Đề tài Thực trạng và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại trong kinh doanh xuất nhập khẩu ở Việt Nam

Buôn lậu, gian lận thương mại thực sự là một quốc nạn, là một trong bốn nguy cơ của cách mạng Việt Nam giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước. Buôn lậu, gian lận thương mại gây nên những hậu quả nặng nề trên nhiều lĩnh vực đời sống, kinh tế, chính trị, văn hóa, đạo đức. Chống buôn lậu và gian lận thương mại là một trong những nhiệm vụ khó khăn, phức tạp của toàn Đảng, toàn dân, của tất cả các ngành, các cấp, của mọi thành phần kinh tế. Đảng và nhà nước ta trong nhiều năm qua luôn quan tâm và chỉ đạo sát sao công tác đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại và đã đạt đư-ợc nhiều kết quả tốt, góp phần ổn định đời sống nhân dân, đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và là một yếu tố trực tiếp làm cho một số ngành sản xuất tăng trưởng rõ rệt như: sản xuất xe đạp, điện tử, vật liệu xây dựng, điện gia dụng. Tuy vậy, đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại vẫn còn là nhiệm vụ nặng nề, gian khổ trước mắt và lậu dài của toàn Đảng, toàn dân, của ngành Hải quan nói riêng.

pdf87 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4204 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại trong kinh doanh xuất nhập khẩu ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, công chức làm công tác này vừa thiếu về số lượng, vừa yếu về trình độ, năng lực thực thi nhiệm vụ. Trang thiết bị và các điều kiện cần thiết phục vụ công tác thu thập, xử lý thông tin nghiệp vụ Hải Quan chưa được đáp ứng đầy đủ. Hệ thống Cơ sở dữ liệu, đường truyền và công cụ phục vụ phân tích, xử lý thông tin còn rất hạn chế; đặc biệt tại một số đơn vị làm công tác này nhưng chưa được trang bị máy tính và kết nối hệ thống… -Hạn chế về công tác quản lý rủi ro: Việc áp dụng Quản lý rủi ro được thực hiện trên cơ sở quy định tại Điều 15 Luật hải quan bổ sung, sửa đổi năm 2005: "Kiểm tra hải quan được thực hiện trên cơ sở phân tích thông tin, đánh giá việc chấp hành pháp luật của chủ hàng, mức độ rủi ro về vi phạm pháp luật hải quan …"; và một số nội dung quy định tại Nghị định 154/2005/NĐ-CP ngày 15/12/2005, thông tư 112/2005/TT-BTC ngày 15/12/2005 của Bộ Tài chính. Trên cơ sở các quy định nêu trên, Tổng cục Hải quan ban hành Quyết định 2148/QĐ-TCHQ ngày 31/12/2005 và công văn hướng dẫn số 3418/TCHQ-ĐT. Như vậy đã có cơ sở pháp 59 lý cho việc áp dụng Quản lý rủi ro. Tuy vậy các nội dung quy định của các văn bản quy phạm pháp luật còn chung chung, chưa minh bạch hóa trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước (trong đó có cơ quan Hải quan), cán bộ, công chức hải quan và doanh nghiệp trong việc áp dụng quản lý rủi ro. Dẫn đến những nhận thức không thống nhất, nhầm lẫn cách hiểu và áp dụng, làm ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả của việc áp dụng Quản lý rủi ro. - Nguyên nhân : Ngành Hải quan đang trong giai đoạn chuyển đổi phương pháp quản lý từ truyền thống sang quản lý hiện đại, quá trình chuyển đổi này đòi hỏi từng bước nâng cao trình độ, năng lực, nhận thức và tư duy quản lý của đội ngũ cán bộ, công chức hải quan. Lãnh đạo tại một số cấp, đơn vị Hải quan chưa nhận thức đầy đủ vai trò cũng như ý thức trách nhiệm trong việc triển khai thực hiện công tác thu thập, xử lý thông tin nghiệp vụ hải quan và áp dụng quản lý rủi ro, dẫn đến thiếu sự quan tâm trong việc chỉ đạo, điều hành và triển khai thực hiện công tác này; chưa chú trọng đầu tư về con người, trang thiết bị cho lực lượng làm công tác thu thập, xử lý thông tin nghiệp vụ hải quan và quản lý rủi ro. Qua kiểm tra tại một số Cục Hải quan tỉnh, thành phố cho thấy hầu như công tác thu thập, xử lý thông tin nghiệp vụ hải quan và áp dụng Quản lý rủi ro chưa được quan tâm triển khai đúng mức. Kết quả kiểm tra cụ thể tại một đơn vị Cục Hải quan thành phố lớn cho thấy việc triển khai công tác này lại rất chậm. Công tác đào tạo, tập huấn nghiệp vụ thu thập, xử lý thông tin và Quản lý rủi ro chưa được quan tâm đúng mức; còn tình trạng đào tạo không đúng đối tượng hoặc nhiều trường hợp cán bộ, công chức sau khi được cử đi đào tạo ở trong nước hoặc nước ngoài nhưng lại bố trí công việc khác. Thu thập, xử lý thông tin và Quản lý rủi ro là công việc khó, đòi hỏi những cán bộ có trình độ, năng lực nhất định. Quá trình thực hiện công tác này thường dễ dẫn đến sự so sánh với các công việc khác trong Ngành hoặc dẫn đến tư tưởng chán nản. Trong khi hiện nay, Ngành Hải quan chưa có một chế độ, chính sách thoả đáng đối với đội ngũ cán bộ làm công tác này. Điều đó dẫn đến tình trạng nhiều cán bộ, công chức không chuyên tâm công việc, có tâm lý ngồi chờ hết thời gian để luân 60 chuyển sang các đơn vị khác. Việc cập nhật và truyền nhận thông tin dữ liệu được thực hiện theo quy định do Tổng cục ban hành nhưng thực tế việc chấp hành các quy định này chưa nghiêm túc. Thông tin chưa được cập nhật kịp thời, thường xuyên và đầy đủ. Dữ liệu còn sai sót. Nhiều thông tin về chính sách quản lý hàng hoá, chính sách thuế, hàng hoá nhạy cảm... chưa được chuyển giao kịp thời để cập nhật hệ thống quản lý rủi ro. Thông tin nghiệp vụ, kỹ thuật công nghệ thông tin còn thiếu và yếu kém. Về cơ bản các nguồn thông tin ngoài ngành chưa được thu thập, xử lý, ứng dụng vào phục vụ quản lý rủi ro. Đặc biệt thông tin tình báo chưa được đầu tư và quan tâm đúng mức, dẫn đến sản phẩm của hoạt động này còn rất hạn chế, chưa thực sự ngang tầm với phương pháp quản lý rủi ro. Hơn nữa, hệ thống đường truyền tuy đã xây dựng trong nhiều năm, nhưng chưa được nâng cấp hoàn thiện. Trong khi hiện nay, việc truy cập, khai thác, sử dụng ngày càng lớn; lưu lượng thông tin truyền nhận giữa các cấp, đơn vị phát triển mạnh; dẫn đến hiện tượng quá tải về đường truyền và xử lý dữ liệu trên hệ thống. Việc đánh giá, phân loại rủi ro chủ yếu dựa vào hệ thống cơ sở dữ liệu của ngành Hải quan. Trong khi, hệ thống cơ sở dữ liệu này được xây dựng trong những năm trước đây và bị phân tán tại các địa phương. Do vậy, việc xử lý dữ liệu phục vụ cho việc đánh giá, phân loại rủi ro không tập trung; dữ liệu trong các hệ thống Cơ sở dữ liệu không đồng nhất (sai lệch về số liệu). Điều này dẫn đến tình trạng cùng một thời điểm kết quả đánh giá, phân loại rủi ro (phân luồng) cho cùng một doanh nghiệp hoặc cùng một lô hàng xuất khẩu, nhập khẩu tại các địa phương khác nhau cho kết quả khác nhau; thậm chí ngay trong một Cục Hải quan tỉnh, thành phố nhưng tại các Chi cục HQ khác nhau, kết quả phân luồng cho ra khác nhau. II. MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ, PHƢƠNG HƢỚNG CỦA HOẠT ĐỘNG CHỐNG BUÔN LẬU VÀ GIAN LẬN THƢƠNG MẠI 1.Mục tiêu, nhiệm vụ của hoạt động chống buôn lậu và gian lận thƣơng mại đến năm 2010 1.1.Mục tiêu 61 Bên cạnh nhiệm vụ tăng cường kiểm tra, kiểm soát các hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa, phương tiện, hành khách xuất nhập cảnh; đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại, vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới, nhằm bảo vệ lợi ích, chủ quyền kinh tế, an ninh kinh tế, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội... ngành Hải quan còn phải thực hiện mục tiêu góp phần tích cực bảo hộ sản xuất trong nước, chống thất thu thuế XNK, bảo vệ quyền lợi công bằng, hợp pháp cho các doanh nghiệp XNK buôn bán với nước ngoài; tạo điều kiện thông thoáng cho các doanh nghiệp XNK, các nhà đầu tư, liên doanh trong nước và nước ngoài, tạo điều kiện tốt cho hành khách XNC, du lịch... và lĩnh vực kinh tế đối ngoại phát triển thuận lợi, hòa nhập với tập quán, luật pháp thương mại, giao lưu quốc tế tại khu vực và thế giới. 1.2.Nhiệm vụ Ngành Hải quan khi tiến hành kiểm tra, giám sát, kiểm soát có nhiệm vụ tổ chức đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới; áp dụng các biện pháp phát hiện, ngăn chặn, điều tra, xử lý các hành vi vi phạm quy định của pháp luật. Do đó, công tác phòng ngừa và đấu tranh ngăn chặn đều phải được coi trọng thường xuyên, phải được kết hợp chặt chẽ, không để sơ hở trong phòng ngừa; đấu tranh ngăn chặn phải kiên quyết, kịp thời. Trong công tác phòng ngừa, đặc biệt phải chú trọng trên các lĩnh vực: - Khi có chế độ chính sách mới liên quan đến việc quản lý nhà nước về hải quan đều phải được hướng dẫn, quán triệt ngay từ đầu, những gì còn sơ hở, có thể phát sinh tiêu cực hoặc dễ bị lợi dụng, thì cần được phát hiện, đề xuất lên trên sửa đổi, bổ sung; trước hết các đơn vị phải có kế hoạch chủ động phòng ngừa. - Coi trọng phòng ngừa trong nội bộ bằng các biện pháp tổng hợp (kiểm tra, giám sát, quản lý lẫn nhau, nhất là những cửa khẩu trọng điểm, những khâu công tác trọng yếu...), không để các hiện tượng tiêu cực, móc nối, tiếp tay cho đối tượng buôn lậu xảy ra rồi mới chạy theo giải quyết. 62 - Tổ chức phối hợp chặt chẽ giữa các khâu nghiệp vụ trong nội bộ, nơi tiếp giáp giữ các đơn vị quản lý địa bàn, giữa các lực lượng chức năng bên ngoài, giữa tuyến trước và tuyến sau bằng các quy chế, phương án phối hợp, dự kiến các tình huống sát thực, chủ động trên từng tuyến, từng địa bàn cụ thể. - Công tác đấu tranh ngăn chặn cần phải kết hợp chặt chẽ giữa công tác điều tra bí mật và công tác tuần tra kiểm soát công khai, tập trung và cơ động, linh hoạt trên các hướng, địa bàn, trong các đối tượng, thời gian trọng điểm... 2.Phƣơng hƣớng hoạt động đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thƣơng mại trong giai đoạn trƣớc mắt 2.1. Đẩy mạnh công tác thu thập, xử lý thông tin nghiệp vụ Hải quan và nâng cao hiệu quả của hệ thống quản lý rủi ro Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống các văn bản quy định liên quan nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động thu thập, trao đổi, cung cấp thông tin nghiệp vụ hải quan, bao gồm: Xây dựng các Thông tư liên tịch giữa Bộ Tài chính với các Bộ, ngành liên quan nhằm tạo hành lang trao đổi, cung cấp thông tin phục vụ quản lý hải quan; xây dựng và hoàn thiện Quy trình thu thập, xử lý thông tin nghiệp vụ hải quan nhằm nâng cao năng lực, hiệu quả của công tác này; xây dựng và triển khai thực hiện Quy chế về thu thập, xử lý, quản lý, khai thác, sử dụng thông tin thống nhất trong toàn ngành; Tiếp tục triển khai Quyết định 608/QĐ-TCHQ ngày 30/03/2007 trong đó tập trung hoàn thiện việc nâng cấp hệ thống CI01 giai đoạn 2, triển khai vận hành, sử dụng ở cả 03 cấp: Tổng cục, Cục và Chi cục đồng thời tổ chức tập huấn nghiệp vụ thu thập xử lý thông tin và Quản lý rủi ro trong toàn Ngành. Tiếp tục hoàn thiện đề án nâng cao hiệu quả áp dụng Quản lý rủi ro trong quy trình thủ tục hải quan đối với hàng hoá xuất nhập khẩu thương mại giai đoạn 2. Nghiên cứu xây dựng phương án triển khai áp dụng Quản lý rủi ro trong thông quan điện tử và xây dựng bộ tiêu chí Quản lý rủi ro áp dụng đối với hành khách, phương tiện vận tải xuất nhập cảnh trên tuyến hàng không. 63 Kiện toàn về tổ chức, nhân sự và hoạt động của các cấp, đơn vị thực hiện công tác thu thập, xử lý thông tin nghiệp vụ hải quan và quản lý rủi ro. Trên cơ sở Đề án nâng cấp, hoàn thiện Quản lý rủi ro giai đoạn 2, Tổng cục Hải quan trình Bộ kế hoạch kiện toàn về tổ chức, nhân sự và hoạt động của hệ thống các đơn vị làm công tác Quản lý rủi ro theo hướng chuyên nghiệp và chuyên sâu về nghiệp vụ quản lý rủi ro, trong đó có quy định chế độ, chính sách đãi ngộ và công tác luân chuyển cán bộ cho đội ngũ làm công tác này. Tăng cường công tác đào tạo nhằm nâng cao kiến thức và năng lực thực thi nhiệm vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác thu thập, xử lý thông tin nghiệp vụ hải quan và quản lý rủi ro. 2.2. Tăng cường công tác tham mưu chỉ đạo, kiện toàn công tác tổ chức, nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống buôn lậu: Tiếp tục làm tốt công tác cảnh báo phương thức thủ đoạn, hiện tượng nổi cộm về buôn lậu, vận chuyển trái phép các chất ma tuý, kịp thời tham mưu cho lãnh đạo các cấp chỉ đạo, tăng cường công tác kiểm soát ma tuý. Hoàn thành việc rà soát, đánh giá thực trạng công tác tuyển chọn, xây dựng, quản lý, sử dụng cơ sở bí mật của lực lượng kiểm soát hải quan và ban hành chế độ hồ sơ, mẫu ấn chỉ cơ sở bí mật. Tiếp tục quán triệt và triển khai Quyết định 187/2005/QĐ-TTg và Quyết định 330/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính Phủ về tăng cường năng lực phòng chống ma tuý của ngành Hải quan. Triển khai thành lập các đơn chuyên trách làm nhiệm vụ phòng, chống ma tuý theo Quyết định 16/2007/QĐ-BTC ngày 20/03/2007; Quyết định số 602, 603 ngày 30/03/2007 về việc thành lập 12 Đội kiểm soát ma tuý thuộc Cục Hải quan tỉnh, liên tỉnh, thành phố và 19 Tổ kiểm soát ma tuý thuộc Chi Cục Hải quan cửa khẩu trọng điểm. Phối hợp Tổng cục cảnh sát tổ chức kiểm tra việc thực hiện quy chế phối hợp giữa Hải quan và cảnh sát tại một số địa phương trong cả nước, chuẩn bị cho Hội nghị sơ kết 03 năm thực hiện Quy chế số 3012/QCPH/TCHQ-TCCS trong đấu tranh phòng, chống tội phạm và các hành vi khác vi phạm pháp luật và sơ kết 05 năm thực hiện Quy chế phối hợp giữa Hải quan và Biên phòng. 64 Thực hiện có hiệu quả các chương trình, kế hoạch công tác theo chỉ đạo của Bộ Tài chính; Ban chỉ đạo 127-TW về công tác đấu tranh phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại. Thực hiện thường xuyên công tác tuyên truyền, phổ biến các văn bản pháp luật trong lĩnh vực hải quan và các văn bản pháp luật liên quan đến công tác đấu tranh phòng, chống buôn lậu tới mọi tầng lớp nhân dân, các doanh nghiệp. Quan tâm hơn đối với công tác vận động quần chúng, không buôn lậu và không tiếp tay cho buôn lậu, đặc biệt là đồng bào dân tộc tại khu vực cửa khẩu biên giới. Rà soát những văn bản pháp quy, quy trình nghiệp vụ liên quan đến hoạt động kiểm soát, để tham mưu, đề xuất với Bộ Tài chính, Chính phủ, các Bộ, Ban Ngành liên quan những bất cập, vướng mắc trong quá trình công tác nhằm đưa ra những giải pháp khắc phục những tồn tại, khó khăn để đáp ứng phù hợp với tiến trình hội nhập mới. Tăng cường hơn nữa công tác phối hợp với các lực lượng chức năng (Công an, Bộ đội biên phòng, Quản lý thị trường...) trong công tác phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại, kiểm soát các mặt hàng cấm, ma tuý vũ khí, chất nổ... trong phạm vi hoạt động địa bàn hải quan. 2.3. Tiếp tục tổ chức đấu tranh có trọng tâm, trọng điểm Thường xuyên tiến hành công tác điều tra cơ bản, nắm tình hình tại các địa bàn trọng điểm để kịp thời phát hiện những đối tượng trọng điểm, những vụ việc nổi cộm, có rủi ro cao khi áp dụng phương thức quản lý hải quan theo quy trình mới làm cơ sở cho công tác dự báo tình hình và đề xuất các biện pháp xử lý những sơ hở, vướng mắc trong quy trình nghiệp vụ, trong đó tập trung phát hiện: - Các loại ma tuý tổng hợp, tân dược có chứa chất gây nghiện, heroin, tiền, chất nhập lậu trong phạm vi địa bàn hoạt động hải quan; phát hiện và ngăn chặn các mặt hàng : ngoại tệ, tiền Việt Nam giả, đồ cổ, văn hoá phẩm có nội dung xấu, rượu, thuốc lá ngoại, đường ăn, hàng điện lạnh cũ/mới, máy tính xách tay, máy ảnh kỹ thuật số, phụ tùng ôtô đã qua sử dụng, máy móc thiết bị đã qua sử dụng, rác thải công nghiệp, tân dựoc, mỹ phẩm, vải, quần áo các loại. Phát hiện và ngăn chặn tình trạng xuất lậu quặng thô, than, gỗ quý hiếm, xăng dầu, vàng, ngoại tệ... 65 - Tăng cường công tác nắm tình hình, tập trung phát hiện và đấu tranh với các đối tượng là các chủ đầu nậu lớn chuyên mua thu gom hàng, các đầu nậu chuyên tổ chức vận chuyển hàng lậu thuê, các doanh nghiệp đã vi phạm pháp luật về Thuế, Hải quan và chuyên kinh doanh những mặt hàng nhạy cảm. có thuế xuất cao; đoanh nghiệp gia công hàng xuất khẩu, các doanh nghiệp thường xuyên huỷ tờ khai khi đã phê duyệt mức độ kiểm tra, các doanh nghiệp thường xuyên đăng ký kiểm tra vào giờ cao điểm. - Phát hiện các phương thức, thủ đoạn lợi dụng bất cập trong cơ chế chính sách như: khai báo giá tính thuế để trốn thuế, hàng chuyển cửa khẩu, hàng tạm nhập-tái xuất, lợi dụng áp dụng Quản lý rủi ro đưa hàng lậu thông quan qua luồng xanh; chính sách ưu đãi các Khu kinh tế cửa khẩu và các Doanh nghiệp kinh doanh trong Khu kinh tế cửa khẩu, định mức miễn thuế đối với cư dân biên giới: hàng hoá, nguyên phụ liệu gia công - đầu tư, hàng phi mậu dịch, hàng miễn thuế.. hàng vi phạm sở hữu trí tuệ. III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA HOẠT ĐỘNG ĐẤU TRANH CHỐNG BUÔN LẬU VÀ GIAN LẬN THƢƠNG MẠI 1.Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thƣơng mại Chống buôn lậu và gian lận thương mại đang là một trong những nhiệm vụ quan trọng của các cơ quan quản lý nhà nước. Bởi vì, buôn lậu dù biện minh dưới bất kỳ lý do gì đều có ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế và hoạt động kinh tế đối ngoại. Trong đề tài đã trình bày các tác động tiêu cực của buôn lậu đến sản xuất, kinh doanh trong nước, cũng như hoạt động xuất nhập khẩu, đầu tư nước ngoài... Trên cơ sở lý thuyết kinh tế, đặc biệt lý thuyết về chi phí và lợi ích của thuế quan, và các quan điểm của Đảng và Nhà nước cần thực hiện một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác điều tra chống buôn lậu và gian lận thương mại, các giải pháp đó là: 66 1.1.Về mặt quản lý vĩ mô - Khắc phục nhanh sự lạc hậu về kinh tế của đấtt nước bằng việc thực hiện công nghiệp hóa theo mô hình chiến lược mới. Mô hình chiến lược công nghiệp hóa mới mà Đảng và Nhà nước Việt Nam đang theo đuổi đó là công nghiệp hóa hướng ngoại, chứ không phải là mô hình hướng nội, khép kín, phát triển kinh tế theo kiểu tự cấp, tự túc. - Bảo hộ hợp lý sản xuất nội địa trong quá trình công nghiệp hóa cũng được đề cập tới trong phần này của đề tài. - Hoàn thiện chính sách thuế xuất nhập khẩu, trước hết là thuế nhập khẩu. + Mở rộng sắc thuế đánh vào hàng nhập khẩu và giảm bớt mức thuế nhập khẩu cao và quá cao. + Xác định giá tính thuế nhập khẩu hợp lý. - Hoàn thiện cơ chế quản lý hoạt động xuất nhập khẩu. Cơ chế quản lý hoạt động xuất nhập khẩu của nhà nước ta đã có nhiều đổi mới. Tuy nhiên từ thực tiễn, đề nghị: - Thay việc cấp giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu ngặt nghèo hiện nay bằng thủ tục cấp giấy phép kinh doanh đơn giản hơn cho tất cả cá doanh nghiệp đăng ký kinh doanh theo Luật. - Quy định hạn mức nhập khẩu hợp lý dựa trên dự toán tương đối chính xác cung, cầu về mặt hàng đó. - Hoàn thiện các văn bản pháp luật về hải quan, tạo điều kiện thuận lợi cho chống buôn lậu và gian lận thương mại như: + Mở rộng phạm vi, địa bàn kiểm soát hải quan. + Cụ thể hóa tội danh buôn lậu, xác định rõ hành vi nào bị coi là buôn lậu. + Về các vấn đề khác như mở rộng quyền cho nhân viên Hải quan trong việc điều tra, xét hỏi người buôn lậu; quyền khởi tố vụ án buôn lậu, phối hợp với các tổ 67 chức trong nước và quốc tế trong việc điều tra chống buôn lậu và gian lận thương mại. - Quản lý chặt việc mua bán ngoại tệ, vàng bạc, kim khí quý, đá quý. Ngoài hệ thống ngân hàng, Chính phủ có thể cho phép một số cơ sở tư nhân đăng ký làm dịch vụ thu đổi ngoại tệ. Mọi hành vi mua bán ngoại tệ không đăng ký coi là phạm pháp, bị xử lý nghiêm khắc. - Chống buôn lậu gắn chặt với chống tham nhũng. Tham nhũng không đẻ ra buôn lậu, nhưng tham nhũng là "bà đỡ" cho buôn lậu. Muốn giảm buôn lậu phải chống tham nhũng; chống tham nhũng thông qua việc điều chỉnh các mức thuế hợp lý để giảm bớt buôn lậu và trốn thuế thuần tuý. Mặt khác luật lệ phải rõ ràng để tránh người thi hành công vụ lợi dụng sơ hở của luật pháp để "vòi vĩnh", đòi "chia chác" lợi dụng do buôn lậu, trốn thuế có được. - Coi trọng hơn đến giải quyết công ăn việc làm và đời sống của nhân dân vùng biên. Đời sống của nhân dân được cải thiện dần, ổn định chắc chắn sẽ không có đông người tham gia hoặc trực tiếp buôn lậu như hiện nay. 1.2.Về mặt quản lý vi mô 1.2.1. Xét theo yêu cầu chuyên ngành cần phải thực hiện tốt các giải pháp sau: a) Phải tổ chức chặt chẽ, thống nhất từ Trung ương đến cơ sở; Tạo ra được hành lang thông tin, chỉ huy xử lý chính xác, nhanh nhạy, bí mật và kịp thời. Đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại là một trong những chức năng quan trọng của ngành Hải quan. Nó phải được mọi cán bộ, nhân viên Hải quan dù ở bất kỳ lĩnh vực công tác nào cũng phải nắm vững và có ý thức phục vụ tốt, coi đó là nhiệm vụ chính trị của mình. Cơ quan Tổng cục, Cục Điều tra chống buôn lậu là cơ quan chuyên môn nghiệp vụ có chức năng tham mưu cho Lãnh đạo Tổng cục và trực tiếp tổ chức, chỉ đạo công tác đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại. Do đó, Cục Điều tra chống buôn lậu phải nắm bắt kịp thời, chính xác diễn biến của tình hình hoạt động 68 buôn lậu để tham mưu cho Lãnh đạo Tổng cục giúp Chính phủ đề ra chủ trương, chính sách, biện pháp đấu tranh, cũng như chỉ đạo các ngành, các cấp tham gia chống buôn lậu trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cho phù hợp và mang lại hiệu quả cao. Để làm được điều đó, đòi hỏi phải có mạng thông tin chặt chẽ, thông suốt từ đơn vị cơ sở đến Cục Hải quan tỉnh, thành phố và về cơ quan Tổng cục, thông tin phải đảm bảo chính xác, thường xuyên cập nhật. b) Phải nắm vững pháp luật liên quan đến lĩnh vực quản lý nhà nước về hải quan. Phải lấy đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động của mình, nắm bắt kịp thời các yêu cầu chính trị, chính sách kinh tế của Đảng, Nhà nước trong từng thòi kỳ, từng giai đoạn phát triển kinh tế để hướng vào đó mà phục vụ. Trong giai đoạn hiện nay, ngành Hải quan phải tập trung vận động các tầng lớp nhân dân, các ngành, các cấp cùng tham gia đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại, tham mưu cho cấp uỷ Đảng lãnh đạo công tác chống buôn lậu và gian lận thương mại sao cho công tác này phải là một trong những nhiệm vụ chính trị quan trọng của toàn Đảng, toàn dân, của các ngành, các cấp. Phải hướng công tác chống buôn lậu và gian lận thương mại theo yêu cầu Chỉ thị của Chính phủ như Chỉ thị 701/TTG, Chỉ thị 853/1997/CT-TTg và các Nghị quyết, chỉ thị của Ngành về chống buôn lậu và gian lận thương mại để phục vụ kịp thời, có hiệu quả. Muốn làm tốt yêu cầu này, công tác chính trị tư tưởng trong ngành Hải quan phải được quán triệt thường xuyên tới từng cán bộ, nhân viên thấy được vị trí, tầm quan trọng của công tác chống buôn lậu và gian lận thương mại; Từ đó xác định trách nhiệm cho mình phải phục vụ tốt đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Những yêu cầu cần đảm bảo đó là: - Phục vụ tốt đường lối đối ngoại và kinh tế đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. - Thực hiện tốt chức năng của Ngành, xứng đáng là "Người chiến sỹ Biên phòng trên mặt trận kinh tế", góp phần bảo vệ lợi ích kinh tế, chủ quyền và an ninhq uốc gia. 69 - Nắm chắc và chấp hành nghiêm quy định của pháp luật và các điều luật trực tiếp hoặc có liên quan đã được quy định tại Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và các Thông tư, chỉ thị khác của Ngành. - Góp phần và hỗ trợ tích cực, thực hiện tốt chỉ tiêu của Nhà nước giao cho Ngành, đặc biệt là chỉ tiêu thu thuế xuất nhập khẩu. c) Phải chủ động đấu tranh chống buôn lậu từ xa và ngay từ khi còn mầm mống buôn lậu. Giai đoạn mới của công tác chống buôn lậu và gian lận thương mại đã đặt ra những yêu cầu mới. Đơn vị chức năng không thể để buôn lậu, gian lận thương mại xảy ra rồi mới tổ chức bắt giữ, xử lý mà cần chủ động tiến công vào các ổ nhóm, đường dây buôn lậu ngay từ khi mới hình thành, nhất là các đường dây buôn lậu chuyên nghiệp, liên quan nhiều quốc gia hoặc nằm sâu trong các trung tâm kinh tế thương mại trong nội địa. Để chủ động phát hiện từ xa, đòi hỏi các đơn vị chuyên trách phải có mạng lới cơ sở bí mật rộng khắp, phải xây dựng được cơ sở của mình ngay trong các doanh nghiệp, các tập đoàn kinh tế, xã hội (kể cả ở nước ngoài) nhằm điều tra, nắm tình hình, phát hiện tin tức, tài liệu ngay từ khi buôn lậu mới bắt tay vào công tác chuẩn bị, thu gom hàng, tập kết lên phương tiện vận tải để chuẩn bị đưa vào Việt Nam... Có như vậy, mới đảm bảo thông tin, tài liệu, chứng cứ cho lực lượng điều tra, tuần tra kiểm soát công khai có đủ thời gian bố trí phương tiện, lực lượng điều tra có hiệu quả. Đối với các đơn vị kinh tế trong nước, cần nắm chắc hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của họ để phát hiện và ngăn chặn kịp thời những biểu hiện vi phạm. Thực hiện tốt phương châm "phát hiện sâu và đánh tận gốc" thì các hành vi vi phạm mới không còn mầm mống để phát triển. Cần phân loại và nắm chắc di biến động của từng đối tượng, có mạng lưới cơ sở rộng khắp có thể quán xuyến được tất cả các đối tượng, đảm bảo khi chúng bắt tay vào hoạt động là bị phát hiện, bắt giữ ngay. Cần kết hợp trinh sát điều tra từ xa, 70 từ sâu với việc tổ chức tuần tra kiểm soát, ngăn chăn, bắt giữ ở tuyến trước (biên giới đường bộ, đường biển và cửa khẩu) một cách đồng bộ, chặt chẽ. d) Phải xác định được trọng tâm, trọng điểm và có phương án cụ thể cho từng địa bàn, từng cửa khẩu, từng chuyên đề, từng lĩnh vực nghiệp vụ. Buôn lậu ở mỗi nơi có khác nhau, trên cùng một tuyến biên giới nhưng không phải chỗ nào buôn lậu cũng giống nhau, nó tập trung ở nhiều điểm có điều kiện bố trí phương tiện, lực lượng sao cho sự đầu tư ít nhưng mang lại lợi nhuận cao nhất. Mặt khác cũng phải thấy ở mối địa bàn, mối khu vực, tình hình buôn lậu diễn biến khác nhau, tuỳ thuộc vào nhu cầu, địa điểm địa lý, phong tục, tập quán... Vì vậy, không thể có một kế hoạch chung cho tất cả các địa bàn, tất cả các chuyên đề, đòi hỏi mỗi đơn vị Hải quan cấp cửa khẩu phải trực tiếp khảo sát kỹ địa bàn, xác định được các yêu cầu cụ thể cần giải quyết, đảm bảo không nằm ngoài phương án tổng thể ở tầm vĩ mô, có như vậy mới phát huy tác dụng ở cả yêu cầu cụ thể và cả yêu cầu chung của toàn ngành Hải quan. e) Xây dựng hàng rào Hải quan nhân dân vững mạnh, có sự phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng chuyên môn kiểm soát chống buôn lậu với các lực lượng chức năng khác trong và ngoài Ngành. Chống buôn lậu và gian lận thương mại là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, của các ngành, các cấp, trong đó Hải quan là cơ quan giữ vai trò tham mưu nòng cốt. Ngành Hải quan phải quản lý hoạt động trên một vùng lãnh thổ rộng lớn, lực lượng lại mỏng, phương tiện nghiệp vụ còn hạn chế nên khó đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ chống buôn lậu và gian lận thương mại đặt. Do vậy, cần biết dựa vào cấp uỷ Đảng, chính quyền nhân dân các cấp (nhất là khu vực biên giới, địa bàn có hoạt động xuất nhập khẩu), cần sự phối hợp chặt chẽ với các lực lượng chức năng khác trong và ngoài Ngành. - Công tác nghiệp vụ như Giám sát quản lý, Kiểm tra thu thuế XNK, xử lý tố tụng, tin học thống kê... là nơi cung cấp những thông tin cần thiết liên quan đến buôn lậu, gian lận thương mại. Đây chính là nguồn tin trong Ngành rất quan trọng 71 tạo điều kiện thuận lợi và làm cơ sở cho lực lượng điều tra chống buôn lậu áp dụng các biện pháp nghiệp vụ xác minh làm rõ và xử lý. Vì vậy, phải có sự chỉ đạo, chỉ huy thống nhất, rõ ràng, có lực lượng nòng cốt chuyên trách. - Phối hợp giữa các ngành, các cấp trên cùng một địa bàn có nhiều lực lượng của Trung ương và địa phương cùng tham gia công tác đấu tranh chống buôn lậu, mỗi lực lượng đều có chức năng nhiệm vụ riêng của mình, trong đó lực lượng Hải quan giữ vai trò chủ đạo trong công tác đấu tranh chống buôn lậu. Mỗi lực lượng đều có thế mạnh riêng của mình, nếu thống nhất được và tập trung vào một đầu mối để chỉ đạo sẽ tạo ra sức mạnh tổng hợp, hiệu quả cao trong đấu tranh. Ngược lại không biết tập hợp lực lượng sẽ chống chéo, dẫn đến làm suy yếu hoặc vô hiệu hóa hoạt động của nhau. Như vậy dẫn đến tình trạng lực lượng đông nhưng không mạnh, sẽ tạo ra sơ hở để buôn lậu lợi dụng hoạt động. Lực lượng Hải quan cần phối hợp chặt chẽ với các ngành, các cấp, đặc biệt là lực lượng Công an, Quản lý thị trường, Biên phòng và lực lượng Cảnh sát biển để làm tốt công tác chống buôn lậu. g) Không ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ và ứng dụng khoa học kỹ thuật vào công tác đấu tranh chống buôn lậu . Nghị quyết 16/BCS-NQ của Ban Cán sự Đảng Tổng cục Hải quan nêu rõ:"Tiếp cận và từng bước hiện đại hóa cơ bản trang thiết bị, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ, khoa học hoá việc chỉ đạo, chỉ huy điều hành các hoạt động chống buôn lậu theo thể chế nhà nước pháp quyền...". Đây là một đòi hỏi , một yêu cầu thực tế trước tình hình hiện nay khi mà khoa học kỹ thuật hiện đại phát triển nhanh đã và đang đi vào tất cả các lĩnh vực; trong khi đó đối tượng buôn lậu ngày càng tinh vi, xảo quyệt, sử dụng phượng tiện kỹ thuật hiện đại nhất để phục vụ cho hành vi buôn lậu, chúng còn lợi dụng những kiến thức chuyên môn nghiệp vụ; lợi dụng những kẽ hở trong các văn bản pháp luật, các quy định khác của Hải quan để thực hiện hành vi buôn lậu hoặc gian lận thưong mại. 72 Trước mắt, cùng với việc nâng cao kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, phải trang bị hệ thống máy vi tính, các thiết bị thông tin viễn thông (được nối mạng với cơ quan chức năng trong nước và quốc tế theo quy định của nhà nước) cho các đơn vị làm công tác chống buôn lậu, thông tin phải được cập nhật kịp thời, báo cáo lãnh đạo để việc xử lý có kết quả. Mặt khác, thường xuyên mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình đọ chuyên môn nghiệp vụ; Phải thường xuyên bồi dưỡng kiến thức chuyên môn cho mình bằng việc tự nghiên cứu các văn bản pháp luật có liên quan cũng như rút kinh nghiệm kịp thời qua các vụ án, các phương thức thủ đoạn mới về các hành vi gian lận thương mại, buôn lậu... 1.2.2.Xét theo yêu cầu nghiệp vụ phải tiến hành tốt các biện pháp nghiệp vụ sau: a) Biện pháp vận động quần chúng. Ngành Hải quan phải quản lý trên phạm vi địa bàn rộng lớn và phức tạp, nhưng lực lượng mỏng, trang bị phương tiện còn thiếu và lạc hậu, trong khi đó nhiệm vụ và yêu cầu của công tác chống buôn lậu rất nặng nề, vì vậy phải biết dựa vào sức dân và động viên sức mạnh của nhân dân, thực hiện lời dạy của Bác Hồ: "Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong". Để làm tốt công tác này cần phải: - Tuyên truyền vận động, giáo dục quần chúng nhân dân hiểu được chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, chức năng nhiệm vụ của ngành Hải quan, sự cần thiết của công tác chống buôn lậu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Từ đó nhân dân tích cực cung cấp tin tức, tình hình về hoạt động buôn lậu và các vụ việc liên quan cho cán bộ, cơ quan Hải quan. Thông qua công tác tuyên truyền vận động quần chúng, ngành chức năng cần tranh thủ phát hiện, bồi dưỡng những người có phẩm chất cá nhân và khả năng nghiệp vụ vào mạng lưới cơ sở của Hải quan. Tăng cường phối hợp với các phương tiện thông tin đại chúng để tuyên truyền vận động quần chúng tham gia tích cực vào việc tố giác tội phạm. - Vận động các nhà doanh nghiệp chấp hành nghiêm chính sách, pháp luật về xuất nhập khẩu, xuất nhập cảnh, hiểu được chức năng nhiệm vụ của Hải quan, cộng 73 tác, giúp đỡ Hải quan hoàn thành nhiệm vụ, đồng thời có ý thức phát hiện và cung cấp cho Hải quan tin tức về các hành vi buôn lậu và gian lận thưong mại cũng như các hành vi vi phạm pháp luật khác. - Ngoài ra, thông qua hoạt động của mình, lực lượng điều tra chống buôn lậu phải tranh thủ được sự giúp đỡ, phối hợp của các ngành, nhất là Công an, Quân đội, Thương mại, các ngành nội chính và chính quyền, đoàn thể nơi có hoạt động Hải quan. b) Biện pháp Trinh sát bí mật. Đây là biện pháp nghiệp vụ chủ yếu và mang tính đặc thù của công tác điều tra chống buôn lậu thuộc ngành Hải quan. Mục tiêu của công tác trinh sát bí mật là nhằm phát hiện, thu thập tin tức, tài liệu có liên quan đến hoạt động buôn lậu làm cơ sở để đáp ứng các biện pháp nghiệp vụ khác nhằm đấu tranh có hiệu quả với mọi hành vi và đối tượng buôn lậu. Biện pháp trinh sát bí mật bao gồm các công tác chủ yếu sau: - Công tác điều tra nghiên cứu để nắm vững thông tin, bao gồm: những tin tức có liên quan đến hoạt động buôn lậu (bối cảnh quốc tế, tình hình khu vực, các đường dây buôn lậu quốc tế, tình hình kinh tế, xã hội, chính trị trong nước, giá cả các mặt àng, trình độ dân trí, nhu cầu thị trường sản xuất, xuất nhập khẩu,...); tình hình địa bàn, thông tin về những vụ việc đã xảy ra, đang xảy ra, dự báo diễn biến, xu hướng... để rút ra những kết luận làm cơ sở cho việc áp dụng các biện pháp nghiệp vụ tiếp theo. Đây là công tác bao trùm phải đựoc tiến hành thường xuyên, liên tục. - Công tác kiểm tra và xác minh đầu mối nghi vấn: là biện pháp trinh sát bí mật làm rõ các vấn đề về địa bàn, đối tượng, vụ việc cụ thể nhằm phát hiện ra đối tượng buôn lậu để đấu tranh đạt mục đích, yêu cầu cụ thể, hoặc làm cơ sở thiết lập chuyên án đấu tranh với những tổ chức và đường dây buôn lậu chuyên nghiệp. - Công tác cơ sở bí mật bao gồm việc tuyển lựa, xây dựng, lãnh đạo và sử dụng người ngoài biên chế của ngành Hải quan có điều kiện tiếp xúc, điều tra về các 74 hoạt động buôn lậu và tự nguyện cộng tác với Hải quan trong công tác điều tra chống buôn lậu. Ngoài ra có thể sử dụng biện pháp mua tin để giải quyết những yêu cầu nghiệp vụ đột xuất xảy ra. - Công tác chuyên án là quá trình bí mật tiếp cận với một cá nhân, tổ chức buôn lậu cụ thể. Công tác điều tra chống buôn lậu đòi hỏi phải sử dụng đồng bộ nhiều biện pháp nghiệp vụ để tiếp cận đối tượng, đi sâu làm rõ và nắm chắc mọi hoạt động của đối tượng buôn lậu để phục vụ cho việc bắt giữ công khai có hiệu quả, đảm bảo bắt đúng, bắt trúng và bắt hết đối tượng buôn lậu cũng như thu đầy đủ, chính xác tang vật của vụ án. - Công tác trinh sát ngoại tuyến là khi cần vững việc di chuyển, biến động và quan hệ của đối tượng buôn lậu, lực lượng điều tra chống buôn lậu có thể bố trí người bí mật theo dõi các hoạt động của đối tượng để phục vụ các yêu cầu cụ thể đặt ra. - Công tác trinh sát kỹ thuật là khi có yêu cầu và điều kiện cho phép, lực lượng điều tra chống buôn lậu có thể sử dụng các biện pháp kỹ thuật như máy ảnh, máy quay phim, máy ghi âm, các loại thiết bị quan sát, soi chiếu kỹ thuật... để ghi lại hình ảnh, âm thanh có liên quan đến hoạt động của đối tượng buôn lậu hoặc đối tượng nghi vấn để làm rõ các yêu cầu nghiệp vụ đặt ra. - Công tác xác minh bí mật là khi cần làm rõ vấn đề nào đó và yêu cầu giữ bí mật đặt lên hàng đầu thì lực lượng điều tra chống buôn lậu có thể lấy tư cách khác (không phải là Hải quan) với vai trò ngụy trang và câu chuyện ngụy trang để xác minh. c) Biện pháp tuần tra kiểm soát công khai. Với đặc điểm địa bàn rộng và phức tạp lại liên quan đến nhiều địa phương, biện pháp tổ chức lực lượng tuần tra kiểm soát công khai để phát hiện, ngăn ngừa mọi hành vi buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới cần phải được coi trọng cả về tổ chức biên chế, chỉ đạo, chỉ huy, đào tạo, huấn luyện, trang bị phương tiện nhằm phát huy được uy lực, hiệu lực, răn đe, trấn áp bọn buôn lậu có 75 tổ chức, có vũ trang. Đồng thời phải từng bước đưa việc buôn bán, vận chuyển hàng hóa qua biên giới đi vào kỷ cương phép nước, hỗ trợ đắc lực cho việc thu thuế xuất nhập khẩu và chống thất thu. Các hình thức kiểm soát công khai bao gồm: - Tuần tra kiểm soát cơ động thường xuyên và đột xuất trên bộ (trong khu vực dọc biên giới, xã ven biển), trên sông, trên biển (vùng lãnh hải và nội thuỷ) để phát hiện, ngăn chặn, bắt giữ bất ngờ các hành vi buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới. - Chốt chặn, kiểm soát lâm thời hoặc cố định trên các trục đường, cửa sông, cửa biển, sân bay, hải cảng…dưới sự chỉ đạo của Tổng cục Hải quan. - Tổ chức mật phục, truy bắt buôn lậu qua các tuyến đường, trên các vùng biển theo kế hoạch của phương án hoặc vụ án của Tổng cục Hải quan đã được xác định. Chỉ huy chỉ đạo xây dựng lực lượng kiểm soát công khai phải cơ động, linh hoạt, chủ động, bí mật, bất ngờ. Cán bộ chiến sỹ phải được huấn luyện động tác chuyên môn, sử dụng phương tiện kỹ thuật, vũ khí thành thạo, chịu đựng được các áp lực do thiên nhiên, con người đưa đến (thời tiết khắc nghiệt, sinh hoạt thiếu thốn, luôn tiếp xúc với nhiều cám dỗ...), đáp ứng được yêu cầu của từng loại hình tuần tra kiểm soát; có sức khoẻ, giỏi võ thuật, ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm, tác phong chính quy, sẵn sàng cơ động chiến đấu cao. d) Tiến hành điều tra các vụ án buôn lậu theo trình tự Tố tụng hình sự và các vụ việc vi phạm theo tố tụng hành chính. - Khi tiến hành các biện pháp nghiệp vụ nếu phát hiện được các hành vi buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự thì cơ quan Hải quan có quyền khởi tố hình sự và tiến hành một số hoạt động điều tra. 76 - Với vụ án đơn giản, phạm tội quả tang chứng cứ rõ ràng, ít nghiêm trọng thì được phép điều tra trong thời hạn 15 ngày phải kết thúc hồ sơ chuyển sang Viện Kiểm sát truy tố. - Với những vụ án phức tạp, nghiêm trọng thì hoàn chỉnh bước điều tra ban đầu trong thời hạn 7 ngày và chuyển cho cơ quan điều tra có thẩm quyền điều tra tiếp. - Khi khởi tố vụ án, cơ quan Hải quan có quyền tiến hành các biện pháp điều tra như: khám xét, thu giữ bảo quản vật chứng, hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, đối chất, nhận dạng, trưng cầu giám định chuyên môn. - Với những vụ việc buôn lậu hoặc vi phạm khác không đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự thì cơ quan Hải quan có quyền điều tra, xác minh theo quy định của pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính để chỉ rõ mọi hành vi vi phạm làm cơ sở cho việc xử lý được chính xác. 1.2.3.Về tổ chức công tác đấu tranh chống buôn lậu. Tất cả các đối tượng có hành vi vi phạm điều 153, 154 Bộ luật Hình sự đều là đối tượng đấu tranh của Hải quan. Đấu tranh chống buôn lậu là một trong những chức năng quan trọng của ngành Hải quan. Để thực hiện tốt chức năng này, ngành Hải quan phải được tổ chức chặt chẽ, thống nhất từ trung ương đến cơ sở, từ các đơn vị cấp cửa khẩu đến các chi Cục Hải quan và có sự phân công phân cấp rõ ràng giữa các bộ phận nghiệp vụ. a) Cơ cấu, phương thức tổ chức lực lượng chuyên trách chống buôn lậu. Bố trí lực lượng đấu tranh chống buôn lậu thực hiện theo nguyên tắc: tập trung lực lượng, phương tiện vào nơi trọng điểm, cơ động linh hoạt. Xây dựng được hệ thống tổ chức, chỉ đạo, chỉ huy thống nhất, chặt chẽ từ trung ương đến cơ sở. Từ nhận thức trên, cần tăng cường công tác tổ chức chống buôn lậu thuộc Tổng cục Hải quan, Cục Hải quan các địa phương đảm bảo thực hiện tốt hai chức năng: 77 - Tham mưu cho lãnh đạo Hải quan các cấp chỉ đạo công tác phòng ngừa, khảo sát, điều tra cơ bản , tổng hợp phân tích xử lý thông tin, xử lý vụ việc. Tham mưu phối hợp với các lực lượng chức năng trong và ngoài ngành. - Tổ chức chỉ huy, chỉ đạo công tác điều tra bí mật, tuần tra kiểm soát cơ động, cố định công khai... Sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm thực tế hoạt động qua các vụ việc được kịp thời. Tại đơn vị cơ sở, tổ chức đội kiểm soát chống buôn lậu hoạt động theo hai phương thức: - Tuần tra kiểm soát công khai. - Cải trang trinh sát, giám sát bí mật kết hợp với sử dụng phương tiện phát hiện bằng máy móc kỹ thuật... Để phù hợp tình hình, ở các cửa khẩu lớn, quan trọng, lực lượng kiểm soát chống buôn lậu cần phải được tổ chức trực thuộc sự chỉ đạo trực tiếp theo hệ thống kiểm soát từ Tổng cục Hải quan hoặc Cục Hải quan các tỉnh, thành phố. b) Phương thức bố trí lực lượng. Cần phải xây dựng các lực lượng có trình độ chuyên sâu sau đây: - Lực lượng trinh sát bí mật có nhiệm vụ nắm tình hình mọi mặt có liên quan đến công tác đấu tranh, trong đó cần chú ý nắm tình hình địa bàn, đối tượng, vụ việc, các tình hình khác về xuất nhập khẩu, xuất nhập cảnh..., tiến hành xây dựng cơ sở bí mật, bao gồm cả cơ sở bí mật ở nước ngoài; tiến hành các biện pháp trinh sát ngoại tuyến, trinh sát kỹ thuật, các biện pháp xác minh bí mật, đấu tranh chuyên án. - Lực lượng tuần tra kiểm soát cơ động mạnh ở trung ương và ở các chi Cục Hải quan các tỉnh thường xuyên tuần tra trong khu vực kiểm soát Hải quan (cả trên bộ, trên biển và trên không) để tiến hành kiểm soát cơ động đột xuất hoặc chốt chặn, mật phục theo yêu cầu của chuyên án hay yêu cầu nghiệp vụ cụ thể, được từng bước tranh bị phương tiện hiện đại. 78 - Lực lượng cơ sở bí mật đã được tuyển lựa, xây dựng, lãnh đạo và sử dụng phục vụ cho công tác điều tra chống buôn lậu thuộc diện có hồ sơ, đồng thời phải quản lý chặt chẽ theo đúng quy định của chế độ công tác cơ sở bí mật. Ngoài ra còn có lực lượng cộng tác viên khác dưới hình thức "mua tin" hoặc quần chúng tốt có ý thức phát hiện các hành vi buôn lậu và báo cho cơ quan Hải quan biết, kể cả hoạt động tình báo Hải quan ở nước ngoài. - Các lực lượng khác của ngành Hải quan có trách nhiệm phối hợp với các lực lượng chống buôn lậu, thông qua công tác của mình, có trách nhiệm phát hiện các hành vi buôn lậu hoặc vậnchuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới, cũng như các hành vi gian lận thương mại và thông báo phối hợp kịp thời với lực lượng chống buôn lậu để tiến hành các biện pháp điều tra xác minh làm rõ. Tóm lại, công tác đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại là một nhiệm vụ quan trọng của ngành Hải quan được thực hiện bằng việc tiến hành các biện pháp nghiệp vụ, vận động quần chúng, trinh sát bí mật, điều tra và tuần tra kiểm soát công khai nhằm phát hiện, ngăn ngừa, điều tra, xử lý các hành vi buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới cũng như các hành vi gian lận thương mại, đảm bảo cho Hải quan thực hiện đầy đủ chức năng nhiệm vụ mà Luật Hải quan đã quy định. Đấu tranh chống buôn lậu là công tác khó khăn, phức tạp, đòi hỏi người làm công tác này vừa phải có phẩm chất đạo đức, trình độ chính trị, chuyên môn vững vàng, có ý thức tổ chức kỷ luật, vừa phải đựơc huấn luyện kỹ thuật, được trang bị phương tiện, vũ khí đảm bảo đủ sức hoàn thành nhiệm vụ được giao, xứng đáng là "Người chiến sỹ biên phòng trên mặt trận kinh tế". 2.Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thƣơng mại Việc phát hiện, ngăn ngừa, đấu tranh chống các hành vi buôn lậu và gian lận thương mại vừa là mục tiêu cơ bản, vừa là một trong các nhiệm vụ chính yếu nhất của Tổ chức hải quan thế giới (WCO) và của ngành Hải quan tất cả mọi quốc gia. 79 Việt Nam là một nước thành viên của WCO, đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nhgiệp hoá, hiện đại hóa đất nước nên nhiệm vụ chống buôn lậu và gian lận thương mại hơn bao giờ hết càng có ý nghĩa thiết thực trong việc góp phần mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, bảo vệ lợi ích, chủ quyền kinh tế quốc gia, tăng trưởng kinh tế, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, góp phần làm cho đất nước phát triển lành mạnh, vừa lành mạnh vừa đậm đà bản sắc Việt Nam. Ngoài ra thuế xuất nhập khẩu hàng năm của Việt Nam do ngành Hải quan thu, chiếm khoảng 20 - 25% tổng nguồn thu ngân sách. Do đó, việc phòng chống nạn buôn lậu và gian lận thương mại có hiệu quả sẽ chống đựoc thất thu thuế, đảm bảo thu đúng, thu đủ nguồn thu lớn cho ngân sách, đúng kế hoạch và góp phần tích cực cho việc tích luỹ vốn để tiến hành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mặt khác, công cuộc phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại thành công sẽ tạo điều kiện thuận lợi để các nhà sản xuất kinh doanh chân chính trong nước và ngoài nước có thể tích cực tham gia vào hoạt động đầu tư phát triển thương mại quốc tế, bảo vệ lợi ích chính đáng của doanh nghiệp và người tiêu dùng ... Để chống buôn lậu và gian lận thương mại đạt hiệu quả, xin đề xuất một số kiến nghị sau: 1- Về lâu dài, biện pháp cơ bản là đẩy mạnh sản xuất trong nước, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước nhà, kết hợp cả biện pháp kinh tế (cần đặc biệt nhấn mạnh biện pháp này) với biện pháp hình sự (nhưng cần phi hình sự hóa các vụ án kinh tế) và các biện pháp khác, trong đó có biện pháp hành chính (ví dụ như xử phạt rồi thông báo rộng rãi về cơ quan, địa phương của chủ hàng buôn lậu và gian lận thương mại). Có chính sách thuế hợp lý sẽ giảm bớt sắc thuế chống chéo, các mức biểu thuế suất thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu (hiện tại chính người thi hành cũng không nhớ hết được), sẽ được đơn giản, khoa học về cách tính thuế, trước hết cần nghiên cứu sửa thuế, biểu thuế suất đối với một số hàng thường nhập lậu nhiều để tăng sức cạnh tranh của hàng trong nước như: rượu, thuốc lá, hàng điện tử, xe đạp, quạt điện. Mặt khác, khi đã tham gia vào các tổ chức quốc tế của khu vực và cộng đồng lớn như ASEAN, APEC, AFTA,WTO... thì phải tuân thủ những luật 80 chung, phải mở cửa thị trường trong nước cho các thành viên cùng tổ chức vào tham gia cạnh tranh... Lúc đó các ngành liên quan nói chung và Hải quan Việt Nam nói riêng phải có những chuyển biến, thay đổi phù hợp. Việc chuẩn bị các điều kiện về cán bộ, về tổ chức, phương tiện là những đòi hỏi cấp thiết đối với ngành Hải quan. Trước mắt, Hải quan Việt Nam phải nỗ lực phấn đấu vươn lên để có thể thực hiện việc ký kết tham gia các công ước quốc tế về đơn giản hóa và hài hòa thủ tục Hải quan, về hệ thống hài hòa trong trong mô tả hàng hóa , các cam kết theo WTO về sử dụng trị giá Hải quan theo điều 7 Hiệp định GATT, xây dựng biểu thuế trên cơ sở hệ thống điều hòa hợp lý, thực hiện các quy định của WTO về quy tắc xác định xuất xứ hàng hóa... 2- Tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền giáo dục thường xuyên (có chủ đề), sâu rộng bằng các biện pháp thông tin đại chúng và các hình thức khác, để tạo ra sự đồng tình nhất trí cao về chống buôn lậu và gian lận thương mại trong toàn xã hội để mọi công dân am hiểu pháp luật, đưa luật vào đời sống. 3- Ngành chức năng và các địa phương cần thường xuyên liên lạc với nhau để thông báo tình hình, sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm về công tác chống buôn lậu và gian lận thương mại để có giải pháp thống nhất, đồng bộ, trách nhiệm cụ thể, rõ ràng. Kết hợp tốt giữa việc kiểm soát, ngăn chặn ở biên giới với việc khám phá, phát hiện truy quét bọn chứa chấp các hàng phạm pháp, bọn trùm sỏ, bọn đầu nậu trong nội địa; vừa đấu tranh với đối tượng buôn bán gian lận, vừa đấu tranh với đối tượng đầu cơ, cung ứng vàng, ngoại tệ cho dân buôn. Mặt khác phải có biện pháp giải quyết việc làm, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động nói chung và cư dân vùng biên giới nói riêng. 4- Chế độ khen thưởng phải liên tục hoàn thiện, động viên cả vật chất lẫn tinh thần, tạo thành đòn bẩy khuyến khích sự công tâm, cao thượng vì nghĩa lớn cho những người có công trong đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại, trước hết là đối với lực lượng chuyên trách. Đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, nhân viên của ngành Hải quan: ngoài việc đào tạo trong nước, cần gửi cán bộ ngành Hải quan tu nghiệp thêm ở các trường, viện 81 khác về các lĩnh vực mà ngành Hải quan cần thiết bằng các hình thức đào tạo phù hợp; Đồng thời mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn cho các học viên, cán bộ Hải quan. Mặt khác, cũng thường xuyên mở các cuộc hội thảo, trao đổi rút kinh nghiệm nghề nghiệp và tăng cường cho học viên đi thực tế trong thời gian học tập (chú ý cả đào tạo trong nước và đạo tạo nước ngoài). Điểm quan trọng là gắn đạo tạo với sử dụng đúng người, đúng việc; thưởng phạt công minh, kịp thời; có cơ chế khuyến khích người cán bộ giỏi phát huy khả năng, động viên mọi nhân viên hoàn thành tốt chức trách và tích cực xây dựng đơn vị mình. 5- Hợp tác quốc tế: Tổng cục Hải quan cần chủ động tham gia, hợp tác nghề nghiệp với các cấp Hải quan tương đương ở các nước và tổ chức quốc tế nhằm tăng cường sức mạnh quốc tế trên mặt trận đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại. 6- Đẩy mạnh công tác cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực Hải quan, đặc biết là cải tiến quy trình thủ tục Hải quan, rút ngắn thời gian thông quan hàng hóa xuất nhập khẩu, chống phiền hà sách nhiễu, tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu, đầu tư nước ngoài. Một trong những khâu then chốt để thực hiện mục tiêu trên là biện pháp phân luồng hàng hóa xuất nhập khẩu (“luồng xanh”) là hàng hóa không có thuế được ưu tiên kiểm tra đơn giản; “luồng Vàng” là hàng hóa có thuế được kiểm tra, tính thuế và thông báo thuế mới được giải phóng hàng; “luồng đỏ” là hàng hóa có vướng mắc về thủ tục giấy tờ, về chính sách, chế độ hoặc có nghi vấn sẽ được tiến hành kiểm tra chặt chẽ, phải hoàn tất thủ tục mới được giải phóng hàng. Đồng thời ngành Hải quan cũng triển khai tổ chức việc dịch vụ khai thuê Hải quan để hỗ trợ cho các mục tiêu trên. 7- Tiếp tục thực hiện Chiến lược phát triển ngành Hải quan đến năm 2010, tăng cường đủ số lượng cán bộ chuyên trách chống buôn lậu và gian lận thương mại; đảm bảo chất lượng cán bộ tốt; Bổ sung hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật; xây dựng lề lối làm việc theo hướng chính quy, hiện đại; từng bước tự động hóa, hiện đại hóa mọi mặt trong ngành, kể cả phương tiện khoa học kỹ thuật, công nghệ và giải quyết tốt các vấn đề nảy sinh để có đà phát triển vững chắc đáp 82 ứng và hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của Ngành mà Đảng và Nhà nước giao phó. Trong bối cảnh cả thế giới bước vào thế ký XXI với nhiều thay đổi, ngành Hải quan và các ngành liên quan cần có những bước chuyển biến mới về chất trong cuộc đấu tranh phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại, góp phần tích cực vào sự nghiệp "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh"; chủ động hội nhập và cạnh tranh thắng lợi trên trường quốc tế. 83 KẾT LUẬN Buôn lậu, gian lận thương mại thực sự là một quốc nạn, là một trong bốn nguy cơ của cách mạng Việt Nam giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước. Buôn lậu, gian lận thương mại gây nên những hậu quả nặng nề trên nhiều lĩnh vực đời sống, kinh tế, chính trị, văn hóa, đạo đức. Chống buôn lậu và gian lận thương mại là một trong những nhiệm vụ khó khăn, phức tạp của toàn Đảng, toàn dân, của tất cả các ngành, các cấp, của mọi thành phần kinh tế. Đảng và nhà nước ta trong nhiều năm qua luôn quan tâm và chỉ đạo sát sao công tác đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại và đã đạt đư- ợc nhiều kết quả tốt, góp phần ổn định đời sống nhân dân, đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và là một yếu tố trực tiếp làm cho một số ngành sản xuất tăng trưởng rõ rệt như: sản xuất xe đạp, điện tử, vật liệu xây dựng, điện gia dụng... Tuy vậy, đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại vẫn còn là nhiệm vụ nặng nề, gian khổ trước mắt và lậu dài của toàn Đảng, toàn dân, của ngành Hải quan nói riêng. Với những kiến thức đã được học trong trường cùng với sự giúp đỡ của thầy cô giáo, tôi đã mạnh dạn thực hiện khoá luận của mình với đề tài: " thực trạng và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại trong kinh doanh xuất nhập khẩu ở Việt Nam", mong muốn đóng góp một phần khiêm tốn vào lý luận của cuộc đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại hiện nay. Đề tài trên không tránh khỏi còn nhiều thiếu sót, tôi xin trân trọng tiếp thu ý kiến đóng góp và xin chân thành cảm ơn./.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf3868_5637.pdf
Luận văn liên quan