Đề tài Thực trạng vai trò ngân sách Nhà nước ở Việt Nam hiện nay

Mục lục Lời nói đầu . 2 PHẦN 1: NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 3 1. Quá trình hình thành và phát triển của ngân sách Nhà nước . 3 2. Khái niệm ngân sách Nhà nước . . 3 3. Đặc điểm của ngân sách Nhà nước . . 4 4. Khái quát vai trò ngân sách Nhà nước . . 6 PHẦN 2: PHÂN TÍCH VAI TRÒ CỦA NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 7 PHẦN 3: LIÊN HỆ VIỆC PHÁT HUY CÁC VAI TRÒ CỦA NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM . 10 1. Thực trạng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam 12 2. Thực trạng vai trò ngân sách Nhà nước ở Việt Nam hiện nay . 12 Kết luận . 19

doc19 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5021 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Thực trạng vai trò ngân sách Nhà nước ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục Lời nói đầu............................................ .................................................. ... 2 PHẦN 1: NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 3 1. Quá trình hình thành và phát triển của ngân sách Nhà nước....................... 3 2. Khái niệm ngân sách Nhà nước........................................... ..................... 3 3. Đặc điểm của ngân sách Nhà nước........................................... ............... 4 4. Khái quát vai trò ngân sách Nhà nước........................................... ........... 6 PHẦN 2: PHÂN TÍCH VAI TRÒ CỦA NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC...... 7 PHẦN 3: LIÊN HỆ VIỆC PHÁT HUY CÁC VAI TRÒ CỦA NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM.................................................. ............................................. 10 1. Thực trạng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam............................................ 12 2. Thực trạng vai trò ngân sách Nhà nước ở Việt Nam hiện nay..................... 12 Kết luận .................................................. .................................................. . 19 Lời nói đầu Trong lịch sử loài người, Nhà nước ra đời trong cuộc đấu tranh của xã hội có giai cấp, nó là sản phẩm của cuộc đấu tranh giai cấp, Nhà nước xuất hiện với tư cách là cơ quan có quyền lực công cộng để thực hiện các chức năng va nhiệm vụ về nhiều mặt như quản lý hành chính, chức năng kinh tế, chức năng chấn áp và các nhiệm vụ xã hội. Để thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của mình Nhà nước cần phải có nguồn lực tài chính – ngân sách Nhà nước, đó là cơ sở vật chất cho Nhà nước tồn tại và hoạt động. Ngày nay kinh tế thị trường càng phát triển thì vị chí và vai trò của tài chính nhà nước ngày càng quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội. vì vậy, xây dựng nền tài chính tự chủ vững mạnh là yêu cầu cơ bản cấp bách trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta, trong đó ngân sách Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc gia. Ngân sách nhà nước là nơi tập trung quỹ tiền tệ lớn nhất trong nền kinh tế, có mối quan hệ chặt chẽ với tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân cùng mối quan hệ khăng khít với tất cả các khâu của hệ thống tài chính. Ngân sách nhà nước là công cụ huy động nguồn tài chính để đảm bảo cho các chi tiêu của Nhà nước, và là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế, đảm bảo cho sự ổn định phát triển đồng đều giữa các nền kinh tế, và đảm bảo thu nhập cho người dân. Trên cơ sở nhận thức tầm quan trọng của vai trò ngân sách Nhà nước đó nhóm 6 – CD11C1 đã thảo luận và cùng phân tích các vai trò của ngân sách Nhà nước.  Bài viết gồm 3 phần: Phần 1: Những lý luận chung về ngân sách Nhà nước Phần 2: Phân tích vai trò của ngân sách Nhà nước Phần 3: Liên hệ việc phát huy vai trò ngân sách Nhà nước ở Việt Nam Nhóm 6 – lớp CD11C1  PHẦN 1 : NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC I.Quá trình hình thành và phát triển của ngân sách Nhà nước. Sự ra đời và tồn tại của ngân sách Nhà nước luôn gắn liền với sự ra đời và tồn tại của Nhà nước và sự xuất hiện của sản xuất hàng hóa. Khi Nhà nước ra đời để đảm bảo cho sự tồn tại của mình Nhà nước đã đặt ra chế đọ thuế khóa sử dụng công cụ chủ yếu là luật pháp để bắt người dân phải nộp các khoản thu, các khoản thu này hình thành nên quỹ tiền tệ của Nhà nước và nó được sử dụng để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Trong buổi bình minh phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, giai cấp tư sản cần một không gian kinh tế, tài chính thông thoáng cho sự tự do phát triển sản xuất kinh doanh. Song những quy định về thể chế kinh tế tài chính của giai cấp phong kiến trong bước suy tàn đã cản trở sự tự do kinh doanh của giai cấp tư sản. Đặc biệt là chế độ thuế khóa vô lý tùy tiện, chế độ chi tiêu thiếu rõ rang minh bạch của giai cấp phong kiến đã gây nên sự phản ánh mạnh mẽ đối với giai cấp tư sản. Họ đấu tranh để có một chế độ thuế khóa theo luật định đảm bảo tính pháp lý, tính công bằng, một chế độ chi tiêu thiếu minh bạch giữa chi tiêu chung của Nhà nước với chi tiêu trong bản thân gia đình của các vua chúa. Những khoản chi tiêu chung của Nhà nước phải được thể chế bằng pháp luật và được cơ quan đại diện dân chúng kiểm soát. Kết quả cuộc đấu tranh của giai cấp tư sản trên lĩnh vực thuế khóa và chi tiêu của Nhà nước đã đua đến sự thay đổi lớn trong quản lý tài chính của Nhà nước và thuật ngữ “ ngân sách Nhà nước” cũng chính thức ra đời. II.Khái niệm ngân sách Nhà nước. Trong hệ thống tài chính, ngân sách Nhà nước là bộ phận chủ đạo, là điều kiện vật chất quan trọng của Nhà nước do hiến pháp quy định, nó còn là công cụ quan trọng của Nhà nước có tác dụng điều tiết vĩ mô nền kinh tế xã hội, muốn sử dụng tốt công cụ nây phải nhận thức được những lý luận cơ bản về ngân sách Nhà nước. Ngân sách nhà nước, hay ngân sách chính phủ, là một thành phần trong hệ thống tài chính. Thuật ngữ "Ngân sách nhà nước" được sử dụng rộng rãi trong đời sống kinh tế, xã hội ở mọi quốc gia. Song quan niệm về ngân sách nhà nước lại chưa thống nhất, người ta đã đưa ra nhiều định nghĩa về ngân sách nhà nước tùy theo các trường phái và các lĩnh vực nghiên cứu: Các nhà kinh tế Nga quan niệm: Ngân sách nhà nước là bảng liệt kê các khoản thu, chi bằng tiền trong một giai đoạn nhất định của quốc gia. Ngoài ra, Điều 1 Luật NSNN đã được Quốc Hội nước C.H.X.H.C.N Việt Nam khoá IX, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 20/03/1996 có ghi: Ngân sách Nhà nước là toàn bộ các khoản thu chi của Nhà nước trong dự toán đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước Dù được định nghĩa hay hiểu như nào thì ngân sách Nhà nước đều có những đặc điểm chung sau. Thứ nhất, ngân sách Nhà nước là bản dự toán thu - chi tài chính của Nhà nước trong một khoảng thời gian nhất định, thường là một năm. Thứ hai, ngân sách Nhà nước là quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước, là kế hoạch tài chính cơ bản của Nhà nước. Thứ ba, ngân sách Nhà nước là những quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình huy động và sử dụng các nguồn tài chính khác nhau. Từ các quan điểm trên, ta có thể xác định: Ngân sách Nhà nước là hệ thống các mối quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và các chủ thể trong xã hội phát sinh trong quá trình Nhà nước huy động và sử dụng nguồn tài chínhquốc gia nhằm đảm bảo yêu cầu thực hiên các chứ năng của Nhà nước về mọi mặt như kinh tế, chính trị-xã hội, quân sự… theo nguyên tắc không hoàn trả là chủ yếu. Để làm dõ quan niệm về ngân sách Nhà nước cần thiết phải chỉ ra các đặc điểm và vị trí của ngân sách Nhà nước. III.Đặc điểm của ngân sách Nhà nước Để hiểu thế nào là ngân sách Nhà nước thì có rất nhiều quan niệm khác nhau, hiện nay có hai quan niệm phổ biến về ngân sách Nhà nước. Quan niệm thứ nhất cho rằng: ngân sách Nhà nước là bản dự toán thu chi tài chính của Nhà nước trong một khoảng thời gian nhất định, thường là một năm. Quan niệm thứ hai cho rằng: ngân sách Nhà nước là quỹ tiền tệ của Nhà nước. Các quan niệm trên về ngân sách Nhà nước đã kootj tả được mặt cụ thể, mặt vật chất của ngân sách Nhà nước, nhưng lại chưa thể hiện được nội dung kinh tế xã hội của ngân sách Nhà nước. Tròn thực tế, nhìn bề ngoài hoạt động ngân sách Nhà nước là hoạt động thu chi tài chính của Nhà nước. Hoạt động đó được biểu hiện một cách đa dạng và phong phú, được tiến hành hầu hết trên các lĩnh vực văn hóa, chính trị xã hôi, kinh tế…. nó tác động đến mọi chủ thể kinh tế xã hội. Tuy vậy, nhưng chúng có những đặc điểm chung sau: - Thứ nhất. việc tạo lập và sử dụng quỹ ngân sách Nhà nước luôn gắn liền với quyền lực của Nhà nước và phuc vụ cho việc thực hiện các chức năng của Nhà nước, được Nhà nước tiến hành trên cơ sở luật định. Đây cũng chính là điểm khác biệt gũa ngân sách Nhà nước với các khoản tìa chính khác. Các khoản thu NSNN đều mang tính chất pháp lý, còn chi ngân sách Nhà nước mang tính chất cấp phát “ không hoàn trả trực tiếp”. Do nhu cầu chi tiêu của mình để thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội Nhà nước đã sử dụng để quy định hệ thống pháp luật tài chính, buộc mọi pháp nhân và thể nhân phải nộp một phần thu nhập của mình cho Nhà nước với tư cách là một chủ thể. Các hoạt động thu chi NSNN đều tiến hành theo cơ sở nhất định đó là các luật thuế, cế độ thu chi…do Nhà nước ban hành, đồng thời các hoạt động luôn chịu sự kiểm tra của các cơ quan Nhà nước. Ngân sách Nhà nước nó luôn luôn chứa đựng nhựng lợi ích về mặt kinh tế, chính trị, ngoại giao, xã hội… Nhưng lợi ích quốc gia, lợi ích tổng thể bao giờ cũng phải được đặt lên hàng đầu và chi phối các lợi ích khác. - Thứ hai, ngân sách Nhà nước luôn gắn chặt vơi Nhà nước chưa đụng những lợi ích chung và công, hoạt động thu chi của ngân sách Nhà nước là thể hiện qua các mặt kinh tế - xã hội của Nhà nướcNgân sách Nhà nước là quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước được chia ra làm nhiều quỹ nhỏ, mỗi một quỹ nhỏ có những tác dụng riêng rồi sau đó mới được chia dung cho những mục đích.  - Thứ ba: , cũng như các quỹ tiền tệ khác ngân sách Nhà nước cũng có đặc điểm riêng của một quỹ tiền tệ, nó là quỹ tiền tệ tập chung của Nhà nước được chia ra thành nhiều quỹ nhỏ. Mỗi quỹ có tác dụng riêng rồi sau đó mới được chia dung cho những mục đích. - Thứ tư, hoạt động thu cho ngân sách Nhà nước được thể hiện theo nguyên tắc không hoàn trả lại trực tiêp đối với người có thu nhập cao nhằm mục đích rútruts ngắn khoản thời gian giữa người giàu và người nghèo nhằm công bằng cho xã hội. ví dụ: xây dựng đường xá, an ninh quốc phòng…” người chịu thuế sẽ được hưởng lợi từ hàng hóa này nhưng hoàn trả một cách trực tiếp. Bên cạnh đó ngân sách còn chi cho các quỹ chính sách, trợ cấp thiên tai… IV. Vai trò của ngân sách Nhà nước Ngân sách Nhà nước được thể hiện trên các mặt sau: - Ngân sách Nhà nước là công cụ huy động huy động nguồn tài chính để đảm bảo các nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. - Ngân sách Nhà nước là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế: vai trò được thể hiện trên 2 mặt sau: + Thứ nhất, Ngân sách Nhà nước là công cụ định hướng hình thành cơ cấu nền kinh tế mới, khích thích phát triển sản xuất kinh doanh và chống độc quyền. + Thứ hai, ngân sách Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc điều tiết thị trường, bình ổn giá cả, chống lạm phát. - Ngân sách Nhà nước là công cụ điều tiết thu nhập giữa các thành phần kinh tế và các tầng lớp dân cư nhằm đảm bảo công bằng xã hội.  PHẦN 2:PHÂN TÍCH VAI TRÒ CỦA NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC. Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hóa – tiền tệ phát triển ở giai đoạn cao; tức là khi tất cả các quan hệ kinh tế trong quá trình tái sản xuất xã hội đều được tiền tệ hoá, các yếu tố của sản xuất như: đất đai và tài nguyên, vốn bằng tiền và vốn vật chất, sức lao động, công nghệ và quản lý, các sản phẩm dịch vụ tạo ra, chất xám đều là đối tượng mua - bán và hàng hoá. Sự vận hành của nền kinh tế chịu sự tác động của các quy luật kinh tế khách quan như: quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật lưu thông tiền tệ, ….đã bộc lộ những ưu thế cũng như khuyết tật của nền kinh tế thị trường, đó là: - Kinh tế thị trường chú trọng đến những nhu cầu có khả năng thanh toán, không chú ý đến những nhu cầu cơ bản của xã hội. - Kinh tế thị trường, đặt lợi nhuận lên hàng đầu , cái gì có lãi thì làm, không có lãi thì thôi nên nó không giải quyết được cái gọi là “hàng hoá công cộng” (đường xá, các công trình văn hoá, y tế và giáo dục .v.v.) - Trong nền kinh tế thị trường có sự phân biệt giàu nghèo rõ rệt: giàu ít, nghèo nhiều, bất công xã hội. Do tính tự phát vốn có, kinh tế thị trường có thể mang lại không chỉ có tiến bộ mà còn cả suy thoái, khủng hoảng và xung đột xã hội nên cần phải có sự can thiệp của Nhà nước. Để hạn chế và khắc phục những khuyết tật đó của nền kinh tế thị trường, Nhà nước can thiệp vào quá trình vần hành của nền kinh tế. Sự can thiệp của Nhà nước sẽ đảm bảo hiệu quả cho sự vận động của thị trường được ổn định, nhằm tối đa hoá hiệu quả kinh tế, bảo đảm định hướng chính trị của sự phát triển kinh tế, sửa chữa khắc phục những khuyết tật vốn có của kinh tế thị trường, tạo ra những công cụ quan trọng để điều tiết thị trường ở tầm vĩ mô. Bằng cách đó Nhà nước mới có thể kiềm chế tính tự phát của kinh tế thị trường, đồng thời kính thích đối với sản xuât thông qua trao đổi hàng hoá dưới hình thức thương mại.. Sự can thiệp đó của Nhà nước vào nền kinh tế thị trường là sụ can thiệp gián tiếp thông qua các công cụ chủ yếu như: pháp luật, kế hoạch, tổ chức tài chính tiền tệ,… trong đó ngân sách Nhà nước được coi là là công cụ quan trọng nhất của Nhà nước. Vài trò quan trọng đó của ngân sách Nhà nước được thể hiện trên các mặt sau đây: - Ngân sách Nhà nước là công cụ huy động nguồn tài chính để đảm bảo các nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Đây là vai trò truyền thống của ngân sách Nhà nước trong mọi mô hình kinh tế, nó gắn chặt với các chi phí của Nhà nước trong quá trình tồn tại và thực hiện nhiệm vụ của mình. Ngân sách Nhà nước cung cấp nguồn kinh phí để Nhà nước đầu tư cho cơ sở kết cấu hạ tầng, sản kinh doanh, tạo tư liệu sản xuất… Nhà nước huy động nguồn tài thông qua công cụ như thuế, lệ phí, lợi tức của Nhà nước, các khoản vay trong nước hoặc nước ngoài, viên trợ từ các nước tổ chức trên thế giới,… - Ngân sách Nhà nước là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế.  Vai trò này xuất phát từ yêu cầu khắc phục những khuyết tật vốn có của nền kinh tế thị trường. Vai trò này được thể hiện trên các mặt sau: + Thứ nhất, ngân sách Nhà nước là công cụ định hướng hình thành cơ cấu kinh tế mới, kích thích phát triển sản xuất kinh doanh và chống độc quyền. Để khắc phục những khuyết tật của nền kinh tế thị trường, Nhà nước phải hướng những hoạt động của các chủ thể trong nền kinh tế đi vào quỹ đạo mà Nhà nước đã hoạch định, để hình thành nên cơ cấu kinh tế tố ưu, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển ổn định và bền vững. Thông qua công cụ là ngân sách Nhà nước đảm bảo cung cấp kinh phí để Nhà nước đầu tư cho cơ sở kết cấu hạ tầng, hình thành các doanh nghiệp thuộc các nghành then chốt, trên cơ sở đó tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và phát triển các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Mặt khác, trong những điều kiện cụ thể, nguồn kinh phí ngân sách cũng có thể được sử dụng để hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh nghiệp, đảm bảo cho tính ổn định về cơ cấu hoặc chuẩn bị cho việc chuyển sang cơ cấu kinh tế mới hợp lý hơn. Bằng việc huy động nguồn tài chính thông thông qua các khoản thuế và chính sách thuế sẽ đảm bảo vai trò định hướng đầu tư, kích thích hoặc hạn chế sản xuất kinh doanh. Việc đặt ra các loại thuế với thuế suất ưu đãi, các quy định miễn thuế, giảm thuế... có tác dụng kích thích mạnh mẽ đối với các doanh nghiệp. Một chính sách thuế có lợi sẽ thu hút được doanh nghiệp bỏ vốn đầu tư vào nơi cần thiết; ngược lại, một chính sách thuế khắt khe sẽ giảm bớt luồng di chuyển vốn vào nơi cần hạn chế sản xuất kinh doanh Độc quyền, trong kinh tế học, độc quyền là trạng thái thị trường chỉ có duy nhất một người bán và sản xuất ra sản phẩm không có sản phẩm thay thế gần gũi. Đây là một trong những dạng của thất bại thị trường, là trường hợp cực đoan của thị trường thiếu tính cạnh tranh. Mực dù trên thực tế hầu như không thể tìm được trường hợp đáp ứng hoàn hảo hai tiêu chuẩn của độc quyền và do đó độc quyền thuần túy có thể coi là không tồn tại nhưng những dạng độc quyền không thuần túy đều dẫn đến sự phi hiệu quả của lợi ích xã hội. Độc quyền được phân loại theo nhiều tiêu thức: mức độ độc quyền, nguyên nhân của độc quyền, cấu trúc của độc quyền... Độc quyền gây ra rất nhiều tổn thất phúc lợi cho xã hội vì vậy, việc cấp vốn hình thành các doanh nghiệp là một trong những biện pháp căn bản để chống độc quyền và giữ cho thị trường khỏi rơi vào tình trạng cạnh tranh không hoàn hảo, một trong những nguyên nhân kìm hãm phát triển nền kinh tế + Thứ hai, ngân sách Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc điều tiết thị trường, bình ổn giá cả và chống lạm phát. Trong nền kinh tế thị trường, sự biến động không ngừng của giá cả có nguyên nhân từ sự mất cân đối giữa cung và cầu. Bằng công cụ thuế, phí, lệ phí, vay và chính sách chi tiêu của ngân sách Nhà nước, Nhà nước có tác động vào khía cạnh cung hoặc cầu để bình ổn giá cả. Đặc biệt sự hình thành quỹ dự phòng trong ngân sách Nhà nước để đối phó với với sự biến động của thị trường đóng vai trò quan trọng để bình ổn giá cả: o Đối với thị trường hàng hoá: hoạt động điều tiết của Chính phủ được thực hiện thông qua việc sử dụng các quỹ dự trữ nhà nước ( bằng tiền, bằng ngoại tệ, các loại hàng hoá, vật tư chiến lược,...) được hình thành từ nguồn thu ngân sách.  o Đối với thị trường tiền tệ, thị trường vốn, thị trường sức lao động... hoạt động điều tiết của Chính phủ thông qua việc thực hiện một cách đồng bộ giữa các công cụ tài chính, tiền tệ, giá cả... trong đó công cụ ngân sách với các biện pháp như phát hành công trái, chi trả nợ, các biện pháp tiêu dùng của Chính phủ cho toàn xã hội, đào tạo... Mặt khác, hoạt động thu chi của ngân sách Nhà nước có mối quan hệ chặt chẽ với vấn đề lạm phát. Lạm phát là căn bệnh nguy hiểm đối với nền kinh tế và chống lạm phát là một nội dung quan trọng trong quá trình điều chỉnh thị trường.  Lạm phát (trong kinh tế học) là sự tăng lên theo thời gian của mức giá chung của nền kinh tế. Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị trường hay giảm sức mua của đồng tiền. Khi so sánh với các nền kinh tế khác thì lạm phát là sự phá giá tiền tệ của một loại tiền tệ so với các loại tiền tệ khác. Thông thường theo nghĩa đầu tiên thì người ta hiểu là lạm phát của đơn vị tiền tệ trong phạm vi nền kinh tế của một quốc gia, còn theo nghĩa thứ hai thì người ta hiểu là lạm phát của một loại tiền tệ trong phạm vi thị trường toàn cầu. Phạm vi ảnh hưởng của hai thành phần này vẫn là một chủ đề gây tranh cãi giữa các nhà kinh tế học vĩ mô. Ngược lại với lạm phát là giảm phát. Một chỉ số lạmphát bằng 0 hay một chỉ số dương nhỏ thì được người ta gọi là sự ổn định giá cả. Lạm phát gây ra rất nhiều hiệu ứng tiêu cực cho đất nước nói chung và cho nền kinh tế nói chung.Nguyên nhân gây ra và thúc đẩy lạm phát có rất nhiều và xuất phát từ nhiều lĩnh vực, như:lạm phát cho chi phí đẩy, lạm phát do cơ cấu đẩy, lạm phát do xuất nhập khẩu, lạm phát do tiền tệ… trong đó có lĩnh vực thu chi tài chính của Nhà nước. Do đó, bằng các biện pháp đúng đắn, trong các quá trình thu chi của ngân sách Nhà nước như: thắt chặt và nâng cao hiệu quả hiệu quả của các khoản chi tiêu của ngân sách Nhà nước, tăng thuế tiêu dung, giảm thuế đối với đầu tư, thắt chặt chi tiêu của ngân sách Nhà nước… Ngoài ra, để kiềm chế lạm phát, nhà nước có thể tăng cường các khoản vay trong dân góp phần làm giảm lượng tiền mặt trong nền kinh tế; triệt để không phát hành tiền tệ để bù đắp thiếu hụt ngân sách…., Nhà nước có thể hạn chế và kiểm soát lạm phát. - Ngân sách Nhà nước là công cụ điều tiết thu nhập giữa các thành phần kinh tế và các tầng lớp dân cư nhằm đảm bảo công bằng xã hội. Từ năm 1968 nền kinh tế Việt Nam chuyển đổi cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước với muạc tiêu xây dựng một xã hội thịnh vượng, công bằng và văn minh. Nhưng nền kinh tế thị trường với những khuyết tật vốn có của nó là phân hoá giai cấp, phân hoá giàu nghèo, bất công bằng xã hội…. Do vậy, Nhà nước phải sử dụng công cụ ngân sách Nhà nước để điều tiết thu nhập, giảm bớt khoảng cách về thu nhập giữa các tầng lớp trong xã hội. Việc điều tiết này được thực hiện thông qua hoạt động thu chi của ngân sách. Thông qua hoạt động thu ngân sách, dưới hình thức kết hợp thuế giảm thu và thuế trực thu Nhà nước điều tiết bớt một phần thu nhập của tầng lớp có thu nhập cao trong xã hội, hướng dẫn tiêu dung hợp lý, tiết kiệm, đảm bảo thu nhập chính đáng của người lao động. Mặt khác, thông qua hoạt động chi ngân sách dưới các hình thức chứng khoán cấp phát, trợ cấp trong các chính sách về dân số kế hoách hóa gia đình về bảo trợ xã hội, việc làm… Nhà nước hỗ trợ để nâng cao đời sống của từng lớp người nghèo trong xã hội.  PHẦN 3: LIÊN HỆ VIỆC PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM. I. Thực trạng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay. Bước vào thời kỳ đổi mới, nước ta đang thực hiện chuyển mới nền kinh tế, từ nền kinh tế kế hoạch sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa. Hay nói tóm lại là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hiện nay nền kinh tế nước ta đang ở độ kém phát triển bởi cơ sở vật chất, máy móc còn nghèo nàn lạc hậu. Theo UNDP thì Việt Nam đang đúng thứ 2/7 nước có công nghệ lạc hậu nhất: nó thể hiện ở: Nông nghiệp vẫn sử dụng khoảng 70% lực lượng lao động nhưng chỉ sản xuất được khoảng 26% GDP-tổng sản phẩm quốc dân, các nghành kinh tế công nghệ cao chiếm tỷ trọng thấp. Từ nguyên nhân ở trên cho thấy sự bất ổn lớn trong nền kinh tế, thị trường hàng hóa là một minh chứng cho vấn đề này, nhiều hiện tượng tiêu cực vẫn xảy ra như: nhãn mác giả, hàng hóa giả, nhập lậu…do bắt nguồn từ bản chất của nền kinh tế thị trường nên kinh tế thị trường có mặt tốt là cho phép các doanh nghiệp cạnh tranh, từ đó kích thich tăng trưởng sản xuất, tăng năng xuất lao động. Tình hình lạm phát đang là nỗi bức xúc nhất hiện nay, giá các mặt hàng thiết yếu liên tục gia tăng mạnh như giá xăng dầu, giá thực phẩm, giá sắt thép tăng chóng mặt và quá cao so với thế giới. Sau khi gia nhập tổ chức WTO, nền kinh tế Việt Nam nói riêng đang đúng trước rất nhiều thách thức, vì vậy nền kinh tế Việt Nam không khỏi chịu ảnh hưởng của nền kinh tế toàn cầu.  II. Thưc trạng vai trò của ngân sách Nhà nước ở Việt Nam hiện nay. Việc thực hiện các vai trò của ngân sách Nhà nước ở Việt Nam hiện nay còn nhiều bất cập và chưa được Nhà nước công bố rõ ràng. Dưới đây là tình hình thực hiện các vai trò của ngân sách Nhà nước ở Việt Nam hiện nay. - Về việc thực hiện vai trò là công cụ huy động nguồn tài chính để đảm bảo nhu cầu chi tiêu của Nhà nước: Nhà nước cũng thông qua các công cụ như thuế, lệ phí, lợi tức của Nhà nước, các khoản vay trong nước hoặc nước ngoài, viên trợ từ các nước tổ chức trên thế giới,…, ngoài ra còn có trái phiếu chính phủ do Nhà nước phát hành, và công trái Nhà nước. Có một bất cập là thu ngân sách Nhà nước ở Việt Nam là công bố thu ngân sách Nhà nước rất chậm, người dân không được nắm rõ tình hình ngân sách của Nhà nước trong năm mà thường là sau vài năm mới được công bố. Sau đây là công bố thu ngân sách Nhà nước mấy năm gần đây. Năm 2000 2002 2003 2004 2005 20006 Tổng thu 90749 123860 152274 190928 228287 279472 Thu trong nước (không kể thu từ dầu thô) 46233 63530 78687 104576 119826 145404 Thu từ doanh nghiệp Nhà nước 19692 25066 28748 32177 39079 46344 Thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 4735 7276 9942 15109 19081 25838 Thu từ khu vực công, thương nghiệp, dịch vụ ngoài quốc doanh 5802 7764 10361 13261 16938 22091 Thuế sử dụng đất nông nghiệp 1776 772 151 130 132 111 Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao 1831 2338 2951 3521 4234 5179 Lệ phí trước bạ 934 1332 1817 2607 2797 3363 Thu từ xổ số kiến thiết 1969 3029 3657 4570 5304 6142 Thu phí xăng dầu 2192 2995 3204 3583 3943 3969 Thu phí,lệ phí 2713 3021 3279 4182 4192 4986 Các khoản thu về nhà đất 2823 5486 10546 17463 17757 20536 Các khoản thu khác 1766 4451 4031 7973 6369 6845 Thu từ dầu thô 23534 26510 36773 48562 66558 83346 Thu từ hải quan 18954 31571 33845 34913 38114 42825 Thuế xuất, nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt hang hóa nhập khẩu, thu chênh lệch hang hóa nhập khẩu 13568 22083 21507 21654 23660 26280 Thuế giá trị gia tăng hàng nhập khẩu 5386 9488 12338 13259 14454 16545 Thu từ viện trợ không hoàn lại 2028 2249 2969 2877 3789 7897 Dự kiến tổng thu ngân sách Nhà nước năm nay(2008) đạt 399 nghìn tỷ đồng, vượt 23,5% so với dự toán và tăng 26,3% so với kết quả thực hiện năm ngoái. Tuy nhiên, theo Ủy ban Tài chính và Ngân sách Quốc hội, thu ngân sách chứa đựng nhiều yếu tố đột biến, không ổn định.  Trong 76 nghìn tỷ đồng vượt dự toán, có tới 35,4 nghìn tỷ đồng từ chênh lệch giá dầu thô (giá dự tính là 64 USD mỗi thùng, song giá bình quân thực tế 9 tháng xấp xỉ 105 USD). Thu từ xuất khẩu vượt 23.500 tỷ đồng và thu từ đất vượt 5.500 tỷ đồng so với dự toán đầu năm. Cả ba yếu tố này đều rất bấp bênh, đặc biệt trong bối cảnh giá dầu thô tiếp tục giảm mạnh, xuất khẩu bị đe dọa khi thế giới đối mặt với nguy cơ suy thoái. Trong khi đó, thu từ nội lực của nền kinh tế tăng thấp. Nếu loại trừ yếu tố tăng giá thì mảng thu này thực chất thấp hơn dự toán. Sản xuất kinh doanh năm 2008 có biểu hiện chững lại, phát sinh nhiều khó khăn ở các khu vực kinh tế, khiến thu ngân sách vốn đã lệ thuộc nhiều vào các yếu tố bên ngoài, càng trở nên bấp bênh, thiếu ổn định. Theo đánh giá của Ủy ban Tài chính và Ngân sách Quốc hội, thực hiện dự toán chi ngân sách chưa nghiêm, hiệu quả chưa cao, tiết kiệm chưa triệt để. Chi đầu tư phát triển ước cả năm đạt 118 nghìn tỷ đồng, tăng 18,3% so dự toán, chiếm 24,9% tổng chi ngân sách Nhà nước. Nhưng giải ngân vẫn chậm, đầu tư dàn trải, vi phạm đầu tư xây dựng cơ bản phổ biến. Tỷ lệ giải ngân vốn xây dựng cơ bản đến hết tháng 40% so với kế hoạch đã điều chỉnh (28,5 nghìn tỷ đồng); dự tính cả năm chỉ đạt 20 nghìn tỷ đồng, bằng 54% kế hoạch ban đầu và 70% kế hoạch điều chỉnh của Chính phủ.  Dự kiến năm nay Chính phủ phải dốc ngân sách khoảng 32 nghìn tỷ ra bù lỗ cho kinh doanh dầu (bù lỗ cho các đơn vị kinh doanh để giữ giá bán lẻ ở mức thấp). Chưa hết, Chính phủ còn phải tái đầu tư cho ngành dầu khí khoảng 9 nghìn tỷ đồng. Theo đề nghị của Ủy ban, Chính phủ cần tính toán lại khoản bù lỗ cho xăng dầu, bởi doanh nghiệp đã phần nào bớt lỗ trong bối cảnh giá nhiên liệu nhập khẩu có xu thế giảm và bình ổn. - Thực trạng vai trò của ngân sách nhà nước trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế:  Trong lịch sử, các nền kinh tế thị trường luôn rơi vào tình trạng bị đe doạ bởi khi thì đồng tiền tăng giá đột ngột, khi thì nạn thất nghiệp tăng cao, khi thì vừa có tình trạng thất nghiệp, vừa có tình trạng lạm phát. Llịch sử vẫn chưa quên thời kỳ trầm trọng của siêu lạm phát ở Đức những năm 20, đặc biệt cuộc đại suy thoái kinh tế thế giới những năm 30 của thế kỷ XX, khi cả thế giới lâm vào tình trạng thất nghiệp.  Chính sách tài chính bao gồm các chính sách thuế và chi tiêu ngân sách của Nhà nước nhằm điều tiết chu kỳ kinh tế, đảm bảo công ăn việc làm, ổn định giá cả và tăng trưởng liên tục của nền kinh tế. Trong những thời kỳ kinh tế suy giảm, chính sách tài chính có tác dụng kích cầu và sản xuất bằng cách Chính phủ tăng mua, giảm thuế, do đó tạo ra được một thu nhập quốc dân khả dụng lớn hơn để đưa vào luồng tiêu đùng. Còn trong những thời kỳ kinh tế "quá nóng", chính phủ làm ngược lại. Để cân bằng lại những biện pháp tài chính cố ý này, Nhà nước tạo ra nhưng cái gọi là cơ chế ổn định, như thuế thu nhập luỹ tiến và phụ cấp thất nghiệp. Chính sách tài chính được điều hành một cách độc lập với chính sách tiền tệ là chính sách nhằm điều tiết hoạt động kinh tế bằng cách kiểm soát việc cung ứng tiền. Nhà nước đã sử dụng vốn ngân sách Nhà nước để điều tiết vĩ mô nền kinh tế thong qua các công cụ sau: Gồm có 6 công cụ sau:  Công cụ tái cấp vốn: là hình thức cấp tín dụng của Ngân hàng Trung ương đối với các Ngân hàng thương mại. Khi cấp 1 khoản tín dụng cho Ngân hàng thương mại, Ngân hàng Trung ương đã tăng lượng tiền cung ứng đồng thời tạo cơ sở cho Ngân hàng thương mại tạo bút tệ và khai thông khả năng thanh toán của họ. Công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc: là tỷ lệ giữa số lượng phương tiện cần vô hiệu hóa trên tổng số tiền gửi huy động, nhằm điều chỉnh khả năng thanh toán (cho vay) của các Ngân hàng thương mại.  Công cụ nghiệp vụ thị trường mở: là hoạt động Ngân hàng Trung ương mua bán giấy tờ có giá ngắn hạn trên thị trường tiền tệ, điều hòa cung cầu về giấy tờ có giá, gây ảnh hưởng đến khối lượng dự trữ của các Ngân hàng thương mại, từ đó tác động đến khả năng cung ứng tín dụng của các Ngân hàng thương mại dẫn đến làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ. Công cụ lãi suất tín dụng: đây được xem là công cụ gián tiếp trong thực hiện chính sách tiền tệ bởi vì sự thay đổi lãi suất không trực tiếp làm tăng thêm hay giảm bớt lượng tiền trong lưu thông, mà có thể làm kích thích hay kìm hãm sản xuất. Nó là 1 công cụ rất lợi hại. Cơ chế điều hành lãi suất được hiểu là tổng thể những chủ trương chính sách và giải pháp cụ thể của Ngân hàng Trung ương nhằm điều tiết lãi suất trên thị trường tiền tệ, tín dụng trong từng thời kỳ nhất định. Công cụ hạn mức tín dụng: là 1 công cụ can thiệp trực tiếp mang tính hành chính của Ngân hàng Trung ương để khống chế mức tăng khối lượng tín dụng của các tổ chức tín dụng. Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà Ngân hàng Trung ương buộc các Ngân hàng thương mại phải chấp hành khi cấp tín dụng cho nền kinh tế.  Tỷ giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái là tương quan sức mua giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ. Nó vừa phản ánh sức mua của đồng nội tệ, vừa là biểu hiện quan hệ cung cầu ngoại hối. Tỷ giá hối đoái là công cụ, là đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ, tác động mạnh đến xuất nhập khẩu và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. Chính sách tỷ giá tác động một cách nhạy bén đến tình hình sản xuất, xuất nhập khẩu hàng hóa, tình trạng tài chính, tiền tệ, cán cân thanh toán quốc tế, thu hút vốn đầu tư, dự trữ của đất nước. Về thực chất tỷ giá không phải là công cụ của chính sách tiền tệ vì tỷ giá không làm thay đổi lượng tiền tệ trong lưu thông. Tuy nhiên ở nhiều nước, đặc biệt là các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi coi tỷ giá là công cụ hỗ trợ quan trọng cho chính sách tiền tệ. Cơ quan hữu trách về tiền tệ sử dụng chính sách tiền tệ nhằm hai mục đích: ổn định kinh tế và can thiệp tỷ giá hối đoái.  Về ổn định kinh tế vĩ mô, nguyên lý hoạt động chung của chính sách tiền tệ là cơ quan hữu trách về tiền tệ (ngân hàng trung ương hay cục tiền tệ) sẽ thay đổi lượng cung tiền tệ. Các công cụ để đạt được mục tiêu này gồm: thay đổi lãi suất chiết khẩu, thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc, và các nghiệp vụ thị trường mở.  Khi tăng chi tiêu vào thời điểm thất nghiệp cao và lạm phát thấp, Nhà nước đã tăng cung ứng tiền, dẫn tới giảm lãi suất (tức giám giá đồng tiền), nhờ đó ngân hàng mới có nhiều điều kiện cho vay và chi tiêu cho tiêu dùng được tăng lên. Điều đó có nghĩa là kích cầu vì tiêu dùng là bộ phận cấu thành lớn nhất và ổn định nhất của tổng cầu. Lãi suất thấp, đồng thời khuyến khích đầu tư, các chủ doanh nghiệp có thể mở rộng sản xuất, thuê thêm công nhân. Trong thời kỳ lạm phát cao và thất nghiệp thấp thì ngược lại, Nhà nước “làm nguội" nền kinh tế bằng cách tăng lãi suất, giảm cung ứng tiền. Cùng với việc giảm tiền và tăng lãi suất, cả chỉ tiêu lẫn giá cả đều có xu hướng giảm hoặc ít nhất, nếu có tăng thì cũng rất chậm, và kết quả là thu hẹp lại sản lượng và việc làm.  Trước năm 1960, chính sách tài chính và tiền tệ không được áp dụng rộng rãi để ổn định các chu kỳ kinh doanh. Ngày nay, trừ các trường hợp liên quan tới thiên tai và thảm hoạ chiến tranh, các chính sách này đã trở thành giải pháp hữu hiệu để khắc phục lạm phát và giải quyết việc làm. Những tác động của nó chưa ro ràng khi cả lạm phát và thất nghiệp xảy ra đồng thời. Có một vài nguyên nhân cho sự hạn chế này. Đó là khó xác định chính xác thời điểm của vấn đề cần giải quyết để từ đó, đưa ra các biện pháp, chính sách hỗn hợp cho phù hợp. Ngoài ra, Tính trễ trong phát huy hiệu quả của chính sách tài chính. Chính phủ muốn thực hiện chính sách tài chính nới lỏng bằng cách tăng chi tiêu chính phủ. Giả sử được quốc hội thông qua thì cũng đã mất thời gian chờ đợi quốc hội xem xét thảo luận. Sau đó, để triển khai còn phải tiến hành các hoạt động như lập kế hoạch dự án, khảo sát-thiết kế để triển khai đầu tư. Những việc này cũng mất không ít thời gian. Chính vì vậy, có một độ trễ để chính sách tài chính nới lỏng bắt đầu phát huy tác dụng.  Khi cả thất nghiệp và lạm phát xảy ra đồng thời, chính phủ có thể rơi vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Bởi vì, các chính sách tài chính và tiền tệ đều điều chỉnh lại mức chi tiêu của cả một nền kinh tế quốc dân, nhưng lại không thể đối phó với sự giảm đột ngột về cung - một nhân tố có thể đẩy nhanh cả lạm phát lẫn thất nghiệp. Tình trạng này đã xảy ra vào những năm 70 của thế kỷ XX, khi có lệnh đình chỉ xuất khẩu đầu của các nước sản xuất dầu, dẫn tới giá cả tăng nhanh trong nền kinh tế các nước công nghiệp hoá. Như vậy, sự giảm cung sẽ dẫn đến tình trạng giá cả tăng nhanh trong khi đó thì sản xuất và việc làm lại giảm. Để đối phó với cú sốc cung này đối với nền kinh tế quốc dân, Nhà nước có thể tăng cường các biện pháp khuyến khích sản xuất, tiết kiệm và đầu tư, tăng hiệu quả cạnh tranh băng cách giảm sự độc quyền, khắc phục sự trì trệ và kìm hãm của các nguồn lực quan trọng.  Như vậy, có thể nói, dẫu Nhà nước không thể cung cấp phương thuốc bách bệnh trong cuộc đấu tranh muôn thuở với lạm phát và thất nghiệp trong các nền kinh tế thị trường thì nó vẫn được coi là nhân tố tích cực trong việc điều hoà các ảnh hưởng của chúng. Hầu hết các nhà kinh tế hiện nay đều thừa nhận tầm quan trọng của Nhà nước trong cuộc đấu tranh chống lạm phát và thất nghiệp thông qua các chính sách ồn định dài hạn.  - Thực trạng việc điều tiết thu nhập giữa các thành phần kinh tế và các tầng lớp dân cư nhằm đảm bảo công bằng xã hội: Kết luận

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThực trạng vai trò ngân sách Nhà nước ở Việt Nam hiện nay.doc
Luận văn liên quan