MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
Nội dung yêu cầu 2
I. Lời mở đầu 2
II. Nội dung chính 3
Chương 1: Nền kinh tế Việt Nam với chỉ tiêu xuất nhập khẩu. 3
a. Giới thiệu môn học, vị trí môn học trong chương trình học đại học. 3
b. Giới thiệu chung về nền kinh tế Việt Nam sau thời kì đổi mới đến nay. 4
c. Giới thiệu về xuất nhập khẩu, nêu rõ vai trò và tấm quan trọng của XNK. 8
Chương 2: Tìm hiểu kim ngạch xuất nhập khẩu của nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 1995 – 2005 17
a. Tìm hiểu và phân tích số liệu về XNK trong giai đoạn 1995 – 2005. Lập bảng thống kê số liệu và vẽ biểu đồ về XNK và tính lượng XK ròng trong giai đoạn này. 17
b. Những khó khăn và thuận lợi đối với XNK khi nước ta gia nhập WTO. 21
c. Thống kê đầy đủ các lĩnh vực xuất nhập khẩu chủ yếu của nước ta. 27
d. Chính phủ đã và đang làm gì để nâng cao cán cân thương mại. 32
III. Kết luận. 34
Nội dung yêu cầu
I. Lời mở đầu
Kinh tế học là môn khoa học xã hội nghiên cứu những sự lựa chọn mà các cá nhân, doanh nghiệp, chính phủ và toàn xã hội đưa ra khi trong thực tế họ không thể có mọi thứ như mong muốn.
Theo truyền thống, kinh tế học được chia thành hai nhánh chính: Kinh tế học vi mô và Kinh tế học vĩ mô. Đối với sinh viên thuộc khối kinh tế, đây là các môn học cơ sở, cung cấp khung lí thuyết cho các môn định hướng ngành và kinh tế ngành.
Khóa học về kinh tế học nói chung và kinh tế học vĩ mô nói riêng sẽ giúp bạn hiểu những lực lượng chủ yếu định hình thế giới của chúng ta.
10 nguyên lí về kinh tế học
1. Con người phải đối mặt với sự đánh đổi.
2. Chi phí của 1 thứ là cái bạn phải từ bỏ để có được thứ đó.
3. Con người phản ứng lại các kích thích.
4. Con người hợp lí suy nghĩ tại điểm cận biên.
5. Thị trường luôn là phương thức tốt để tổ chức các hoạt động kinh tế.
6. Đôi khi chính phủ có thể cải thiện được các kết cục của thị trường.
7. Mức sống của mỗi nước phụ thuộc vào năng lực sản xuất hàng hóa và dịch vụ của chính nước đó.
8. Thương mại sẽ làm cho mọi người đều có lợi.
9. Lạm phát sẽ tăng khi chính phủ in quá nhiều tiền.
10. Xã hội luôn phải đối mặt với sự đánh đổi ngắn hạn giữa làm phát và thất nghiệp.
II. Nội dung chính
Chương 1: Nền kinh tế Việt Nam với chỉ tiêu xuất nhập khẩu.
a. Giới thiệu môn học, vị trí môn học trong chương trình học đại học.
Các vấn đề kinh tế xuất hiện do chúng ta mong muốn nhiều hơn so với cái mà chúng ta có thể nhận được. Chúng ta muốn một thế giới an toàn và hòa bình. Chúng ta muốn có không khí trong lành và nguồn nước sạch. Chúng ta muốn sống lâu và khỏe. Chúng ta muốn có các trường đại học, cao đẳng và phổ thông chất lượng cao. Chúng ta muốn sống trong các căn hộ rộng rãi và đầy đủ tiện nghi. Chúng ta muốn có thời gian để thưởng thức âm nhạc, điện ảnh, chơi thể thao, đọc truyện, đi du lịch, giao lưu với bạn bè,
Việc quản lí nguồn lực của xã hội có ý nghĩa quan trọng vì nguồn lực có tính khan hiếm. Kinh tế học là môn học nghiên cứu cách thức sử dụng các nguồn lực khan hiếm nhằm thỏa mãn các nhu cầu không có giới hạn của chúng ta một cách tốt nhất có thể.
Chi phí cơ hội của việc thực hiện một hành động là phương án thay thế tốt nhất, hay có giá trị nhất, mà bạn phải từ bỏ để thực hiện hành động đó.
Kinh tế học vĩ mô là một phân ngành của kinh tế học, nghiên cứu về cách ứng xử nói chung của mọi thành phần kinh tế, cùng với kết quả cộng hưởng của các quyết định cá nhân trong nền kinh tế đó. Loại hình này tương phản với kinh tế học vi mô chỉ nghiên cứu về cách ứng xử kinh tế của cá nhân người tiêu dùng, nhà máy, hoặc một loại hình công nghiệp nào đó.
Những vấn đề then chốt được kinh tế học vĩ mô quan tâm nghiên cứu bao gồm mức sản xuất, thất nghiệp, mức giá chung và cán cân thương mại của một nền kinh tế. Phân tích kinh tế học vĩ mô hướng vào giải đáp các câu hỏi như: Điều gì quyết định giá trị hiện tại của các biến số này? Điều gì quy định những thay đổi của các biến số này trong ngắn hạn và dài hạn? Thực chất chúng ta khảo sát mỗi biến số này trong những khoảng thời gian khác nhau: hiện tại, ngắn hạn và dài hạn. Mỗi khoảng thời gian đòi hỏi chúng ta phải sử dụng các mô hình thích hợp để tìm ra các nhân tố quyết định các biến kinh tế vĩ mô này.
Một trong những thước đo quan trọng nhất về thành tựu kinh tế vĩ mô của một quốc gia là tổng sản phẩm trong nước (GDP). GDP đo lường tổng sản lượng và tổng thu nhập của một quốc gia. Phần lớn các nước trên thế giới đều có tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Các nhà kinh tế vĩ mô tìm cách giải thích sự tăng trưởng này. Nguồn gốc của tăng trưởng nhanh hơn các nước khác? Liệu chính sách của chính phủ có thể ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế dài hạn của một nền kinh tế hay không?
Mặc dù tăng trưởng kinh tế là một hiện tượng phổ biến trong dài hạn, nhưng sự tăng trưởng này có thể không ổn định giữa các năm. Trên thực tế, GDP có thể giảm trong một số thời kì. Những biến động ngắn hạn của GDP được gọi là chu kì kinh doanh. Hiểu biết về chu kì kinh doanh là một mục tiêu chính của kinh tế học vĩ mô. Tại sao các chu kì kinh doanh lại xuất hiện? Các lực lượng kinh tế nào gây ra sự suy giảm tạm thời trong mức sản xuất, các lực lượng nào làm cho nền kinh tế phục hồi? Phải chăng các chu kì kinh doanh gây ra bởi các sự kiện không dự tính được hay chúng bắt nguồn từ các lực lượng nội tại có thể dự tính trước được? Liệu chính sách của chính phủ có thể sử dụng để làm dịu bớt hay triệt tiêu những biến động ngắn hạn trong nền kinh tế hay không? Đây là những vấn đề lớn đã được đưa ra và ít nhất cũng đã được giải đáp một phần bởi kinh tế học vĩ mô hiện đại.
34 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3129 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu kim ngạch xuất nhập khẩu của nền kinh tế Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tệ tăng lên sẽ gây bất lợi cho xuất khẩu và thuận lợi cho nhập khẩu dẫn đến kết quả là xuất khẩu ròng giảm. Ngược lại, khi tỷ giá đồng nội tệ giảm xuống, xuất khẩu sẽ có lợi thế trong khi nhập khẩu gặp bất lợi và xuất khẩu ròng tăng lên. Ví dụ, một bộ ấm chén sứ Hải Dương có giá 70.000 VND và một bộ ấm chén tương đương của Trung Quốc có giá 33 CNY (Nhân dân tệ). Với tỷ giá hối đoái 2.000 VND = 1 CNY thì bộ ấm chén Trung Quốc sẽ được bán ở mức giá 66.000 VND trong khi bộ ấm chén tương đương của Việt Nam là 70.000 VND. Trong trường hợp này ấm chén nhập khẩu từ Trung Quốc có lợi thế cạnh tranh hơn. Nếu VND mất già và tỷ giá hối đoái thay đổi thành 2.300 VND = 1 CNY thì lúc này bộ ấm chén Trung Quốc sẽ được bán với giá 75.900 VND và kém lợi thế cạnh tranh hơn so với ấm chén sản xuất tại Việt Nam.
Tác động của cán cân thương mại đến GDP
Đối với một nền kinh tế mở, cán cân thương mại có hai tác động quan trọng: xuất khẩu ròng bổ sung vào tổng cầu (AD) của nền kinh tế; số nhân đầu tư tư nhân và số nhân chi tiêu chính phủ khác đi do một phần chi tiêu bị "rò rỉ" qua thương mại quốc tế.
Xuất khẩu ròng và GDP cân bằng
Bảng dưới đây trình bày một nền kinh tế với các bộ phận cấu thành ban đầu như một nền kinh tế đóng, sau đó bổ sung xuất khẩu, nhập khẩu cho nền kinh tế mở. Cột 1 là mức GDP ban đầu trong nền kinh tế đóng. Cột 2 là cầu trong nước bao gồm tổng tiêu dùng (C), đầu tư (I) và mua hàng hóa, dịch vụ của chính phủ (G). Cột 3 là xuất khẩu và vì xuất khẩu phụ thuộc tình hình kinh tế của các nước bạn hàng nên giả định nó không thay đổi. Cột 4 là nhập khẩu, nhập khẩu chủ yếu phụ thuộc GDP nên giả định nó luôn bằng 10% GDP. Giá trị xuất khẩu ròng tại cột 5 bằng xuất khẩu trừ đi nhập khẩu, nó mang giá trị dương nếu xuất khẩu lớn hơn nhập khẩu và ngược lại, sẽ mang giá trị âm. Sau khi cộng giá trị đóng góp của xuất khẩu ròng vào cầu nội địa để tạo thành tổng chi tiêu và chính là tổng cầu ta được giá trị ghi tại cột 6. Nền kinh tế mở đạt mức cân bằng khi tổng chi tiêu bằng GDP nghĩa là đường tổng chi tiêu cắt đường phân giác OO'(ứng với mức GDP ban đầu là 35 tỷ USD). Đó chính là điểm E trên đồ thị bên phải. Ở điểm này cầu nội địa chỉ có 31,5 tỷ USD nhưng cầu về xuất khẩu ròng (khoảng cách giữa đường C+G+I+X và đường C+G+I) là 3,5 nên tổng chi tiêu là 35 tỷ USD và đúng bằng GDP. Như vậy nền kinh tế mở có thể đạt mức sản lượng cân bằng ở mức xuất khẩu ròng khác 0. Tại điểm có mức xuất khẩu ròng bằng 0 (đường C+G+I cắt đường C+G+I+X), tổng cầu trong nước bằng với tổng cầu và đều bằng 63 tỷ USD. Về phía bên trái điểm này, cầu xuất khẩu ròng luôn dương, tổng cầu nội địa nhỏ hơn tổng chi tiêu và ở bên phải, cầu xuất khẩu ròng luôn âm, tổng cầu nội địa lớn hơn tổng chi tiêu.
Cân bằng trong nền kinh tế mở
GDP ban đầu
Cầu trong nước (C+I+G)
Xuất khẩu (e)
Nhập khẩu (m)
Xuất khẩu ròng (X = e - m)
Tổng chi tiêu (C+I+G+X)
75
67,5
7
7,5
-0,5
67
70
63
7
7
0
63
65
58,5
7
6,5
0,5
59
60
54
7
6
1
55
55
49,5
7
5,5
1,5
51
50
45
7
5
2
47
45
40,5
7
4,5
2,5
43
40
36
7
4
3
39
35
31,5
7
3,5
3,5
35
30
27
7
3
4
31
Số nhân trong nền kinh tế mở
Trong đồ thị trên, độ dốc của đường tổng chi tiêu C+I+G+X nhỏ hơn độ dốc của đường cầu nội địa C+G+I, điều đó là do sự "rò rỉ" qua nhập khẩu. Giả sử nền kinh tế có xu hướng tiêu dùng cận biên MPC là 0,75 thì khi GDP tăng 100 USD, chi cho tiêu dùng tăng 75 USD. Nhưng cũng theo giả định trong ví dụ này, xu hướng nhập khẩu biên MPM là 0,10 (nhập khẩu luôn bằng 10% GDP) nên chi tiêu cho nhập khẩu cũng tăng 10 USD. Do đó chi tiêu cho hàng hóa sản xuất trong nước chỉ còn tăng 65 USD mà thôi. Chính vì thế độ dốc của đường chi tiêu giảm từ 0,75 xuống còn có 0,65. Tác động của "rò rỉ" qua nhập khẩu có tác động mạnh đến số nhân của nền kinh tế. Trong nền kinh tế đóng, số nhân là 1/(1-MPC) còn trong nền kinh tế mở, do sự rò rỉ qua nhập khẩu, số nhân chỉ còn 1/(1-(MPC-MPM)). Khi không có ngoại thương, với MPC bằng 0,75 thì số nhân là 1/(1-0,75) = 4; khi có ngoại thương số nhân chỉ còn 1/(1-(0,75-0,10)) = 2.857. Những nền kinh tế nhỏ hầu hết đều rất mở, do vậy tác động của nhập khẩu đến số nhân của nền kinh tế đặc biệt quan trọng. Từ ví dụ trên có thể dễ dàng suy ra nếu xu hướng nhập khẩu biên là 0,75 thì số nhân là 1 nghĩa là hiệu ứng số nhân đã bị triệt tiêu hoàn toàn bởi rò rỉ qua nhập khẩu.
Chương 2: Tìm hiểu kim ngạch xuất nhập khẩu của nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 1995 – 2005
a. Tìm hiểu và phân tích số liệu về XNK trong giai đoạn 1995 – 2005. Lập bảng thống kê số liệu và vẽ biểu đồ về XNK và tính lượng XK ròng trong giai đoạn này.
Tổng mức lưu chuyển hàng hoá xuất nhập khẩu
Năm
Tổng số
Chia ra
Nhập siêu (*)
Xuất khẩu
Nhập khẩu
Triệu đô la Mỹ
1995
13604,3
5448,9
8155,4
-2706,5
1996
18399,4
7255,8
11143,6
-3887,8
1997
20777,3
9185,0
11592,3
-2407,3
1998
20859,9
9360,3
11499,6
-2107,3
1999
23283,5
11541,4
11742,1
-200,7
2000
30119,2
14482,7
15636,5
-1153,8
2001
31247,1
15029,2
16217,9
-1188,7
2002
36451,7
16706,1
19745,6
-3039,5
2003
45405,1
20149,3
25255,8
-5106,5
2004
58453,8
26485,0
31968,8
-5483,8
2005
69208,2
32447,1
36761,1
-4314,0
Tổng
367809,5
168090,8
199718,7
-31627,9
Tốc độ tăng trưởng của các thời kì rất cao, thời kì từ 1996 – 2000 tăng gấp gần 3 lần 5 năm trước đó và đạt trên 100 tỉ đôla (tốc độ tăng bình quân mỗi năm la 17,2 5), thời kì 2001 – 2005 tăng hơn 2 lần giai đoạn trước, đạt 241 tỉ đôla (tốc độ tăng bình quân mỗi năm là 18,2%). Tốc độ phát triển nhập khẩu bình quân của giai đoạn 1991 – 1995 cao nhất đạt 127,3%, tuy nhiên giai đoạn này có kim ngạch chỉ xấp xỉ 1/5 kim ngạch giai đoạn 2001 – 2005. Do tốc độ tăng trưởng ở mỗi thời kì của xuất khẩu và nhập khẩu có sự ngược chiều nhau về xu hướng nên ảnh hưởng tới cân đối thương mại, từ 1996 – 2000 tăng gần gấp 2 lần giai đoạn trước với 9,8 tỉ đôla, giai đoạn hiện nay đạt 19,3 tỉ đôla có nghĩa là tăng gần gấp 2 lần giai đoạn trước. Tuy nhiên tỉ lệ nhập siêu qua từng giai đoạn so với xuất khẩu giảm mạnh, còn 17,4% trong năm 2001 – 2005.
Chỉ số phát triển (Năm trước = 100) - %
1995
137,7
134,4
140,0
1996
135,2
133,2
136,6
1997
112,9
126,6
104,0
1998
100,4
101,9
99,2
1999
111,6
123,3
102,1
2000
129,4
125,5
133,2
2001
103,7
103,8
103,7
2002
116,7
111,2
121,8
2003
124,6
120,6
127,9
2004
128,7
131,4
126,6
2005
118,4
122,5
115,0
(*) Xuất khẩu trừ nhập khẩu
Một tồn tại hiện nổi lên trong bối cảnh kinh tế Việt Nam là thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai xuất phát chủ yếu từ thâm hụt cán cân thương mại. Nhập siêu Việt Nam ở vào thực trạng đáng báo động và cần tìm hướng giải quyết.
Cán cân xuất nhập khẩu (còn được gọi là cán cân thương mại) được định nghĩa bằng hiệu số giữa kim ngạch xuất khẩu và kim ngạch nhập khẩu của một nước. Ở nước ta, từ năm 1991 đến nay, cán cân này thường xuyên ở tình trạng âm tức là kim ngạch xuất khẩu thấp hơn kim ngạch nhập khẩu và tình trạng này được gọi là nhập siêu.
Thực chất của nhập siêu chính là việc tiêu dùng quá khả năng của đất nước. Tuy nhiên, nhập siêu vẫn có thể khắc phục được nếu cán cân thanh toán bảo đảm ở mức dương. Cán cân thanh toán bao gồm cán cân thương mại và các phần chênh lệch của xuất nhập khẩu hàng dịch vụ, du lịch, đầu tư, kiều hối, trợ cấp... Như vậy, dẫu cán cân thương mại âm nhưng nếu được bù đắp bởi phần dương của du lịch, kiều hối, đầu tư... thì nền kinh tế hoàn toàn có thể khắc phục được ảnh hưởng của nhập siêu và tự chủ về ngoại tệ.
Thực trạng nhập siêu giai đoạn 1995 - 2005
Thâm hụt cán cân xuất nhập khẩu giai đoạn 1995 - 2005
Đơn vị: triệu USD
Năm
Kim ngạch XK
Kim ngạch NK
Nhập siêu
1995
5448,9
8155,4
-2706,5
1996
7255,8
11143,6
-3887,8
1997
9185,0
11592,3
-2407,3
1998
9360,3
11499,6
-2107,3
1999
11541,4
11742,1
-200,7
2000
14482,7
15636,5
-1153,8
2001
15029,2
16217,9
-1188,7
2002
16706,1
19745,6
-3039,5
2003
20149,3
25255,8
-5106,5
2004
26485,0
31968,8
-5483,8
2005
32447,1
36761,1
-4314,0
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Nhìn qua số liệu trên, chúng ta có thể thấy tình hình nhập siêu của nước ta trong giai đoạn này là đáng lo ngại. Nhập khẩu luôn cao hơn so với xuất khẩu. Để phân tích nguyên nhân dẫn đến nhập siêu, cần đi vào hai khía cạnh của nhập siêu là kim ngạch xuất khẩu và kim ngạch nhập khẩu.
Cũng có nhiều ý kiến khác cho rằng, tình hình nhập siêu của Việt Nam hiện nay là do việc tiêu dùng quá khả năng của đất nước. Việc người dân tăng cường sử dụng các mặt hàng xa xỉ nhập khẩu như ô-tô, mỹ phẩm, điện thoại di động... trong thời gian qua đã ảnh hưởng mạnh đến trị giá nhập siêu. Việc thu hút đầu tư nước ngoài một cách ồ ạt, không cân nhắc đến chất lượng các dự án đầu tư cũng ảnh hưởng đến nhập siêu...
Có thể còn nhiều ý kiến khác nữa, tuy nhiên có một số vấn đề dễ thấy từ thực trạng nhập siêu nói trên:
Một là, mức nhập siêu tăng mạnh cả về tuyệt đối và tương đối như vậy là quá nhanh, vượt khỏi dự đoán của nhiều chuyên gia.
Hai là, nhập siêu thể hiện khả năng cạnh tranh thấp của hàng hóa xuất khẩu và hàng hóa thay thế nhập khẩu được sản xuất trong nước. Điều này thể hiện trước hết là tăng trưởng xuất khẩu của ta chủ yếu tăng về lượng, yếu tố giá trị gia tăng chưa phải là đặc trưng của hàng xuất khẩu. Nhóm hàng nông sản của ta chủ yếu là xuất thô, với giá thấp hơn nhiều so với các sản phẩm cùng loại của các nước trong khu vực (như với Thái Lan...); các sản phẩm chế biến như dệt may, da giày hàm lượng nguyên liệu nhập khẩu còn quá cao. Tỷ trọng xuất khẩu hàng công nghệ cao quá thấp (4,2% năm 2004, trong khi Trung Quốc là 30%). Việt Nam cần nhập nhiều nguyên phụ liệu, bán thành phẩm bởi vì chất lượng nhóm hàng này được sản xuất trong nước thấp.
Ba là, nhập siêu thể hiện xu hướng đầu tư thay thế nhập khẩu chiếm ưu thế nhưng hiệu quả đầu tư thấp. Trong dài hạn, cán cân thương mại sẽ được cải thiện nếu nhập khẩu phục vụ cho xuất khẩu và cải thiện khả năng cạnh tranh của hàng hóa tiêu dùng trong nước. Những năm qua, đầu tư và nhập khẩu ở nước ta còn tập trung lớn vào các ngành thay thế nhập khẩu, sử dụng nhiều vốn nhưng nhiều dự án đầu tư mang lại hiệu quả thấp như xi-măng, mía đường, thép, lọc dầu...
Bốn là, nhập siêu thể hiện chậm chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng gia tăng tỷ trọng xuất khẩu hàng chế biến.
Năm là, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài xuất siêu trong khi khu vực trong nước nhập siêu. Điều này thể hiện gia tăng xu hướng đầu tư thay thế nhập khẩu và yếu kém của khu vực doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước. Đây là một thách thức rất lớn đối với nền kinh tế nước ta. Tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài là một trong những định hướng cải thiện cán cân thương mại. Yếu tố nước ngoài hết sức quan trọng trong điều chỉnh cán cân thương mại. Đồng thời, cải cách doanh nghiệp trong nước (phát triển kinh tế tư nhân, nâng cao hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế nhà nước) theo hướng nâng cao khả năng cạnh tranh để phát triển xuất khẩu và thay thế nhập khẩu cũng là hướng chủ đạo để cải thiện cán cân thương mại.
Sáu là, cán cân thương mại của nước ta trong thời gian qua ít chịu ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái, một yếu tố hết sức cơ bản ảnh hưởng đến cán cân thương mại. Tuy nhiên thực tế cho thấy, trong những năm qua, việc điều chỉnh tỷ giá hối đoái ở nước ta ít có ảnh hưởng đến cán cân thương mại.
Nguyên nhân chủ yếu là do một tỷ trọng lớn sản phẩm xuất khẩu của ta là sản phẩm thô (dầu thô, thủy sản, cà phê, gạo, hạt điều, chè...). Sản lượng của các sản phẩm này lệ thuộc khá nhiều vào các điều kiện tự nhiên (trữ lượng tài nguyên, thời tiết, đất đai...), nên về cơ bản ít co giãn về nguồn cung ứng khi có sự thay đổi giá cả tương đối, đặc biệt trong ngắn hạn. Trong khi các sản phẩm của ngành công nghiệp chế biến thường được coi là nhạy cảm hơn với sự biến động của giá cả tương đối, thì một số sản phẩm có kim ngạch khá như hàng may mặc, giày dép, điện tử, đồ gỗ lại phụ thuộc nặng nề vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu, còn các sản phẩm chế biến khác lại chiếm tỷ trọng rất khiêm tốn trong tổng kim ngạch xuất khẩu, nên ít khai thác được lợi thế từ sự thay đổi tỷ giá (đặc biệt là trong trường hợp phá giá đồng nội tệ). Về phía nhập khẩu, phần lớn hàng nhập khẩu của ta là máy móc, thiết bị, nguyên, nhiên liệu và phụ tùng mà sản xuất trong nước chưa thể đáp ứng được, và do vậy, cũng ít nhạy cảm với những biến động của tỷ giá hối đoái.
Bảy là, điểm đặc biệt là chúng ta đã có xuất siêu với nhiều nước tiên tiến có công nghệ nguồn như Mỹ, Anh, Đức, I-ta-li-a,... Riêng thị trường Mỹ, mức xuất siêu là rất lớn.
b. Những khó khăn và thuận lợi đối với XNK khi nước ta gia nhập WTO.
Thương mại quốc tế được xem như động lực của tăng trưởng và phát triển, hỗ trợ cho quá trình phân bổ các nguồn lực, nâng cao sản lượng và năng suất lao động dẫn đến việc tăng phúc lợi chung. Tạo điều kiện cho các quốc gia thể hiện lợi thế của mình và trở trở thành công cụ quan trọng trong việc đạt được các mục tiêu phát triển của quốc gia.
Bên cạnh đó, thương mại quốc tế cũng đặt ra thách thức không nhỏ đối với các nhà sản xuất trong nước vì họ phải đối diện với sự cạnh tranh của hàng nhập khẩu. Bước đi quan trọng nhất mà Việt Nam cần tiến hành là việc nâng cao khả năng cung của mình trong những lĩnh vực mà Việt Nam có lợi thế so sánh.
Gia nhập WTO đem lại cả cơ hội lẫn thách thức, đòi hỏi Việt Nam phải sớm triển khai những bước chuẩn bị cần thiết để đảm bảo tối ưu hoá những thuận lợi và giảm thiểu những nguy cơ của việc tham gia vào một nền kinh tế thế giới ngày càng được tự do hoá nhiều hơn.
Cơ hội
Gia nhập WTO sẽ mang đến cho Việt Nam những nguồn lực mới và cơ hội mới để mở rộng thị trường xuất khẩu, đa dạng hoá các mối kinh tế-thương mại, tăng khả năng thu hút đầu tư nước ngoài... giúp Việt Nam tham gia vào việc xây dựng một hệ thống thương mại đa biên bình đẳng, không phân biệt đối xử và cùng có lợi. Tạo môi trường thông thoáng minh bạch, tuân thủ các nguyên tắc quốc tế.
Việt nam sẽ có cơ hội thực sự hội nhập vào nền kinh tế thế giới, được hưởng đối xử bình đẳng và các ưu đãi thương mại cho một nước đang phát triển ở trình độ thấp. Đây là điều kiện hết sức cần thiết để Việt Nam mở rộng xuất khẩu những mặt hàng có lợi thế nhờ những thành quả của đàm phán giảm thuế và mở cửa thị trường của GATT, tăng cường tiếp cận thị trường của thành viên WTO, đặc biệt trong các lĩnh vực hàng nông sản và dệt may. Cơ hội xuất khẩu bình đẳng sẽ kéo theo những ảnh hưởng tích cực tới các ngành kinh tế trong nước, mở rộng sản xuất và tạo ra nhiều việc làm.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và đàm phán gia nhập WTO nói riêng đã góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách tích cực theo hướng tăng dần tỷ trọng giá trị công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng giá trị nông nghiệp trong cơ cấu tổng thu nhập quốc dân. Cơ cấu kinh tế ngành và vùng đã có sự chuyển biến theo định hướng về lợi thế năng lực cạnh tranh khu vực và quốc tế, hình thành các vùng kinh tế trọng điểm, các khu công nghiệp và khu chế xuất tập trung để hạ thấp giá thành và tạo điều kiện áp dụng khoa học công nghệ hiện đại hơn trong sản xuất và đầu tư.
Việt Nam đã từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật và thể chế kinh tế thị trường, cải cách hành chính và cải cách doanh nghiệp nhà nước. Nhiều kết quả đáng khích lệ đã đạt được...Việc ký kết một số điều ước quốc tế quan trọng đã tạo ra một hành lang pháp lý cơ bản cho việc thực hiện công cuộc đổi mới hội nhập kinh tế quốc tế, tạo môi trường kinh doanh lành mạnh, thúc đẩy kinh tế phát triển và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Việt Nam tiếp tục khẳng định là một quốc gia ổn định về mặt chính trị và kinh tế, cùng thực hiện các chuẩn mực điều tiết kinh tế chung với cộng đồng quốc tế. Đây là yếu tố không thể thiếu để tạo dựng niềm tin của các nhà đầu tư, thương nhân nước ngoài tham gia các hoạt động hợp tác kinh tế với Việt Nam.
Thách thức
Bên cạnh những cơ hội, việc gia nhập WTO cũng đặt ra hàng loạt những thách thức cho nền kinh tế xã hội trên các khía cạnh: thất nghiệp gia tăng, phân hoá giàu nghèo trong xã hội... Đặc biệt cạnh tranh trong nhiều ngành dịch vụ quan trọng như bưu chính viễn thông, ngân hàng, bảo hiểm... sẽ tăng đáng kể sau khi gia nhập WTO. Các cuộc cạnh tranh về chất lượng, giá cả hàng hoá, dịch vụ sẽ khốc liệt hơn trong khi năng lực cạnh tranh trong nước còn yếu. Việt Nam phải điều chỉnh hệ thống pháp luật cho phù hợp với các quy định của WTO ở nhiều lĩnh vực khác nhau như thủ tục cấp phép nhập khẩu, kiểm dịch động thực vật, các quy định liên quan đến đầu tư và sở hữu trí tuệ...
Chính sách thuế sẽ phải điều chỉnh theo quy định của WTO, trước hết là thuế xuất nhập khẩu, tiếp đến là các sắc thuế nôị địa. Thuế suất thuế nhập khẩu điều chỉnh theo hướng ngày càng giảm và đảm bảo nguyên tắc MFN (không phân biệt đối xử giữa hàng nhập khẩu từ các quốc gia khác nhau); Bỏ các biện pháp phi thuế, chỉ bảo hộ bằng công cụ thuế. Những điều đó không những có nhiều tác động khác nhau (cả tiêu cực và tích cực) đến môi trường kinh doanh mà còn ảnh hưởng đến nguồn thu NSNN. Các khoản thu từ thuế nhập khẩu chỉ được thu ở mức độ bảo hộ cần thiết, không thu cao nhằm mục đích thu ngân sách. Tương tự, khoản thu phí và lệ phí liên quan đến xuất nhập khẩu, cũng chỉ thu bằng chi phí dịch vụ bỏ ra. Số thu từ thuế nhập khẩu sẽ giảm dần do thực hiện các cam kết, ước tính sẽ giảm khoảng từ 10%-20% số thu hàng năm.
Các nước gia nhập WTO đều phải cam kết “ràng buộc thuế quan”. Mức cam kết này trong một số trường hợp có thể thấp hơn mức thuế đang áp dụng. Vì vậy, nhìn chung, khi gia nhập WTO, các nước đều phải giảm thuế nhiều mặt hàng. Tuy diện mặt hàng phải giảm thuế, mức cắt giảm cũng như thời hạn cắt giảm còn tuỳ thuộc vào yêu cầu cụ thể của các nước và khả năng đàm phán, nhưng phải chăng cứ trì hoãn cắt giảm và cắt giảm ít là tốt? là “đàm phán thành công”?. Với một cách nhìn tổng cục vì sự phát triển lâu dài của đất nước trong xu thế bất khả kháng của Hội nhập quốc tế thì cách đàm phán xin gia hạn cắt giảm thiểu chủ động tích cực trong HNQT, chỉ là một cách thể hiện của các quan điểm thiển cận.
Việc áp dụng trị giá tính thuế hàng nhập khẩu theo GATT là một vấn đề mới và phức tạp, triển khai và quản lý còn thiếu kinh nghiệm, đã xuất hiện hiện tượng gian lận thương mại về giá hàng nhập khẩu khá đa dạng, tinh vi nhất là những mặt hàng có thuế suất cao, giá trị lớn. Điều này cho thấy lối tư duy áp đặt giá tính thuế tuy đã lỗi thời và bị phá sản nhưng do ngự trị trong hệ thống quản lý hành chính ở nước ta quá lâu nên đã kìm hãm sự đổi mới của khu vực quản lý nhà nước, làm cho quản lý không theo kịp sự nhạy bén của các đối tượng bị quản lý.
Việt Nam sẽ phải cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ tài chính (bảo hiểm, kế toán, kiểm toán và tư vấn thuế), phải có các cam kết đối xử bình đẳng giữa các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ tài chính trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Việc thực hiện các cam kết này đòi hỏi nỗ lực lớn của ngành tài chính nói riêng cũng như các cơ quan quản lý nhà nước. Đặc biệt, trong bối cảnh hệ thống luật pháp, chính sách chế độ quản lý trong nước còn thiếu đồng bộ, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Thậm chí, còn nhiều lĩnh vực còn chưa có văn bản quy định như tư vấn môi giới tài chính, tư vấn thuế...
Về phía doanh nghiệp, do còn yếu kém trên nhiều lĩnh vực (chất lượng , thương hiệu sản phẩm, phát triển kênh tiêu thụ và khả năng giải quyết tranh chấp), nên các doanh nghiệp sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức trong việc tìm chỗ đứng trên thị trường hoặc phát triển thị phần của mình, nhiều doanh nghiệp có nguy cơ phá sản, trước các sức ép nặng nề của các dòng hàng hoá, dịch vụ, công nghệ, nhân lực và các chấn động khủng hoảng trong khu vực và toàn cầu, nhất là các cuộc khủng hoảng về tài chính tiền tệ gây hiệu ứng lan truyền.
Cải cách và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường mở cửa hội nhập không những là yêu cầu bắt buộc mà còn là đòn bẩy cho kinh tế-xã hội phát triển. Ở Việt Nam cần có đồng thời các chiến lược và các hành động cụ thể để sớm hoàn thiện hệ thống thể chế; nhanh chóng phát triển đồng bộ, đầy đủ hệ thống thị trường, đặc biệt chú trọng thúc đẩy sự phát triển thị trường tài chính và dịch vụ tài chính. Tăng cường năng lực và hiệu lực quản lý của ngành Tài chính: Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về thuế hiện hành; nghiên cứu xây dựng một môi trường pháp lý chung chặt chẽ như chế độ quản lý kế toán, chế độ quản lý thanh toán... để ngăn chặn gian lận thương mại; Nâng cao khả năng quản lý đối tượng nộp thuế, tạo điều kiện áp dụng công nghệ hiện đại vào quản lý thuế, thực hiện chuyên môn hoá cao trong các khâu công việc; Củng cố và phát triển hệ thống hải quan Việt Nam về cơ cấu và năng lực tổ chức thực hiện, về mức độ tự động hoá và trang bị các phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ theo tinh thần của Luật Hải quan và các cam kết quốc tế của Việt Nam trong lĩnh vực hải quan vừa tạo thuận lợi cho hoạt động thương mại quốc tế, vừa triển khai có hiệu quả công tác phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại.
Chính sách và thực tế chi tiêu của Chính phủ cần phải công khai, minh bạch theo đúng thông lệ quốc tế. Tăng cường kiểm soát chi, đảm bảo chi NSNN tiết kiệm, hiệu quả. Đổi mới chế độ kế toán, kiểm toán, thanh tra tài chính, chế độ báo cáo thông tin, bảo đảm hoạt động kinh doanh phải công khai, minh bạch; Nâng cao năng lực và hiệu quả giám sát tài chính, đảm bảo lành mạnh hoá tài chính và an ninh tài chính quốc gia trong tiến trình hội nhập.
Mặt khác, Nhà nước cần đẩy nhanh việc thực hiện chương trình đổi mới và cải cách DNNN, tạo lập môi trường thuận lợi cho sự phát triển của các doanh nghiệp tư nhân, hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc chuyển hướng kinh doanh đảm bảo tính hiệu quả.
Trong một nền kinh tế mở cửa, hội nhập, cần thiết phải đẩy mạnh xúc tiến thương mại ở cấp Chính phủ, nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức xúc tiến ở thị trường ngoài nước để có định hướng chiến lược lâu dài cho các doanh nghiệp. Xây dựng chiến lược đào tạo dài hạn để có một lực lượng lao động và cán bộ quản lý có trình độ cao thích ứng với đòi hỏi của hội nhập. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục về cạnh tranh quốc tế qua các phương tiện thông tin đại chúng nhằm ngăn chặn các hành vi cạnh tranh không lành mạnh và giám sát các hành vi lạm dụng ưu thế trên thị trường. Tăng cường phát triển các mối quan hệ hợp tác liên doanh, liên kết giữa các doanh nghiệp thông qua các tổ chức hiệp hội, tạo sức mạnh của cộng đồng các doanh nghiệp Việt Nam trong cạnh tranh với đối tác nước ngoài.
Tác động của việc gia nhập WTO tới hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) bao gồm 148 nền kinh tế thành viên chiếm 97% giá trị GDP và 95% giá trị thương mại toàn cầu. Bởi vậy, tổ chức này có thể đem lại nhiều cơ hội phát triển cho các nước thành viên, các nước là thành viên của WTO sẽ có cơ hội gắn kết hơn nữa nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới, thu hút đầu tư nước ngoài nhiều hơn và chung nhất là sử dụng tư cách thành viên của WTO như là sự công nhận chính thức của cộng đồng kinh tế quốc tế v.v...
1. Khái quát về hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam trước “ngưỡng cửa” gia nhập WTO
Theo đánh giá chung, những năm này, hoạt động xuất nhập khẩu (XNK) của Việt Nam đạt mức tăng trưởng cao và có mức đóng góp quan trọng vào công cuộc “đổi mới kinh tế” của đất nước. Thống kê của Bộ Thương mại cho thấy tổng kim ngạch XNK của cả nước trong các năm 2001 là 31.198 triệu USD; 2002: 36.493 triệu USD; 2003: 45.403 triệu USD; 2004: 57.526 triệu USD. Trong đó, giá trị nhập khẩu (NK) hàng hoá ở Việt Nam luôn tăng nhanh hơn tốc độ tăng giá trị xuất khẩu (XK) và thâm hụt thương mại vẫn tồn tại. Tỷ lệ và giá trị hàng hoá nhập siêu tăng nhanh: Năm 2001: 1.135 triệu USD; 2002: 3.027 triệu USD; 2003: 5.057 triệu USD; bằng 25,03% kim ngạch xuất khẩu; 2004: 5.520 triệu USD bằng 20,6% kim ngạch xuất khẩu. Nếu tính chung giai đoạn 2001-2004, mức nhập siêu bình quân của Việt Nam là 19,14%. Chỉ trong 4 tháng đầu năm 2005, mức nhập siêu của Việt Nam đã là 1.776 triệu USD (bằng 18,2% kim ngạch xuất khẩu).
Điều đáng quan tâm là hiện tượng nhập siêu chủ yếu xuất hiện tại khu vực kinh doanh có 100% vốn trong nước, và được tập trung vào các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu song họ lại phụ thuộc quá nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu từ nước ngoài nhƯ: dệt may, da giầy, gỗ và các sản phẩm bằng gỗ... Ngoài ra, nhiều mặt hàng tiêu dùng và các mặt hàng trong nước có khả năng sản xuất nhưng vẫn được nhập khẩu.
Từ thực tế trên, cho thấy để cải thiện cán cân thương mại cũng như thu hẹp khoảng cách trong hoạt động XNKcần phải có nhiều giải pháp. Khi chính thức trở thành thành viên của WTO, Việt Nam sẽ có được nhiều lợi ích cả trong hoạt động NK cũng như XK.
2. Tác động của việc gia nhập WTO đối với hoạt động XNK
WTO là tổ chức kinh tế đa phương, nhằm thúc đẩy tự do hoá thương mại, hội nhập kinh tế trên phạm vi toàn cầu. Với một thiết chế tổ chức chặt chẽ, hoạt động theo 5 nguyên tắc:
- Thương mại không phân biệt đối xử.
- Tạo dựng một nền tảng ổn định cho phát triển thương mại.
- Đảm bảo thương mại ngày càng tự do thông qua đàm phán.
- Tạo môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng.
- Dành điều kiện đặc biệt cho các nước đang phát triển.
Vì vậy, trên phương diện chung khi trở thành thành viên của WTO sẽ tạo cho kinh tế Việt Nam có thế và lực trên trường quốc tế. Việt Nam sẽ có vị thế bình đẳng, được thụ hưởng các quyền lợi của một thành viên đang phát triển trong WTO, cùng các nước đang phát triển xây dựng quy định, luật lệ của WTO, hạn chế được sự áp đặt đơn phương bất bình đẳng của các nước đối với ta về kinh tế, xã hội, lao động, môi trường... Ngoài ra, chúng ta còn được tiếp cận hệ thóng giải quyết tranh chấp thương mại công bằng và hiệu quả của WTO.
Việt Nam là nước đang trong quá trình CNH, HĐH phải nhập khẩu nhiều thiết bị công nghệ, và nguyên liệu đầu vào của mộ số ngành công nghiệp có tỷ trọng lớn trong xuất khẩu như dệt may, điện tử, đồ gỗ, v.v... Đồng thời, lại là một nước công nghiệp có nhiều mặt hàng xuất khẩu có thế mạnh như gạo, cà phê, cao su, hồ tiêu, hạt điều và thuỷ sản. Do đó, việc tham gia WTO sẽ đem lại cho hoạt động XNK những lợi ích nhất định. Cụ thể là:
Đối với nhập khẩu
Nghiên cứu về tác động của gia nhập WTO đã chỉ ra rằng, việc là thành viên của GATT/WTO có quan hệ chặt chẽ với sự tăng lên đáng kể của nhập khẩu từ các nước công nghiệp, tuy nhiên nghiên cứu cũng không chắc chắn trong trường hợp thành viên là các nước đang phát triển. Trên cơ sở phân tích thực tiễn hoạt động XNK Việt Nam thời gian qua, có thể khẳng định với tư cách là thành viên của WTO, Việt Nam sẽ có cơ hội nhập hàng hoá có chất lượng và giá cả cạnh tranh, đáng chú ý là khối lượng hàng hoá NK có thể tăng nhưng giá trị kim ngạch NK có thể tăng hoặc tăng không đáng kể.Và người Việt Nam sẽ có lợi trong việc tiêu dùng của mình.
Việc nhập khẩu hàng hoá diễn ra dễ dàng sẽ làm cho hoạt động sản xuất-kinh doanh thuận lợi hơn đối với các doanh nghiệp phải NK công nghệ và nguyên liệu đầu vào.
Tuy nhiên với việc loại bỏ, cắt giảm hàng rào thuế quan theo các cam kết đối với hàng hoá NK theo hạn định của WTO cũng đồng thời làm gia tăng sức cạnh tranh đối với hàng hoá sản xuất trong nước. Đây là một thách thức đối với các doanh nghiệp trong nước khi năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung còn hạn chế.
Đối với xuất khẩu
Trên thực tế, việc gia nhập WTO thúc đẩy XK quốc gia hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố, ví như về mặt khách quan có thể bao gồm hai yếu tố sau:
- Sự thay đổi các rào cản nước ngoài mà các nhà XK ở nước gia nhập WTO có thể nhận được.
- Các nhà XK hoặc là không nhận thấy hoặc là không có khả năng khai thác được lợi thế tiếp cận thị trường tốt hơn ở nước ngoài.
Điều này có thể do thiếu thông tin, do cơ sở hạ tầng đắt đỏ hoặc không hiệu quả ở nước xin gia nhập, hoặc thiếu kinh nghiệm trong việc vận chuyển hàng hoá ra nước ngoài... Mặt khác, về chủ quan việc gia tăng XK trong điều kiện gia nhập WTO còn phụ thuộc vào những bước đi cần thiết mà chính phủ và các doanh nghiệp ở nước xin gia nhập tiến hành.
Trong trường hợp của Việt Nam, những năm qua mặc dù cán cân thương mại chưa được cải thiện hiệu quả, nhập siêu vẫn còn ở mức cao nhưng khả năng XK vẫn chiếm tới 50% GDP và việc thúc đẩy mạnh XK đã và đang có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển kinh tế.
Hiện tại hàng loạt các mặt hàng chủ lực trong XK của Việt Nam vẫn không ngừng tăng về số lượng và mở rộng quy mô thị trường. Ví như các sản phẩm đồ gỗ XK của nước ta được đánh giá là một trong những nhóm hàng XK có tốc độ tăng trưởng cao và kim ngạch lớn. Trong vài năm gần đây, kim ngạch XK sản phẩm gỗ của Việt Nam tăng trung bình 30%/năm, từ 320 triệu USD năm 2000 lên 1,054 tỷ USD năm 2004 và đạt khoảng 1,6 tỷ USD năm 2005. Với đà tăng trưởng này và xét điều kiện nguyên liệu trong nước hạn chế, Bộ Thương mại chủ trương mở rộng nhập khẩu gỗ từ các thị trường mới có tiềm năng; đồng thời, xem xét khả năng cho phép các doanh nghiệp trong nước có khả năng và có đầu mối được nhập khẩu gỗ để bán cho các nhà sản xuất trực tiếp. Giải pháp này vừa góp phần tạo thị trường gỗ nguyên liệu, mà về lâu dài cũng phù hợp với yêu cầu mở cửa lộ trình gia nhập WTO của nước ta.
Bên cạnh mặt hàng gỗ, các sản phẩm thuỷ sản cũng là một bức tranh khá sáng sủa. Tổng sản lượng thuỷ sản Việt Nam 7 tháng đầu năm 2005 ước tính đạt 1,8 triệu tấn, tăng 7,7% so cùng kỳ năm 2004. Về kinh nghiệm xuất khẩu 7 tháng đầu năm cả nước ước đạt 1.167 triệu USD, tăng trên 8,4% so với cùng kỳ năm ngoái. Mặt khác EU cũng công nhận thêm 20 doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam, nâng tổng số doanh nghiệp đủ tiêu chuẩn xuất khẩu sang thị trường EU lên 170 doanh nghiệp. Có thể nói, triển vọng của xuất khẩu thuỷ sản rất lớn nhất là khi Việt Nam chính thức tham gia WTO.
Mặt hàng gạo cũng đạt mức XK cao. Tính đến thời điểm hiện tại các doanh nghiệp Việt Nam đã ký hợp đồng XK 3 triệu tấn gạo. Giá gạo XK của Việt Nam hiện vẫn đứng ở mức khá cao so với giá của hồi đầu năm và theo dự báo, mặt hàng này cũng có triển vọng lớn trong thời gian tới.
Như vậy có thể nói hoạt động XK của Việt Nam hiện nay đang nắm giữ những thành quả đáng khích lệ trong lĩnh vực thương mại. Và với đà tăng trưởng như hiện nay thì khi Việt Nam chính thức là thành viên của WTO , chắc chắn khả năng XK của Việt Nam sẽ không ngừng lớn mạnh về cả kim ngạch lẫn quy mô thị trường. Sở dĩ, có thể khẳng định như vậy là vì:
Thứ nhất, khi tham gia WTO Việt Nam có cơ hội mở rộng XK các mặt hàng mà đất nước có thế mạnh, như nông sản, thuỷ sản, may mặc, giầy dép, thủ công mỹ nghệ, các hàng hoá sử dụng nhiều lao động. Trong đó đáng kể là mặt hàng dệt may-một mặt hàng mà hiện tại Việt Nam đang chịu nhiều thiệt thòi do bị bó buộc bới hạn ngcạh vì chưa là thành viên của WTO Theo đánh giá của các chuyên gia quốc tế, dù chưa tham gia vào WTO, Việt Nam đã thiết lập khá ổn định sự có mặt đáng nể trong thị trường hàng dệt may toàn cầu. Do vậy, có thể nói sản phẩm dệt may của Việt Nam sẽ góp phần đáng kể vào việc gia tăng thị phần xuất khẩu của Việt Nam khi Việt Nam chính thức tham gia WTO với tư cách thành viên của tổ chức này.
Thứ hai, xuất khẩu của Việt Nam sẽ không bị bó hẹp trong các Hiệp định song phương và khu vực mà sẽ có thị trường toàn cầu.
Các doanh nghiệp và hàng hoá của ta sẽ không bị phân biệt đối xử so với doanh nghiệp và hàng hoá của các nước khác theo điều kiện đối xử tối huệ quốc (MFN) và đối xử quốc gia (NT). Vì thế, thị trường xuất khẩu của ta sẽ không ngừng mở rộng. Vấn đề lúc này chỉ là việc các doanh nghiệp và sản phẩm hàng hoá của ta phải tự khẳng định được mình trên thị trường thế giới, điều đó đòi hỏi mỗi doanh nghiệp, mỗi ngành phải có chiến lược hội nhập hiệu quả ngay từ khi Việt Nam chưa là thành viên của WTO.
Thứ ba, hệ thống kinh tế - thương mại dựa trên nguyên tắc chứ không phải là sức mạnh sẽ làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh dễ dàng hơn với tất cả các nước thành viên, và Việt Nam sẽ không là ngoại lệ.
WTO có cơ chế giải quyết tranh chấp tạo điều kiện để các nước nhỏ bảo vệ được lợi ích của mình hoặc có nhiều tiếng nói hơn. Vì vậy, nếu Việt Nam đã là thành viên của WTO thì vụ kiện chống bán phá giá cá tra và cá basa đã có thể kiện lên WTO để giải quyết; khi đó các phán quyết có thể công bằng hơn so với phán quyết đơn phương của Hoa Kỳ như vừa qua.
Thứ tư, tham gia WTO sẽ góp phần làm cho hệ thống chính sách, pháp luật của Việt Nam ngày càng hoàn thiện và phù hợp với thông lệ quốc tế hơn. Tạo điều kiện cho các nhà đầu tư, các đối tác kinh doanh yên tâm đầu tư và làm ăn với các doanh nghiệp Việt Nam. Qua đó sẽ tăng khả năng thu hút vốn, công nghệ, học hỏi kinh nghiệm quản lý và gia tăng thương mại đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp. Kinh nghiệm ở Trung Quốc cho thấy, sau khi gia nhập WTO, đầu tư nước ngoài tăng vọt lên 50 tỷ USD.
Nói như vậy, không có nghĩa là việc trở thành thành viên chính thức của WTO sẽ mở ra một thị trường “lý tưởng” cho thương mại của Việt Nam nói chung và xuất khẩu nói riêng. Mà trên thực tế, sẽ có không ít những thách thức mà cả nền kinh tế và cả lĩnh vực XK phải đối mặt khi tham gia tổ chức này.
c. Thống kê đầy đủ các lĩnh vực xuất nhập khẩu chủ yếu của nước ta.
Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu:
Đơn vị
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
Crôm
Triệu đô la Mỹ
4.5
3.4
2.9
8.1
9.0
1.9
Dầu thô
Nghìn tấn
7652.0
8705.0
9638.0
12145.0
14881.9
15423.5
16731.6
16876.0
17142.5
19500.6
17966.6
Than đá
Nghìn tấn
2821.0
3647.0
3454.0
3162.0
3259.0
3251.2
4291.6
6047.3
7261.9
11636.1
17987.8
Thiếc
Tấn
3283.0
3029.0
2505.0
2389.0
2357.0
3301.0
2233.0
1668.0
1953.0
1843.0
Hàng điện tử, máy tính và linh kiện
Triệu đô la Mỹ
788.6
709.5
605.4
854.7
1062.4
1427.4
Sản phẩm từ plastic
"
95.5
119.6
143.4
170.2
239.2
357.7
Dây điện và cáp điện
"
129.5
181.0
187.7
291.7
389.7
518.2
Xe đạp và phụ tùng
"
66.6
129.4
122.7
155.4
235.2
158.4
Ba lô, túi, cặp, ví(*)
"
183.3
237.2
243.3(*)
382.1
470.9
Giày, dép
"
296.4
530.0
978.4
1031.0
1387.1
1471.7
1587.4
1875.2
2260.5
2691.1
3038.8
Hàng dệt, may
"
765.5
993.1
1502.6
1450.0
1746.2
1891.9
1975.4
2732.0
3609.1
4429.8
4772.4
Hàng mây tre, cói, lá, thảm
"
30.8
61.7
48.4
36.8
62.2
92.5
103.1
113.2
141.2
171.7
157.3
Hàng gốm sứ
"
22.0
30.9
54.4
55.1
83.1
108.4
117.1
123.5
135.9
154.6
255.3
Hàng sơn mài, mỹ nghệ
"
18.7
20.7
43.1
12.9
22.5
36.2
34.0
51.0
59.6
90.5
89.9
Hàng thêu
"
20.4
11.0
13.8
35.3
32.6
50.5
54.7
52.7
60.6
91.6
78.4
Hàng rau, hoa, quả
"
56.1
90.2
71.2
52.6
106.6
213.1
344.3
221.2
151.5
177.7
235.5
Hạt tiêu
Nghìn tấn
18.0
25.3
24.7
15.1
34.8
36.4
57.0
78.4
73.9
110.5
109.9
Cà phê
"
248.1
283.7
391.6
382.0
482.0
733.9
931.1
722.2
749.4
976.2
912.7
Cao su
"
138.1
194.5
194.2
191.0
263.0
273.4
308.1
454.8
432.3
513.4
554.1
Gạo
"
1988.0
3003.0
3575.0
3730.0
4508.3
3476.7
3720.7
3236.2
3810.0
4063.1
5254.8
Hạt điều nhân
"
19.8
16.5
33.3
25.7
18.4
34.2
43.6
61.9
82.2
104.6
109.0
Lạc nhân
"
115.1
127.0
86.4
86.8
56.0
76.1
78.2
106.1
82.4
46.0
54.7
Thịt đông lạnh và chế biến
Triệu đô la Mỹ
12.1
10.2
28.8
12.0
11.6
25.6
41.7
27.3
21.1
39.9
35.6
Thực phẩm chế biến từ tinh bột & bột ngũ cốc
"
59.7
98.4
91.4
82.5
100.9
129.6
Sữa và các sản phẩm chế biến từ sữa
"
80.4
191.5
85.9
67.2
34.3
85.3
Đường
"
28.9
32.4
9.4
10.7
0.5
0.3
Chè
Nghìn tấn
18.8
20.8
32.9
33.0
36.0
55.7
67.9
77.0
58.6
104.3
91.7
Dầu, mỡ động, thực vật
Triệu đô la Mỹ
30.1
23.5
22.1
36.1
13.7
Gỗ và sản phẩm gỗ
"
311.4
343.6
460.2
608.9
1101.7
1561.4
Quế
Nghìn tấn
6.4
2.8
3.4
0.8
3.2
3.5
3.8
5.1
4.9
8.3
8.3
Hàng thủy sản
Triệu đô la Mỹ
621.4
696.5
782.0
858.0
973.6
1478.5
1816.4
2021.7
2199.6
2408.1
2732.5
Trong đó
Tôm đông
"
290.9
324.7
367.7
431.7
415.5
631.4
846.2
715.7
943.6
1084.5
1265.7
Cá đông
"
35.9
76.0
89.9
69.7
112.3
172.4
248.8
337.5
333.7
491.5
608.8
Mực đông
"
68.4
92.5
89.6
60.8
107.3
76.8
139.7
83.7
136.3
62.5
73.9
(*) Số liệu từ năm 2004 bao gồm cả mũ, ô dù.
Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu:
Đơn vị
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
Ô tô nguyên chiếc
Chiếc
16362
28269
29355
21355
24961
21279
Loại 12 chỗ ngồi trở xuống
"
252
920
757
1436
3542
5447
Loại trên 12 chỗ ngồi
"
1996
3066
1161
1006
1059
749
Ô tô tải
"
12223
15774
8901
10575
6981
13048
22168
24911
16094
16445
12334
Ô tô loại khác
"
1066
2115
2526
2819
3915
2749
Thiết bị, phụ tùng ngành dệt, may
Triệu đô la Mỹ
296.4
242.6
325.1
402.3
378.2
447.2
Thiết bị, phụ tùng ngành da, giày
"
23.0
37.1
58.0
54.8
87.4
Thiết bị, phụ tùng ngành giấy
"
32.1
31.4
74.9
57.1
64.0
Thiết bị, phụ tùng ngành nhựa
"
56.8
114.9
128.1
131.9
164.8
Máy và phụ tùng máy XD
"
118.7
197.8
294.2
280.2
254.9
255.8
Máy và phụ tùng máy SX xi măng
"
22.6
67.9
86.5
61.4
52.8
63.3
Máy móc, thiết bị hàng không
"
13.0
31.9
33.8
568.5
658.2
65.9
Máy móc, thiết bị thông tin liên lạc
"
141.4
206.4
211.2
302.6
378.1
598.2
Máy và phụ tùng máy CNTP
"
61.7
73.9
86.7
98.9
106.2
130.9
Linh kiện điện tử, máy tính nguyên chiếc và linh kiện
"
892.8
710.1
701.2
1014.1
1349.5
1638.6
Xăng, dầu các loại
Nghìn tấn
5003.2
5933.1
5960.0
6852.0
7425.4
8747.3
9083.0
9970.5
9936.4
11047.8
11477.8
Trong đó
"
Xăng
"
1043.5
1090.1
1081.3
1201.0
1325.0
1480.1
1731.7
2098.3
2180.3
2604.4
2630.1
Dầu diesel
"
2271.0
2795.5
3101.8
3526.0
3478.3
4133.2
4079.7
4434.3
4650.3
5479.6
5876.7
Dầu mazut
"
867.5
1072.5
1021.6
1321.0
1878.9
2367.6
2365.9
2582.3
2376.5
2117.9
2199.5
Dầu hỏa
"
314.7
381.7
243.9
273.0
267.7
387.7
524.8
424.6
418.5
358.2
332.8
Nhiên liệu máy bay
"
225.4
259.7
335.1
310.9
425.8
438.6
Dầu mỡ nhờn
Triệu đô la Mỹ
19.2
24.3
12.7
11.7
16.6
18.5
Phân bón
Nghìn tấn
2311.0
2787.1
2526.7
3448.0
3702.8
3971.3
3288.2
3820.2
4135.1
4064.8
2915.0
Trong đó:
Phân SA
"
436.4
390.0
549.0
509.0
671.1
731.8
Phân urê
"
1356.2
1658.3
1480.0
1944.0
1893.0
2108.3
1652.0
1818.0
1926.0
1709.5
858.4
Phân NPK
"
200.1
127.0
275.0
219.0
311.6
169.5
Phân DAP
"
591.0
574.0
613.0
767.0
596.8
606.3
Phân kali
"
411.5
483.0
517.0
662.0
696.3
456.5
Loại khác
"
224.0
62.2
48.2
52.1
79.5
93.4
Sắt, thép
"
1116.2
1548.5
1400.9
1786.0
2253.6
2845.0
3870.1
4945.9
4622.8
5152.0
5495.1
Trong đó: Phôi thép
1227.0
1772.0
2217.0
1855.0
2278.3
2239.7
Chì
Triệu đô la Mỹ
11.7
13.2
16.6
17.4
34.5
43.4
Đồng
"
58.5
82.5
109.0
137.9
259.6
340.2
Kẽm
"
35.4
36.9
39.3
44.9
66.8
66.0
Nhôm
"
112.6
140.5
179.3
247.1
348.0
357.4
Kính xây dựng
"
4.6
7.6
10.8
9.3
8.3
14.2
Hoá chất
"
275.7
322.4
426.4
529.0
703.4
921.4
Chất dẻo
"
229.8
278.2
333.1
348.6
383.4
530.6
551.0
613.5
829.0
1251.5
1516.9
Malt
"
35.3
41.1
46.3
59.5
56.9
57.8
Nhựa đường
"
35.7
53.2
64.3
51.1
42.0
39.6
Bông
"
68.2
37.4
41.5
67.6
83,3
90.4
115.4
111.6
105.4
191.6
170.0
Xơ dệt (Sợi chưa xe)
"
194.6
195.7
192.4
244.5
263.0
89.1
119.1
119.0
158.7
191.0
213.2
Sợi dệt
237.3
228.4
272.6
317.5
384.3
399.8
Thuốc trừ sâu và nguyên liệu
"
100.4
124.4
129.8
126.3
133.1
143.5
102.8
116.5
116.1
142.8
168.3
Clanke
Nghìn tấn
959.3
635.6
861.6
785.8
243.7
214.5
1498.6
3500.5
4131.1
4084.4
4375.5
Giấy các loại
Triệu đô la Mỹ
164.2
184.7
232.3
292.6
367.1
411.0
Trong đó
Giấy Kraft
"
50.8
43.7
55.8
53.1
37.8
47.5
Nguyên, phụ liệu tân dược
"
58.3
59.5
73.8
90.4
99.3
118.4
Nguyên, phụ liệu giày dép
"
504.2
553.4
641.5
768.7
809.3
843.3
Phụ liệu may
"
917.4
1036.2
1069.3
1264.9
1443.7
1438.7
Vải các loại
"
108.6
221.7
414.3
592.5
710.6
761.3
880.2
1523.1
1805.4
2066.6
2474.2
Nguyên phụ liệu sản xuất thuốc lá
"
97.0
100.2
79.9
111.3
88.3
107.6
125.6
145.4
143.4
152.3
163.5
Dầu, mỡ động thực vật
"
89.0
86.2
145.0
166.3
244.2
192.3
Bột mỳ
Nghìn tấn
254.2
296.0
151.6
271.0
159.4
86.7
65.6
61.6
52.1
48.2
38.8
Lúa mỳ
Triệu đô la Mỹ
77.8
101.3
113.5
125.7
162.8
200.6
Sữa và sản phẩm từ sữa
"
58.7
70.4
63.1
78.8
100.8
140.9
246.7
133.2
170.8
201.2
278.9
Tân dược
"
69.1
206.5
340.4
312.3
262.5
325.0
328.6
349.7
399.7
427.9
507.6
Điều hoà nhiệt độ
"
16.6
30.5
39.5
48.1
78.0
85.5
Xe máy (kể cả linh kiện đồng bộ)
"
458.5
472.1
247.2
383.8
502.3
787.0
634.8
422.7
328.7
452.2
541.4
Trong đó
"
Nguyên chiếc
"
0.3
1.5
1.1
38.2
39.4
65.7
Linh kiện CKD, SKD, IKD
"
786.7
633.3
421.6
290.5
412.8
475.7
d. Chính phủ đã và đang làm gì để nâng cao cán cân thương mại.
Để kiểm soát được nhập siêu, hạn chế nhập siêu thì vẫn cần xét trên quan điểm hai mặt của vấn đề là nhập khẩu và xuất khẩu. Hạn chế nhập siêu tức là tăng cường thúc đẩy xuất khẩu và thắt chặt nhập khẩu.
1- Các chính sách tăng cường xuất khẩu
Các biện pháp và chính sách xuất khẩu đã được bàn rất nhiều ở các tài liệu, công trình nghiên cứu ở các cấp, chúng tôi chỉ trình bày một số ý kiến tập trung chủ yếu vào việc nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu:
- Chuyển dịch cơ cấu hàng hóa xuất khẩu theo hướng gia tăng tỷ trọng hàng công nghiệp chế biến dựa vào lợi thế lao động và công nghệ để tăng về quy mô, đồng thời nhanh chóng chuyển sang phát triển các ngành sản xuất xuất khẩu dựa vào vốn và kỹ thuật cao để gia tăng giá trị. Trong giai đoạn từ nay đến năm 2010, cần tập trung phát triển các ngành kinh tế sử dụng nhiều lao động. Từng bước xây dựng nền tảng để phát triển những ngành kinh tế dựa vào công nghệ cao và tri thức, đặc biệt chú trọng phát triển các ngành dịch vụ như thông tin, tài chính, du lịch, giáo dục và đào tạo.
- Giảm chi phí kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ. Đánh giá lại khả năng cung cấp dịch vụ và mức giá dịch vụ để có hướng giảm bớt chi phí sản xuất nhằm tạo môi trường thuận lợi và giảm chi phí đầu vào, chi phí trung gian cho doanh nghiệp, trước hết là giảm giá các hàng hóa và dịch vụ công có tác động làm tăng chi phí sản xuất của hàng hóa và dịch vụ như giá điện, nước, bưu chính viễn thông, năng lượng, cước phí vận tải, phí dịch vụ bến cảng, sân bay, dịch vụ hành chính.
- Đẩy mạnh cải cách doanh nghiệp, trước hết là doanh nghiệp nhà nước. Có chính sách tiếp thêm sức mạnh cho khu vực tư nhân. Trước mắt, cần có chính sách toàn diện tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển, xóa bỏ các rào cản hạn chế hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, các cơ quan nhà nước nên có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp nâng cao giá trị gia tăng trong sản phẩm xuất khẩu. Thay bằng việc bán sản phẩm thô, hay hàng gia công rẻ như may mặc, da giày, chúng ta phát triển các sản phẩm đã qua chế biến, tạo dựng thương hiệu cho các sản phẩm gia công đã thâm nhập thành công vào thị trường các nước tiên tiến. Tập trung phát triển một vài sản phẩm mang tính thương hiệu của Việt Nam ở các ngành nghề mà Việt Nam đang có thế mạnh như nông sản, thủy sản, thủ công mỹ nghệ, may mặc, da giày,.. sau đó phát triển rộng ra các mặt hàng khác.
- Đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến và quảng bá thương hiệu Việt Nam tại các nước mà hàng Việt Nam đã thâm nhập được vào thị trường để củng cố vị trí sản phẩm, củng cố thương hiệu, từ đó phát triển bền vững sang các thị trường khác. Các cơ quan xúc tiến thương mại cần hoạt động hiệu quả hơn, trợ giúp các doanh nghiệp một cách thiết thực hơn bằng cách gửi thông tin miễn phí hằng tuần, hằng tháng về các nghiên cứu, đặc thù của từng thị trường, các thông tin về hội chợ, triển lãm... đến các doanh nghiệp qua email (hầu hết các doanh nghiệp xuất khẩu đều sử dụng email) hoặc có những hình thức hỗ trợ thực sự hiệu quả khác; tránh việc các nghiên cứu về thị trường rất chi tiết của các cơ quan xúc tiến thương mại lại không đến được đúng đối tượng cần sử dụng.
- Chính phủ cần hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất khẩu tiếp cận với nguồn vốn hiệu quả hơn. Hiện nay, các doanh nghiệp xuất khẩu nói riêng và các doanh nghiệp nói chung đang chịu gánh nặng về việc thiếu vốn và phải vay với lãi suất cao của ngân hàng (21%/năm). Nên chăng Chính phủ chỉ đạo ngân hàng đề ra các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu như: tăng biên độ cho vay xuất khẩu, ví dụ trước kia là 30% thì nay tăng lên thành 50% hay giảm mức lãi suất cho vay đối với các doanh nghiệp xuất khẩu thông qua các quỹ tín dụng phục vụ xuất khẩu. Bên cạnh đó, việc cho vay ngoại tệ, bảo đảm chính sách tỷ giá hài hòa với các doanh nghiệp xuất khẩu để nhập nguyên vật liệu đầu vào cho chế biến là hết sức quan trọng.
Hơn nữa, một vấn đề hiện các doanh nghiệp xuất khẩu đang sử dụng nhiều lao động cũng hay gặp phải đó là tình trạng thiếu lao động được đào tạo, đình công, bãi công ở những ngành nghề nhiều lao động như dệt may, da giày, chế biến thủ công... đang xảy ra trên diện rộng và cần có sự quan tâm giúp đỡ của chính quyền và các đoàn thể.
Vấn đề về điện, nước, kết cấu hạ tầng cho các doanh nghiệp xuất khẩu cũng cần được ưu tiên. Tình trạng kết cấu hạ tầng như cảng biển, hệ thống giao thông bị quá tải đã tác động mạnh tới giá thành của sản phẩm. Tình trạng cắt điện thường xuyên dù có hoặc không báo trước đều dẫn đến rất nhiều thiệt hại cho các doanh nghiệp.
2 - Các chính sách quản lý nhập khẩu
- Chính phủ sớm hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế: hoàn thiện danh mục biểu thuế nhập khẩu tương thích với danh mục hải quan của Tổ chức Hải quan thế giới; hoàn thiện các mức thuế suất trong biểu thuế vừa bảo đảm không vi phạm các cam kết quốc tế, vừa bảo đảm yêu cầu bảo hộ; áp dụng trị giá tính thuế theo WTO; đa dạng cách tính thuế nhập khẩu; thực hiện chính sách tự vệ thông qua thuế nhập khẩu; thu hẹp các trường hợp miễn giảm thuế; thay đổi các hình thức nợ thuế hiện nay sang cơ chế tín dụng thông quan và áp dụng các biện pháp chế tài cụ thể; cải cách thủ tục hành chính về thuế xuất nhập khẩu; đổi mới và tăng cường công tác đào tạo và tuyên truyền chính sách thuế xuất nhập khẩu; tăng cường đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật để tổ chức thực hiện tốt chính sách thuế xuất nhập khẩu; hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan tới chính sách thuế xuất nhập khẩu.
- Đối với các biện pháp phi thuế quan: việc sử dụng các biện pháp phi thuế quan phải phù hợp với thực trạng kinh tế - xã hội trong nước và hội nhập quốc tế; chỉ sử dụng các biện pháp này ở một số lĩnh vực có chọn lọc nhằm di chuyển nguồn lực, cải tiến cơ cấu kinh tế và nâng cao khả năng cạnh tranh hay hỗ trợ các lĩnh vực định hướng xuất khẩu. Các biện pháp phi thuế quan cần nhất quán và rõ ràng. Việc thực hiện các biện pháp phi thuế quan cũng cần được điều chỉnh cho phù hợp với tình hình hội nhập kinh tế quốc tế, như thay thế các biện pháp cấm nhập khẩu bằng các biện pháp quản lý hạn ngạch nhập khẩu, giấy phép nhập khẩu.
- Hoàn thiện và xây dựng hệ thống tiêu chuẩn đối với công nghệ nhập khẩu, sử dụng các tiêu chuẩn về môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm, các tiêu chuẩn ISO để hạn chế nhập khẩu công nghệ lạc hậu, công nghệ cũ, hàng hóa không sạch. Tích cực hợp tác khu vực nhằm hài hòa hóa tiêu chuẩn. Cần tăng cường bảo hộ nhập khẩu hàng hóa theo tiêu chuẩn và kỹ thuật (được WTO thừa nhận) nhằm hạn chế máy móc thiết bị cũ kỹ, lạc hậu, có tác động không nhỏ đến hiệu quả vay nợ nước ngoài và tính cạnh tranh ngành và sản phẩm hàng hóa Việt Nam.
- Hạn chế, quản lý chặt chẽ hàng nhập khẩu, không khuyến khích tiêu dùng hàng xa xỉ thông qua hệ thống ngân hàng không và hạn chế cho vay tiêu dùng những hàng này; quản lý thông qua thuế, phí và các thủ tục nhập khẩu. Ngay cả với các mặt hàng cần thiết cho sản xuất hàng tiêu dùng thiết yếu và phục vụ xuất khẩu, trong từng giai đoạn nhất định (ví dụ từ nay đến cuối năm 2008), các doanh nghiệp sản xuất cần tính toán mức nguyên liệu đủ để sản xuất xuất khẩu, tránh tình trạng nhập khẩu nhiều nguyên liệu làm đẩy mạnh nhập siêu.
Bên cạnh các biện pháp thúc đẩy xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, để quản lý nhập siêu cần phối hợp đồng bộ các chính sách khác như: cải thiện môi trường đầu tư và dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại hóa, công nghiệp hóa; đầu tư phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ; đề ra chính sách tỷ giá hối đoái linh hoạt khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu mà vẫn thúc đẩy kinh tế đất nước phát triển. Như vậy, để giảm nhập siêu không chỉ phải hạn chế nhập khẩu mà đòi hỏi phải nâng cao năng lực sản xuất và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế nhằm gia tăng xuất khẩu. Hay nói cách khác, muốn hạn chế được nhập siêu các cơ quan chức năng phải sử dụng đồng bộ các giải pháp để nâng cao hiệu quả sản xuất của nền kinh tế.
III. Kết luận.
Nền kinh tế thế giới đang dần dần trở thành một chỉnh thể thống nhất, trong đó mỗi nền kinh tế quốc gia là một đưon vị độc lập, tự chủ nhưng lại là những bộ phận có quan hệ hữu cơ và phụ thuộc lẫn nhau về mặt kinh tế và khoa học công nghệ. Chính vì vậy, về mặt này hay mặt khác tất cả các quốc gia đều phụ thuộc vào nước ngoài với mức độ khác nhau trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Đối với nước ta, một nước nghèo kém phát triển, nông nghiệp lạc hậu, trang bị kĩ thuật và kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn thấp, nhưng có những tiềm năng chưa được khai thác. Để đảm bảo đường lối xây dựng đất nước theo định hướng XHCN, phát triển ngoại thương, mở rộng hợp tác kinh tế, khoa học công nghệ với nước ngoài là một tất yếu khách quan và là một yêu cầu cấp bách.
Trước những biến động kinh tế phức tạp, việc đưa ra những kế sách phù hợp là rất quan trọng. Vấn đề xuất nhập khẩu luôn luôn là vấn đề được chú trọng, không những giúp điều tiết cán cân thanh toán, điều tiết sản xuất trong nước mà còn thể hiện vai trò cũng như vị thế cuả mỗi quốc gia trên thế giới.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tìm hiểu kim ngạch xuất nhập khẩu của nền kinh tế Việt Nam.doc