Đề tài Thực trạng xăng dầu tăng giá, các giải pháp bình ổn thị trường xăng dầu trong nước

MỤC LỤC Lời mở đầu 3 Chương I. Tổng quan thị trường xăng dầu thế giới và Việt Nam trong những năm gần đây 5 I. Thị trường xăng dầu thế giới những năm gần đây 5 1. Thị trường xăng dầu thế giới năm 2008 6 2. Thị trường xăng dầu thế giới năm 2009 8 3. Thị trường xăng dầu thế giới năm 2010 9 II. Thị trường xăng dầu Việt Nam những năm gần đây .10 1. Thực trạng 10 2. Nguyên nhân .11 Chương II. Ảnh hưởng của việc tăng giá xăng dầu tới nền kinh tế Việt Nam .13 1. Ảnh hưởng tới các danh nghiệp 14 2. Ảnh hưởng tới đời sống của người dân .16 Chương III. Dự đoán thị trường xăng dầu Việt Nam đến năm 2020 . 17 Chương IV. Kết luận 18 Chương V. Các giải pháp để bình ổn thị trường xăng dầu trong nước .19 1. Giải pháp “ thị trường hoá” thị trường xăng dầu 19 2. Giải pháp giảm sự lệ thuộc vào nguồn cung cấp dầu 19 2.1 Xây dựng và đẩy mạnh hoạt động có hiệu quả của các nhà máy lọc dầu .19 2.2. Ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại vào nghành khai thác và chế biến dầu khí .20 3. Giải pháp về nhóm hàng hoá thay thế .20 3.1 Hàng hoá thay thế trong nghành năng lượng và nhiên liệu 20 3.2. Dùng phương tiện giao thông công cộng thay cho phương tiện giao thông cá nhân 21 LỜI MỞ ĐẦU Trong nền kinh tế hiện nay thì nguồn năng lượng dầu mỏ là không thể thiếu, nó chiếm tỷ lệ sử dụng khoảng 40% trong tất cả các nguồn năng lượng trên thế giới. Tuy nhiên nguồn năng lượng này lại có giới hạn, nó không được tái tạo thêm mà ngược lại nó lại được sử dụng ngày càng nhiều. Theo dự đoán thì nguồn năng lượng này chỉ có thể đáp ứng trong vài chục năm nữa. Vì vậy giá cả của nó ngày càng tăng lên là điều khó tránh khỏi. Khi giá xăng dầu tăng thì nó ảnh hưởng rất lớn đến một số ngành nghề sử dụng nhiều xăng dầu để hoạt động cũng như đời sống của người dân. Trong những năm gần đây nhất là đầu năm 2008 giá dầu thô thế giới tăng một cách nhanh chóng làm cho giá xăng dầu trong nước cũng tăng theo. Việc tăng giá xăng liên tục trong nhưng năm gần đây tác động lớn đến nền kinh tế, ảnh hưởng rất nhiều đến hoạt động sản xuất của doanh nghiệp cũng như đời sống của người dân. Mà nhất là tăng giá xăng dầu cũng bộc lộ nhiều “ vấn đề ” trong thị trường xăng dầu vốn đã rất nhạy cảm như cơ chế quản lý của Nhà nước, tình hình kinh doanh của doanh nghiệp, doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu liên tục “ đòi” tăng giá theo giá thị trường thế giới tuy nhiên lại không giảm theo khi giá thế giới giảm Sự “bất ổn” của thị trường xăng dầu trong thời gian gần đây gây nhiều bức xúc với người tiêu dùng cũng như các doanh nghiệp cũng như tác động lớn đến nền kinh tế. Bình ổn thị trường xăng dầu sẽ góp phần tăng trưởng kinh tế ổn định, phát triển kinh tế xã hội. Xuất phát từ thực trạng thị trường xăng dầu những năm qua tôi chọn đề tài “ Thực trạng xăng dầu tăng giá. Các giải pháp bình ổn thị trường xăng dầu trong nước.”

doc23 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4236 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng xăng dầu tăng giá, các giải pháp bình ổn thị trường xăng dầu trong nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC DUY TÂN TRUNG TÂM ĐÀO TẠO TỪ XA VÀ THƯỜNG XUYÊN --------------ÐѶÐÑ------------- BÀI TIỂU LUẬN MÔN: KINH TẾ VI MÔ Đề tài: THỰC TRẠNG XĂNG DẦU TĂNG GIÁ. CÁC GIẢI PHÁP BÌNH ỔN THỊ TRƯỜNG XĂNG DẦU TRONG NƯỚC GVHD: ThS. Nguyễn Ngọc Quý SVTH: Trần Thị Dung Lớp: B16QTH2- Hệ đại học bằng hai Đà Nẵng, tháng 12 năm 2010. MỤC LỤC Lời mở đầu ..............................................................................................................3 Chương I. Tổng quan thị trường xăng dầu thế giới và Việt Nam trong những năm gần đây......................................................................................................................5 Thị trường xăng dầu thế giới những năm gần đây................................5 Thị trường xăng dầu thế giới năm 2008................................................6 Thị trường xăng dầu thế giới năm 2009................................................8 Thị trường xăng dầu thế giới năm 2010................................................9 Thị trường xăng dầu Việt Nam những năm gần đây...........................10 Thực trạng ......................................................................................10 Nguyên nhân .................................................................................11 Chương II. Ảnh hưởng của việc tăng giá xăng dầu tới nền kinh tế Việt Nam.......13 Ảnh hưởng tới các danh nghiệp ........................................................14 Ảnh hưởng tới đời sống của người dân ...........................................16 Chương III. Dự đoán thị trường xăng dầu Việt Nam đến năm 2020 ................. ..17 Chương IV. Kết luận ............................................................................................18 Chương V. Các giải pháp để bình ổn thị trường xăng dầu trong nước .................19 Giải pháp “ thị trường hoá” thị trường xăng dầu ..............................19 Giải pháp giảm sự lệ thuộc vào nguồn cung cấp dầu ........................19 Xây dựng và đẩy mạnh hoạt động có hiệu quả của các nhà máy lọc dầu ...................................................................................................19 2.2. Ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại vào nghành khai thác và chế biến dầu khí ...........................................................................................20 Giải pháp về nhóm hàng hoá thay thế .............................................20 Hàng hoá thay thế trong nghành năng lượng và nhiên liệu ............20 3.2. Dùng phương tiện giao thông công cộng thay cho phương tiện giao thông cá nhân ........................................................................................21 LỜI MỞ ĐẦU Trong nền kinh tế hiện nay thì nguồn năng lượng dầu mỏ là không thể thiếu, nó chiếm tỷ lệ sử dụng khoảng 40% trong tất cả các nguồn năng lượng trên thế giới. Tuy nhiên nguồn năng lượng này lại có giới hạn, nó không được tái tạo thêm mà ngược lại nó lại được sử dụng ngày càng nhiều. Theo dự đoán thì nguồn năng lượng này chỉ có thể đáp ứng trong vài chục năm nữa. Vì vậy giá cả của nó ngày càng tăng lên là điều khó tránh khỏi. Khi giá xăng dầu tăng thì nó ảnh hưởng rất lớn đến một số ngành nghề sử dụng nhiều xăng dầu để hoạt động cũng như đời sống của người dân. Trong những năm gần đây nhất là đầu năm 2008 giá dầu thô thế giới tăng một cách nhanh chóng làm cho giá xăng dầu trong nước cũng tăng theo. Việc tăng giá xăng liên tục trong nhưng năm gần đây tác động lớn đến nền kinh tế, ảnh hưởng rất nhiều đến hoạt động sản xuất của doanh nghiệp cũng như đời sống của người dân. Mà nhất là tăng giá xăng dầu cũng bộc lộ nhiều “ vấn đề ” trong thị trường xăng dầu vốn đã rất nhạy cảm như cơ chế quản lý của Nhà nước, tình hình kinh doanh của doanh nghiệp, doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu liên tục “ đòi” tăng giá theo giá thị trường thế giới tuy nhiên lại không giảm theo khi giá thế giới giảm… Sự “bất ổn” của thị trường xăng dầu trong thời gian gần đây gây nhiều bức xúc với người tiêu dùng cũng như các doanh nghiệp cũng như tác động lớn đến nền kinh tế. Bình ổn thị trường xăng dầu sẽ góp phần tăng trưởng kinh tế ổn định, phát triển kinh tế xã hội. Xuất phát từ thực trạng thị trường xăng dầu những năm qua tôi chọn đề tài “ Thực trạng xăng dầu tăng giá. Các giải pháp bình ổn thị trường xăng dầu trong nước.” Chương I: TỔNG QUAN THỊ TRƯỜNG XĂNG DẦU THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM I. Thị trường xăng dầu thế giới trong những năm gần đây. 1. Thị trường xăng dầu thế giới năm 2008. Sau khi tăng liên tục từ giữa năm 2007, giá dầu đã gây sốc khi mở đầu năm 2008 bằng việc lần đầu tiên trong lịch sử chạm mốc 100 USD/thùng (03/01/2008) - mốc giá chưa từng có kể từ khi mặt hàng này được đưa vào giao dịch kỳ hạn tại thị trường New York vào năm 1983. Kể từ đó trở đi, giá dầu thế giới liên tiếp lập kỷ lục để rồi sau đó lại phá vỡ và đặt kỉ lục mới là 110 USD/ thùng (03/03/2008). Thị trường dầu mỏ nóng hơn bao giờ hết khi cứ tiếp tục “leo thang không biết mệt”. Tính chung từ đầu năm, giá vàng đen đã tăng hơn 50%. Biểu đồ giá dầu thế giới tính từ ngày 3/12/2007 đến ngày 15/12/2008 dựa trên giá dầu kỳ hạn đóng cửa tại thị trường New York. Có thể nói năm 2008 là năm mà thế giới phải chứng kiến mức trồi sụt giá dầu lớn đến vậy chỉ trong một thời gian ngắn. Đây là một năm lịch sử của thị trường dầu thô từ trước tới nay, khi mà giá “vàng đen” đạt đỉnh cao mọi thời đại 147, 27 USD vào tháng 7, rồi sau đó rớt một mạch hơn 100 USD/thùng, tương đương mức giảm hơn 70%, trong vòng có 4 tháng, về ngưỡng 40USD/thùng. Trong bối cảnh kinh tế thế giới đầy biến động và nhu cầu về năng lượng, như dầu mỏ, than đá, khí đốt... ngày càng tăng nhất là ở những quốc gia đang phát triển thì giá đầu tăng là điều không khỏi ngạc nhiên, thế nhưng tại sao giá dầu lại “nóng” đến đỉnh điểm như vậy? Có thể giải thích nguyên nhân giá dầu tăng mạnh trong thời gian này là do 5 yếu tố sau: Thứ nhất là do hoạt động của giới đầu cơ dầu lửa. Đây là lý do có ảnh hưởng mạnh nhất tới sự leo thang mạnh mẽ của giá dầu. Sự phát triển năng động của các nền kinh tế đang nổi lên như Trung Quốc, Ấn Độ…, sự vững vàng của kinh tế châu Âu, và cuộc khủng hoảng tài chính chưa tác động quá nghiêm trọng tới kinh tế Mỹ… khiến các nhà đầu cơ cho rằng, giá dầu sẽ tiếp tục tăng trong những năm tới. Bởi vậy, lượng dầu được họ “găm giữ” là rất lớn. Thứ hai giá dầu tăng do sự mất giá của đồng USD. Sự lệch pha trong chính sách tiền tệ của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) và Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB), cộng với sự tương phản giữa hai bức tranh kinh tế Mỹ và châu Âu, đã dẫn tới sự mất giá mạnh của USD trong thời gian nửa đầu năm 2008, và như thế, gián tiếp ảnh hưởng tới giá dầu. Lo ngại sự lan rộng của khủng hoảng nợ dưới chuẩn, FED liên tục hạ lãi suất USD. Trong khi đó, với việc chống lạm phát là mục tiêu số một thì ECB lại chủ trương duy trì lãi suất đồng Euro ở mức cao. Bên cạnh đó, dưới tác động của khủng hoảng, kinh tế Mỹ liên tục phát đi những dữ liệu đáng lo ngại, còn ở châu Âu, do khủng hoảng còn ở xa, các chỉ số kinh tế vẫn hết sức khả quan.Sự trái chiều này đẩy USD xuống mức thấp kỷ lục so với Euro là 1 Euro đổi được 1, 6038 USD (15/7/2008). Do dầu được định giá bằng USD nên tỷ giá USD càng thấp thì giá dầu càng cao và ngược lại. Thứ ba, xung đột vũ trang và bất ổn chính trị tại một số khu vực trên thế giới như ở Trung Đông- khu vực tập trung các nước xuất khẩu dầu mỏ lớn nhất thế giới… cũng là một nguyên nhân khiến cho giá dầu leo thang chóng mặt như vậy. Mỗi khi tình hình chính trị tại các khu vực này có những diễn biến xấu đi là thị trường dầu thế giới lại chứng kiến một phiên tăng giá mạnh. Cụ thể, kỷ lục 147, 27 USD/thùng của giá dầu đã được thiết lập đúng vào ngày 11/7 ngày mà giới đầu tư lo ngại Israel có thể tấn công Iran, làm gián đoạn hoạt động vận chuyển dầu qua Vịnh Ba Tư. Thứ tư, các dự báo giá dầu cũng có ảnh hưởng đáng kể tới diễn biến giá trên thị trường giao dịch dầu thô. Giữa lúc giá dầu đang tăng mạnh, nhiều tổ chức như ngân hàng Goldman Sachs của Mỹ đưa ra dự đoán rằng giá dầu sắp sửa đạt tới mức 200 USD/thùng, hoặc thậm chí là hơn do nhu cầu dầu của thế giới nhất là các nền kinh tế đang nổi lên sẽ tăng mạnh.Trong giai đoạn đang “sốt” giá dầu như thế này thì những dự báo như vậy chẳng khác gì “thêm dầu vào lửa” làm cho giá dầu càng “nóng” hơn. Thứ năm, sự sụt giảm mạnh của thị trường chứng khoán thế giới, nhất là thị trường chứng khoán Mỹ, dưới tác động của khủng hoảng tín dụng bắt đầu năm 2007, đã thúc đẩy giới đầu tư chuyển một lượng vốn lớn sang thị trường hàng hóa để tìm kiếm mức lợi nhuận cao hơn. Trên thị trường này, cùng với vàng thì dầu thô cũng là một trong hai kênh đầu tư được lựa chọn nhiều hơn cả. Chính điều này cũng đã góp phần đẩy giá dầu lên cao như vậy. Tuy nhiên, ngay sau chạm mức 147, 27 USD/ thùng thì giá dầu lập tức bước vào “thời kỳ suy thoái”, giá dầu đã giảm xuống còn khoảng 90 USD/ thùng ngày 03/9 giảm gần 60 USD/ thùng.Giá dầu liên tục diễn biến theo chiều đi xuống, đóng cửa ở mức 40 USD/thùng trong phiên giao dịch ngày 02/12 tại thị trường New York. So với mức đỉnh 147, 27 USD/thùng ngày 11/7 chỉ trong vòng khoảng 4 tháng, giá dầu đã sụt tới hơn 100 USD/thùng, tương đương hơn 70%, đánh dấu năm sụt giảm mạnh chưa từng có của nhiên liệu này. Nguyên nhân đẩy giá dầu “lao dốc” ở giai đoạn này nhìn chung là những yếu tố trái ngược với những gì đã hỗ trợ giá dầu ở giai đoạn trước đó. Có thể thấy, giá dầu giảm thời kỳ này vì 4 nguyên nhân sau: Thứ nhất, do hoạt động bán tháo ồ ạt của giới đầu cơ đầu mỏ và thời kì đầu cơ hàng hoá đã đi vào hồi kết. Vụ phá sản của công ty bán khống dầu Semgroup khiến cho Semgroup phải bán lại hợp đồng cho bộ phận ngân hàng đầu tư của Barclays. Ngay sau khi Semgroup phải bán lại hợp đồng giá dầu bắt đầu “rơi tự do” do các nhà giao dịch dầu lửa ở khắp nơi, bao gồm các quỹ đầu cơ, các ngân hàng và các quỹ lương hưu, bán tháo các hợp đồng kỳ hạn. Với sự “ra đi” của SemGroup và những vụ bán khống quy mô lớn tương tự cũng không còn được thực hiện ở các công ty khác, thị trường dầu mất hẳn một nguồn lực đẩy tăng giá. Hơn nữa cuộc khủng hoảng tài chính leo thang và lan rộng ra phạm vi toàn thế giới đã trở thành nỗi lo chính của mọi quốc gia. Tới quý 4/2008, ba nền kinh tế hàng đầu của thế giới là Mỹ, Nhật Bản và châu Âu đã lần đầu tiên rơi vào suy thoái kể từ Đại chiến Thế giới thứ hai. Sự giảm tốc kinh tế khiến các loại hàng hóa mất dần địa vị là một kênh đầu tư hấp dẫn và giới đầu tư vì thế đã bán đổ bán tháo các loại nguyên liệu thô mà họ nắm giữ. Tính đến ngày 5/12, chỉ số giá của 19 loại nguyên vật liệu thô, trong đó có vàng và dầu thô, đã giảm 35% . Trong đó, sụt giảm mạnh nhất vẫn là giá dầu. Thứ hai là sự phục hồi của đồng USD. Sự chao đảo của thị trường toàn cầu đã thúc đẩy giới đầu tư tổ chức ở Mỹ rút vốn về nước. Bên cạnh đó, khủng hoảng cũng thúc đẩy các nhà đầu tư quốc tế đổ vốn mạnh vào trái phiếu Chính phủ Mỹ - kênh đầu tư siêu an toàn. Mặt khác, tương quan kinh tế xấu đi của châu Âu tạo cơ sở cho sự thoái lui của đồng Euro. Thêm nữa, tình trạng thắt chặt tín dụng khiến USD trở nên khan hiếm. Những yếu tố này đã giúp USD lên giá mạnh so với Euro trong một thời gian. Thứ ba, do thua lỗ trầm trọng trên thị trường chứng khoán và kẹt tiền mặt nghiêm trọng, giới đầu tư quốc tế phải bán ra các loại hàng hóa để có tiền bù lỗ. Thời gian này, sự đi xuống của chứng khoán thường tạo áp lực mất giá cho hàng hóa, trong đó có dầu, thay vì là một yếu tố hỗ trợ như trước đây. Thứ tư, các dự báo giá dầu lúc này đã được điều chỉnh giảm mạnh. Việc các nền kinh tế hàng đầu suy thoái và các nền kinh tế đang nổi lên, đặc biệt là Trung Quốc, Ấn Độ, và Nga, cũng phát đi những tín hiệu đáng lo ngại như sản xuất công nghiệp và xuất khẩu giảm tốc mạnh, niềm tin giới doanh nghiệp sa sút… đã khiến giới quan sát không thể duy trì dự báo tăng trưởng nhu cầu dầu và giá dầu cao như trước đây. 2. Thị trường xăng dầu thế giới năm 2009. Sau khi lập kỷ lục cao trong lịch sử là 147,27 USD/thùng vào năm 2008, giá dầu đã giảm xuống mức thấp nhất chỉ 32,70 USD/thùng vào ngày 20/1/2009 và đạt trung bình 62 USD/thùng trong cả năm qua.Việc nhu cầu giảm mạnh do suy thoái kinh tế là nguyên nhân chính khiến giá dầu giảm vào nửa đầu năm 2009. Tuy nhiên, kinh tế hồi phục đã kéo dầu tăng giá trở lại. Mức cao kỷ lục của năm 2009 là 82 USD/thùng đạt được vào ngày 21/10/2009.Giá dầu thô ngọt nhẹ tại New York trung bình trong quý IV/2009 là 74,90 USD/thùng. Giá dầu thô ngọt nhẹ đã tăng lên 82 USD/thùng vào tháng 10/2009, sau đó giảm trở lại 70 USD/thùng vào tháng 11 do đồng USD tăng giá và nguồn cung dư thừa trên toàn cầu. Tính trung bình năm 2009, giá dầu thô đạt 63, 10 USD/thùng, cũng cao hơn mức 60, 80 USD/thùng mà các nhà phân tích dự báo trước đó. Giá các sản phẩm dầu thế giới sáng ngày 02/11/2009 Loại dầu Thị trường Giá Chênh lệch % thay đổi Dầu thô brent ( USD/ thùng) Luân Đôn 75,250 0,050 0,07 Nhiên liệu điêzen(ICE)(USD/tấn) Luân Đôn 632,520 - 18,750 - 2,88 Xăng RBOB (UScent/gallon) New York 196,400 0,450 0,23 Dầu đốt(UScent/gallon) New York 200,910 0,390 0,19 Khí đốt tự nhên(USD/MMB tu) New York 5,080 0,035 0,69 Dầu thô WTI(USD/ thùng) New York 76,870 - 0,130 - 0,17 3. Thị trường xăng dầu thế giới năm 2010. Thị trường dầu mỏ thế giới tuần đầu tiên của năm 2010 đã tăng giá khá mạnh lên trên 80 USD/thùng.Trong tháng 3 giá dầu thô diễn biến theo hướng tăng lên vào cuối tháng. Giá dầu thô WTI thấp nhất trong tháng là 78, 83$/thùng vào ngày 01.3.2010 và cao nhất là 83, 76 USD/thùng vào ngày 31.3.2010. Trong những tháng tiếp theo giá dầu liên tiếp tăng. Tuy nhiên giá dầu tăng không đồng đều thậm chí là “ trái chiều” ở các thị trường .Kết thúc phiên 18/10, giá dầu ngọt nhẹ giao tháng 11/2010 tại New York tăng 1,83 USD lên 83,08 USD/thùng và giá dầu Brent Biển Bắc giao tháng 12/2010 tại London tăng 1,92 USD lên 84,37 USD/thùng.Tuy nhiên, giá dầu thô lại giảm nhẹ tại thị trường châu Á trong phiên ngày 19/10, do những lo ngại về đà hồi phục kinh tế Mỹ đè nặng lên tâm lý của giới đầu tư. Chiều cùng ngày tại sàn giao dịch điện tử Singapore, giá dầu ngọt nhẹ giao tháng 11/2010 giảm 34 xuống 82, 74 USD/thùng. Giá bình quân sản phẩm dầu nửa đầu tháng 11.2010 so với cùng kỳ tháng 10.2010 Hiện tại thì giá dầu thô cũng như các sản phẩm từ xăng dầu vẫn biến động không ngừng. Giá dầu thô tại thị trường New York (Mỹ) đã tăng lên gần 86 USD/ thùng trong phiên giao dịch ngày 30/11. Dự đoán cho đến cuối năm 2010 giá dầu sẽ vẫn tiếp tục tăng do nhu cầu tiêu thụ ngày càng tăng khi thời tiết ở các nước ở Bắc Mỹ ngày càng lạnh hơn II. Thực trạng thị trường xăng dầu Việt Nam trong những năm gần đây 1.Thực trạng Thị trường xăng dầu Việt Nam “ bất ổn” trong những năm gần đây.Bắt đầu từ năm 2008 giá xăng dầu đã được Nhà Nước cho “thả nổi” theo giá thị trường nên thị trường xăng dầu Việt Nam luôn biến động theo sự biến động thị trường xăng dầu thế giới.Thời điểm năm 2008 khi giá dầu trên thị trường thế giới chạm mức 147,27 USD/thùng giá xăng trong nước lên tới 19.000đ/ 1lít. Từ đó đến nay đến nay giá xăng đã được điều chỉnh nhiều lần để theo kịp sự biến động của giá xăng dầu trên thế giới. Tuy nhiên giá xăng dầu nhiều lúc lại không đi theo giá trên thị trường thế giới, có những lúc giá xăng dầu thế giới xuống thấp nhưng giá xăng trong nước vẫn tăng nhiều khi giá xăng trong nước còn cao hơn cả giá xăng trên thế giới. Diễn biến giá xăng A92 từ đầu năm 2008 đến nay Thời điểm Giá xăng A92 (đồng/lít) Thời điểm Giá xăngA92 (đồng/lít) 25/02/2008 14.500 07/05/2009 12.500 21/07/2008 19.000 10/06/2009 13.500 14/08/2008 18.000 01/07/2009 14.200 27/08/2008 17.000 08/08/2009 14.700 07/10/2008 16.500 30/08/2009 15.700 17/10/2008 16.000 01/10/2009 15.200 18/10/2008 15.500 24/10/2009 20/11/2009 16.300 31/10/2008 15.000 15/12/2009 15.950 08/11/2008 14.000 14/01/2010 16.400 15/11/2008 13.000 21/02/2010 16.990 01/12/2008 12.000 27/05/2010 16.490 10/12/2008 11.000 08/06/2010 15.990 02/04/2009 11.500 09/08/2010 16.440 11/04/2009 12.000 27/11/2010 16.400 Nhìn vào bảng trên có thể thấy giá xăng tăng liên tiếp nhưng giảm rất ít ví dụ năm 2009 giá xăng tăng 9 lần nhưng chỉ giảm 2 lần mặc dầu diễn biến giá dầu thô trên thị trường thế giới biến động không nhiều chỉ tăng nhẹ rồi sau đó giảm thế nhưng giá xăng trong nước chỉ có tăng mà không giảm. Thời điểm 11/4/2009 đánh dấu mức tăng liên tiếp đến 1/10/2009 mới giảm nhẹ rồi lại tiếp tục tăng. Thực tế hệ thống phân phối bán lẻ xăng dầu của nước ta vẫn là hệ thống cửa hàng một giá, các doanh nghiệp không có sự cạnh tranh về giá trên thị trường xăng dầu. Thực tế thời gian qua cho thấy, khi giá xăng dầu thế giới tăng, để đảm bảo lợi ích của mình, các doanh nghiệp đầu mối sẽ làm thủ tục để xin tăng giá bán lẻ xăng dầu trong nước. Ngược lại khi giá thế giới giảm, nhưng các doanh nghiệp xăng dầu thường chần chừ giảm giá bán. 2. Nguyên nhân. Mặc dầu thị trường xăng dầu đã chuyển sang cơ chế thị trường thế nhưng vẫn chưa thật sự theo bản chất” thị trường” của nó mà dường như thị trường xăng dầu Việt Nam đang tồn tại “ độc quyền nhóm”. Nhà nước hãy còn nhúng tay quá sâu, còn doanh nghiệp vẫn chưa có được cạnh tranh thật sự. Các doanh nghiệp nước ngoài vẫn chưa thể thâm nhập vào thị trường nội địa. Hiện tại cả nước có 11 doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu trong đó Petrolimex chiếm 55% thị phần,10 doanh nghiệp còn lại đều là các doanh nghiệp nhỏ sức cạnh tranh không thể bằng Petrolimex.Các doanh nghiệp được phép tự do định giá bán lẻ xăng dầu nhưng từ trước đến nay, tất cả doanh nghiệp khi tăng hay giảm giá đều áp chung một mức giá, không có doanh nghiệp nào đề cập đến giá khác. Đây có thể là một hiện tượng câu kết của các doanh nghiệp trên để thao túng thị trường. Công tác phân tích và dự báo thị trường của các doanh nghiệp chưa tốt. Khi giá cao hay thấp thì các doanh nghiệp vẫn mua vào. Việc làm này quá cứng nhắc và không linh hoạt dẫn đến việc ở thời điểm giá dầu thế giới xuống thấp nhưng các doanh nghiệp không lợi dụng mua vào để đến lúc người ta dự báo giá lên cao lại mua vào với số lượng lớn nhưng sau đó giá dầu thế giới không tăng mà giảm liên tục. Điều này cũng lý giải tại sao mặc dù theo cơ chế thị trường nhưng khi giá dầu thế giới giảm nhưng giá xăng trong nước lại không giảm thậm chí còn tăng thêm. Hiện nay, hầu hêt các giao dịch mua bán xăng dầu đều dựa trên giá thả nổi. Giá thả nổi là giá được xác định dựa trên chỉ số giá của thời kì giao hàng. Vào thời điểm kí hợp đồng cả bên mua và bên bán đều chưa xác nhận được giá trị của lô hàng, chỉ đến ngày giao hàng giá này mới được xác định bằng chỉ số Platts của ngày hôm đó. Vì vậy để giá hợp đồng thả nổi theo giá thị trường, các công ty không thể kiểm soát được lợi nhuận của mình. Vì không được bảo hiểm giá nên các nhà nhập khẩu Việt Nam hoàn toàn có thể bị bắt nạt. Thời gian giao hàng có thể rơi vào lúc chí số giá lên cao hoặc cố thình bị đẩy lên cao. Vì vậy, có thể doanh nghiệp Việt Nam nhập khẩu xăng dầu với giá trung bình cao hơn thị trường thế giới. Chương II. ẢNH HƯỞNG CỦA XĂNG DẦU TĂNG GIÁ TỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM Việt Nam là nước phải nhập khẩu gần như100% sản phẩm xăng dầu mặc dầu nhà máy lọc dầu Dung Quất đã bắt đầu đi vào hoạt động nhưng sản lượng dầu vẫn chưa đáp ứng được nhiều nhu cầu trong nước; trong những năm gần đây giá cả xăng dầu, dầu mỏ thế giới tăng liên tục đến mức chóng mặt, dĩ nhiên sự gia tăng giá xăng dầu trên thị trường thế giới cũng kéo theo sự gia tăng liên tục của giá xăng dầu tại thị trường Việt Nam trong năm 2010 đến thời điểm ngày22/11 thì giá xăng dầu đã tăng 5 lần. Tuy nhiên, nhờ nhiều biện pháp can thiệp kịp thời của Chính phủ nên biến động giá xăng dầu ở nước ta chưa đến mức cao như mức bình quân trên thị trường thế giới, nhưng giá xăng dầu cũng đã khá cao này nếu duy trì trong một thời gian dài cũng đặt ra nhiều vấn đề kinh tế đáng để các nhà hoạch định chính sách xem xét. Trong nhưng năm gần đây nhất là từ năm 2008 đến nay từ khi Chính Phủ quyết định bãi bỏ chính sách bù lỗ xăng dầu thì mặt hàng xăng dầu đã điều chỉnh tăng giá nhiều lần theo diễn biến của thị trường dầu mỏ thế giới. Giá xăng dầu tăng vừa có ảnh hưởng tích cực vừa có ảnh tiêu cực lên nền kinh tế nhưng chủ yếu là tác động tiêu như ảnh hưởng tới giá cả thị trường các mặt hàng và sức ép tăng giá như tăng giá điện,cước vận tải, gây sốc trên thị trường chứng khoán,gây bất lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp… Có thế tóm tắt ảnh hưởng của tăng giá xăng dầu bằng mô hình sau: Xăng dầu Tiêu dùng cuối cùng (nhiên liệu cho đi lại, đun nấu…) Tiêu dùng trung gian (nhiên liệu đầu vào cho quá trình sản xuất, chế biến..) Tái cấu trúc nền kinh tế, dịch chuyển lợi thế cạnh tranh ảnh hưởng đến các nghành, ảnh hưởng đến đời sống dân cư… Tăng giá các mặt hàng khác(ảnh hưởng gián tiếp, dây chuyền) Tăng mức giá chung Sức ép tăng lương Giảm sức ép lên ngân sách do cắt giảm trợ giá Giảm sức ép thâm hụt ngân sách, giảm mức vay nợ hoặc thu thuế trong tương lai Giảm méo mó trong nền kinh tế,giúp ổn định vĩ mô trong dài hạn Nhập khẩu Biểu đồ lược tả ảnh hưởng của việc tăng giá xăng dầu 1. Ảnh hưởng tới các doanh nghiệp. Xăng dầu là yếu tố quan trọng trong đầu vào của phần lớn các doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp sản xuất, chế biến, vận tải và khai thác thuỷ hải sản. Khi xăng dầu tăng giá ảnh hưởng tới hàng loạt các mặt hàng cung ứng cho hoạt động sản xuất kinh doanh cũng tăng giá theo ví dụ như tăng giá điện, hay chi phí vận tải…. dẫn đến việc tăng giá sản phẩm, dịch vụ. Một số hoạt động kinh tế và hàng hoá có tỷ trọng đầu vào là xăng dầu cao ( trên 10%) và mức độ tăng giá sản phẩm sau đợt tăng giá vào tháng 7/ 2008 Tên hàng hoá Tỷ trọng xăng dầu(%) Tăng giá (%) Đánh bắt thuỷ hải sản 23,57 7,31 Sản xuất các phương tiện giao thông 16, 87 5,23 Xăng dầu 42,22 - Điện và gas đốt 12,15 3,77 Giao thông đường bộ 19,85 6,15 Giao thông đường sắt 11,24 3,48 Giao thông đường thuỷ 30,09 10,57 Giao thông đường không 21,30 6,60 ( theo SAM 2000– Tổng Cục Thống Kê Việt Nam ,CIEM) Giá xăng dầu tăng ảnh hưởng lớn nhất đến các doanh nghiệp vận tải đầu tiên và trực tiếp là việc giá cước vận tải tăng. Biểu hiện là các hãng taxi đồng loạt tăng giá cước. Các doanh nghiệp vận tải cũng trong cảnh lao đao do giá xăng dầu cao. Ví dụ công ty vận tải Hoàng Long trong đợt tăng giá đầu năm 2008 đã phải chịu lỗ 13 tỷ đồng vào quý 2/ 2008. Giá các loại vé xe, tàu dịch vụ vận tải liên tục tăng để đảm bảo doanh nghiệp kinh doanh không bị lỗ. Ảnh hưởng tiếp theo của việc xăng dầu tăng giá là ảnh lưởng lớn đến các việc đánh bắt thuỷ hải sản. Do giá xăng dầu cao nên chi phí đánh bắt tăng gây không ít khó khăn cho nghề đi biển bởi vì ngư dân không thể tự điều chỉnh giá khai thác được. Hiện có nhiều tàu phải“ nằm bờ”vì không theo kịp giá nhiên liệu, nhiều ngư dân lâm vào tình trạng “ tiến thoái lưỡng nan”. Ngoài ra khi xăng dầu tăng giá thì giá các loại vật liệu xây dựng, xi măng, sắt thép cũng liên tục tăng gây ảnh hưởng lớn tới các doanh nghiệp xây dựng trong áp lực phải hoàn thành công trình.Xăng dầu tăng giá làm cho chi phí đầu vào của các doanh nghiệp tăng gây ảnh hưởng tới sản xuất và tăng giá thành sản phẩm làm cho giá cả các mặt hàng trên thị trường tăng gây lạm phát và sức ép tăng lương…Bên cạnh đó xang dầu tăng giá cũng ảnh hưởng không nhỏ tới thị trường chứng khoán và thị trường vàng. Giá vàng tăng liên tiếp vào đúng thời điểm giá dầu thô thế giới tăng mạnh. Từ đó đến nay thị trường vàng cũng “biến động” giống với thị trường dầu mỏ 2. Ảnh hưởng đến đời sống của người dân Hiện nay, xe gắn máy là phương tiện đi lại chủ yếu của hầu hết các hộ gia đình. Do đó giá bán lẻ xăng dầu tăng đồng nghĩa với việc phải chi tiêu nhiều hơn cho sử dụng xe gắn máy trong quá trình đi lại.Việc giá xăng dầu cao và ngày càng tăng làm giảm mức sống của dân cư xuống dưới mức lẽ ra đã có thể đạt được do tổng tiêu dùng tăng lên tương đối so với thu nhập. Hơn nữa mặt hàng xăng dầu tương đối không co giãn so với giá- nghĩa là giá tăng nhưng người sử dụng phương tiện vận tải cơ giới vẫn phải sử dụng do không có nhiên liệu khác thay thế. Do vậy khi giá xăng dầu tăng thì người tiêu dùng ít có thu nhập hơn dùng để chi tiêu cho hàng hoá khác. Giá  xăng dầu tăng cũng sẽ tác động tiêu cực về mặt tâm lý. Như chúng ta đã biết yếu tố tâm lý luôn gây phản ứng dây chuyền đội giá của các hàng hóa, dịch vụ khác theo vòng luân chuyển tiếp theo. Tác động tâm lý này trên thực tế lại xảy ra với thị trường Việt Nam thường cao hơn rất nhiều so với những dự liệu. Cứ mỗi lần xăng tăng giá là ngay lập tức các mặt hàng khác cũng tăng giá chóng mặt nhất là các hàng về thực phẩm, nguyên vật liệu xây dựng, …Giá cả tăng cao mà đồng lương không có gì thay đổi cộng thêm việc tiền mất giá thì áp lực chi tiêu ngày càng trở nên “ ngột ngạt” nhất là đối với những người có thu nhập thấp. Giá xăng dầu tăng cũng ảnh hưởng đến việc tăng giá gas và các loại dầu dùng để đun nấu cũng “ nóng” liên tục theo xu hướng của thị trường xăng dầu. Trong những năm gần đây giá gas đã tăng liên tục tác động rất lớn đến đời sống của người dân nhất là người có thu nhập thấp ở thành thị do tăng giá gas và các loại dầu đốt càng làm tăng gánh nặng chi tiêu nhất là trong thời điểm giá cả leo thang, lạm phát và đồng tiền mất giá như hiện nay. Hiện nay giá gas đang ở mức 335. 000 đ/ bình 12 kg. Dự kiến giá gas vẫn có thể tiệp tục tăng trong thời gian tới do giá gas chịu ảnh hưởng trực tiếp theo giá cả thị trường gas thế giới… Chương III. DỰ ĐOÁN THỊ TRƯỜNG XĂNG DẦU VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2020. Theo như dự đoán của Cơ quan năng lượng quốc tế IEA thì nhu cầu dầu mỏ của thế giới tiếp tục tăng trong vòng 25 năm tới trong đó 1/3 nhu cầu mới sẽ là của Trung Quốc. IEA dự đoán nhu cầu tiêu thụ dầu mỏ tăng 18% ( vào năm 2035) chủ yếu ở các nước đang phát triển. Theo như xu hướng của nhu cầu dầu mỏ thế giới và tình hình thị trường xăng dầu mấy năm gần đây có thể thấy rằng nhu cầu về xăng dầu cũng như các sản phẩm xăng dầu của Việt Nam sẽ tiếp tục tăng trong những năm tới. Nhất là Việt Nam đang trong giai đoạn công nghiệp hoá hiện đại hoá thì nhu cầu về năng lượng phục vụ cho quá trình sản xuất sẽ rất lớn. Hơn nữa với tốc độ phát triển kinh tế đời sống của người dân được nâng cao nhu cầu sử dụng các phương tiện cá nhân đi lại, cũng như sử dụng gas và các loại chất đốt tăng nhanh. Nói tóm lại, trong 20 năm tới nhu cầu xăng dầu của Việt Nam sẽ tăng mạnh. Báo cáo mới nhất về tình hình dầu khí Việt Nam dự báo lượng dầu tiêu thụ ở Việt Nam dự kiến tăng 101% trong giai đoạn 2007- 2018. Nhu cầu khí đốt của Việt Nam dự kiến tăng từ 7,7 tỷ m3 năm 2007 lên tới 22 tỷ m3 vào năm 2013 và sản lượng khí đốt cũng tăng từ 7,7 tỷ m3 năm 2007 lên 25 tỷ m3 vào 2018. Với dự báo này, sản lượng khí đốt của Việt Nam chỉ vừa đủ để đáp ứng nhu cầu trong nước. Với tình hình trên thì chắc chắn giá xăng dầu sẽ tiếp tục tăng và biến động theo thị trường thế giới. Mặc dầu nhà máy lọc dầu Dung Quất đã đi vào hoạt động phần nào đó đáp ứng nhu cầu trong nước thế nhưng Việt Nam vẫn phụ thuộc nhiều vào nguồn xăng dầu nhập khẩu. Thế nên những năm tới chắc chắn thị trường xăng dầu sẽ “ nóng” theo nhịp thị trường thế giới. CHƯƠNG IV. KẾT LUẬN Trước diễn biến của giá dầu thô thế giới trong vài năm trở lại đây liên tục tăng nhanh, đặc biệt là gần đây giá dầu thô đã vượt mức 147 USD/thùng ( 2008) đã gây sức ép đối với giá xăng dầu trong nước làm cho giá xăng dầu trong nước liên tục tăng. Trong khi Việt Nam là nước nhập khẩu gần như 100% xăng dầu thành phẩm thì giá xăng dầu là đương nhiên. Mặc dầu thị trường xăng dầu đã được thả nổi theo giá cả thị trường điều này là hoàn toàn đúng thế nhưng thị trường xăng dầu Việt Nam vẫn còn nhiều vấn đề cần phải xem xét. Nhiều khi giá xăng dầu vẫn ngược chiều với giả cả thị trường thế giới. Xăng dầu tăng giá và những bất cập trong quản lý và kinh doanh xăng dầu đã có tác động không nhỏ tới các doanh nghiệp và người tiêu dùng. Vì vậy Nhà nước cũng như các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu nhất thiết phải tìm ra các biện pháp để phát triển thị trường xăng dầu trong nước, bình ổn giá cả tìm ra hướng đi của thị trường xăng dầu trong nước để giảm thiểu những tác động và thiệt hại tới nền kinh tế đảm bảo đáp ứng nhu cầu tiêu thụ nhưng cũng đảm bảo ổn định giá cả và phát triển bền vững vì mục tiêu phát triển kinh tế chung của đất nước. Chương V. CÁC GIẢI PHÁP ĐỂ BÌNH ỔN THỊ TRƯỜNG XĂNG DẦU TRONG NƯỚC 1. Giải pháp “ thị trường hoá” thị trường xăng dầu. Tăng tính thị trường cho thị trường xăng dầu. Nhà Nước thực sự trao quyền kinh doanh cho doanh nghiệp và chỉ kiểm soát ở tầm vĩ mô không nên can thiệp quá sâu. Cần phải lập kho dự trữ xăng dầu quốc gia để điều tiết thị trường xăng dầu bên cạnh việc sử dụng quỹ bình ổn xăng dầu. Kho dự trữ với trữ lượng đủ mạnh khi giá tăng thấy cần thiết Nhà Nước có thể bán dầu từ kho dự trữ. Đây là cách giúp giảm giá hiệu quả hơn là bỏ tiền trực tiếp ra bù lỗ cho các doanh nghiệp, giá giảm Nhà Nước vẫn thu được tiền thậm chí có lãi. Tăng tính cạnh tranh giữa các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu. Hiện tại Việt Nam có 11 doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu là quá nhiều nhưng hoạt động không có sức cạnh tranh. Trong khi đó các nước như Mỹ, Singapore,… chỉ có khoảng 3-4 doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu nhưng sức cạnh tranh rất lớn. Vì vậy Nhà Nước nên khuyến khích và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhỏ liên kết tạo thành doanh nghiệp lớn cạnh tranh với Petrolimex. Đồng thời tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu vì thực chất đây vẫn là các doanh nghiệp Nhà Nước, và nhất thiết phải cho yếu tố tư nhân tham gia vào kinh doanh xăng dầu có như vậy thì mới làm tăng tính thị trường và cạnh tranh giữa các doanh nghiệp… 2. Giải pháp giảm sự lệ thuộc vào nguồn cung cấp dầu. 2.1.Xây dựng và đẩy mạnh hoạt động có hiệu quả của các nhà máy lọc dầu. Việc xây dựng các nhà máy lọc dầu hiện nay có ý nghĩa rất lớn đối với nghành dầu khí nói riêng và nền kinh tế nước ta nói chung. Khi đó chúng ta sẽ tự chủ được một phần nào đó về cung nguyên liệu cũng như nâng cao giá trị xuất khẩu các sản phẩm của dầu mỏ thay vì chỉ xuất khẩu dầu thô với giấ trị thấp như trước kia, đồng thời giảm được giá trị nhập khẩu xăng dầu cải thiện cán cân thanh toán. Nhà máy lọc dầu Dung Quất hiện nay đã đưa vào sử dụng thế nhưng chưa hoạt động hết công suất. Nâng cao hoạt động của nhà máy lọc dầu Dung Quất sẽ góp phần giải quyết bài toán năng lượng và góp phần bình ổn giá trong nước khi giá xăng dầu thế giới tăng cao. Bên cạnh đó nâng cao công suất và chất lượng của các nhà máy lọc dầu khác như nhà máy lọc dầu Nghi Sơn, Bình Sơn… 2.2. Nghiên cứu và ứng dụng công nghệ hiện đại vào nghành khai thác và chế biến dầu khí. Tăng cường mở rộng và hợp tác quốc tế về KHCN với nhiều tổ chức, đối tác và các công ty dầu khí nước ngoài, các viện nghiên cứu và các trường đại học trên thế giới như Nga, Pháp, Mỹ, Đan Mạch, Na Uy, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc…để “ đi tắt đón đầu” trao đổi và học tập kinh nghiệm từ các nước bạn để đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao đồng thời tiết kiệm được chi phí trong khác thác và chế biến dầu khí. Những ứng dụng của khoa học công nghệ hiện đại vào nghành khai thác sẽ nâng cao hiệu quả cũng như chất lượng cho hoạt động khai thác, đồng thời giảm sự lệ thuộc của nước ta vào việc thuê các thiết bị của nước ngoài. Phát triển các nhà máy lọc dầu với công nghệ tiến tiến để tăng giá trị xuất khẩu. 3. Giải pháp về nhóm hàng hoá thay thế. 3.1 Hàng hoá thay thế trong nghành năng lượng và nhiên liệu. Để giảm bớt những ảnh hưởng tiêu cực của biến động giá xăng dầu đối với nền kinh tế thì một trong những biện pháp thực hiện đó là giảm bớt nhu cầu tiêu dùng của nền kinh tế đối với sản phẩm này. Việc giảm cầu có thể thực hiện bằng cách tìm các nguồn năng lượng, nhiên liệu khác thay thế để vận hành máy móc, thiết bị thay vì dùng xăng. Như việc đẩy mạnh việc nghiên cứu để sử dụng nguồn năng lượng Mặt Trời, năng lượng gió,…. Ngoài ra, có thể nghiên cứu để tìm cách tổng hợp nhân tạo những hợp chất cần thiết mà từ trước đến nay chỉ có thể chiết xuất từ dầu mỏ. ngày nay công nghệ nguyên vật liệu mới đang phát triển mạnh và hứa hẹn nghiên cứu được nhiều vật liệu mới có giá trị. Như vậy nước ta cũng nên đẩy mạnh đầu tư nghiên cứu phát triển theo hướng này. 3.2. Dùng phương tiện giao thông công cộng thay cho sử dụng phương tiện cá nhân. Một thực trạng của nền kinh tế nước ta hiện nay cho thấy nhu cầu sử dụng phương tiện cá nhân rất nhiều và ngày càng tăng cao trong những năm gần đây do đời sống của người dân được cải thiện ai cũng muốn có phương tiện riêng để thuận tiện cho việc đi lại. Đây là một việc đáng lo ngại trong vấn đề giải quyết bài toán nhiên liệu vì sử dụng như vậy rất lãng phí nguồn nhân lực. Mỗi người đều tiêu thụ một lượng lớn xăng dầu mỗi ngày cho nhu ncầu đi lại.Với dân số hơn 80 triệu dân hiện nay thì chỉ cần ½ số người có xe máy đã tạo nên nhu cầu lớn về tiêu thụ xăng. Giải pháp cho vấn đề này đó là khuyến khích người dân dùng các phương tiên giao thông công cộng như xe bus. Nhà Nước nên tăng cường xây dựng các tuyến Metro và xe điện ngầm để phục vụ nhu cầu đi lại của người dân. Bên cạnh đó Nhà Nước cũng nên tiến hành áp dụng nhiều biện pháp mạnh để hạn chế việc mua và sử dụng các phương tiện giao thông cá nhân. Như tăng thuế đối với các loại xe máy, ô tô… áp dụng triệt để các biện pháp cứng rắn để giảm bớt lượng xe các cá nhân có thể mua, áp dụng quy chế nghiêm ngặt trong việc đăng kí xe, thi băng lái xe….

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThực trạng xăng dầu tăng giá Các giải pháp bình ổn thị trường xăng dầu trong nước.doc
Luận văn liên quan