Đề tài Thực trạng về ngành ngân hàng Việt Nam và một số ý kiến đóng góp

Thực tế trong năm 2007, nền kinh tế có nhu cầu về vốn rất lớn cho phát triển, nhưng với tốc độ tăng huy động vốn cao như nêu ở trên là quá cao, làm cho cầu về vốn tăng mạnh, gây ra áp lực tăng l ãi suất tiền gửi làm ảnh hưởng không tốt đến tình hình đầu tư và hiệu quả của nền kinh tế. Việc tăng lãi suất quá cao có thể góp kiềm chế được lạm phát, nhưng có thể gây ra giảm đầu tư và hiệu quả của nền kinh tế lại bị tổn hại trong tương lai và nền kinh tế theo vòng xoáy lại có thể gặp khó khăn ở sự trì trệ và chậm tốc độ phát triển. Bên cạnh hai chỉ tiêu trên thì có thể thấy, dư nợ của hệ thống ngân hàng cho vay toàn nền kinh tế năm 2007 cũng tăng khá mạnh tăng 37,8%, cao đột biến so với nhiều năm trước đây. Đây là chỉ tiêu quan trọng đối với kiềm chế lạm phát và phát triển nền kinh tế. Đã có ý kiến cho rằng để nền kinh tế tăng trưởng cao cần tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế, nhưng nếu tăng trưởng tín dụng quá cao như năm 2007 thì cần bàn thêm. Nhu cầu vốn đầu tư toàn xã hội của nền kinh tế năm 2007 là trên 452 ngàn t ỷ đồng, trong đó, vốn huy động qua hệ thống ngân hàng chiếm khoảng 50%, tức là cần khoảng 226 ngàn tỷ đồng, trong khi thực tế nguồn vốn mà hệ thống ngân hàng cho vay ra nền kinh tế tăng khoảng 262 ngàn tỷ đồng so với năm 2006, như vậy cao hơn so với nhu cầu cần thiết khoảng 36 ngàn tỷ đồng. Nhưng vấn đề cần bàn chính là chỗ vòng quay đồng tiền năm 2007 có cao hơn các năm do các nhu cầu vốn cho kinh doanh chứng khoán, kinh doanh bất động sản và vay vốn cho tiêu dùng. Sự hoạt động sôi động và phát triển mạnh của lĩnh vực chứng khoán, bất động sản và tiêu dùng đã tác động ngược vào hệ thống ngân hàng làm cho nó cũng sôi động theo. Hơn nữa, có lẽ vấn đề chuyển dịch cơ cấu tín dụng còn chưa đúng hướng và có diễn biến phức tạp, thể hiện ở chỗ cho vay đối với lĩnh vực phi sản xuất có xu hướng tăng mạnh, trong khi lĩnh vực sản xuất lại chưa đáp ứng được nhu cầu (xem đồ thị 3).

pdf53 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3149 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng về ngành ngân hàng Việt Nam và một số ý kiến đóng góp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ày, mà còn quá cao so với ngành. Tỉ số ROE trong khoảng từ 15%-20% là cao, từ 30% trở lên là rất cao. Một điều mà nhà đầu tư cần phải hiểu được rằng, nhiều ngân hàng có tốc độ tăng trưởng nhanh và có ROE vào khoảng 30% hoặc thậm chí là cao hơn chỉ bởi vì dự phòng quá ít cho sự thua lỗ các khoản vay. Hay một ngân hàng dễ dàng nâng lợi nhuận của ngân hàng trong ngắn hạn bằng cách dự phòng thấp hoặc tăng đòn bẩy trên bảng cân đối kế toán, và điều này có thể là rủi ro lớn trong dài hạn. Vì lí do này, thật cần thiết để xem xét thêm tỉ số ROA của ngân hàng đó có ở mức cao hay không nữa. Nói chung, thường có một sự phù hợp nhất định giữa ROA và ROE. Đối với ngân hàng, một ROA cao sẽ là trong khoảng 1.2% đến 1.4%(định mức do Morningstar cung cấp). Đối với các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam có tỉ số ROE trung bình trong năm 2005 là khoảng 21%. Trong khi đó tỉ số này của khu vực châu Á là 16%. Dấu hiệu này cho thấy sự thành công của các ngân hàng Việt Nam, tuy nhiên bạn cần so sánh tỉ số này giữa các ngân hàng để xác định xem ai là người thành công nhất. Tỷ số ROA (năm 2007). Đồ thị 2.3: ROA của một số ngân hàng năm 2007 (Nguồn: Báo cáo tài chính của các ngân hàng) 34 Tỷ số ROE (năm 2007) Đồ thị 2.4: ROE của một số ngân hàng năm 2007. (Nguồn: Báo cáo tài chính của các ngân hàng) Tỉ số hiệu quả hoạt động (efficiency ratios). Tỉ số hiệu quả hoạt động đo lường chi phí không có lãi vay, hay chi phí hoạt động, như một phần trăm của thu nhập ròng. Về cơ bản, tỉ số này nói cho bạn biết ngân hàng được quản lí hiệu quả như thế nào. Các ngân hàng tốt có tỉ số hiệu quả hoạt động thường dưới 55% (tỉ số này càng thấp là càng tốt). Hãy quan sát các ngân hàng có tỉ số hoạt động hiệu quả như một bằng chứng rằng các chi phí của nó nằm trong tầm kiểm soát. Đồ thị 2.5:Chỉ số hoạt động của một số ngân hàng. 35 Lợi nhuân biên tế từ chênh lệch lãi suất (Net interest margins). Một thước đo đơn giản khác là phải xem xét đến lợi nhuân biên tế từ chênh lệch lãi suất. Tỉ số này chính là tỉ lệ phần trăm giữa thu nhập ròng từ lãi so với tổng tài sản bình quân. Ý nghĩa của tỉ số này cho chúng ta biết, 1 đồng trong tổng tài sản bình quân sẽ mang lại đựoc bao nhiêu thu nhập từ hoạt động tín dụng .Đối với các ngân hàng Việt Nam thì tỉ số này khá quan trọng vì phần lớn thu nhập ròng của ngân hàng là từ hoạt động tín dụng. Theo định mức do Morningstar cung cấp, thì lợi nhuận biên tế này của ngành chỉ dao động trong khung từ 3% đến 4%. Nhà đầu tư nên theo dõi tỉ số này theo thời gian để nhận ra khuynh hướng. Doanh thu vững mạnh. Lịch sử cho thấy một ngân hàng thành công có thể cung cấp những dịch vụ mới đi kèm với những dịch vụ truyền thống giúp làm gia tăng thu nhập phi lãi suất cùng với thu nhập có được từ chênh lệch lãi suất. một thực tế hiển nhiên ngành ngân hàng VN có quá ít các dịch dụ tài chính, thu nhập chính của họ từ hoạt động truyền thống. Hãy để mắt tới 3 chỉ tiêu chính: (1) tỷ lệ thu nhập lãi ròng, (2) tỷ lệ thu nhập phi lãi trên tổng doanh thu và (3) tốc độ tăng trưởng thu nhập phi lãi. Chỉ tiêu đầu tiên có thể có mức thay đổi lớn tùy thuộc những yếu tố kinh tế, môi trường lãi suất và khu vực mà tổ chức tín dụng tập trung cho vay, cho nên tốt nhất là so sánh chỉ tiêu này của ngân hàng với những con số tương tự của các tổ chức tín dụng tương tự. Hãy tin chắc rằng bạn so sánh những ngân hàng tương tự với nhau và rằng bạn hiểu được chiến lược của ngân hàng. Như thường lệ hãy xem xét những con số trong một khoảng thời gian để có được cảm nhận về khuynh hướng. Giá trên giá trị sổ sách. Bởi vì bảng cân đối kế toán của ngân hàng hầu hết bao gồm các tài sản tài chính với nhiều mức độ thanh khoản khác nhau, giá trị sổ sách là một đại diện tốt cho giá trị cổ phiếu của ngân hàng. Giả sử tài sản và nợ của ngân hàng gần bằng giá trị được ghi sổ, giá trị của ngân hàng sẽ là giá trị sổ sách. Đối với bất kỳ phần bù nào cao hơn mức đó, có nghĩa là các nhà đầu tư đang trả cho sự tăng trưởng trong tương lai và những thu nhập vượt mức. Những chỉ tiêu trên nên dùng như là điểm khởi đầu cho việc tìm kiếm những cổ phiếu ngân hàng tốt. Nhìn chung, chúng tôi nghĩ rằng cách bảo vệ tốt nhất cho các nhà đầu tư chọn cổ phiếu của ngành dịch vụ tài chính trong đó có ngành ngân hàng là tính kiên nhẫn và một giác quan hoài nghi tốt. Hãy lập một danh mục trên giấy các ngân hàng mà trông có vẻ hứa hẹn và tìm hiểu hoạt động kinh doanh của họ trong một thời gian. Hãy cảm nhận loại hình cho vay mà các ngân hàng này tiến hành, cách thức kiểm soát rủi ro, chất lượng quản trị và khối lượng vốn chủ sở hữu mà ngân hàng đang nắm giữ. Tóm lại cần quan tâm sến các điểm sau: 36  Một ngân hàng thường hứng chịu ba rủi ro sau và vì thế nhà đầu tư hãy nên xem xét ban lãnh đạo ngân hàng quản trị chúng như thế nào. Các rủi ro đó là: rủi ro tín dụng (credit), rủi ro thanh toán (liquidity) và rủi ro lãi suất.  Các nhà đầu tư nên tập trung tìm kiếm các ngân hàng mà nắm giữ vốn cổ phần lớn hơn so với đối thủ cạnh tranh trong ngành (hay có tỉ số vốn cổ phần trên tổng tài sản cao hơn) và tất nhiên ngân hàng đó phải có sự dự phòng đúng mức cho sự thua lỗ của các khoản vay có thể xãy ra trong tương lai.  Các ngân hàng quản lí tốt luôn có sự cân đối phù hợp giữa thời lượng (duration) tài sản và thời lượng (duration) của nợ. Nghĩa là , các ngân hàng luôn tài trợ cho các khoản vay dài hạn bằng nợ dài dạn hoặc tiền gửi có kì hạn, chứ không phaỉ tài trợ bằng nguồn vốn ngắn hạn. Nhà đầu tư hãy nên tránh các ngân hàng thực hiện trái với điều này.  Các ngân hàng có nhiều lợi thế cạnh tranh. Chúng có thể vay tiền tại mức lãi suất thấp, sau đó cho vay với lãi suất cao hơn. Có hiệu quả kinh tế theo quy mô cao nhờ có mạng lưới phân phối. Đặc điểm của ngân hàng là thâm dụng vốn làm ngăn cản các đối thủ mới.  Các nhà đầu tư nên tìm kiếm các ngân hàng có vốn tự có lớn, đồng thời có ROA và ROE cao, và khả năng tạo ra tăng trưởng thu nhập đều đặn.  So sánh các ngân hàng tương tự nhau theo thước đo P/B có thể là một cách tốt để chắc rằng bạn không trả quá cao cho chứng khoán của một ngân hàng. CHƯƠNG 3: MỘT SỐ Ý KIẾN ĐÓNG GÓP CHO SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM: 3.1. Lộ trình hội nhập của ngành ngân hàng Việt Nam: -Hội nhập quốc tế là xu hướng tất yếu của nền kinh tế thế giới, là điều kiện tiền đề cần thiết để phát triển kinh tế quốc gia đi vào quỹ đạo chung của thế giới thông qua việc tận dụng được dòng chảy vốn khổng lồ cùng với công nghệ tiên tiến. Hội nhập quốc tế là động lực thúc đẩy hệ thống NH Việt Nam từng bước cải cách nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường khu vực và thế giới . Một hệ thống NH hữu hiệu trở thành kênh dẫn nhập vốn quan trọng và hàng đầu sẽ đáp ứng đầy đủ nhu cầu về vốn và cung ứng sản phẩm cho nền kinh tế để đạt đến thành công của công nghiệp hoá và hiện đại hóa. Vì vậy lĩnh vực NH cần nhanh chóng hội nhập cùng với hệ thống NH khu vực và thế giới, xây dựng hệ thống NH có năng lực cạnh tranh vững mạnh đáp ứng đầy đủ yêu cầu về vốn và cung ứng sản phẩm dịch vụ cho nền kinh tế đang trong quá trình hội nhập. 37 Các giải pháp đẩy mạnh hội nhập quốc tế NH tại Việt Nam : Hội nhập quốc tế của ngành NH đặt ra những yêu cầu thách thức để thực hiện chính sách mở cửa lĩnh vực dịch vụ NH song song với quá trình tăng cường cải cách hệ thống NH nhằm giải quyết nhu cầu về vốn cho nền kinh tế cần phải tập trung thực hiện các giải pháp cơ bản sau: Thứ nhất, nhanh chóng xây dựng chiến lược, chiến thuật thích hợp để đảm bảo cho quá trình hội nhập ngân hàng thành công, mang lại lợi ích thật sự cho nền kinh tế Việt Nam. Thứ hai, xây dựng môi trường pháp lý ổn định tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế Việt Nam và hệ thống NH phát triển trong điều kiện hội nhập quốc tế. - Từng bước xoá bỏ các cơ chế bao cấp, bảo hộ đối với các NHTM VN đồng thời nới rộng dần các hạn chế đối với NH nước ngoài đi đôi với củng cố, lành mạnh hoá các NHTM Việt Nam chính sách hiện hành - Xây dựng các khung pháp lý đảm bảo sân chơi bình đẳng, an toàn cho các loại hình NHTM trên lĩnh vực tín dụng, dịch vụ ngân hàng, đầu tư và các nghiệp vụ tài chính khác - Từng bước thiết lập và áp dụng đầy đủ các chuẩn mực quốc tế về an toàn trong hoạt động kinh doanh tiền tệ- NH như: chuẩn mực về tỉ lệ an toàn trong hoạt động NH, phân loại, trích lập và sử dụng dự phòng bù đắp rủi ro, bảo hiểm tiền gửi thông qua việc tiến hành sửa đổi, bổ sung các văn bản để môi trường pháp lý về hoạt động NH phù hợp với thông lệ quốc tế. Thứ ba, nâng cao vai trò của NHNN trong điều hành chính sách tiền tệ. - Hạn chế đến mức thấp nhất sự can thiệp quá sâu của chính phủ các cơ quan, tổ chức đối với các hoạt động của NHNN. - Tiếp tục hoàn thiện các công cụ điều hành chính sách tiền tệ theo hướng chuyển từ kiểm soát trực tiếp sang gián tiếp. - Đẩy mạnh và phát triển thị trường liên NH : Từng bước hoàn thiện hệ thống thị trường tiền tệ thứ cấp, đặc biệt là thị trường liên NH về nội tệ và ngoại tệ. Phát triển các công cụ tài chính của thị trường này, đặc biệt là các công cụ phái sinh như: forward, swap, option, các giao dịch phòng tránh rủi ro về tỷ giá, lãi suất; tập trung xây dựng và hoàn thiện các quy chế cho thị trường tiền tệ. Mở rộng thành viên tham gia giao dịch trên thị trường cho tất cả các TCTD kể cả các chi nhánh lớn của các NHTM quốc doanh, NHCP, NHLD chi nhánh NH nước ngoài đều có thể tham gia bình đẳng trên thị trường liên NH. Bổ sung và đa dạng hóa các công cụ tài chính giao dịch trên thị trường như tín phiếu kho bạc nhà nước, chứng chỉ tiền gửi, thương phiếu nhằm từng bước tạo tiền đề thuận lợi cho các NHTM khai thác vốn trên thị trường tiền tệ nhanh chóng và hiệu quả giải quyết tình trạng thiếu hụt vốn nhằm đáp ứng nhu cầu cân đối nguồn vốn để cho vay. Thứ tư, tiếp tục cơ cấu lại hệ thống ngân hàng. 38 - Các NH tiếp tục đẩy mạnh việc chấn chỉnh củng cố hệ thống ngân hàng, kiện toàn các NHTM NN, sắp xếp lại các NHTMCP theo đề án của Chính phủ và NHNN Việt Nam . - Tăng vốn điều lệ NHTM nhằm nâng cao năng lực tài chính ngân hàng nhằm đạt tỷ lệ an toàn trên vốn theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng Thứ năm, tăng cường công tác thanh tra, giám sát từ xa và công tác kiểm toán nội bộ trên cơ sở hiện đại hoá hệ thống thông tin, chế độ báo cáo thống kê, triển khai mô hình cung cấp và dự báo thông tin. Thứ sáu, xây dựng thí điểm và đưa vào áp dụng mô hình tổ chức NHTM hiện đại theo tiêu chuẩn quốc tế. Tiến hành cơ cấu tổ chức lại và quản lý các NHTM theo nhóm khách hàng và loại dịch vụ của một NH đa năng, thay thế dần cho việc quản lý theo chức năng và nghiệp vụ hiện nay, đồng thời nâng cao trình độ quản lý rủi ro, quản lý tài sản nợ - tài sản có, và kiểm soát nội bộ, nhằm để tạo tiền đề xây dựng một số tập đoàn tài chính mạnh, có khả năng hoạt động như một NH quốc tế. 3.2. Xây dựng một hệ thống pháp luật cho sự phát triển ngành ngân hàng: Nền kinh tế Việt Nam đã hội nhập mạnh mẽ với thế giới nhưng lĩnh vực ngân hàng vẫn còn nhiều hạn chế do còn nhiều bất cập về hệ thống pháp luật, nhiều luật và các văn bản dưới luật thuộc lĩnh vực ngân hàng trái ngược nhau, không còn phù hợp với thực tiễn. Để đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và các cam kết nước ta đã ký khi gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO thì việc sửa đổi luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các Tổ chức tín dụng là một yêu cầu cấp bách đã được ấn định thời gian và thông qua trong chương trình xây dựng luật năm 2008 của Quốc hội khoá XII. Đây là hai luật có tính nhạy cảm và phức tạp, cần được xem xét kỹ lưỡng để sửa đổi, bổ sung phạm vi và mức độ khá lớn để bảo đảm phù hợp với điều kiện và đặc điểm của nước ta cũng như các yêu cầu nước ta đã ký về lĩnh vực dịch vụ tài chính ngân hàng khi gia nhập WTO Thứ nhất, nhận thức lại khái niệm dịch vụ ngân hàng và thống nhất quan niệm về dịch vụ ngân hàng theo chuẩn mực quốc tế. Theo quy định chung của Hiệp định GATS, không có một khái niệm riêng cho dịch vụ ngân hàng mà trên thực tế, dịch vụ này (giống như dịch vụ về bảo hiểm và chứng khoán) được coi như một loại hình dịch vụ tài chính. Cũng theo Hiệp định này, dịch vụ tài chính là bất kì dịch vụ nào có tính chất tài chính, do một nhà cung cấp dịch vụ tài chính của một thành viên thực hiện.Dịch vụ tài chính bao gồm mọi dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ liên quan tới bảo hiểm, mọi dịch vụ ngân hàng và dịch vụ tài chính khác. 39 Như vậy, theo thông lệ quốc tế, dịch vụ ngân hàng là khái niệm rất rộng, bao gồm tất cả các hoạt động ngân hàng của một tổ chức cung ứng dịch vụ ngân hàng trên thị trường vì mục tiêu lợi nhuận. Tuy nhiên, đối chiếu với pháp luật Việt Nam hiện hành tại, quan niệm về dịch vụ ngân hàng lại được hiểu khá hẹp, không bao gồm hoạt động huy động vốn và hoạt động tín dụng. Sự khác biệt này có thể dẫn tới những khó khăn trong việc áp dụng pháp luật Việt Nam đối với các hoạt động ngân hàng do tổ chức cung ứng dịch vụ ngân hàng của các nước thành viên WTO thực hiện tại Việt Nam. Điều đó cho thấy yêu cầu cần thiết và cấp bách của việc thay đổi quan niệm về dịch vụ ngân hàng trong pháp luật Việt Nam trên cơ sở thừa nhận tính hợp lí của khái niệm dịch vụ ngân hàng theo tiêu chuẩn quốc tế như Hiệp định GATS đã ghi nhận. Sự thay đổi này tất yếu dẫn đến những thay đổi quan trọng trong pháp luật hiện hành ở Việt Nam về mỗi loại hình dịch vụ ngân hàng, chẳng hạn như các quy định về nhận tiền gửi, cấp tín dụng hay các quy định về dịch vụ thanh toán, dịch vụ ngân quỹ, dịch vụ bảo quản hiện vật quý và dịch vụ tín thác… Thứ hai, quy định chặt chẽ hơn về các điều kiện cấp giấy phép thành lập và hoạt động ngân hàng nhưng đồng thời phải đơn giản hóa các thủ tục hành chính trong hoạt động cấp giấy phép. Giải pháp này nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức cung ứng dịch vụ ngân hàng trên thị trường sau khi đã được cấp giấy phép thành lập và hoạt động. Quan trọng hơn, đây còn là giải pháp nhằm nâng cao tính minh bạch và hiệu quả của các quy định về quản lí, giám sát từ phía Nhà nước đối với hoạt động ngân hàng, góp phần làm giảm chi phí giao dịch và chi phí gia nhập thị trường của các nhà cung cấp dịch vụ ngân hàng tại Việt Nam. Thứ ba, trên cơ sở nhận thức lại về vai trò của Nhà nước và các hiệp hội nghề nghiệp trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng nên chuyển giao một số vấn đề hiện đang được quy định trong Luật các tổ chức tín dụng sang cho Hiệp hội ngân hàng quy định, ví dụ như các quy định về điều kiện giao dịch; quy trình nghiệp vụ giao dịch; điều lệ mẫu và hợp đồng mẫu; nội quy và quy chế hoạt động của các tổ chức cung ứng dịch vụ ngân hàng trên thị trường. Sự phân quyền này là hợp lí bởi lẽ trong nền kinh tế thị trường, cho dù đối với lĩnh vực kinh doanh đặc thù như lĩnh vực dịch vụ ngân hàng thì Nhà nước cũng chỉ nên can thiệp bằng các quy định có tính chất nền tảng và ở tầm vĩ mô còn các quy định liên quan đến chuyên môn và nghiệp vụ kinh doanh của các nhà cung cấp dịch vụ ngân hàng thì nên để cho các hiệp hội nghề nghiệp (ví dụ như Hiệp hội ngân hàng) quy định có tính hướng dẫn. Giải pháp này vừa làm giảm gánh nặng quản lí của Nhà nước, vừa phát huy được vai trò tích cực của hiệp hội nghề nghiệp trong quá trình tham gia quản lí, giám sát đối với thị trường, đặc biệt là loại hình thị trường có nhiều đặc thù về nghiệp vụ kinh tế như thị trường dịch vụ ngân hàng. 40 Thứ tư, sửa đổi, bổ sung và ban hành thêm một số quy định nhằm đảm bảo tính minh bạch và tính hiệu quả cho pháp luật ngân hàng. Giải pháp này được xem là cần thiết và có tính đột phá nhằm cải thiện nhanh chóng môi trường kinh doanh ngân hàng tại Việt Nam. Các quy định cần được sửa đổi, bổ sung và ban hành mới nhằm minh bạch hóa môi trường pháp lí cho hoạt động kinh doanh ngân hàng tại Việt Nam bao gồm: - Sửa đổi các quy định về điều kiện cấp giấy phép đối với các tổ chức nước ngoài có hoạt động dịch vụ ngân hàng tại Việt Nam, theo hướng đảm bảo sự bình đẳng về các điều kiện cấp giấy phép giữa tổ chức cung ứng dịch vụ ngân hàng trong nước với tổ chức cung ứng dịch vụ ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. Ngoài ra, cần sửa đổi, bổ sung Nghị định của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của ngân hàng 100% vốn nước ngoài, ngân hàng liên doanh, chi nhánh, văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt Nam theo hướng bổ sung thêm quy định về việc cấp giấy phép hoạt động ngân hàng tại Việt Nam cho các tổ chức nước ngoài không phải là tổ chức tín dụng. Giải pháp này nhằm đảm bảo tính rõ ràng, minh bạch của pháp luật Việt Nam về việc tạo cơ hội bình đẳng cho tất cả các tổ chức nước ngoài muốn cung ứng dịch vụ ngân hàng tại Việt Nam. Đây cũng chính là cách để Việt Nam thực hiện đúng các cam kết quốc tế về mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng. - Sửa đổi quy định về chủ thể gửi tiền tiết kiệm tại tổ chức tín dụng theo hướng cho phép mọi tổ chức, cá nhân Việt Nam và nước ngoài, kể cả các tổ chức kinh doanh đều được gửi tiết kiệm tại ngân hàng bằng đồng Việt Nam hoặc ngoại tệ. - Sửa đổi các quy định về huy động vốn theo hướng quy định bình đẳng về giới hạn an toàn trong hoạt động huy động vốn của các tổ chức tín dụng trong nước và tổ chức tín dụng nước ngoài có hoạt động ngân hàng tại Việt Nam. - Sửa đổi, bổ sung các quy định về dịch vụ thanh toán theo hướng quy định bình đẳng về quyền phát hành thẻ và cung cấp không giới hạn các dịch vụ thẻ tại Việt Nam giữa các tổ chức tín dụng nước ngoài và các tổ chức tín dụng trong nước. - Sửa đổi các quy định về cho thuê tài chính hiện hành theo hướng mở rộng đối tượng cho thuê tài chính, bao gồm cả động sản và bất động sản. Giải pháp này không chỉ nhằm thỏa mãn nhu cầu thực tế của cả bên thuê và bên cho thuê trong quá trình cung cấp và sử dụng dịch vụ cho thuê tài chính mà còn đảm bảo cho pháp luật Việt Nam về dịch vụ cho thuê tài chính phù hợp hơn với thông lệ quốc tế 41 3.3. Nâng cao năng lực của đội ngũ nhân viên ngành nhân hàng và chuẩn bị nhân lực cho tương lai: - Sự ra đời của hàng loạt ngân hàng mới cùng với nhu cầu mở rộng mạng lưới của các ngân hàng hiện nay đang khiến cơn sốt nhân lực trong lĩnh vực này ngày một nóng bỏng. Nhiều công ty tài chính, chứng khoán, quỹ đầu tư ra đời cũng càng đổ thêm dầu vào lửa. Hiện nay cả nước đã có 25 ngân hàng thương mại cổ phần, 6 ngân hàng quốc doanh, 44 ngân hàng đại diện nước ngoài, 4 ngân hàng 100% vốn nuóc ngoài chưa kể các ngân hàng đang đợi nhà nước cấp phép thành lập cộng thêm hàng loạt chi nhánh, phòng giao dịch được “tăng cường” khắp các tỉnh, thành đã đẩy “cầu” nhân sự lên mức “báo động đỏ”. Ta có thể nhẩm tính như sau: Để có một điểm giao dịch cần tối thiểu 10 người, mở một chi nhánh mới cần ít nhất 20-30 người, và để “ra mắt” một NH mới “khiêm tốn” lắm phải có trên 100 người. Như vậy, chưa cần nắm con số chính xác nhưng nhắm mắt cũng ước đoán được số lượng nhân viên buộc phải có lớn như thế nào. Theo tính toán sơ bộ, 30.000 người là số lượng nhân viên cần cho ngành tài chính – ngân hàng trong năm nay và đến năm 2012 sẽ cần ít nhất là 1,8 triệu người. Ví dụ như: Habubank chỉ trong 1 năm đã có thêm 30 chi nhánh và điểm giao dịch mới, VP bank có thêm gần 60 điểm, ngân hàng Á Châu trong năm vừa qua đã mở trên 100 chi nhánh và dự định trong năm 2008 sẽ mở thêm khoảng 150 chi nhánh, phòng giao dịch. - Với tốc độ mở ngân hàng như vậy thì tốc độ đào tạo sinh viên về ngành này cũng không hề thua kém, theo thống kê thì đến cuối 2007 cả nước có 33 trường đào tạo ngành tài chính - ngân hàng trình độ đại học, 16 trường cao đẳng, 8 trường trung cấp chuyên nghiệp với trên 63.000 sinh viên chính quy và trên 30.000 sinh viên hệ vừa học vừa làm tốt nghiệp ra trường hằng năm...Với số lượng sinh viên ra trường lớn như vậy nhưng vẫn không đáp ứng được nhu cầu về nguồn nhân lực cho ngành này hiện nay. Không đáp ứng được nhu cầu hiện nay có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân sau: việc đào tạo tại các trường chưa chú ý đến nhu cầu sử dụng nguồn nhân lực trong xã hội cũng như chưa gắn với thị trường lao động, sinh viên ra trường khi đi phỏng vấn chưa thể hiện được những tố chất mà nhà tuyển dụng yêu cầu như năng động. - Từ những áp lực về lượng đã dẫn đến sự dễ dãi về chất trong việc tuyển dụng nhân sự đó là điều nhận thấy ở tất cả các ngân hàng hiện nay vì hầu hết các NH hiện nay đang trong tình trạng thiếu nhân lực trầm trọng, trừ các vị trí quản lý cấp cao ra thì các vị trí còn lại chỉ đòi hỏi ứng viên những yêu cầu cơ bản như tốt nghiệp đại học, các ứng viên chỉ cần nắm được những kiến thức nghiệp vụ căn bản đã được học tại trường là đạt yêu cầu không yêu cầu về kinh nghiệm làm việc hay 42 phải tốt nghiệp loại khá, giỏi...Do đó, việc đào tạo lại và bồi dưỡng nghiệp vụ cho nhân viên mới được coi là việc tất yếu nên hiện nay hầu hết các NH đều xây dựng Trung tâm đào tạo của riêng mình. - Từ những yếu tố nêu trên đã tạo điều kiện thuận lợi cho những sinh viên năm 3,4 ngành tài chính- ngân hàng. Chưa bao giờ mà sinh viên ngành tài chính – ngân hàng lại có thể dễ dàng tìm cho mình một công việc thích hợp như hiện nay. Mặc dù, chỉ là sinh viên năm cuối chưa được nhận bằng tốt nghiệp nhưng vẫn được nhận vào làm hẳn hoi với mức lương gần 2 triệu đồng/ tháng, tính ra mỗi sinh viên có thể nhận được 60.000đồng/ngày với công việc là ngồi đọc sách. Với đủ mọi cách để giữ chân những sinh viên năm cuối, các ngân hàng đã dùng những chiến thuật của mình như trao học bổng cho sinh viên nhưng với điều kiện ràng buộc là phải phục vụ cho ngân hàng mình đã nhận học bổng từ 3-5 năm để đáp ứng cho nhu cầu khan nhân lực hiện nay. - Tuy nhiên, cần phải có những giải pháp cụ thể để có thể đào tạo được một đội ngũ nhân viên đủ cả về lượng và chất phục vụ cho ngành tài chính – ngân hàng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, để ngành này có thể cạnh tranh được với khu vực và thế giới như: + Hạn chế đào tạo theo hướng sinh viên chỉ ngồi lắng nghe trong khi giảng viên đứng giảng 100%, mà nên kết hợp theo hướng kết hợp giữa thầy và trò, giảng viên nên giao cho sinh viên về nhà làm bài trước sau đó lên thuyết trình và cuối cùng thầy cô tổng kết lại. Như vậy, sẽ làm cho sinh viên năng động hơn. + Cần phải tăng cường “trao đổi” các giáo viên có chất lượng cao giữa các trường lẫn nhau đồng thời nâng cao chất lượng giảng viên của mình bằng cách tạo cơ hội cho giảng viên trường mình đi học ở nước ngoài. + Các trường đại học , cao đẳng nên liên kết với các ngân hàng đào tạo theo hướng mà họ yêu cầu, đặt hàng. Mỗi năm, các trường phải liên kết với các ngân hàng tạo điều kiện thuận lợi cho các sinh viên thực tập để họ nhanh chóng ứng dụng được các kiến thức đã học. + Ngoài ra, các trường cần thống nhất hệ thống bài tập và câu hỏi kiểm tra, có thể lập ngân hàng bài tập và câu hỏi kiểm tra trên mạng cho sinh viên; xây dựng phần mềm mô phỏng tác nghiệp của ngành TC-NH; đẩy mạnh đưa chương trình giảng dạy bằng tiếng Anh vào trong nhà trường; đồng thời xây dựng cơ sở dữ liệu về ngành TC-NH phục vụ quản lý Nhà nước và nhiệm vụ đào tạo 3.4. Nâng cao vai trò của Ngân hàng Trung Ương trong việc điều hành chính sách tiền tệ: 43 - Điều 3 Luật NHNN 1997 khẳng định: “Quốc hội quyết định và giám sát việc thực hiện CSTT quốc gia, mức lạm phát dự kiến hằng năm trong mối tương quan với cân đối ngân sách nhà nước và mức tăng trưởng kinh tế.... Chính phủ xây dựng CSTT quốc gia, mức lạm phát dự kiến hằng năm trình Quốc hội quyết định; tổ chức thực hiện CSTT quốc gia; quyết định lượng tiền cung ứng bổ sung cho lưu thông hằng năm, mục đích sử dụng số tiền này và định kỳ báo cáo Uỷ ban Thường vụ Quốc hội; quyết định các chính sách cụ thể khác và các giải pháp thực hiện..... ”. Điều 4 Luật NHNN 1997 quy định: “Chính phủ thành lập Hội đồng tư vấn CSTT quốc gia để tư vấn cho Chính phủ trong việc quyết định những vấn đề thuộc về nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ về CSTT. Nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng tư vấn CSTT quốc gia do Chính phủ quy định.” Như vậy, hiện tại mặc dù được quy định là NHTW của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nhưng thẩm quyền của NHNN trong xây dựng và điều hành CSTT còn hạn chế, NHNN có mức độ độc lập thấp và chịu sự can thiệp hành chính toàn diện của Chính phủ. NHNN chỉ là cơ quan xây dựng dự án CSTT Quốc gia để Chính phủ trình Quốc hội quyết định, trên cơ sở đó, NHNN tổ chức thực hiện; việc quyết định lượng tiền bổ sung vào lưu thông hằng năm cũng do Chính phủ quyết định, NHNN có trách nhiệm điều hành trong phạm vị đã được duyệt,… Trong khi chức năng NHTW chưa được khẳng định rõ nét, NHNN lại có trách nhiệm thực hiện nhiều nhiệm vụ thuộc về chức năng quản lý nhà nước. - Thêm vào đó trong suốt thời gian qua mục tiêu và vai trò của Ngân hàng Nhà nước còn nhập nhằn với nhau, chưa được xác định, phân biệt rõ ràng. Khi mà mục tiêu của NHTW không được xác định một cách chính xác, rõ ràng thì vai trò của nó cũng khó mà phân định được một cách đúng đắn, đặc biệt là trong quan hệ với các ngành kinh tế khác như Tài chính, Kế hoạch và đầu tư…Trong điều kiện kinh tế thị trường, hầu hết các NHTW trên thế giới đều xác định mục tiêu của mình là: “duy trì sự ổn định của giá cả”. Vậy mục tiêu của NNHTW VN trong thời gian tới là gì ? - Theo đề án phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 ( ban hành kèm theo quyết định số 112/2006/QĐ-TTg ngày 24/05/2006 của Thủ tướng Chính phủ ) thì nhiệm vụ của NHNN nhằm mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền, kiểm soát lạm phát, đảm bảo an toàn hệ thống tiền tệ, ngân hàng, go1pn phần tạo môi trường thuận lợi cho tăng trưởng và phát triển bền vững kinh tế-xã hội. NHNN độc lập, tự chủ trong việc xây dựng, điều hành CSTT, lãi suất và tỷ giá hối đoái. Nâng cao vai trò, trách nhiệm và quyền hạn của NHNN trong việc tổ chức thực hiện chiến lược, xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ trên cơ sở phân định rõ quyền hạn, nhiệm vụ và hạn chế sự can thiệp của các cơ quan liên quan vào quá trình xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ, pháp 44 luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Như vậy một câu hỏi tiếp tục được đặt ra là “phải xây dựng một NHNN độc lập với Chính phủ, tự chủ theo mô hình nào? Theo tiêu chí nào?” - Thêm vào đó sự biến đổi không ngừng của nền kinh tế chuyển đổi trong bối cảnh hội nhập đã khiến cho pháp luật ngân hàng Việt Nam bộc lộ dần những hạn chế và bất cập thể hiện rõ nhất ở quy định vị trí pháp lí, chức năng, cơ cấu tổ chức và hoạt động của cơ quan phát hành tiền quốc gia hay Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam (NHNNVN). Nhiều quy định hiện hành của Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam đã và đang thể hiện lối tư duy và cách tiếp cận cũ, mang nhiều dấu ấn của cơ chế quản lí hành chính bao cấp trong thời kì kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Các quy định này tỏ ra không phù hợp với thông lệ chung trên thế giới về địa vị pháp lí của cơ quan phát hành tiền quốc gia. Điều đó được thể hiện ở các khía cạnh chủ yếu sau đây: - Theo thông lệ của quốc tế thì cơ quan đứng đầu và điều hành hệ thống ngân hàng của một nước sẽ là ngân hàng trung ương của nước đó. Nhưng ở Việt Nam hiện nay lại là “Ngân hàng nhà nước”. Các chức năng của Ngân hàng nhà nước hiện nay cũng được quy định theo hướng quá coi trọng chức năng quản lí nhà nước về ngân hàng, trong khi chức năng ngân hàng trung ương lại được quan tâm không thỏa đáng, chỉ phản ánh được khía cạnh sở hữu của nhà nước đối với cơ quan đặc biệt này chứ không phản ánh được bản chất là ngân hàng trung ương của nước Việt Nam và các chức năng vốn có của nó so với các ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường. - Mô hình tổ chức của NHNNVN hiện nay còn quá nặng nề, cồng kềnh và hoạt động chưa hiệu quả. Mô hình này dường như chỉ nhằm thực hiện chức năng quản lí hành chính nhà nước chứ không có nhiều tác dụng trong việc thực hiện chức năng của một ngân hàng Trung ương. -Các quy định về hoạt động của Ngân hàng nhà nước còn thể hiện tư duy sử dụng mạnh mẽ các biện pháp hành chính trong quá trình quản lí nhà nước cũng như thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia và giám sát an toàn đối với hệ thống ngân hàng. => Từ những thực trạng về NHNN hiện nay, việc hoàn thiện pháp luật về ngân hàng trung ương ở Việt Nam cần hướng tới các giải pháp lớn sau đây: - Việc cần làm đầu tiên là nên đổi tên “ Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam” thành “Ngân Hàng Trung ương Việt Nam”. Và theo dự kiến tháng 06/2009 thì NHNN sẽ trở thành NHTW. Vấn đề này có vẻ như chỉ mang tính hình thức nhưng tên gọi này cũng dễ dàng được thế giới chấp nhận hơn vì đó là một thông lệ của quốc tế và có thể đó là một sự thuận lợi cho Việt Nam trong quá trình hội nhập của hệ thống ngân hàng Việt Nam vào sân chơi toàn cầu. - Ngân hàng Nhà nước không được độc lập hoạch định, thực thi chính sách tiền tệ, lại có thể bị can thiệp, chi phối bởi các chính sách khác của Chính phủ như chính sách tài khóa, mục tiêu tăng 45 trưởng... - NHNN phải được quyền quyết định các định hướng, giải pháp trong xây dựng và điều hành CSTT quốc gia cũng như trong việc thực hiện các chức năng khác của NHTW. Tất nhiên, song song với các thẩm quyền được trao, NHNN phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội về kết quả điều hành CSTT và thực hiện các chức năng của NHTW. - Cần tránh khuynh hướng cho rằng, nâng cao vai trò độc lập của NHTW nghĩa là NHTW thoát ly hoàn toàn khỏi Chính phủ mà nó thể hiện ở 3 tiêu thức cơ bản: mức độ quyết định của NHTW trong việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ, mức độ tự chủ về ngân sách, ảnh hưởng của áp lức chính trị tác động đến vấn đề tổ chức và hoạt động của NHTW. Mục tiêu cuối cùng của CSTT và cũng là mục tiêu hoạt động của NHTW là ổn định giá cả, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Vì vậy, cần thiết lập các quy định pháp lý về mối quan hệ giữa NHTW với Chính phủ nhằm bảo đảm hoạt động của NHTW hỗ trợ tốt cho các chương trình kinh tế của Chính phủ. -Tiến tới thực hiện Chính sách lạm phát mục tiêu. Lạm phát mục tiêu là một trong những khuôn khổ CSTT mà theo đó, NHTW hoặc Chính phủ thông báo một số mục tiêu trung dài hạn về lạm phát và NHTW cam kết đạt được những mục tiêu này. Để làm được điều này, NHNN phải có quyền đặc biệt để theo đuổi mục tiêu lạm phát và tự mình đặt ra các công cụ của CSTT. Bên cạnh đó, dân chúng cũng phải được thông báo về khuôn khổ CSTT và việc thực hiện CSTT. - Tăng cường tính độc lập về mặt tổ chức nhân sự của NHNN. Theo đó, nhiệm kỳ của Ban lãnh đạo NHTW có thể dài hơn nhiệm kỳ của Chính phủ và Quốc hội, hoặc xen kẽ giữa các nhiệm kỳ của Chính phủ. Như vậy, quá trình ra quyết định của NHTW sẽ không bị ảnh hưởng bởi chu kỳ thành lập Chính phủ, chu kỳ lập kế hoạch kinh tế. Thống đốc sẽ bị ảnh hưởng một khi Chính phủ thay đổi nhân sự do hết nhiệm kỳ. - Để đảm bảo tính độc lập về hoạt động, cần có qui định cụ thể về chức năng “Là ngân hàng của Chính phủ” theo hướng NHNN sẽ không cho ngân sách vay trực tiếp. NHNN chỉ cấp tín dụng gián tiếp cho Chính phủ thông qua việc cho ngân sách vay trên thị trường thứ cấp có hạn mức, và lấy trái phiếu Chính phủ làm tài sản đảm bảo khi cho các ngân hàng thương mại vay. 3.5. Phân định một cách rõ ràng quyền lực của Ngân hàng nhà nước với Bộ tài chính: Để phân biệt rõ quyền lực của NHNN và Bộ Tài Chính trước tiên ta phải làm rõ các khái niệm sau: Chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ . - Chính sách tài khoá là chính sách thu chi của Chính phủ hay còn gọi là chính sách ngân sách do Bộ Tài chính chịu trách nhiệm thực hiện. Còn chính sách tiền tệ là việc thực hiện tổng thể 46 các biện pháp, sử dụng các công cụ của Ngân hàng Trung ương nhằm góp phần đạt được các mục tiêu của chính sách kinh tế vĩ mô thông qua việc chi phối dòng chu chuyển tiền và khối lượng tiền. Và vấn đề dặt ra ở đây là làm sao phối hợp giữa hai chính sách này lại với nhau, cụ thể là hai cơ quan điều hành với nhau như thế nào để góp phần ổn định giá cả và tăng trưởng kinh tế. Ta phải phân biệt được rằng, chức năng của BTC là làm cho giá cả ổn định còn vấn đề tăng trưởng kinh tế và chống lạm phát như thế nào đó lại là chức năng của NHTW. - Trong các chức năng của Bộ Tài chính có nhiệm vụ quản lý và điều hành nhà nước về giá cả, điểm 14 trong chức năng của Bộ Tài chính. Do đó, khi giá tăng cao, nói đến chỉ số giá, người ta nghĩ ngay đến Bộ Tài chính. Vì thế, trong kiểm soát lạm phát, người ta cũng giao cho Bộ Tài chính. Nếu ta nhìn phân công sẽ thấy sự "ngược đời". Vì như thế chẳng khác nào BTC lại thực hiện chức năng của NHTW. - Hoặc là, Ngân hàng Nhà nước đóng vai trò là cơ quan tài chính thứ hai của Chính phủ sau Bộ Tài chính, phải tài trợ cho các dự án lớn mà lẽ ra đó lại là chức năng của BTC. Ở các tỉnh nghèo rất dễ có sự can thiệp. Những tỉnh này rất cần đầu tư cơ sở hạ tầng để có tăng trưởng, trong khi ngân sách hạn hẹp nên chỉ còn cách “ép” ngân hàng. Chạy theo các dự án duy ý chí không đem lại hiệu quả, các doanh nghiệp không trả được nợ, tất yếu nợ xấu tại các ngân hàng tăng. Việc đề bạt lãnh đạo ngân hàng đều do chính quyền địa phương quyết định nên sức ép đối với các giám đốc ngân hàng là rất lớn. - Ở đây ta thấy có sự nhập nhằng trong việc phân chia chức năng giữa NHNN và BTC. Nguyên nhân sâu xa của vấn đề này đó là do NHNN vẫn chưa thực sự độc lập với chính phủ, do sự không độc lập nên làm NHNN có tiếng nói nhỏ nhẹ trong chính phủ. Ông Thống đốc ngang hàng Bộ trưởng. Ngay từ NHNN đã cho thấy nó là thuộc nhà nước, chịu sự chi phối của các cơ quan nhà nước như trong bộ máy hành chính. Do đó, trong tương lai ta cần phải xây dựng một NHTW độc lập với ý chí của chính phủ để từ đó có thể giải quyết được vấn đề tách biệt chức năng giữa NHTW và BTC. 3.6. Phát triển thị trường liên ngân hàng Việt Nam: Thị trường tiền tệ liên ngân hàng là nơi mà Ngân hàng Nhà nước bằng nghiệp vụ ngân hàng Trung ương thông qua hệ thống lãi suất của mình (Interesrat Targeting) điều tiết lãi suất thị trường và kiểm soát lạm phát. Muốn vậy lãi suất thị trường liên ngân hàng phải “xoay quanh” lãi suất nghiệp vụ thị trường mở (OMO). 47 Trong một thị trường thì điều tất yếu là sẽ có những ngân hàng trong một khoản thời gian nào đó thừa vốn sẽ cho những ngân hàng thiếu vốn vay trong một thời gian và một lãi suất do 2 bên thỏa thuận với nhau. Đây chính là thị trường bán buôn vốn giữa các ngân hàng và giá cả là lãi suất thỏa thuận giữa các bên. Mục tiêu cao nhất của thị trường liên ngân hàng là đáp ứng nhu cầu cao nhất về vốn đầu tư của nền kinh tế và lợi nhuận trong hoạt động kinh doanh của NHTM. Đồng tời hình thành nên lãi suất bình quân trên thị trường, giảm khoản cách lãi suất cho vay giữa các NHTM, thúc đẩy chu chuển vốn trong nước. Hiện nay hầu hết các ngân hàng khi thiếu vốn trong thời gian ngắn, ngoài việc tìm kiếm nguồn vốn huy động từ dân cư thì hầu như là đi vay ở thị trường liên ngân hàng. Nói là thị trường liên ngân hàng nhưng cũng chỉ là sự dịch chuyển luồn vốn của các ngân hàng trong nước, đồng thời các ngân hàng này phải trả một khoản phí nhất định gọi là lãi suất trên thị trường liên ngân hàng. Thị trường liên ngân hàng Việt Nam hình thành và ra đời từ 07/12/1992 theo chỉ thị số 07/CT-NH1 của Thống đốc NHNN, cho phép các tổ chức tín dụng thực hiện cho vay và đi vay lẫn nhau. Tuy nhiên từ đó cho đến nay thì hoạt động của thị trường liên ngân hàng chủ yếu vẫn mang tính thủ công. Thị trường liên ngân hàng mở đầu năm 2008 với mức lãi suất VND qua đêm (over night) nhẹ nhàng 6,52%. Nhưng chỉ chưa đầy một tháng sau đó, con số này đã tăng vọt gấp 4 lần, gây “sốc” đối với những ngân hàng cần vốn và có thể cả với nhà điều hành chính sách tiền tệ. Từ 6,52%, lãi suất qua đêm trên thị trường liên ngân hàng dần tăng theo cầu vốn của các ngân hàng thương mại khi năm hết, Tết đến, nhu cầu rút tiền trong dân cư và doanh nghiệp tăng cao. Đà tăng nhanh và mạnh đã thực sự gây “sốc” bởi kỷ lục trước đó (17% vào ngày 21/11/2007) đã bị đánh đổ. Ngày 29/1/2008, lãi suất qua đêm chỉ ở mức 10,86%. Một ngày sau đó, sự đột biến xuất hiện khi các mốc 20%, 25% bị đánh đổ và đỉnh điểm có lúc lên tới 27% - chưa từng có trong lịch sử tiền tệ Việt Nam. Đặc biệt, bước sang ngân hàngững ngày sau Tết nguyên đáng 2008 vừa qua thì thị trường liên ngân hàng Việt Nam càng trở nên hết sức nóng bỏng, giá cả của những món vay trên thị trường liên ngân hàng liên tục tăng cao. Điển hình ngày 19/02/2008 lãi suất VND cho vay qua đêm liên tục tăng và có lúc lên tới 43%/năm. Trong khi đó chỉ mới cuối tuần trước lãi suất này mới là 25%/năm và mức cao nhất trong 2007 chỉ dừng lại ở con số 17%/năm. 48 Có lẽ chính sự tăng quá “nóng” của lại suất trên thị trường liên ngân hàng đã đưa các ngân hàng vào cuộc đua tăng lãi suất trong những tháng qua. Một câu hỏi đặt ra là từ đâu mà lãi suất ngân hàng tăng cao đến mức kỷ lục như vậy ??? Có phải nguyên nhân từ bản thân các ngân hàng hay là do thị trường chưa hoạt động hiệu quả ? Một trong những nguyên nhân quan trọng là hiệu quả quản trị vốn của ngân hàng trong thời gian vừa qua chưa tốt lắm và chưa phù hợp với tiềm lực và năng lực của ngân hàng. Như vậy với các ngân hàng càng nhỏ thì tỷ lệ huy động vốn thông qua thị trường liên ngân hàng càng cao. Điều này cho thấy hoạt động của các ngân hàng này phụ thuộc nhiều vào khả năng vay mượn trên thị trường liên ngân hàng. Trong khi đó một số ngân hàng lớn thì tỷ lệ này giảm đi thậm chí một số ngân hàng lớn như ACB, Vietcombank… còn có chủ trương dành một lượng tiền lên tới 50% vốn huy động từ nền kinh tế để cho vay trên thị trường liên ngân hàng. Một nguyên nhân nữa là do các NHTM CP nhỏ mới chuyển từ ngân hàng nông thôn lên thì tính thanh khoản chưa cao. Điều này là do lượng tiền huy động từ dân cư chưa cao, do việc huy động tiền gởi từ dân cư với mức lãi suất cao đột biến trước đây đã dến kỳ đáo hạn, do yêu cầu tăng dự trữ bắt buộc của NHNN. Trong khi đó, những ngân hàng có dư vốn khả dụng lại không sẵn sàng cho vay tên thị trường liên ngân hàng. Một mặt do sự dư vốn của họ cũng chỉ mang tính tạm thời, họ vẫn phải có sự phòng vệ cần thiết. Tóm lại một số nguyên nhân trên tuy không đầy đủ nhưng phần nào giúp ta thấy được trong thời gian qua hoạt động của thị trường liên ngân hàng chưa thật sự là hiệu quả, hoạt động của nó ít nhiều cũng còn phụ thuộc vào các NHTM lớn. Đồng thời cũng chính hoạt động của thị trường liên ngân hàng cũng thể hiện sự yếu kém trong kinh doanh của một số ngân hàng. * Một số đề suất cho sự phát triển của thị trường liên ngân hàng Việt Nam: - Thị trường liên ngân hàng có những biến động mạnh mẽ về lãi suất trong những tháng vừa qua một phần chính là do khả năng quản lý nguồn vốn của một số ngân hàng chưa được hiệu quả cho lắm dẫn đến việc các ngân hàng ép giá lẫn nhau đẩy lãi suất liên ngân hàng lên cao. Do đó việc quản trị nguồn vốn của bản thân mỗi ngân hàng cũng góp phần làm cho thị trường liên ngân hàng hoạt động như đúng bản chất của nó. Chất lượng hoạt động của mỗi NHTM là điều kiện nhằm đem lại sự ổn định cho thị trường. - Đổi mới cơ chế hoạt động của NHNN trên thị trường tiền tệ sao cho NHNN trở thành ngân hàng bán buôn lớn nhất trên thị trường tiền tệ. Xây dựng các quy chế hoạt động cho các thành viên tham gia thị trường liên ngân hàng phù hợp với thông lệ quốc tế tạo cơ sở cho các ngân hàng tham gia vào thị trường liên ngân hàng khu vực và thế giới. 49 - Tạo sự liên kết của thị trường liên ngân hàng Việt Nam với thị trường liên ngân hàng trong khu vực và thế giới. Khuyến khích các ngân hàng Việt Nam tham gia vào thị trường tiền tệ trong khu vực, từng bước tiếp cận với nguồn vốn quốc tế. - Hoàn thiện cơ chế xác định lãi suất của thị trường. Ngân hàng Nhà nước cần sớm ban hành và tổ chức thực hiện cơ chế xác định giá theo hướng khớp lệnh hoặc đấu giá, trước hết tại các trung tâm tài chính lớn như Hà Nội, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh. Lãi suất được xác định ở những trung tâm này sẽ làm cơ sở tham chiếu cho các địa phương còn lại trong cả nước. Đồng thời, các tổ chức tín dụng sẽ căn cứ vào lãi suất nói trên để xác định lãi suất của thị trường bán lẻ – huy động hoặc cho vay vốn đối với nền kinh tế. Nói cách khác, các tổ chức tín dụng có thể chủ động thoả thuận lãi suất với các đối tượng khách hàng. Mặt khác, việc hình thành lãi suất như trên sẽ tạo điều kiện gắn kết thị trường tiền tệ trong nước với thị trường các nước trong khu vực và quốc tế, góp phần cho các tổ chức tín dụng chủ động tham gia hoạt động trên thị trường và với các ngân hàng nước ngoài. - Cuối cùng thống nhất thị trường nội tệ liên ngân hàng và thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và có quy chế hoạt động phù hợp để hạn chế những bất cập trong việc quản lý dòng vốn. 3.7. Xây dựng các công cụ phòng ngừa rủi ro cho ngân hàng: Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới biến đổi ngày càng nhanh với chu kỳ kinh doanh ngày càng ngắn lại như hiện nay thì các tổ chức tài chính, ngân hàng cần linh hoạt hơn nữa trong chiến lược phát triển kinh doanh của mình. Và để đảm bảo được sự an toàn trong kinh doanh đó thì các tổ chức tín dụng, ngân hàng cần đẩy mạnh phát triển bộ phận quản lý rủi ro, cần có kế hoạch cụ thể về quản lý rủi ro ngay từ thời điểm lên kế hoạch kinh doanh, định hướng chiến lược. Chỉ có những cơ chế phòng ngừa từ xa thì mới có thể ngăn chặn hiệu quả những rủi ro có thể xảy ra., thay vì để xảy ra thua lỗ mới bàn tính những biện pháp chống đỡ. - Vấn đề cần được các ngân hàng ưu tiên hiện nay là đẩy nhanh quá trình áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế về nghiệp vụ tài chính ngân hàng trong công tác quản lý rủi ro; nâng cao hệ thống kiểm soát nội bộ của ngân hàng. - Các ngân hàng cần thiết lập sẵn các tình huống, lường trước mọi tình huống xấu, có những kịch bản đánh giá rủi ro có thể xảy ra để ứng phó kịp thời khi cần thiết. Tuy nhiên, không được thỏa mãn với những gì mình đã đề ra vì nêu ra thì dễ nhưng khi htực hiện thế nào mới là vấn đề quan trọng. 50 - Hoàn thiện dần hệ thống tài chính, ngân hàng trong nước để có thể phản ứng kịp với những tác động trái chiều mà hội nhập nền kinh tế mang lại, hạn chế những tác động tiêu cực từ những biến động của hệ thống tài chính ngân hàng của thế giới. - Bộ phận quản lý rủi ro phải hoạt động độc lập và song hành với quá trình kinh doanh của mỗi tổ chức, ngân hàng có trách nhiệm theo dõi, giám sát, và thường xuyên kiểm tra các hồ sơ tín dụng, từ đó xếp thành nhóm khách hàng có nguy cơ rủi ro cao và đưa ra các biện pháp loại bỏ dần những khách hàng này. - Những thành viên trong bộ phận này cần hiểu rõ họ đang làm công việc gì với mục đích gì. Từ đó họ sẽ giúp cho họ có những hành động, quyết định đúng đắn thông qua các công cụ phân tích cụ thể. Công cụ ở đây là những dữ liệu mà mỗi đơn vị tích tụ trong quá trình kinh doanh nhiều năm, từ đó rà soát xem đâu là những chỗ dễ xảy ra lỗ hổng, và cần có những biện pháp gì để lấp lỗ hổng tiềm tàng đó. - Cần có sự phối hợp tích cực giữa đơn vị tổ chức tài chính ngân hàng với cơ quan chức năng của Nhà nước. Các cơ quan quản lý cần thường xuyên đánh giá hệ thống xác định vốn an toàn của nội bộ các ngân hàng cũng như hệ thống tự giám sát của ngân hàng theo quy định. Mặt khác, Nhà nước cũng nên có một bộ phận cảnh báo rủi ro độc lập để thông báo cho các tổ chức tín dụng, ngân hàng có biện pháp ứng phó kịp thời với những nguy cơ rủi ro có thể xảy ra. 3.8. Thiết lập các công cụ phòng ngừa rủi ro cho khách hàng: Trong thế giới đầy rẫy rủi ro như hiện nay, mỗi ngân hàng cần xây dựng một hệ thống các công cụ phòng ngừa rủi ro cho khách hàng. Chính những ngân hàng nào có thể thiết lập một hệ thống các công cụ đầy đủ nhất, thiết thực nhất sẽ lôi kéo được nhiều khách hàng về cho mình. Hiện nay một số ngân hàng như ACB, Sacombank, Eximbank…cũng đã xây dựng được một số chương trình phòng ngừa rủi ro cho khách hàng nhưng vấn đề khó ở chỗ là làm sao để khách hàng hiểu và sử dụng nó một cách hiệu quả nhất. Các khách hàng phần lớn là chưa có kiến thức về các công cụ đó nên một phần họ chứ dám sử dụng, một phần do tâm lý khách hàng không muốn trả thêm phí cho sảm phẩm mà họ chưa biết. Các ngân hàng trước tiên cần tổ chức các hội nghị, những buổi tuyên truyền về công dụng và lợi ích của các sản phẩm đó. 3.9. Những việc cần làm trong thời gian tới của ngành ngân hàng Việt Nam: Trên cơ sở phân tích những cơ hội và thách thức như ở phần trêns, ngành ngân hàng Việt Nam đã đặt ra những giải pháp để tận dụng cơ hội và vượt qua thách thức, đó là: - Ngân hàng Nhà nước (cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động ngân hàng) phải thực hiện 51 cam kết tái cơ cấu trên nguyên tắc cơ bản cho hệ thống tài chính mới đến năm 2010. Theo đó, xác định lại chức năng và nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nước để tập trung hơn vào việc giữ ổn định đồng tiền Việt Nam và các vấn đề kinh tế vĩ mô. Tái cơ cấu nhằm củng cố chức năng hiện tại của Ngân hàng Nhà nước để loại bỏ sự chồng chéo về chức năng (tức là thực hiện chính sách tiền tệ và quản lý ngân hàng) hiện đang tồn tại giữa các vụ của Ngân hàng. Tái cơ cấu toàn bộ cơ cấu quản trị chung của Ngân hàng để có thể lập một tổ chức mới linh hoạt hơn. Rà soát và cải cách vấn đề cán bộ và tổ chức cán bộ của Ngân hàng nhằm trang bị cho cán bộ các năng lực, kể cả năng lực về quản lý để vận hành một ngân hàng mới... - Các ngân hàng thương mại phải nâng cao tính cạnh tranh thông qua việc hiện đại hóa hệ thống ngân hàng thương mại, đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ. Trên thực tế, các ngân hàng thương mại Việt Nam đã và đang thực hiện việc công nghệ hóa thông tin trong hoạt động kinh doanh để đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của khách hàng. - Đồng thời, Chính phủ cần phải sử dụng thật tốt các thiết chế đảm bảo an toàn hệ thống, bởi như trên đã phân tích, sự cạnh tranh bao giờ cũng gắn với yếu tố rủi ro cao, thậm chí có thể làm "biến dạng" rủi ro thông thường. Điều đó đòi hỏi các công cụ đảm bảo an toàn hệ thống tài chính ngân hàng phải "theo kịp" những rủi ro mới phát sinh trong bối cảnh mới. Hiện nay, Chính phủ sử dụng công cụ bảo hiểm tiền gửi để góp phần đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng. Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam - một tổ chức tài chính nhà nước được thành lập nhằm mục đích bảo vệ người gửi tiền và góp phần đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng - Theo đó, người gửi tiền sẽ được bảo vệ trực tiếp như sau: nếu tổ chức tín dụng (tổ chức nhận tiền gửi) bị giải thể hoặc phá sản, không có khả năng thanh toán cho người gửi tiền thì Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam sẽ thay mặt Chính phủ chi trả cho người gửi tiền tối đa là 50 triệu đồng (bao gồm cả gốc và lãi), số tiền còn lại sẽ được chi trả trong quá trình thanh lý tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật. Người gửi tiền còn được bảo vệ gián tiếp thông qua các chức năng kiểm tra, giám sát tổ chức tín dụng của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam để góp phần đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng. Bởi hệ thống tài chính ngân hàng hoạt động an toàn hiệu quả đồng nghĩa với việc quyền lợi của người gửi tiền được bảo vệ triệt để. - Hiện nay, công cụ tài chính là bảo hiểm tiền gửi được sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới. Bảo hiểm tiền gửi được coi là một bộ phận cấu thành của hệ thống tài chính quốc gia và là công cụ không thể thiếu của nền kinh tế hiện đại, đặc biệt đối với nền kinh tế hội nhập. Khi Việt Nam gia nhập WTO, vai trò của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam càng thể hiện rõ nét là một kênh quan trọng giúp Chính phủ giám sát rủi ro, góp phần đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng và an ninh kinh tế quốc gia. Trong bối cảnh mới, Chính phủ cần phải sử dụng tốt công cụ bảo hiểm tiền gửi thông qua 52 việc nâng cao năng lực pháp lý, năng lực tài chính cho Bảo hiểm tiềm gửi Việt Nam đáp ứng được nhu cầu nhiệm vụ mở. KẾT LUẬN: Qua bài phân tích trên, phần nào ta đã có một cái nhìn khái quát về hệ thống ngân hàng Việt Nam trong thời gian qua. Trải qua một thời gian dài từ khi thành lập 1951 đến nay, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã có những bước phát triển rõ rệt. Ngày nay, ngành ngân hàng đã đóng góp phần rất lớn cho sự phát triển của đất nước. Ngành ngân hàng đang giữ một vị trí có thể nói là rất quan trọng trong nền kinh tế. Nhờ sự hoạt động hiệu quả của ngân hàng mà hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế không ngừng được mở rộng cả về số lượng và chất lượng; hoạt động xuất nhập khẩu diễn ra một cách thuân tiện hơn; người dân có thể hỗ trợ vốn cho các dự án của đất nước nói riêng và nền kinh tế nói chung thông qua ngiệp vụ huy động vốn của ngân hàng; đồng thời nó cũng đem đến cho người dân một khoản lợi tức nhất định…. Một số NHTM đi trước, ngày nay đã xây dựng được cho mình một thương hiệu vững chắc trong nền kinh tế (Agribank, Vietcombank, BIDV, Incombak, ACB, Sacombank, Techcombank, NH Đông Á…). Chính điều này sẽ tạo cho các NHTM VN một thế mạnh có thể cạnh tranh được với các ngân hàng nước ngoài chuẩn bị gia nhập vào hệ thống ngân hàng của nước ta. Ngành ngân hàng nước ta hiện nay tuy còn tồn tại nhiều thiếu xót nhưng nó cũng đã và đang thể hiện một sự lớn mạnh không ngừng cả về chất và lượng. Ngành ngân hàng này nay đang giữ một vai trò lớn cho sự phát triển của đất nước. Nó đảm nhận vai trò giữ cho mạch máu (dòng vốn) của nền kinh tế được lưu thông và có vậy mới góp phần bôi trơn cho hoạt động của một nền kinh tế thị trường còn non yếu. Như vậy việc xây dựng và phát triển ngành ngân hàng ngày một vững chắc hơn, hoạt động hiệu quả hơn là một công việc hết sức cần thiết. Nó không chỉ thực hiện ngày một ngày hai ma cần phải trải qua một quá trình lâu dài. Việc phát triển ngành ngân hàng cũng là một trong những nhiệm vụ cần phải thực hiện song song với việc phát triển đất nước./. 53 TÀI LIỆU THAM KHẢO: Phân tích cổ phiếu ngành ngân hàng (Lê Đạt Chí, Trương Minh Huy (Theo Báo Đầu tư chứng khoán)).

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfBai hoan chinh.pdf
Luận văn liên quan