Đề tài Tình hình xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của Việt Nam, các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu

Suy thoái kinh tế toàn cầu dẫn đến nhu cầu của thị trường quốc tế thu hẹp, biện pháp bảo hộ mậu dịch tăng lên, mậu dịch thế giới giảm rõ rệt. Theo số liệu thống kê của WTO, năm 2009 kim ngạch mậu dịch hàng hóa toàn cầu giảm 23%, xuống còn 12.150 tỷ USD, lượng mậu dịch thế giới giảm 12,2%, đây là mức giảm lớn nhất kể từ hơn 70 năm trở lại đây. Trong đó, kim ngạch XK của Mỹ giảm 13,9%, EU giảm 14,8%, Nhật Bản giảm 24,9%, đều cao hơn mức giảm bình quân của thế giới.

docx89 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4090 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tình hình xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của Việt Nam, các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ại thị trường Nhật Bản. Hiện nay, 60% đơn hàng sản xuất của Sài Gòn 3 được xuất khẩu sang Nhật, sau khi thu hút thêm nhiều NNK khác của Nhật. Nhiều DN dệt may cho biết, giá bán hàng dệt may hiện tăng 10% - 20% so với cùng kỳ năm 2009. Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam vẫn thể hiện được xu hướng tăng trong giai đoạn 2000-2007, mặc dù có giảm mạnh trong năm 2008. Cuối cùng, Việt Nam được đánh giá cao nhờ ổn định chính trị và an toàn về xã hội, sự hỗ trợ của chính phủ để phát triển ngành, có sức hấp dẫn đối với các thương nhân và các nhà đầu tư nước ngoài. Bản thân việc Việt Nam tích cực tham gia hội nhập kinh tế khu vực và thế giới cũng mở rộng tiếp cận thị trường cho hàng xuất khẩu nói chung và hàng dệt may xuất khẩu nói riêng. MỘT SỐ DỰ ÁN HỖ TRỢ NGÀNH CỦA CHÍNH PHỦ Dự án ngành 2010: tái cấu trúc sản xuất bằng cách di chuyển các nhà máy dệt vào khu công nghiệp và SX may mặc về các vùng nông thôn; khuyến khích các công ty lớn thiết lập mối quan hệ lâu dài với các nhà nhập khẩu và bán lẻ nước ngoài, tăng thêm giá trị gia tăng cho các sản phẩm bằng cách sử dụng công nghệ thời trang, chú trọng tới thị trường nội địa và cải thiện đời sống của công nhân.  2009: Chương trình phát triển cây bông: mục đích tăng gấp 3 lần sản lượng bông đến năm 2020, bao gồm cung cấp hạt giống bông miễn phí tới các tỉnh và Vinatex cũng sẽ đầu tư sản xuất bông.  2008 (Tháng 3): Chiến lược phát triển của chính phủ Việt Nam nhằm khuyến khích sản xuất các sản phẩm giá trị gia tăng (value-added products), nhấn mạnh sử dụng  bông trồng trong nước, xúc tiến sản xuất vải dệt chất lượng cao bằng cách nâng cao công đoạn nhuộm và hoàn tất, và tập trung vào đào tạo nhân lực quản lý và thiết kế. Hỏi Vinatex, một trong những công ty lớn hàng đầu về dệt may trong nước, để nâng cao nguyên liệu nội địa từ 36 đến 50%. Nỗ lực làm cho ngành dệt may đi theo hướng thời trang hơn và phát triển đội ngũ các nhà thiết kế thời trang lành nghề và thương hiệu thời trang Việt Nam. Điểm yếu Ngành dệt may vẫn còn những điểm yếu nhất định. May xuất khẩu phần lớn theo phương thức gia công, công tác thiết kế mẫu, mốt chưa phát triển, tỷ lệ làm hàng theo phương thức FOB thấp, hiệu quả sản xuất thấp. cho đến giờ phút này, 70% đơn hàng dệt may sản xuất tại VN vẫn là hàng gia công, 30% đơn hàng còn lại sản xuất trên danh nghĩa hàng FOB. Lợi nhuận của các DN dệt may do đó thường khá thấp (so với doanh thu) do phần lớn nguyên phụ liệu, mẫu mã thiết kế và hoạt động phân phối đều được quyết định bởi đối tác nước ngoài. Phần đóng góp của phía VN vào việc hoàn thiện một chiếc áo khoác chỉ vào khoảng 11%, đối với sơ mi là 25%, quần dài là 15% và trong các sản phẩm khác luôn dưới mức 25%. Tuy là một trong những ngành xuất khẩu chủ lực của VN thế nhưng hiện nay ngành dệt may gần như hoàn toàn phụ thuộc vào thị trường thế giới. Ngành dệt hầu như chưa đáp ứng được đủ yêu cầu (cả về số lượng và chất lượng) cho ngành may. Nói cách khác, mối liên kết giữa ngành dệt và ngành may mặc còn chưa thật sự chặt chẽ. Ngành dệt còn mang hơi hướng thay thế nhập khẩu, nhưng lại chưa đạt hiệu quả và quy mô sản xuất cần thiết. Trong khi đó, ngành may mặc có tính định hướng xuất khẩu cao, nhưng lại phải dựa vào nguyên phụ liệu nhập khẩu. Năng lực sản xuất trong nước còn hạn chế. Nguồn: Hiệp hội Dệt may Việt Nam Điều khó khăn và gây áp lực lớn nhất ngành dệt may hiện nay là chưa tạo ra được nguồn nguyên liệu cho sản xuất. Nguyên liệu phục vụ cho ngành Dệt may hiện nay được nhập khẩu đến 90%. Do đó, tuy có kim ngạch xuất nhập khẩu cao nhưng tỷ lệ thu về lại thấp, chỉ ước khoảng 35-38% tổng kim ngạch. Mặc dù ngành dệt may đã có kế hoạch phát triển vùng nguyên liệu và chính sách hỗ trợ giá cho nông dân, nhưng vấn đề còn nan giải. Nếu giá thấp hơn so với các cây trồng khác sẽ khó khuyến khích nông dân tham gia trồng bông, và như vậy thách thức tiếp theo của ngành Dệt may là phải làm sao tạo được vùng nguyên liệu ổn định, không phụ thuộc vào nước ngoài như hiện nay.  BIỂU ĐỒ THỂ HIỆN GIÁ TRỊ NHẬP KHẨU NGUYÊN PHỤ LIỆU DỆT MAY Nguồn: Bản tin Kinh tế - Dệt may tháng 8/2010 Trong con số 3,2 tỷ USD nhập khẩu nguyên phụ liệu dệt may 6 tháng năm 2010 thì một phần lớn (khoảng 75% – theo tính toán của các chuyên gia trong ngành) được sử dụng để gia công hàng dệt may xuất khẩu, còn một phần (khoảng 25%) dành cho sản xuất tiêu dùng nội địa. Nếu trừ đi kim ngạch nhập khẩu nguyên phụ liệu phục vụ cho sản xuất tiêu dùng nội địa thì tỷ trọng giá trị gia tăng trong xuất khẩu so với nguyên liệu đầu vào trong 6 tháng đầu năm còn khoảng 2,5 tỷ USD. Do đó, nếu nhập khẩu nguyên phụ liệu tăng chứng tỏ sản xuất trong nước đang tiến triển rất tốt và những tháng sau sẽ có kết quả là kim ngạch xuất khẩu tăng lên. Ngoài yếu tố tăng khối lượng thì năm nay còn có yếu tố giá nguyên liệu đầu vào gia tăng rất mạnh, chẳng hạn như bông xơ, năm 2009 chỉ 1,3 USD/kg, nay đã tăng vọt lên 1,9 USD/kg, thậm chí trên 2 USD/kg, giá vải cũng tăng mạnh, kể cả sơ xợi cũng tăng... Đối với các doanh nghiệp, khi giá cả nguyên liệu biến động chắc chắn sẽ gây khó khăn nhất định, họ phải tính toán thời điểm nào nhập khẩu nguyên liệu luôn được mức giá thấp hơn, điều này giúp doanh nghiệp chủ động tính giá cả đầu vào, giá cả đầu ra để đảm bảo kinh doanh không bị lỗ. Mặt khác, do lâu nay chỉ đi gia công cho các công ty nước ngoài nên ngành dệt may chưa có sự khép kín quy trình sản xuất công nghiệp bao gồm từ sản xuất thượng nguồn (nguyên liệu đầu vào) đến mẫu mã thiết kế, sản xuất thành phẩm quy mô công nghiệp, kênh phân phối và xây dựng thương hiệu. Thương hiệu Việt vẫn chưa thực sự có giá trị cạnh tranh lớn so với những nhãn hiệu nổi tiếng khác. Hầu hết các sản phẩm xuất khẩu chỉ bán cho các nhà buôn lớn nhưng chính những nhà buôn này lại không hề chia sẻ một chút rủi ro nào từ các tranh chấp pháp lý như kiện phá giá, áp đặt hạn ngạch… Năng lực tiếp thị còn hạn chế, phần lớn các doanh nghiệp dệt may chưa xây dựng được thương hiệu của mình, chưa xây dựng được chiến lược dài hạn cho doanh nghiệp. Hơn nữa, hầu hết các doanh nghiệp dệt may là vừa và nhỏ, khả năng huy động vốn đầu tư thấp, hạn chế khả năng đổi mới công nghệ, trang thiết bị. Chính quy mô nhỏ đã khiến các doanh nghiệp chưa đạt được hiệu quả kinh tế nhờ quy mô, và chỉ có thể cung ứng cho một thị trường nhất định. Do đó, khi thị trường gặp vấn đề, các doanh nghiệp dệt may sẽ gặp khó khăn trong việc điều chỉnh phương thức thâm nhập thị trường và/hoặc chuyển đổi sang thị trường khác. Những khó khăn, ít nhất là ban đầu, trong việc chuyển đổi định hướng sang thị trường nội địa trong thời điểm các thị trường xuất khẩu chính như Hoa Kỳ, EU đều gặp suy thoái kinh tế chính là những dẫn chứng tiêu biểu. Bên cạnh đó ngành đang có tình trạng thiếu nguồn lao động quản lý và kĩ thuật, nghiệp vụ. Hầu hết, các cán bộ quản lý chủ chốt trong các doanh nghiệp Dệt may đều có trinh độ đại học hoặc cao đẳng, chuyên môn khá nhưng trình độ quản lý theo phong cách công nghiệp còn yếu, tiếp cận với phương thức quản lý hiện đại còn ít. Cán bộ kĩ thuật chủ yếu trưởng thành từ công nhân bậc cao nên chỉ giỏi về chuyên môn của nhưng sản phẩm cụ thể còn hạn chế như việc sáng tác mẫu, tạo dang sản phảm còn rất kém. Các doanh nghiệp rất cần những kỹ sư có bằng cấp, công nhân kĩ thuật và các nhà quản lý- những người có khả năng nắm bắt công nghệ hiện đại. Một thực tế là nhiều doanh nghiệp bỏ ra một số tiền lớn để mua thiết bị và công nghệ hiện đại, giá cao để chuẩn bị cho việc sản xuất các mặt hàng cao cấp, song người vận hành các thiết bị này lại có trình độ chuyên môn thấp. Nhìn chung tăng trưởng nhanh trong khi những cán bộ kĩ thuật và quản lý được đào tạo tại các trường có xu hướng giảm dần nên dẫn đến tình trạng thiếu đội ngũ công nhân lành nghề và cán bộ khoa học cho ngành Dệt may Trong báo cáo về tình hình thị trường dệt may năm 2009, triển vọng thị trường và các giải pháp năm 2010, Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam (Vitas) cho biết, ngoài những nỗi lo về thị trường xuất khẩu, những rào cản thương mại do các nước nhập khẩu dựng lên nhằm bảo hộ hàng sản xuất trong nước, trở lực lớn nhất của ngành dệt may năm 2010 là lao động. Hiện nay, một số thành phố lớn, khu công nghiệp, khu chế xuất đang xảy ra tình trạng thiếu lao động cục bộ, nhưng tình trạng thiếu lao động tại các doanh nghiệp dệt may diễn ra quanh năm. Vì vậy, hầu hết nhu cầu tuyển dụng lao động tại rất nhiều doanh nghiệp lớn của ngành kể cả trong Nam, ngoài Bắc. Một số DN lại rơi vào tình trạng hợp đồng đã ký, song không đủ số lao động cần thiết để thực hiện đơn hàng. Giám đốc điều hành Phòng Công nghiệp và Thương mại  Mỹ (Amcham) tại Tp.HCM bày tỏ, những năm qua, với lợi thế nguồn nhân lực trẻ, giá rẻ, ham học hỏi và có ý chí vươn lên, cùng chính sách đầu tư tốt, tình hình chính trị ổn định đã giúp các doanh nghiệp Việt Nam thu được những thành công nhất định. Tuy nhiên, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam đang ngày càng giảm lợi thế cạnh tranh, khi giá nhân công đang nhích lên và năng suất lao động lại đang giảm dần. Theo ông, năng suất lao động Việt Nam hiện chỉ ở 70% đến 80% so với Trung Quốc. Thêm vào đó, lực lượng lao động Việt Nam có ý thức chưa cao trong việc tuân thủ quy trình pháp lý… Vì vậy, nhiều nhà đầu tư đang để ý đến thị trường Indonesia nhằm thay thế cho Việt Nam. Mặc dù giá nhân công của hai nước gần như bằng nhau, nhưng Indonesia có lực lượng lao động ổn định, năng suất lao động cao và giá đất thấp hơn. Cơ hội Ngành dệt may có thể tận dụng một số cơ hội để phát triển xuất khẩu trong thời kỳ hiện nay. Sản xuất hàng dệt may đang có xu hướng chuyển dịch sang các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam, qua đó tạo thêm cơ hội và nguồn lực mới cho các doanh nghiệp dệt may về cả tiếp cận vốn, thiết bị, công nghệ sản xuất, kinh nghiệm quản lý tiên tiến, lao động có kỹ năng từ các nước phát triển. Do chi phí cao, sản xuất dệt may tại một số khu vực như Nam Mỹ, Carribe và Trung Mỹ, Đông Âu có xu thế giảm sút và được chuyển dịch sang châu Á, là nơi có lực lượng lao động đông và chi phí thấp hơn, trong đó Việt nam đang là điểm đến thu hút đầu tư và buôn bán khá hấp dẫn đối với nhiều công ty. Kinh tế một số nước đã ra khỏi khủng hoảng và bắt đầu hồi phục, nhu cầu tiêu dùng sẽ được cải thiện hơn, trong đó có hàng dệt may. Một thuận lợi khác trên thị trường dệt may xuất khẩu hiện nay là Trung Quốc - đối thủ cạnh tranh chính của Việt Nam đang có xu hướng giảm dần sự tham gia trong các lĩnh vực xuất khẩu có giá trị gia tăng thấp để tập trung nguồn lực sản xuất vào các mặt hàng có giá trị gia tăng cao hơn, do đó phần nào giảm bớt tính khốc liệt của cạnh tranh trên thị trường dệt may xuất khẩu mà Việt Nam hiện đang là một chủ thể tích cực. Bên cạnh đó, việc Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng hơn vào nền kinh tế khu vực và kinh tế thế giới cũng tạo điều kiện tiếp cận thị trường tốt hơn cho hàng dệt may. Việt Nam hiện đã là thành viên của WTO, đồng thời cũng đã tham gia ký kết và thực thi nhiều hiệp định thương mại tự do quan trọng ở cả cấp độ song phương (như Hiệp định đối tác thương mại Việt - Nhật) và đa phương (như các hiệp định trong khung khổ của ASEAN như ACFTA, AKFTA, ASEAN-Úc-Niu Dilân, v.v). Những cam kết của Việt Nam đối với cải cách và phát triển kinh tế đã tạo được sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư, và mở ra những thị trường mới và các quan hệ hợp tác mới. Hơn nữa, bản thân thị trường nội địa có dân số 84 triệu dân với mức sống ngày càng được nâng cao thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư và các doanh nhân. Thách thức Ngành dệt may của Việt Nam cũng đang phải đương đầu với những thách thức không nhỏ. Một mặt, xuất phát điểm của dệt may Việt Nam còn thấp, công nghiệp phụ trợ chưa thực sự phát triển, nguyên phụ liệu chủ yếu nhập khẩu, tỷ lệ gia công cao, năng lực cạnh tranh còn yếu hơn các nước trong khu vực và trên thế giới... là thách thức khi hội nhập kinh tế toàn cầu. Hiện nay, nhiều DN đang gặp khó khăn do chi phí nguyên, nhiên, phụ liệu đầu vào tăng cao do kinh tế thế giới đang dần phục hồi. Do đó, các DN nên nghiên cứu kĩ các hợp đồng và không nên kí hợp đồng sớm để tránh tình trạng bị bán hớ. Diễn biến giá nhập khẩu NPL tuần từ 10/8 đến 19/8/2010 Trong tuần, giá bông nhập khẩu từ các thị trường chính tăng nhẹ, với đơn hàng giá thấp nhất là 1330 USD/tấn, cao nhất là 2063 USD/tấn. Trong đó, giá bông nhập khẩu từ Mỹ tăng 5,2% so với tuần trước và tăng 58% so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 2063 USD/tấn. Giá nhập khẩu mặt hàng này từ Benin cùng xu hướng, tăng 6,3% so với tuần trước, đạt 1988 USD/tấn. Giá sợi Polyeste nhập khẩu từ các thị trường chính diễn biến trái chiều, dao động 1,68-2USD/kg. Trong đó, giá sợi nhập khẩu từ Indonesia tăng nhẹ 0,1% so với tuần trước và tăng 13,9% so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 2 USD/kg. Giá vải 80% cotton, 20% Polyeste W58/60 nhập khẩu từ Hồng Kông thấp hơn đạt 2,01 USD/mét, còn nhập khẩu từ Trung Quốc đạt 2,74 USD/mét. Nguồn: Bản tin tuần số 80, Vinatex Môi trường chính sách còn chưa thuận lợi. Bản thân các văn bản pháp lý của Việt Nam còn đang trong quá trình hoàn chỉnh, trong khi năng lực của các cán bộ xây dựng và thực thi chính sách, cũng như các cán bộ tham gia xúc tiến thương mại còn yếu, đặc biệt là hạn chế về chuyên môn, ngoại ngữ, và kỹ năng. Giá cả thị trường biến động ảnh hưởng đến thu nhập và đời sống của người lao động, lãi vay ngân hàng tăng, tỷ giá ngoại tệ tăng…Đây là những nguy cơ tác động không nhỏ đến sản xuất kinh doanh. Mặc dù đơn hàng và doanh số đều tăng nhưng không ít DN dệt may đang gặp khó khăn do chi phí đầu vào tăng mạnh. Từ đầu năm đến nay, giá nguyên liệu đầu vào, giá xăng, giá điện, tỷ giá USD, lãi suất vay ngân hàng... đồng loạt tăng, tác động không nhỏ đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của DN. Chủ tịch HÐQT kiêm Tổng Giám đốc Công ty cổ phần May Ðồng Nai Bùi Thế Kích dẫn chứng, năm 2009, do được hỗ trợ lãi suất cho vay 4% cho nên DN chỉ phải trả lãi suất vay ngân hàng 6%. Nhưng đến năm 2010, lãi suất vay ngân hàng tăng lên 15 tới 18% (tăng gấp ba lần so năm 2009) khiến các DN gặp khó khăn về vốn để phát triển sản xuất. Dự kiến năm nay, lợi nhuận của công ty sẽ giảm 50% so năm trước. Năng lực cạnh tranh quốc gia ( đường xá, cảng khẩu…) chưa được cải thiện nhiều, chưa đáp ứng được nhu cầu, chưa giúp được các DN giảm thiểu chi phí và nâng cao khả năng cạnh tranh. Tình hình cắt điện với mật độ dày đã ảnh hưởng lớn đến năng suất lao động, tiến độ giao hàng của nhiều DN XK. Theo Tập đoàn Dệt may VN, để đạt mục tiêu của năm và tận dụng hết khả năng cho XK, ngành dệt may đang phải đối mặt với nhiều khó khăn cả vấn đề từ lâu và mới phát sinh. Trong tháng 5 và 6 vừa qua, tình hình cắt điện với mật độ dày đã ảnh hưởng lớn đến năng suất lao động, tiến độ giao hàng của nhiều DN XK. Một cán bộ của Tập đoàn Dệt may cho biết, nếu không bị thiếu điện cho DN dệt may, kết quả XK 6 tháng qua có thể cao hơn khoảng 300 - 500 triệu USD. Trong việc đầu tư, ông Vũ Đức Giang kiến nghị, cần tạo các ưu đãi cho DN dệt may trong việc xử lý ô nhiễm môi trường, đào tạo nguồn nhân lực. Bản thân các thị trường lớn cũng vận dụng khá nhiều các rào cản về kỹ thuật, vệ sinh, an toàn, môi trường, trách nhiệm xã hội, chống trợ giá nhằm bảo hộ sản xuất trong nước. Ví dụ: Mỹ yêu cầu các lô hàng phải có chứng chỉ phù hợp với tiêu dùng; nguy cơ bị điều tra chống bán phá giá, chống trợ cấp tại Hoa kỳ,… Nhiều doanh nghiệp Việt Nam còn có quy mô nhỏ và vừa, không đủ tiềm lực để theo đuổi các vụ kiện chống bán phá giá, dẫn đến thua thiệt trong các tranh chấp thương mại. Mặt khác, từ ngày 1-1-2010, Luật Bảo vệ môi trường của người tiêu dùng của Mỹ có hiệu lực, dựng nên hàng rào kỹ thuật mới đối với thị trường XK DM. Theo đó, các lô hàng XK vào Mỹ phải có giấy kiểm nghiệm của bên thứ ba xác nhận sản phẩm sử dụng nguyên liệu bảo đảm cho sức khỏe người tiêu dùng. Nhà sản xuất sẽ phải chịu trách nhiệm về bất kỳ thiệt hại nào gây ra cho người tiêu dùng. Ngành Dệt may VN cũng được một số doanh nghiệp Mỹ cảnh báo rằng nếu không sớm nâng năng lực làm hàng chất lượng cao, sẽ khó cạnh tranh được với các đối tác khác đến từ các nước Châu Á. Áp lực này khiến ngành Dệt may phải xây dựng hệ thống các tiêu chuẩn sản phẩm dệt may phù hợp và hài hòa với các tiêu chuẩn quốc tế. Đồng thời đầu tư nâng cấp các trung tâm giám định, kiểm tra chất lượng sản phẩm dệt may để hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong quản lý chất lượng và khắc phục các rào cản kỹ thuật. Các rào cản thương mại trên đã được vận dụng ngày càng linh hoạt và tinh vi hơn, đặc biệt là trong bối cảnh khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu. Các cam kết giảm thuế đối với hàng dệt may nhập khẩu sẽ làm giảm mức độ bảo hộ đối với ngành dệt may. Bảng sau thể hiện ước tính mức độ bảo hộ thực tế - mức tăng giá trị gia tăng của ngành trong trường hợp có bảo hộ so với trường hợp không có bảo hộ - của các ngành dệt may. Theo đó, mức độ bảo hộ thực tế của các ngành dệt may sẽ tăng nhẹ trong giai đoạn 2008-2010, trước khi giảm liên tục trong các năm tiếp theo cho đến 2020. Mức độ bảo hộ thực tế đối với các sản phẩm quần áo được duy trì khá ổn định kể từ sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Đối với thảm dệt và các sản phẩm thêu ren, tỷ lệ bảo hộ thực tế chỉ tăng nhẹ trong giai đoạn 2007-2010, trước khi giảm xuống trong giai đoạn 2015-2020. Riêng sản phẩm sợi còn không nhận được bảo hộ từ hàng rào thuế quan, thể hiện qua tỷ lệ bảo hộ nhỏ hơn 0 trong giai đoạn 2007-2020. Tỷ lệ bảo hộ thực tế của các ngành dệt may (%) 2006 2007 2008 2009 2010 2015 2020 Dệt may 124,71 34,06 34,74 35,28 35,61 33,31 28,59 Sợi 4,00 -4,97 -4,46 -4,06 -3,81 -3,10 -2,66 Quần áo 135,70 58,02 58,44 57,72 57,48 58,26 57,83 Thảm dệt 56,00 25,02 25,22 25,38 25,47 19,81 20,32 Sản phẩm thêu ren (ngoại trừ thảm) 62,33 17,44 17,69 17,90 18,05 16,03 16,31 Nguồn: Cục xúc tiến thương mại Đánh giá tiềm năng xuất khẩu của hàng dệt may Việt Nam Ngành dệt may Việt Nam còn có khá nhiều tiềm năng cho xuất khẩu. Tiềm năng này trước hết là do nguồn lao động còn lớn, đặc biệt là nhờ cấu trúc dân số trẻ, nên chi phí cho lao động không tăng nhanh như tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của hàng dệt may. Bên cạnh đó, Việt Nam có môi trường đầu tư ổn định, với tiềm năng tăng trưởng cao, nên có sức hấp dẫn với nhà đầu tư và bạn hàng nước ngoài. Hơn nữa, Việt Nam cũng đang tham gia ngày một sâu rộng vào quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Cùng với việc cải thiện hình ảnh của Việt Nam, quá trình này còn giúp gia tăng tiếp cận thị trường cho hàng hóa của Việt Nam nói chung và hàng dệt may của Việt Nam nói riêng. Một số đánh giá về triển vọng của ngành dệt may Việt Nam được trình bày trong bảng dưới đây. SỐ LIỆU VÀ DỰ BÁO TÌNH HÌNH SẢN XUẤT VÀ XUẤT NHẬP KHẨU DỆT MAY CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006-2013 Sản xuất 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 Giá trị gia tăng, triệu đô la Mỹ 3.205,5 3.899,6 5.136,8 4.789,3 4.764,5 5.721,1 6.847,6 7.759,3 Giá trị gia tăng, % trong GDP 5,3 5,5 5,7 5,2 4,9 5,0 5,0 5,1 Tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng, % 13,2 13,5 9,2 -3,0 -0,9 9,8 9,2 9,0 Giá trị gia tăng ngành dệt, triệu đô la Mỹ 325,0 368,9 402,8 390,7 387,2 423,2 460,0 499,2 Thương mại quốc tế Kim ngạch XK hàng dệt, triệu USD 1.058,0 1.352,0 1.690,0 1.318,2 1.453,5 1.598,8 1.742,7 1.912,7 Kim ngạch NK hàng dệt, triệu USD 3.988,0 4.940,0 5.874,8 4.699,8 5.056,9 5.166,8 4.990,7 5.096,5 Cán cân thương mại ngành dệt, triệu USD -2.930,0 -3.588,0 -4.184,8 -3.381,6 -3.603,4 -3.568,0 -3.247,9 -3.183,8 Kim ngạch XK hàng may mặc, triệu USD 5.579,0 7.186,0 9.054,4 7.424,6 8.335,4 8.898,6 8.929,0 9.505,3 Kim ngạch NK hàng may mặc, triệu USD 271,0 426,0 449,8 337,3 379,8 414,0 451,3 497,3 Cán cân thương mại ngành may mặc, triệu USD 5.308,0 6.760,0 8.604,6 7.087,2 7.955,6 8.484,6 8.477,7 9.008,0 Nguồn: BMI (tháng 7/2009) Theo đó, triển vọng của ngành may mặc sẽ là sáng sủa hơn một chút so với ngành dệt, do có quy mô lớn hơn, mức độ linh hoạt cao hơn, và có nhiều lựa chọn thay thế ngay cả trong thời kỳ suy thoái (chẳng hạn, phát triển thị trường xuất khẩu mới). Giá trị gia tăng của ngành hàng may mặc được dự báo sẽ tăng liên tục trong giai đoạn 2011-2013, mặc dù có giảm lần lượt 3,0% và 0,9% vào các năm 2009 và 2010. Đây là triển vọng khá tích cực, ngay cả khi tốc độ tăng trưởng trong giai đoạn 2011-2013 còn thấp hơn so với mức trung bình trong các năm 2003-2008 (11,9%). Cũng do tốc độ tăng trưởng chậm hơn so với GDP mà tỷ trọng giá trị gia tăng của ngành may mặc trong GDP trong giai đoạn 2009-2013 sẽ thấp hơn so với mức trong giai đoạn 2006-2008.  Tương tự, giá trị gia tăng của ngành dệt cũng giảm nhẹ từ mức gần 403 triệu USD vào năm 2008 xuống còn xấp xỉ 391 triệu USD và hơn 387 triệu USD lần lượt vào các năm 2009-2010, trước khi tăng liên tục lên khoảng 500 triệu USD vào năm 2013. Tuy giá trị gia tăng có giảm, nhưng kim ngạch xuất khẩu của hàng dệt may chỉ giảm trong năm 2009, và sẽ tăng liên tục trong giai đoạn 2010-2013. Theo BMI (2009), kim ngạch xuất khẩu hàng dệt tăng liên tục từ mức hơn 1,3 tỷ USD vào năm 2009 lên hơn 1,9 tỷ USD vào năm 2013, với tốc độ tăng trung bình khoảng 9,8%/năm trong 2010-2013. Trong khi đó, kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc cũng tăng từ mức hơn 7,4 tỷ USD lên hơn 9,5 tỷ USD trong giai đoạn 2009-2013. Mặc dù vậy, triển vọng xuất khẩu này cũng đi kèm những diễn biến đáng lo ngại. Trước hết, cán cân thương mại ngành dệt vẫn có mức thâm hụt lớn, mặc dù mức thâm hụt đã giảm mạnh trong năm 2009 và trong giai đoạn 2011-2013. Điều này cho thấy ngành may mặc của Việt Nam vẫn sẽ tiếp tục phải dựa vào nguyên liệu dệt nhập khẩu để phục vụ cho các đơn hàng xuất khẩu của mình. Triển vọng nhập khẩu các nguyên phụ liệu phục vụ cho ngành may mặc cũng được trình bày trong bảng sau. CÂN ĐỐI NHU CẦU ĐỐI VỚI MỘT SỐ NGUYÊN PHỤ LIỆU DỆT MAY TRONG GIAI ĐOẠN 2005-2020 Mặt hàng Đơn vị 2005 2010 2020 Năng lực Nhu cầu Nhập khẩu Năng lực Nhu cầu Nhập khẩu Năng lực Nhu cầu Nhập khẩu Bông 1000 tấn 11 165 154 20 255 235 60 430 370 Sợi nhân tạo 1000 tấn 140 140 260 220 600 370 Chỉ và filamen 1000 tấn 260 510 250 350 790 440 650 1.350 700 Vải Triệu m2 618 2.280 1.662 1.000 3.525 2.525 2.000 5.950 3.950 Nguồn: Đại sứ quán Đan Mạch tại Hà Nội Trong điều kiện kinh tế bình thường, vấn đề nguyên liệu đối với ngành may mặc sẽ không phải là quá nghiêm trọng. Tuy nhiên, trong điều kiện khủng hoảng, khi các đơn hàng xuất khẩu không còn nhiều và các doanh nghiệp may mặc phải chuyển hướng sang phục vụ thị trường trong nước, việc phụ thuộc vào nguyên phụ liệu nhập khẩu sẽ làm các doanh nghiệp mất tính chủ động trong kế hoạch kinh doanh và còn gặp khó khăn về nguồn ngoại hối để chi trả cho nhập khẩu. Để ứng phó với tình hình trên, ông Vũ Đức Giang, Tổng Giám đốc Vinatex, cho rằng trong chiến lược nâng cao giá trị gia tăng của ngành dệt may, đơn vị đã đầu tư gần 15,3 tỉ đồng để sản xuất nguyên liệu bông, xơ tổng hợp, sợi, dệt vải, nhuộm hoàn tất và các nguyên liệu phụ trợ khác nhằm nâng tỉ lệ nội địa hóa lên 50% vào năm 2011 và 70% vào năm 2017. Bên cạnh đó, Vinatex còn hợp tác với Campuchia và Myanmar trồng bông để từng bước ổn định nguồn nguyên liệu. Triển vọng phát triển Cuộc sống càng phát triển, thu nhập càng tăng thì yêu cầu làm đẹp của con người càng cao, do đó khả năng phát triển của ngành may mặc thế giới nói chung và ngành may của Việt Nam nói riêng là rất lớn. Đối với hoạt động sản xuất: các doanh nghiệp may Việt Nam ngày càng chú trọng đến việc đầu tư cho năng lực sản xuất và thiết kế, hứa hẹn sự gia tăng về giá trị của các sản phẩm may mặc Việt Nam trong thời gian tới. Các doanh nghiệp may đang thực hiện liên kết với các trường và viện nhằm đào tạo nguồn nhân lực phù hợp có chất lượng cao, qua đó giúp các doanh nghiệp may chuẩn bị những điều kiện sẵn sàng để thực hiện xuất khẩu các sản phẩm có hàm lượng thiết kế cao hoặc thực hiện những đơn hàng giá cao nhằm thu giá trị xuất khẩu lớn, nhắm vào phân khúc thị trường hàng may mặc trung và cao cấp cả ở trong nước và nước ngoài. Nâng cao năng lực thiết kế sẽ giúp các doanh nghiệp may từng bước xây dựng thương hiệu riêng của hàng may mặc Việt Nam, qua đó xây dựng thị trường tiêu thụ riêng, đảm bảo sự phát triển bền vững. Khi đa chủ dộng được thị trường tiêu thụ sản phẩm, các doanh nghiệp may Việt Nam sẽ không phải phụ thuộc nhiều vào hoạt động may gia công cho các đối tác nước ngoài, hàng may mặc “Made in Vietnam” sẽ dần được thay thế bằng “Made by Vietnam”. Bên cạnh đó, trong chiến lược phát triển ngành dệt may của Việt Nam đến năm 2015, định hướng đến năm 2020, Chính phủ đã có định hướng phát triển các lĩnh vực phụ trợ, phát triển các nguồn nguyên liệu phục vụ cho ngành may. Cụ thể, để giải quyết bài toán nguyên phụ liệu cho ngành dệt may tăng trưởng bền vững, Thủ tướng Chính phủ mới đây đã phê duyệt “Chương trình Phát triển cây bông vải Việt Nam đến năm 2015”. Tập đoàn Dệt may Việt Nam cũng lên kế hoạch năm 2010 đầu tư tạo giá trị gia tăng cao cho ngành sản xuất cốt lõi dệt may với tổng vốn dự kiến dành cho các chương trình trọng điểm hơn 1.400 tỷ đồng. Hiện Tập đoàn đã triển khai 2 trong số 8 dự án trồng bông nguyên liệu, nhằm hình thành vùng nguyên liệu 2.000 hécta. Ngoài ra, Tập đoàn Dệt may Việt Nam còn phối hợp với Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam xây dựng nhà máy sản xuất sợi tổng hợp tại Khu công nghiệp Đình Vũ (Hải Phòng) công suất 600 tấn/ngày, dự kiến năm 2012 đi vào sản xuất, đáp ứng 100% nhu cầu xơ, sợi tổng hợp cho ngành dệt; xây dựng 4 Khu công nghiệp dệt, nhuộm tại Ninh Bình, Nam Định, Long An và Trà Vinh nhằm khuyến khích doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư sản xuất nguyên phụ liệu cho ngành dệt may. Những kế hoạch này nếu thực hiện tốt sẽ giúp cung cấp những nguyên liệu có chất lượng cao, giảm bớt sự phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu vốn đang là vấn đề lớn của ngành may xuất khẩu hiện nay. Khi đó, các doanh nghiệp may trong nước sẽ có điều kiện mở rộng và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh. Việt Nam đặt mục tiêu phát triển ngành Dệt May trở thành một trong những ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn về xuất khẩu; đáp ứng ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng trong nước; tạo nhiều việc làm cho xã hội; nâng cao khả năng cạnh tranh, hội nhập vững chắc kinh tế khu vực và thế giới. CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM ĐẾN 2015 - 2020 Chỉ tiêu 2010 2015 2020 Doanh thu 13 - 15 tỷ USD 18 - 21 tỷ USD 27 - 30 tỷ USD KNXK 10 - 12 tỷ USD 14 - 16 tỷ USD 20 - 22 tỷ USD Sử dụng LĐ 2.5 triệu 3.5 triệu 4.5 triệu SX vải 1000 ngàn tấn 1500 ngàn tấn 2000 ngàn tấn SX sợi 350 ngàn tấn 500 ngàn tấn 650 ngàn tấn Tỷ lệ nội địa hóa 50% 60% 70% Nguồn:Bộ Công Thương Dệt may Việt Nam vốn được đánh giá là một ngành công nghiệp có tiềm năng phát triển; và sẽ thu hút được nhiều vốn đầu tư của nước ngoài trong thời gian tới do có những lợi thế nhất định so với các quốc gia khác trong khu vực. Nếu biết tận dụng tốt những cơ hội cũng như có sự chuẩn bị phù hợp và đúng hướng thì trong tương lai, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam có thể đạt được những kết quả phát triển ấn tượng. CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU DỆT MAY VIỆT NAM GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚC Giảm chi phí giao dịch, chi phí kinh doanh cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu dệt may Triển khai xây dựng các trung tâm cung ứng nguyên, phụ liệu, đóng vai trò là đầu mối tổ chức nhập khẩu và cung ứng nguyên, phụ liệu cho các doanh nghiệp sản xuất trong nước nhằm nâng cao khả năng cung ứng nguyên liệu cho sản xuất một cách kịp thời với chi phí thấp hơn. Chính Phủ cần triển khai các khu tập trung như những khu công nghiệp, khu bảo thuế, hình thành chợ nguyên liệu trong khu bảo thuế, trung tâm buôn bán nguyên phụ liệu và cho phép các nhà đầu tư phân phối hàng hóa trong nước và nước ngoài vào đầu tư xây dựng và kinh doanh chợ nguyên phụ liệu. Những trung tâm này có thể cung ứng cho một ngành hàng là dệt may hoặc là trung tâm tổng hợp như cung cấp cho cả ngành dệt may và da giày của Việt Nam. Phát triển ngành công nghiệp phụ trợ Tuy là mặt hàng xuất khẩu chủ lực nhưng dệt may hiện nay chủ yếu làm gia công cho nước ngoài với lợi nhuận thấp, Nhà nước cần có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp có khả năng sản xuất toàn bộ, xuất khẩu trực tiếp sản phẩm có tỷ lệ nội địa hoá cao, tiến tới XK sản phẩm 100% nguyên liệu trong nước; tập trung phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ để tăng khả năng cung ứng nguyên vật liệu, bán thành phẩm, phụ liệu đầu vào trong nước cho sản xuất hàng công nghiệp xuất khẩu nhằm giảm chi phí sản xuất và nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm xuất khẩu. Cụ thể, Nhà nước cần tiếp tục đẩy mạnh đầu tư hoàn chỉnh vào các cụm Công nghiệp Dệt may theo hướng tập trung vào lĩnh vực dệt – nhuộm, đầu tư hoàn tất khâu vải và phụ liệu để đảm bảo cung cấp nguyên liệu cho may xuất khẩu nhằm tiến tới tăng tỷ lệ nội địa hóa trong sản phẩm may mặc xuất khẩu từ 30% lên 60%, giảm dần tỷ lệ gia công. Bên cạnh đó, đầu tư mở rộng, có chính sách khuyến khích giúp đỡ các địa phương có tiềm lực phát triển ngành dệt may. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu Nhà nước cần rà soát lại văn bản để điều chỉnh các quy định không phù hợp với tinh thần Luật thương mại, Luật đầu tư và Luật doanh nghiệp mới đồng thời nghiên cứu và điều chỉnh, hoàn thiện hệ thống pháp luật theo các quy định và thông lệ quốc tế nhất là sau khi Việt Nam đã gia nhập WTO. Tiến hành cải cách các thủ tục hành chính, thủ tục hải quan nhanh chóng hơn nữa Xây dựng và thực hiện chương trình hiện đại hóa và cải cách thủ tục hải quan, lộ trình rút ngắn thời gian tiến hành các thủ tục hải quan cho hàng hóa xuất – nhập khẩu của Việt Nam xuống đạt mức trung bình của khu vực ASEAN thông qua việc tăng cường áp dụng các biện pháp để tiến hành hải quan điện tử, hải quan một cửa…Tiếp tục đẩy mạnh công cuộc cải cách hành chính đi đôi với việc tăng cường hợp tác phối hợp giải quyết vụ việc liên quan giữa các Bộ, ngành, Hiệp hội dệt may Việt Nam. Nhà nước cần đề xuất các biện pháp nhằm tháo gỡ khó khăn của doanh nghiệp trong lĩnh vực hải quan, khai C/O và các vấn đề liên quan đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp dệt may. Nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước ngành thương mại trong việc hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận thị trường, phát triển xuất khẩu. Những năm gần đây, hoạt động mở rộng của khu vực công nghiệp trong đó có ngành dệt may tăng mạnh là do kết quả của quá trình thu hút đầu tư bằng vốn cả trong nước và nước ngoài vào nhiều dự án lớn đạt kỷ lục mấy năm qua. Vì vậy, đẩy mạnh cải cách hành chính và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo ra cơ hội mở rộng và phát triển thị trường xuất khẩu cho mặt hàng dệt may nói riêng và các mặt hàng xuất khẩu nói chung. Thực hiện các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp mở rộng thị trường Đối với mặt hàng dệt may, tìm kiếm mở rộng thị trường là yếu tố cơ bản để có thể tăng kim ngạch xuất khẩu dệt may trong thời gian tới. Các thị trường trọng điểm vẫn là các thị trường có sức mua lớn như Mỹ, EU, Canada, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia và các thị trường nhỏ lẻ nhưng đóng vai trò là trung tâm mua sắm của các khu vực như Hồng Kông, Singapore, Thụy Sĩ, Anh… Để đạt được mục tiêu xuất khẩu đề ra, cần thực hiện một số giải pháp sau: Đối với thị trường Mỹ: tiếp tục hoàn thiện hệ thống điều hành hai chiều giữa Bộ Công Thương và hải quan. Đồng thời triển khai hoạt động của Tổ kiểm tra cơ động. Tổ chức làm việc với các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu lớn đặc biệt là xuất khẩu những mặt hàng trong diện giám sát để nắm rõ khả năng sản xuất, xuất khẩu luôn luôn nắm thế chủ động và đưa ra kế hoạch đẩy mạnh xuất khẩu phù hợp, vừa có sự kế thừa vừa có tính phát triển. Đối với thị trường Nhật Bản: Tổ chức, liên kết với Nhật Bản hỗ trợ xây dựng Trung tâm giao dịch nguyên phụ liệu dệt may và Trung tâm đào tạo chất lượng cao và hợp tác quốc tế cho ngành dệt may nhằm cung cấp nguyên phụ liệu cho ngành dệt may và đào tạo cán bộ kỹ thuật tay nghề cao và cán bộ thiết kế, thời trang cho ngành. Tổ chức xúc tiến thương mại tại Nhật Bản để đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường này. Đối với thị trường EU: Nghiên cứu tác động của thị trường EU khi Trung Quốc được bãi bỏ hạn ngạch dệt may để giúp các doanh nghiệp định hướng mặt hàng và nước xuất khẩu mà hàng dệt may có khả năng cạnh tranh cao. Đẩy mạnh triển khai các Hiệp định khu vực mậu dịch tự do (FTA) Nhà nước cần đẩy mạnh triển khai các Hiệp định khu vực mậu dịch tự do (FTA) đã ký kết và tận dụng lợi thế từ FTA đem lại, phối hợp với các địa phương, Hiệp hội ngành hàng tổ chức phổ biến rộng rãi cho các doanh nghiệp nội dung FTA mà Việt Nam đã tham gia ký kết để tăng cường hỗ trợ doanh nghiệp trong việc tận dụng lợi thế các FTA. Hỗ trợ về mặt thông tin, định hướng phát triển cho ngành dệt may Để ngành dệt may hoạt động có hiệu quả thì Nhà nước đóng vai trò rất quan trọng. Nhà nước không chỉ điều tiết cho ngành phát triển đúng hướng, mà còn tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi. Doanh nghiệp rất cần sự trợ giúp của Nhà nước trong việc tăng cường khả năng hiểu biết thị trường, khả năng tiếp thị, mở văn phòng đại diện… Hoàn thiện hệ thống chính sách tài chính, tín dụng và đầu tư phục vụ xuất khẩu Thành lập Quỹ bảo hiểm xuất khẩu và Qũy hỗ trợ đầu tư Hình thức bảo hiểm xuất khẩu chưa được áp dụng nhiều tại Việt Nam (các nước phát triển đang áp dụng phổ biến hình thức này như Đức, Áo, Italia, Nhật Bản…) trong khi thực tiễn kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp dệt may Việt Nam vẫn còn rủi ro nhất là khi các hàng rào kỹ thuật của các nước ngày càng tinh vi va gay gắt hơn. Do vậy, áp dụng biện pháp bảo hiểm xuất khẩu để hỗ trợ doanh nghiệp, khuyến khích đẩy mạnh xuất khẩu là cần thiết và phù hợp sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Sau k hi Việt Nam gia nhập WTO, các hình thức hỗ trợ trực tiếp cho xuất khẩu như thưởng xuất khẩu, thưởng thành tích xuất khẩu…bị bãi bỏ. Cần sử dụng nguồn vốn này và bổ sung thêm để thành lập Qũy hỗ trợ đầu tư: đổi mới, chuyển giao công nghệ sản xuất, đào tạo nâng cao tay nghề cho công nhân sản xuất hàng xuất khẩu. Xem xét dãn thời gian nộp thuế nhập khẩu các mặt hàng nguyên liệu, đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu, tạo điều kiện cho doanh nghiệp giảm chi phí sản xuất, tăng năng lực cạnh tranh của hàng hoá. Điều tiết tỷ giá hối đoái, lạm phát Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã điều hành chính sách tiền tệ, điều chỉnh tỷ giá linh hoạt theo tín hiệu thị trường nhằm khuyến khích sản xuất, xuất khẩu, tạo điều kiện thuận lợi và tăng cường khả năng tiếp cận nguồn vốn cho các doanh nghiệp. Hiện tại, Bộ Công thương tiếp tục đề nghị Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chỉ đạo các ngân hàng thương mại có biện pháp nâng cao khả năng tiếp cận vốn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu để góp phần thúc đẩy xuất khẩu. Nhà nước cần nâng cao hiệu quả công tác thống kê thương mại, chính sách tiền tệ và tỷ giá hối đoái, tăng cường tiếp xúc và tham vấn giữa các cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp. Điều tiết sự thay đổi tỷ giá hợp lý sao cho thu hút được vốn nước ngoài và khuyến khích doanh nghiệp đầu tư hướng tới khuyến khích xuất khẩu, hạn chế từng bước nhập khẩu nguyên, phụ liệu và vẫn kiểm soát được lạm phát ở mức hợp lý. Thực hiện cơ chế lãi suất hợp lý đi kèm với việc sử dụng các công cụ điều hành chính sách tiền tệ để kiểm soát tín dụng như dữ trự bắt buộc, các công cụ thị trường mở một cách linh hoạt. Nền kinh tế Việt Nam còn nhỏ nên hiệu ứng từ việc phá giá đến xuất khẩu là không lớn trong khi áp lực lên lạm phát là rõ rệt hơn nên cần cân nhắc mức độ phá giá ở mức hợp lý khi điều hành tỷ giá trong các bối cảnh kinh tế cụ thể để tránh áp lực lạm phát quá lớn ảnh hưởng đến sự tăng trưởng kinh tế nói chung. Nâng cao hiệu quả công tác xúc tiến thương mại Tăng cường xúc tiến thương mại phải được thực hiện cả ở tầm vĩ mô và vi mô. Xúc tiến ở tầm vĩ mô nhằm làm cho phù hợp với đặc điểm, tính chất của thị trường xuất khẩu, thông qua việc giúp các doanh nghiệp tiếp cận với thị trường bằng các cuộc khảo sát thị trường, tham gia hội chợ, thông qua việc tiếp xúc với các doanh nghiệp. Xúc tiến ở tầm vi mô nhằm đào tạo cán bộ có năng lực để làm công tác xúc tiến thương mại. Các hỗ trợ xúc tiến thương mại của nhà nước thay vì tập trung vào các thị trường lớn đã bão hòa hoặc có xu hướng suy giảm, nên chú trọng vào các thị trường mới, hỗ trợ doanh nghiệp về thông tin thị trường, thị hiếu tiêu dùng, thông tin doanh nghiệp nhập khẩu, kênh phân phối… Cụ thể, Đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động xúc tiến thương mại cấp cao để thúc đẩy hợp tác, đầu tư và buôn bán giữa Việt Nam với các nước, thu hút các tập đoàn đa quốc gia đầu tư vào Việt Nam để từ đó tạo nên những làn song chuyển dịch đầu tư vào Việt Nam trong lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu dệt may được đánh giá là đang tăng trưởng mạnh mẽ với tốc độ khoảng 17,4%/năm. Đổi mới công tác tổ chức các chương trình xúc tiến thương mại theo hướng chú trọng vào khâu tổ chức và cung cấp thông tin thị trường, giảm bớt các chương trình khảo sát thị trường mang tính nhỏ lẻ. Tập trung xúc tiến thương mại tại các thị trường trọng điểm (Nhật Bản, Hàn Quốc, Hoa Kỳ, EU, …) có kim ngạch nhập khẩu lớn, khuyến khích các doanh nghiệp gia tăng sản xuất và sử dụng nhiều nguyên liệu trong nước. Bộ cũng đang tiếp tục hoàn thiện hệ thống thương vụ, nâng cao chất lượng hoạt động của tham tán, bổ sung tham tán thương mại, lập cơ quan thương vụ đầu mối tại các khu vực thị trường trọng điểm để làm tốt công tác tiền đồn hỗ trợ xuất khẩu. Đồng thời, tập trung nguồn vốn để tiến hành hoạt động xúc tiến có hiệu quả và triệt để. Hỗ trợ đào tạo phát triển nguồn nhân lực cho ngành dệt may Xây dựng kế hoạch cụ thể và tổ chức thực hiện các chương trình đào tạo nghề, giải quyết vấn đề thiếu hụt và nâng cao chất lượng nguồn lao động trong một số ngành sản xuất hàng xuất khẩu đang gặp khó khăn về nguồn lao động, đặc biệt là ngành dệt may. GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI HIỆP HỘI NGÀNH HÀNG Tổ chức hoạt động xúc tiến Hiệp hội ngành hàng dệt may (VITAS) đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện xúc tiến thương mại, xây dựng hình ảnh dệt may Việt Nam theo phương châm “chất lượng, nhãn hiệu, uy tín, dịch vụ trách nhiệm xã hội”, xây dựng hình ảnh tốt đẹp về các doanh nghiệp dệt may Việt Nam tại các thị trường xuất khẩu trọng điểm, xúc tiến xây dựng một số thương hiệu nổi tiếng mang tính quốc gia; tổ chức các hội chợ, triễn lãm quốc tế, xác định các cấp tiêu chuẩn sản phẩm trên cơ sở tiêu chuẩn của các thị trường chính để từ đó xác định cơ cấu mặt hàng và định hướng cho doanh nghiệp. Tổ chức hoạt động thông tin, xây dựng cơ sở dữ liệu Hiệp hội đóng vai trò quan trọng trong việc tổ chức tốt hoạt động thông tin 2 chiều giữa trong nước và nước ngoài về thị trường xuất khẩu, về các tiêu chuẩn, yêu cầu, các hàng rào kỹ thuật mới, về đầu tư, về sản xuất, về hoạt động của các doanh nghiệp trên các website và các bản tin hàng tháng. Đồng thời, Hiệp hội có thể kiến nghị thành lập các trung tâm giao dịch nguyên phụ liệu, trung tâm thương mại nhằm giới thiệu sản phẩm, trực tiếp với người tiêu dung và qua đó tìm các biện pháp để thâm nhập thị trường. Tăng cường hoạt động của Hiệp hội tại các thị trường xuất khẩu trọng điểm Hiệp hội cần tổ chức các hoạt động xâm nhập mạng lưới bán lẻ tại thị trường nước ngoài, từ đó có hướng đề xuất các chế độ, cơ chế, chính sách tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp trong ngành dệt may. Có làm được như vậy, các doanh nghiệp Việt Nam mới có những điều kiện để cạnh tranh với các đối thủ chính như Trung Quốc, Ấn Độ,…tại các thị trường xuất khẩu của mình. Hiệp hội phối hợp với các Bộ, ban ngành thành lập Trung tâm đào tạo chuyên ngành dệt may nhằm đào tạo các chuyên viên cao cấp về Thiết kế thời trang, cán bộ mặt hàng, tiếp thị hàng hóa, tổ trưởng – chuyền trưởng, quản lý chất lượng, quản lý kho hàng, quản lý xuất nhập khẩu. Tăng cường sự đoàn kết giữa các doanh nghiệp dệt may Hiệp hội cần tăng cường tinh thần hợp tác giữa các doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp với hiệp hội ngành hàng. Phát huy vai trò của hiệp hội trong việc thống nhất chủ trương, biện pháp ứng phó. Hiệp hội ngành hàng thường xuyên theo dõi tình hình của ngành, cần đánh giá năng lực và lợi thế cạnh tranh của sản xuất trong nước với cùng ngành hàng tại thị trường nước nhập khẩu. GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP Mở rộng quy mô và tăng trưởng sản xuất Hạn chế của các doanh nghiệp dệt may hiện nay là xuất khẩu còn nhỏ lẻ, xuất khẩu tăng trưởng nhanh nhưng chưa thực sự bền vững, dễ bị tổn thương do yếu tố bên ngoài như giá thế giới hoặc rào cản thương mại. Vì vậy, quy mô và năng lực sản xuất càng lớn càng có ý nghĩa quan trọng trong việc hoàn thành các đơn đặt hàng lớn trong thời gian ngắn nhất. Trong tương lai, các doanh nghiệp dệt may cần mở rộng quy mô sản xuất, mở rộng các xưởng, nhà máy, trang thiết bị, đổi mới công nghệ và duy trì tăng trưởng ở mức cao bằng cách hoàn thành tốt các đơn đặt hàng đã có, tạo quan hệ và lòng tin nơi khách hàng cho những đơn đặt hàng với khối lượng lớn hơn nữa trong những giai đoạn tiếp theo, góp phần giải quyết khối lượng công ăn việc làm trong nền kinh tế. Gia tăng vốn Yếu tố vốn có ý nghĩa chiến lược trong mọi hoạt động của doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp dệt may nói riêng. Mọi dự án, kế hoạch, mọi chiến lược dù hoàn hảo thế nào cũng không thể thực hiện được nếu thiếu vốn. Nhờ khả năng tài chính hùng mạnh, doanh nghiệp có thể hoạt động ở nhiều lĩnh vực, thành lập công ty con, cổ đông của công ty khác, đầu tư vào khoản đầu tư tài chính dài hạn. Vì vậy, các doanh nghiệp dệt may cần thực hiện triệt để hoạt động cổ phần hóa, phát hành thêm nhiều cổ phiếu thu hút thêm vốn đầu tư. Giảm chi phí sản xuất, áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ Năng lực sản xuất còn hạn chế, công nghệ trung bình là một trong những hạn chế lớn của ngành may mặc Việt Nam hiện nay. Hoạt động của ngành may mặc phần lớn là thực hiện hoạt động gia công cho nước ngoài hoặc chỉ sản xuất những sản phẩm đơn giản, còn những sản phẩm đòi hỏi kỹ thuật cao mang lại giá trị gia tăng lớn lại chưa đáp ứng được. Hiện nay, trình độ phát triển dệt may trên thế giới đang ở mức cao. Nhiều loại chất liệu với các đặc tính mới lạ và các phương thức sản xuất liên tục ra đời đáp ứng nhu cầu của thị trường ví dụ như hàng loạt nghiên cứu phát triển sợi tổng hợp chống bức xạ, thấm mồ hôi hay các thiết bị mới có vi mạch điện tử xử lý cao phù hợp cho việc áp dụng thay đổi nhanh mẫu mã sản phẩm phù hợp thị yếu tăng cao của giới trẻ…Vì vậy, đầu tư công nghệ, dây chuyền thiết bị sẽ giúp doanh nghiệp gia tăng khối lượng sản xuất, đáp ứng các đơn đặt hàng lớn đồng thời gia tăng giá trị cho các sản phẩm xuất khẩu. Không những thế, đầu tư vào máy móc, kỹ thuật công nghệ sẽ giúp phần nào giải quyết tình trạng thiếu lao động hiện nay của ngành dêt may Việt Nam bằng cách gia tăng năng suất lao động. Tập trung khai thác theo chiều sâu, chiều rộng đối với các thị trường xuất khẩu và không ngừng mở rộng thị trường Phát triển thị trường truyền thống, thị trường xuất khẩu trọng điểm kết hợp với việc phát triển các thị trường có chung biên giới thông qua việc xem xét điều chỉnh những quy định không phù hợp hạn chế xuất khẩu thời gian qua, tìm kiếm và đa dạng hóa, đa phương hóa thị trường xuất khẩu. Cụ thể, các doanh nghiệp vẫn tiếp tục hướng đa dạng hóa thị trường, trong đó phát huy tối đa sức mua lớn từ những thị trường trọng điểm truyền thống như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, khối ASEAN, kết hợp những thị trường có tầm quan trọng chiến lược lâu dài là Đông Âu, Trung Đông, Mỹ La tinh, châu Phi. Đồng thời, đối với thị trường rộng lớn của nhiều nước như EU, doanh nghiệp có thể đa dạng hóa thị trường xuất khẩu ngay chính trong thị trường EU và mở rộng thị trường xuất khẩu, chuyển hướng xuất khẩu sang các thị trường phi truyền thống, các thị trường mới nổi lên là giải pháp cần thiết trong bối cảnh đồng euro đang giảm giá. Doanh nghiệp cần không ngừng tìm kiếm và mở rộng thị trường, đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu sang các thị trường mới phù hợp với chất lượng, giá cả đồng thời ít bị hạn chế bởi nhiều hàng rào kỹ thuật về các tiêu chuẩn, yêu cầu. Bên cạnh đó, doanh nghiệp phải tăng cường tìm kiếm bạn hàng và ký kết hợp đồng xuất khẩu trực tiếp trên cơ sở tăng cường năng lực thiết kế mẫu mã sản phẩm và gia tăng tỷ lệ nguyên phụ liệu trong nước tự đáp ứng được, đẩy mạnh khai thác những thị trường ngách, thị trường nhỏ nhưng chấp nhận mức giá cao và ưa thích các sản phẩm đặc thù. Nâng cao giá trị xuất khẩu cho mặt hàng dệt may xuất khẩu Ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam những năm qua đã ghi nhận sự phát triển nhanh chóng và trở thành mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất, đạt trên 9 tỷ đô năm 2009, mang về doanh thu ngoại tệ lớn cho nền kinh tế. Tuy nhiên, trong cơ cấu thu nhập của các doanh nghiệp dệt may hiện nay thì 70% giá trị là từ hoạt động gia công xuất khẩu theo những đơn đặt hàng với mẫu mã đã có sẵn. Vì vậy, tuy đang là mặt hàng đứng đầu nhưng giá trị xuất khẩu còn hạn chế, doanh nghiệp chưa chủ động trong việc sản xuất vì phải chờ đợi các đơn đặt hàng với những yêu cầu cụ thể và rõ rang về mẫu mã, chất liệu và hệ quả tất yếu sản phẩm mang thương hiệu riêng của dệt may Việt Nam vẫn chưa được biết đến thị trường thế giới. Bài toán tăng số ngoại tệ thu về hiệu quả nhất của xuất khẩu hiện nay và trong tương lai không phải là tăng số lượng, mà là tăng tỷ trọng nội địa hóa và hàm lượng công nghệ trên sản phẩm. Trong tình hình đó, các doanh nghiệp dêt may cần tăng cường hàm lượng giá trị tạo mới của sản phẩm xuất khẩu bằng cách tập trung đầu tư vào khâu thiết kế kiểu dáng, tạo mẫu sản phẩm, tạo dáng sản phẩm bằng cách tổ chức nghiên cứu, đào tạo đội ngũ nhân viên thiết kế để đa dạng hóa và không ngừng nâng cao chất lượng mẫu mã sản phẩm hàng may mặc cho phù hợp với thị hiếu khách hàng trong và ngoài nước. Thật vậy, nếu muốn khẳng định thương hiệu sản phẩm dệt may Việt Nam trên thị trường quốc tế, doanh nghiệp cần không ngừng đầu tư cho việc nghiên cứu mẫu, mã, mốt thời trang quốc tế, nắm bắt kịp thời xu thế lớn trong ngành thời trang. Nhà sản xuất phải thể hiện được phong cách riêng với khách hàng, đa dạng hoá sản phẩm, phương thức kinh doanh. Điều quan trọng là trong tương lai phải xây dựng được thương hiệu riêng, định vị trong tâm trí khách hàng về những sản phẩm với phong cách riêng và chất lượng tốt “made in Vietnam”. Đồng thời, các doanh nghiệp cần tận dụng tối đa các lợi thế vẫn được coi là thế mạnh của Việt Nam như điều kiện tự nhiên, chi phí lao động rẻ, hạn chế thấp nhất các rủi ro… để giảm chi phí sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh. Doanh nghiệp dệt may cần nghiên cứu lựa chọn phương thức thích hợp thâm nhập vào kênh phân phối trên thị trường Mỗi một thị trường đều có một hệ thống phân phối hoạt động và vận hành theo cơ chế riêng, doanh nghiệp muốn xúc tiến hoạt động bán hàng ở nước ngoài cần nghiên cứu rõ hệ thống kênh phân phối ở các thị trường xuất khẩu trọng điểm hoặc tiềm năng để từ đó lựa chọn phương thức thâm nhập: mở cửa hàng độc quyền, thuê đại lý, phân phối cho các trung tâm phân phối sỉ,…sao cho phù hợp. Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực tiếp thị, xúc tiến, đàm phán các hợp đồng xuất khẩu Xúc tiến thương mại là khâu then chốt trong việc phát triển mặt hàng, phát triển thị trường nhằm tăng trưởng xuất khẩu. Trong xu thế hội nhập, thị trường trở thành vấn đề sống còn đối với doanh nghiệp và yếu tố con người để thực hiện công việc đó có vai trò hết sức quan trọng. Doanh nghiệp cần chú trọng công tác đào tạo đội ngũ nhân viên tiếp thị, cho tham gia nhiều cuộc khảo sát thực tế nhằm đưa ra những chương trình quảng bá thực sự hiệu quả tạo hình ảnh tốt về doanh nghiệp trong tâm trí của các đối tác cũng như các chương trình xúc tiến tìm kiếm bạn hàng. Đồng thời, các chương trình đào tạo chuyên sâu về kỹ năng, nghiệp vụ cho các nhân viên đàm phán hợp đồng cần được thực hiện một cách triệt để nhằm giúp doanh nghiệp ký kết những hợp đồng với giá trị lớn theo những điều khoản có lợi hơn. Liên kết, liên doanh với các đối tác nước ngoài Các doanh nghiệp dệt may nên tiến hành liên doanh, liên kết với các đối tác nước ngoài từ đó hình thành nên các doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài, tạo cho các doanh nghiệp này có thế mạnh về vốn đầu tư, công nghệ cho phép các doanh nghiệp có thể đa dạng hóa sản phẩm xuất khẩu có chất lượng cao, đáp ứng được những đòi hỏi của thị trường cũng như góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp. Cập nhật thông tin một cách đầy đủ và chính xác Trong hoạt động kinh doanh hiện nay nhất là kinh doanh quốc tế, yếu tố thông tin đóng vai trò hết sức quan trọng. Doanh nghiệp cần tiếp cận, cập nhật thông tin một cách đầy đủ và chính xác về các thị trường, về các tiêu chuẩn và yêu cầu mới để xác định những cơ hội và thách thức của từng thị trường cũng như tìm kiếm và phát triển các thị trường mới; các thông tin về các đối thủ cạnh tranh, đánh giá đúng cơ hội và khả năng sản xuất của bản thân để mạnh dạn chớp lấy thời cơ, ký kết nhiều hợp đồng với giá trị cao. Không những thế, ngành dệt may Việt Nam đang phải đối mặt với rất nhiều hàng rào kỹ thuật mới trong việc bảo vệ môi trường, đặc biệt là từ thị trường Mỹ có hiệu lực từ ngày 1/1/2010. Theo đạo luật này, các lô hàng xuất khẩu vào Mỹ phải có giấy kiểm nghiệm của bên thứ 3 xác nhận sản phẩm sử dụng nguyên liệu đảm bảo cho sức khỏe người tiêu dung. Nhà sản xuất sẽ phải chịu trách nhiệm về bất kỳ thiệt hại nào gây ra cho người tiêu dung. Vì vậy, các doanh nghiệp luôn phải cập nhật các hàng rào kỹ thuật từ thị trường từ đó có phương hướng sản xuất sao cho đáp ứng các yêu cầu, tiêu chuẩn mới tránh những thiệt hại đáng tiếc. Tích cực tham gia vào hoạt động của hiệp hội, ngành hàng Doanh nghiệp cần liên kết hỗ trợ, bảo vệ nhau tránh hiện tượng các thành viên riêng lẻ cạnh tranh giá thấp không lành mạnh, thực hiện các hoạt động tập trung nghiên cứu thị trường một cách quy mô, triệt để, có hiệu quả, hạn chế những hoạt động nhỏ lẻ, và tương lai cố gắng đầu tư ra ngoài hoặc xây dựng chiến lược tham gia vào chuỗi giá trị sản phẩm toàn cầu. Thực tế một hạn chế rất lớn của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay chính là thiếu đoàn kết.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxCHƯƠNG 1.docx
  • rarBÀI 1.rar
  • docbai tap 1.doc
  • rarde tai 1.rar
  • docĐề tài 1.doc
  • docxtonghopnop.docx
Luận văn liên quan