia vào hoạt động đấu thầu trái phiếu chính phủ trên TTGDCK Hà Nội, chúng ta có một số giải pháp như sau:
Về vấn đề kỹ thuật, như thời gian giao dịch có thể cho phép kéo dài tới 3h chiều. Thời gian thanh toán là T+1 sẽ tiến tới là T+0. Tuy nhiên, UBCKNN cần phải có thời gian để điều chỉnh vì điều này còn phụ thuộc vào hệ thống thanh toán của ngân hàng.
Về phí giao dịch trái phiếu, hiện nay, UBCKNN đang xây dựng một biểu phí xây dựng trái phiếu riêng và đặc biệt sẽ có một biểu phí giao dịch lùi cho các giao dịch lô lớn; đồng thời, nghiên cứu và ban hành các quy định cụ thể cho các loại hình giao dịch trái phiếu mới như giao dịch kỳ hạn, giao dịch repo, giao dịch hợp đồng tương lai (future)... để khuyến khích việc đầu tư và sử dụng trái phiếu; tách biệt kỳ hạn trái phiếu bảo lãnh và trái phiếu đấu thầu để thành viên đấu thầu tham gia đấu thầu tích cực hơn thông qua trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội; có định hướng chuyển từ bảo lãnh sang đấu thầu để phát huy tính thị trường của lãi suất trái phiếu chính phủ, tạo tiền đề để xây dựng đường cong lãi suất cho thị trường trái phiếu nói chung.
Về thống nhất hoạt động của thị trường trái phiếu, hiện nay vẫn còn tình trạng những trái phiếu niêm yết trước tháng 3/2006 giao dịch trên trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh, trái phiếu niêm yết sau tháng 3/2006 giao dịch trên thị trường chứng khoán Hà Nội. Vấn đề này là do lịch sử để lại nên vẫn tiếp tục thực hiện giao dịch đối với những trái phiếu niêm yết TTGDCK Tp. HCM cho đến khi đáo hạn thì kết thúc và thống nhất tập trung giao dịch về TTGDCK Hà Nội.
Cùng với những giải pháp được đưa ra từ phía UBCKNN, ông Nguyễn Đình Sơn, Phó tổng giám đốc KBNN cũng cho biết, để giải quyết những bất cập trên và tạo điều kiện cho các thành viên đấu thầu và các nhà đầu tư, trong thời gian tới KBNN, với tư cách là nhà phát hành, sẽ thực hiện ngay một số việc sau:
Thứ nhất, cùng với UBCKNN xây dựng các mức phí về đấu thầu trái phiếu, bảo lãnh trái phiếu, phí đối với giao dịch repo, giao dịch mua thẳng...;
Thứ hai, tạo tính thanh khoản cho trái phiếu thông qua việc phát hành “lô lớn”, sẽ được thực hiện từ năm 2007. Đây là một điểm rất mới trong việc phát hành trái phiếu chính phủ, nghĩa là phát hành một loạt trái phiếu có khối lượng lớn, theo nhiều đợt, nhưng có cùng ngày đáo hạn và lãi suất danh nghĩa, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý cũng như hoạt động mua bán, giao dịch trái phiếu trên thị trường thứ cấp, nâng cao tính thanh khoản trái phiếu và tạo cơ sở cho việc hình thành đường cong lãi suất chuẩn trên thị trường;
Thứ ba, đa dạng hoá kỳ hạn trái phiếu, bên cạnh loại trái phiếu kỳ hạn 5 năm hiện nay, sẽ phát hành loại trái phiếu kỳ hạn 7 năm, 10 năm và từng bước nâng dần kỳ hạn trái phiếu khi điều kiện cho phép nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của ngân sách Nhà nước và nhu cầu đa dạng hoá các công cụ đầu tư;
Thứ tư, là thông báo công khai lịch biểu phát hành trái phiếu chính phủ trong năm vào tháng 1 đầu năm và lịch biểu phát hành trái phiếu chính phủ hàng quý vào tháng đầu quý, để giúp các nhà đầu tư chủ động bố trí nguồn vốn tham gia thị trường;
Về Bộ tài chính và vụ tài chính Ngân hàng cũng cho biết, Bộ tài chính sẽ thay đổi cơ chế điều hành lãi suất theo cơ chế thị trường, có chính sách lãi suất trần phù hợp trước những thay đổi lãi suất trên thị trường vốn, dần tiến tới để thị trường quyết định theo quy luật cung cầu của thị trường; sửa đổi sự chưa hợp lý giữa phí đấu thầu và phí bảo lãnh phát hành.
4. Nhóm giải pháp về tăng cường nguồn hàng cho thị trường chứng khoán.
Thứ nhất là cải tiến phương thức phát hành trái phiếu chính phủ, đưa trái phiếu công trình, trái phiếu đô thị lên niêm yết.
Thứ hai là đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước gắn với việc phát hành cổ phiếu ra công chúng và niêm yết trên thị trường.
Về mặt chính sách: Thực tốt nghị định 187/2004/NĐ-CP về việc chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước sang hình thức công ty cổ phần. Đồng thời đẩy mạnh tiến độ Quyết định 528/2005/QĐ-TTg về việc phê duyệt danh sách các công ty cổ phần hoá, và cổ phần hoá gắn liền với việc đăng ký giao dịch, niêm yết trên thị trường.
Tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng: Việc tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng ở Việt Nam còn tương đối khó khăn. Vì ở nước ta vẫn còn bị ảnh hưởng của cơ chế thị trường tập trung quan liêu bao cấp. Do đó, chúng ta cần sớm có những nghị định, luật quy định về việc đối sử công bằng giữa các loại doanh nghiệp doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân. Để tạo nên một sân chơi bình đẳng giữa các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài.
Về mặt công nghệ của doanh nghiệp: ở nước ta hiện nay vấn đề về công nghệ là vấn đề hết sức yếu kém. Chính vì yếu kém cho nên hệ số sử dụng công nghệ là không cao, dẫn đến tình trạng năng suất sản xuất là rất kém so với khu vực và trên thế giới. Lý do, mà tình hình công nghệ ở nước ta yếu kém là vì: thứ nhất chúng ta thiếu người am hiểu, có trình độ khai thác và sử dụng công nghệ, thứ hai là chính vì chúng ta thiếu các chuyên gia giỏi về yếu tố khoa học công nghệ nên chúng ta thường mua phải những công nghệ lạc hậu không phù hợp với tình hình sản xuất kinh doanh hiện tại. Chính vì những lý do này mà Nhà nước cần có chính sách đào tạo những lớp cán bộ có trình độ chuyên môn sâu ở lĩnh vực này.
Về lực lượng lao động: vấn đề lao động ở Việt Nam hiện tại thì rất dồi dào vì nước ta là nước dân số trẻ chiếm đa số. Nhưng lao động của nước ta thì trình độ chuyên môn còn kém, việc đào tạo lực lượng lao động còn mất cân đối giữa công nhân kỹ thuật, lao động lành nghề và các chuyên gia.Và đặc biệt hơn nữa lao động nước ta chưa có tác phong công nghiệp, còn thiếu cả ý thức và trách nhiệm trong lao động do đó hiệu quả sản xuất kinh doanh không cao. Do đó chúng ta cần đổi mới cơ cấu đào tạo lao động và giáo dục ý thức, trách nhiệm, tác phong của đội ngũ lao động.
Về công tác tuyên truyền giáo dục chính sách: Cổ phần hoá ở tất cả các doanh nghiệp còn yếu kém, còn mang nặng tính hình thức chưa đi vào thực chất. Do đó, quá trình cổ phần hoá của các doanh nghiệp nhà nước chưa mang lại hiệu quả cao góp phần đẩy mạnh sự phát triển của thị trường chứng khoán. Do đó chúng ta cần tuyên truyền các chủ trương, chính sách của đảng và nhà nước về công cuộc cổ phần hoá. Đặc biệt hơn là nâng cao ý thức của các cán bộ làm công tác này.
Thứ ba là từng bước đưa các doanh nghiệp lớn, Ngân hàng thương mại cổ phần tham gia niêm yết trên thị trường chứng khoán.
5. Nhóm giải pháp thu hút đông đảo nhà đầu tư.
Xuất phát từ nhận định của tạp chí, báo của Trung Quốc chúng ta muốn thu hút đông đảo nhà đầu tư trong nước lẫn nhà đầu tư nước ngoài thì cần thực hiện một số biện pháp sau:
Thứ nhất để thu hút đông đảo nhà đâu tư trong nước chúng ta cần có giải pháp về đào tạo, nâng cao kiến thức nhà đầu tư, công chúng và các tổ chức phụ trợ trên thị trường chứng khoán.
Trung tâm nghiên cứu và đào tạo chứng khoán thuộc UBCK phối hợp với VAFI (hiệp hội các nhà đầu tư tài chính Việt Nam), và các trường đại học trên cả nước tiến hành mở các lớp về đào tạo chứng khoán (ngắn hạn, trung hạn và dài hạn). Qua đó giúp các nhà đầu tư đánh giá được tiềm năng cũng như thời cơ mà thị trường chứng khoán mang lại. Và cũng giúp các tổ chức phụ trợ trên thị trường thực hiện tốt chức năng của mình.
Thứ hai là tăng tính hấp dẫn của chứng khoán thông qua chính sách thuế đối với thu nhập từ hoạt động đầu tư chứng khoán.
Hiện nay, trên thị trường chứng khoán Việt Nam các khoản thu nhập từ chứng khoán được tạm thời miễn thuế điều này có tác dụng khuyến khích đầu tư chứng khoán rất nhiều, đặc biệt là trong tình hình các khoản thu nhập từ gửi tiết kiẹm và mua bán vàng của cá nhân không bị đánh thuế. Về lâu dài, thì cần có chính sách thuế đối với thu nhập từ chứng khoán.
Thứ ba tăng số lượng nhà đầu tư có tổ chức, nhà đầu tư chiến lược.
Phát triển tổ chức đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp, khuyến khích các tổ chức này thành lập các công ty quản lý quỹ và quỹ đầu tư chứng khoán, phấn đấu tỷ trọng đầu tư vào thị trường chứng khoán của tổ chức đầu tư chuyên nghiệp đạt 20-25% tổng giá trị thị trường niêm yết chứng khoán niêm yết vào năm 2010. Các nhà đầu tư có tổ chức có vai trò quan trọng trên thị trường chứng khoán so với các nhà đầu tư cá nhân.
Thứ tư là cải thiện môi trường, cơ sở đầu tư chứng khoán.
Theo tình hình thực tế cho thấy cơ sở vật chất kỹ thuật của các trung tâm môi giới chứng khoán vô cùng yếu kém. Không có đủ diện tích của mặt bằng xây dựng, thiếu thông tin, bảng điện tử, nhân viên phục vụ không tốt. Do đó, chúng ta cần chú trọng tới mảng này thì chúng ta mới thu hút được đông đảo nhà đầu tư.
Để thu hút đông đảo nhà đầu tư nước ngoài chúng ta cần ổn định chính sách đầu tư. Vì theo tạp chí của Trung Quốc cho rằng ở Việt Nam có tình trạng này. Một ví dụ điển hình cho thấy khi chỉ cổ phiếu tăng lên đến 570 điểm thì Uỷ ban chứng khoán sẽ ra chính sách giữ tỷ lệ cổ phiếu, hạn chế đầu tư nước ngoài. Khi chỉ số chứng khoán giảm mạnh xuống còn 130 điểm thì Uỷ ban này lại ra chính sách mở rộng chính sách đầu tư nước ngoài khiến cho cổ phiểu đàn hồi trở lại con số 280 điểm.
Hai là: theo nhận định của phía nước ngoài. Uỷ ban chứng khoán Việt Nam yêu cầu các công ty tham gia thị trường chứng khoán phải công khai tài chính băng tiếng việt mà không bắt buộc phải dùng tiếng Anh hay tiếng Trung Quốc. Do đó chúng ta cần có biện pháp hợp lý hoá thủ tục này để thu hút thêm nhà đầu tư nước ngoài.
Kết luận: thị trường chứng khoán Việt Nam còn rất nhiều bất cập, do đó chúng ta cũng có nhiều giải pháp khác nhau để giải quyết những bất cập đó. Do giới hạn tìm hiểu của đề tài có hạn. Cho nên tôi chỉ có thể đưa ra một số giải pháp ở một số lĩnh vực như trên.
C- kết luận
Qua bài viết của mình, em có thể thấy rằng: Thị trường chứng khoán Việt Nam sau 6 năm hoạt động còn yếu kém về mọi mặt, cả về cơ sở vật chất, kiến thức nhà đầu tư, cả về vấn đề cổ phần hoá trong doanh nghiệp... Để khắc phục tình trạng này chúng ta không những cần có những giải pháp cụ thể là nâng cao tính công khai minh bạch, tăng cường sự quản lý giám sát của cơ quan nhà nước, hoàn thiện khuôn khổ pháp luật, nâng cao hiểu biết của mọi tầng lớp dân cư về thị trường chứng khoán... mà chúng ta cần có một giải pháp đồng bộ, nâng cao ý thức, trách nhiệm của mọi cơ quan quản lý nhà nước (Bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân các cấp), các cán bộ quản lý kinh tế, tầng lớp trí thức, nhà đầu tư, các đơn vị kinh tế nhà nước và tư nhân và và mọi tầng lớp dân cư đóng sức mình cho sự nghiệp chung của đất nước, và đặc biệt là thị trường chứng khoán Việt Nam , một kênh huy động vốn quan trọng. Mục đích cuối cùng của giải pháp trên là chúng ta tạo ra đất nước ta một thị trường chứng khoán, công khai, minh bạch, công bằng, bình đẳng giữa mọi thành phần kinh tế. Và đặc biệt hơn nó phát huy được chức năng và nhiệm vụ của mình trong nền kinh tế.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn thầy Nguyễn Hồng Minh đã tận tình giúp em hoàn thành được đề tài này, và đồng thơi em cũng xin chân thành cảm ơn đội ngũ giáo viên của trường đại học Kinh Tế Quốc Dân và đặc biệt là các thầy cô giáo bộ môn kinh tế đầu tư đã trang bị kiến thức cơ bản cho em trong nhiệm vụ học tập và nghiên cứu.
Mục lục
Tên mục lục trang
Chương I – Lý luận chung về thị trường chứng khoán 1
I – Tổng quan về thị trường chứng khoán 1
1. Khái niệm và bản chất của thị trường chứng khoán 1
2. Vị trí và cấu trúc của thị trường chứng khoán 2
2.1. Vị trí của TTCK trong thị trường tài chính 2
2.2. Cấu trúc của thị trường chứng khoán 3
3. Các chủ thể trên thị trường chứng khoán 5
3.1. Chủ thể phát hành 5
3.2. Nhà đầu tư 6
3.3. Các tổ chức liên quan đến thị trường chứng khoán 6
4. vai trò của thị trường chứng khoán 8
II- Chứng khoán và việc phát hành chứng khoán 10
1. Chứng khoán và việc phân loại chứng khoán 10
2. Phát hành chứng khoán 14
2.1. Các chủ thể phát hành 14
2.2. Các phương thức phát hành chứng khoán 14
3. Cách thức đầu tư chứng khoán 15
3.1. Thị trường sơ cấp 15
3.2. Thị trường thứ cấp 17
III – Niêm yết chứng khoán 18
1. Khái niệm chức năng của sở giao dịch chứng khoán 18
2. Tổ chức và hoạt động của sở giao dịch chứng khoán 19
3. Thành viên của sở giao dịch chứng khoán 21
4. Niêm yết chứng khoán 22
Chương II- thực trạng thị trường chứng khoán việt nam 24
I- thị trường sơ cấp 24
1. Đầu tư vào cổ phiếu 24
2. Đầu tư vào trái phiếu 27
II- Thị trường thứ cấp 31
1. Thực trạng của việc niêm yết chứng khoán ở Việt Nam
hiện nay 31
2. Kết quả giao dịch của thị trường chứng khoán trong
thời gian vừa qua 38
3. Đầu tư cổ phiếu ngoài sàn OTC 39
III- đánh giá chung 41
1. Những thành tựu đạt được 41
2. Những tồn tại và nguyên nhân 44
Chương III- một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động của thị trường chứng khoán 45
I- Định hướng phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam
tới năm 2010 45
1. Định hướng phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam
tới năm 2010. 45
2. Định hướng phát triển hoạt động đầu tư chứng khoán 46
III- Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của
Thị trường chứng khoán 46
1. Nhóm giải pháp về tăng cường quản lý hoạt động đầu tư 46
2. Nhóm giải pháp về nâng cao tính minh bạch trên thị trường
chứng khoán Việt Nam 48
3. Nhóm giải pháp cho thị trường trái phiếu 52
4. Nhóm giải pháp về tăng cường nguồn hàng cho thị trường
chứng khoán 54
5. Nhóm giải pháp thu hút đông đảo nhà đầu tư 55
Tài liệu tham khảo:
1. Giáo trình thị trường chứng khoán
Chủ biên: PGS. TS. Nguyễn Văn Nam
PGS. TS. Vương Trọng Nghĩa.
2. Tạp chí Chứng khoán Việt Nam số 1+2 năm 2006
3. Tạp chí Chứng khoán Việt Nam số 9 năm 2006.
4. Tạp chí Chứng khoán Việt Nam số 10 năm 2006.
5. Tạp chí Đầu tư chứng khoán số 43 ngày 23 tháng 10 năm 2006.
6. Tạp chí Đầu tư chứng khoán số 44 ngày 30 tháng 10 năm 2006.
7. Các trang Website: www. Nyse.com, www.vse.org.VN, www.hastc.org.vn,....
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam và giải pháp nâng cao hoạt động của thị trường này.doc