Lĩnh vực tài chính-ngân hàng là một trong các lĩnh vực chịu ảnh hưởng lớn nhất của
cạnh tranh khi Việt Nam tiến hành hội nhập. Cũng như các Ngân hàng trong nước khác,
DAB gặp khó khăn trong cạnh tranh với các tập đoàn lớn không chỉ bởi trình độ công
nghệ, trình độ quản lý mà ngoài ra, nguồn vốn có hạn cũng là một điểm hạn chế của Ngân
hàng. Do đó, việc bố trí tổ chức lao động khoa học thực sự đã góp phần lớn để giúp DAB
có thể đứng vững trên thị trường và tiếp tục khẳng định thương hiệu trong lĩnh vực Ngân
hàng thương mại.
Đề tài chúng tôi thảo luận dựa trên các khái niệm cơ bản về Tổ chức lao động khoa học
mà các nhà quản lý đã đưa ra. Việc áp dụng trong công tác quản lý của Ngân hàng TMCP
Đại Á cũng như bất kỳ Ngân hàng hay tổ chức nào khác sẽ gặp một vài hạn chế nhất định
nên cần có thêm những thảo luận tiếp theo.
Đóng góp của đề tài là đã đưa ra được một số các khái niệm, nội dung cơ bản của công
tác Tổ chức lao động khoa học; nêu được thực trạng của Ngân hàng TMCP Đại Á từ khi
thành lập đến nay, cũng như công tác Tổ chức lao động trong Ngân hàng.
37 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3363 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tổ chức lao động khoa học và ứng dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần Đại Á, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
học và ứng dụng tại DAB
Trang 8
ngừng tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng lao động, giảm giá thành sản phẩm.
- Tâm sinh lý: Tạo điều kiện lao động bình thường, nâng cao sức hấp dẫn và nội dung
phong phú của lao động với mục đích đem lại khả năng lao động cao của con người và
giữ gìn sức khoẻ của họ.
- Xã hội: Tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện, biến lao động thành nhu cầu
sống đầu tiên trên cơ sở dung hoà giáo dục chính trị với giáo dục lao động.
Nhiệm vụ tổng quan của công tác tổ chức lao động khoa học là phân bổ, sử dụng và bồi
dưỡng tốt sức lao động làm tăng năng suất lao động, tiết kiệm sức lao động.
Với nhiệm vụ đó việc tổ chức lao động phải bố trí lao động cho các ngành, các bộ phận
sản xuất trong nội bộ cơ sở, doanh nghiệp đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng để hoàn
thành kế hoạch sản xuất công tác.
Nền sản xuất xã hội ngày càng mở rộng, nhiệm vụ sản xuất ngày càng tăng, quy mô cơ
sở hợp lý với kỹ thuật ngày càng tinh xảo đòi hỏi việc cung cấp lực lượng lao động phải
đáp ứng với nhiệm vụ sản xuất và yêu cầu của tiến bộ khoa học công nghệ, phục vụ kịp
thời cho sản xuất phát triển.
Như vậy, từ ba nhóm nhiệm vụ trên có thể đưa ra một số nhiệm vụ cụ thể như sau để sử
dụng sức lao động ở các đơn vị, doanh nghiệp có hiệu quả cao:
- Xác định nội dung vấn đề tổ chức lao động khoa học, ý nghĩa và mối quan hệ của nó
với các môn khoa học khác.
- Tổ chức giải quyết đảm bảo đầy đủ việc làm cho người lao động để người lao động
luôn gắn bó với doanh nghiệp.
- Nghiên cứu thực hiện các biện pháp tổ chức nơi làm việc bảo đảm an toàn lao động,
tạo điều kiện thuận lợi nhất về vệ sinh tâm lý và thẩm mỹ cho người lao động.
- Chọn hình thức tổ chức các tổ, nhóm, đội, dây chuyền hợp lý về số lượng và chất lượng
bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ tránh lao động sản xuất, cơ sở phân bổ khối lượng công
việc cho những người lao động cụ thể, chính xác.
- Áp dụng các thao tác lao động có năng suất cao bằng cách nghiên cứu, chọn lọc, cải
Tổ chức lao động khoa học và ứng dụng tại DAB
Trang 9
tiến, áp dụng các kinh nghiệm sản xuất của những người đi trước, loại trừ các động tác,
thao tác thừa, nặng nhọc không cần thiết.
- Xây dựng chế độ làm việc và nghỉ ngơi hợp lý.
- Áp dụng các biện pháp thích hợp nhằm nâng cao hiệu suất lao động và giảm mệt nhọc
cho người lao động.
- Quan tâm đúng mức tới công tác bồi dưỡng nâng cao trình độ, chính trị, văn hoá, kỹ
thuật cho người lao động đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự phát triển sản xuất. Công
tác bồi dưỡng cán bộ, nâng cao trình độ về mọi mặt cho người lao động trước hết là trình
độ nghề nghiệp phải phát triển phù hợp với nhịp độ phát triển chung của sản xuất đáp ứng
yêu cầu trước mắt và lâu dài, chú trọng nâng cao tay nghề cho người lao động bằng hình
thức kết hợp kèm cặp ngay tại doanh nghiệp, tại cơ sở sản xuất. Tổ chức tiến hành đào tạo
lại trình độ lao động cho từng lao động.
- Thường xuyên tổ chức các phong trào thi đua để củng cố và tăng cường kỹ thuật lao
động, học hỏi trao đổi lẫn nhau, để thúc đẩy sản xuất phát triển đạt hiệu quả kinh tế cao.
2. Nội dung công tác tổ chức lao động khoa học
2.1. Xây dựng các hình thức phân công và hiệp tác lao động hợp lý
Phân công và hiệp tác lao động là nội dung cơ bản nhất của tổ chức lao động. Do phân
công lao động mà tất cả các cơ cấu về lao động trong doanh nghiệp được hình thành, tạo
nên một bộ máy với tất cả các bộ phận, chức năng cần thiết, với những tỉ lệ tương ứng
theo yêu cầu của sản xuất. Hiệp tác lao động là sự vận hành của cơ cấu ấy trong không
gian và thời gian. Hai nội dung này liên hệ với nhau một cách mật thiết và tác động qua
lại lẫn nhau, củng cố và thúc đẩy nhau một cách biện chứng. Phân công lao động càng sâu
thì hiệp tác lao động càng rộng.
2.1.1. Phân công lao động
Phân công lao động trong doanh nghiệp là sự chia nhỏ toàn bộ các công việc của doanh
Tổ chức lao động khoa học và ứng dụng tại DAB
Trang 10
nghiệp để giao cho từng người hoặc nhóm người lao động thực hiện. Đó chính là quá
trình gắn từng người lao động với những nhiệm vụ phù hợp với khả năng của họ. Theo
C.Mác thì phân công lao động: “là sự tách rẽ các hoạt động lao động hoặc là lao động
song song, tức là tồn tại các dạng lao động khác nhau”.
Trong nội bộ doanh nghiệp, phân công lao động bao gồm các nội dung sau:
- Xác định những yêu cầu kỹ thuật của công việc và con người phải đáp ứng.
- Xây dựng danh mục những nghề nghiệp của xí nghiệp, thực hiện việc tuyên truyền,
hướng nghiệp và tuyển chọn cán bộ, công nhân một cách khách quan theo những yêu cầu
của sản xuất.
- Thực hiện sự bố trí cán bộ, công nhân theo đúng những yêu cầu của công việc, áp
dụng những phương pháp huấn luyện có hiệu quả. Sử dụng hợp lý những người đã được
đào tạo, bồi dưỡng tiếp những người có khả năng phát triển, chuyển và đào tạo lại những
người không phù hợp với công việc.
Phân công lao động hợp lý chính là điều kiện để nâng cao năng suất lao động và hiệu
quả của sản xuất. Do phân công lao động mà có thể chuyên môn hoá được công nhân,
chuyên môn hoá được công cụ lao động, cho phép tạo ra được những công cụ chuyên
dụng có năng suất lao động cao, người công nhân có thể làm một loạt bước công việc,
không mất thời gian vào việc điều chỉnh lại thiết bị, thay dụng cụ để làm các thiết bị khác
nhau.
Phân công lao động trong doanh nghiệp phải đảm bảo các yêu cầu sau:
- Đảm bảo phù hợp giữa nội dung và hình thức của phân công lao động với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất.
- Để đảm bảo sự phù hợp giữa những khả năng sản xuất và phẩm chất của con người,
phải lấy yêu cầu công việc làm tiêu chuẩn để lựa chọn người lao động.
- Đảm bảo sự phù hợp giữa công việc phân công với đặc điểm và khả năng của lao
động, phát huy được tính sáng tạo của họ.
Tổ chức lao động khoa học và ứng dụng tại DAB
Trang 11
Các hình thức phân công lao động trong doanh nghiệp bao gồm:
- Phân công lao động theo chức năng: Là hình thức phân công lao động trong đó tách
riêng các công việc khác nhau thành những chức năng lao động nhất định.
- Phân công lao động theo công nghệ: Là hình thức phân công lao động trong trong đó
tách riêng các loại công việc khác nhau theo tính chất, quy trình công nghệ thực hiện
chúng.
- Phân công lao động theo mức độ phức tạp của công việc: Là hình thức phân công lao
động trong trong đó tách riêng các công việc khác nhau tuỳ theo tính chất phức tạp của
nó.
Phân công lao động hợp lý còn thể hiện qua việc thiết kế công việc, bao gồm hai nội
dung:
- Bố trí người đúng việc:
+ Giới thiệu công việc bắt đầu một cách thực tế, giới thiệu cả những điểm tốt và không
tốt của công việc.
+ Luân phiên thay đổi công việc.
+ Vứt bỏ đi một số giới hạn.
- Bố trí việc đúng người:
+ Đa dạng hóa công việc: gắn hai hay nhiều công việc chuyên môn hóa vào một việc.
+ Thú vị hóa công việc: tạo thêm công việc đòi hỏi sử dụng nhiều kỹ năng , thiết kế
công việc giúp người lao động được thực hiện thống nhất công việc từ đầu đến cuối , giải
thích cho người lao động ý nghĩa của nhiệm vụ, giúp họ sự tự chủ tự do nhiều hơn trong
việc lên kế hoạch, xác định các quy trình, lựa chọn phương pháp trong thực hiện công
việc.
+ Phản hồi kết quả công việc một cách nhanh chóng.
2.1.2. Hiệp tác lao động
Tổ chức lao động khoa học và ứng dụng tại DAB
Trang 12
C. Mác đã định nghĩa hiệp tác lao động như sau: “hình thức làm việc mà trong đó nhiều
người làm việc bên cạnh nhau một cách có kế hoạch và trong sự tác động qua lại lẫn nhau
trong một quá trình sản xuất nào đó, hoặc là trong những quá trình sản xuất khác nhau
nhưng lại liên hệ với nhau gọi là hiệp tác lao động”.
Cũng có thể hiểu hiệp tác lao động là sự chuyển từ lao động cá nhân sang dạng lao
động kết hợp của nhiều người trong cùng một quá trình hoặc trong những quá trình lao
động khác nhau.
Hiệu quả mà hiệp tác lao động mang lại là những thay đổi có tính chất cách mạng điều
kiện vật chất của quá trình lao động, nó mang lại những kết quả lao động cao hơn hẳn so
với lao động riêng lẻ, đặc biệt là với những lao động phức tạp. Nó cũng làm tăng khả
năng làm việc cá nhân của từng người lao động do sự xuất hiện tự phát tinh thần thi đua
giữa những người cùng tham gia quá trình sản xuất .
Trong các doanh nghiệp thường sử dụng các hình thức hiệp tác lao động sau:
- Hiệp tác về mặt không gian : Gồm các hình thức hiệp tác giữa các phân xưởng
chuyên môn hoá, hiệp tác giữa các ngành, các bộ phận chuyên môn trong cùng một doanh
nghiệp, giữa các lao động trong một tổ sản xuất.
- Hiệp tác về mặt thời gian: Là việc tổ chức các ca làm việc trong ngày và đêm. Do yêu
cầu của sản xuất và tận dụng năng lực của thiết bị máy móc nên phải bố trí các ca làm
việc một cách hợp lý, đảm bảo sức khoẻ cho người lao động.
Hiệp tác lao động chặt chẽ tạo điều kiện nâng cao năng suất lao động. kích thích tinh
thần thi đua trong sản xuất, tiết kiệm được lao động sống và lao động vật hoá.
Ngoài ra, để động viên người lao động, nhà quản trị có thể thu hút họ tham gia các
công việc quản trị như việc xác định mục tiêu, ra quyết định, tham gia giải quyết vấn đề,
thiết kế và thực hiện đổi mới tổ chức, …
2.2. Hoàn thiện tổ chức phục vụ nơi làm việc
Tổ chức lao động khoa học và ứng dụng tại DAB
Trang 13
Nơi làm việc là một phần diện tích và không gian sản xuất được trang bị thiết bị các
phương tiện vật chất kỹ thuật cần thiết để hoàn thành nhiệm vụ sản xuất đã xác định.
Trong điều kiện sản xuất hiện đại, giữa các nơi làm việc trong doanh nghiệp có mối
quan hệ với nhau rất chặt chẽ. Nhịp độ sản xuất của từng bộ phận của phân xưởng hoặc
toàn doanh nghiệp là do nhịp độ sản xuất của từng nơi làm việc quyết định. Vì vậy, muốn
nâng cao năng suất lao động, muốn tiến hành sản xuất với hiệu quả cao và đào tạo lớp
người lao động mới thì phải tổ chức và phục vụ nơi làm việc. Trình độ tổ chức và phục vụ
nơi làm việc cũng có ảnh hưởng rất lớn đến sức khoẻ và hứng thú của người lao động.
Nhiệm vụ của tổ chức và phục vụ nơi làm việc là:
- Tạo ra những điều kiện vật chất kỹ thuật cần thiết để tiến hành các nhiệm vụ sản xuất
với năng suất cao .
- Bảo đảm cho quá trình sản xuất được thực hiện liên tục và nhịp nhàng .
- Bảo đảm những điều kiện thuận lợi nhất để tiến hành quá trình lao động và tạo sự
hứng thú tích cực cho người lao động .
- Bảo đảm khả năng thực hiện các động tác lao động trong tư thế thoải mái, cho phép
áp dụng các phương pháp và thao tác lao động tiên tiến .
2.2.1. Tổ chức nơi làm việc
Tổ chức nơi làm việc là một hệ thống các biện pháp nhằm thiết kế nơi làm việc, trang
bị cho nơi làm việc những công cụ thiết bị cần thiết và sắp xếp bố trí chúng theo một trật
tự nhất định.
Tổ chức nơi làm việc gồm có ba nội dung chủ yếu:
- Thiết kế nơi làm việc: Là việc xây dựng các thiết kế mẫu cho các nơi làm việc nhằm
nâng cao hiệu quả lao động của công nhân.
- Trang bị nơi làm việc: Là đảm bảo đầy đủ các loại máy móc, thiết bị, dụng cụ… cần
thiết cho nơi làm việc theo yêu cầu của nhiệm vụ sản xuất và chức năng lao động . Nơi
làm việc thường được trang bị các thiết bị chính (thiết bị công nghệ) và thiết bị phụ.
Tổ chức lao động khoa học và ứng dụng tại DAB
Trang 14
- Bố trí nơi làm việc: Là việc sắp xếp một cách hợp lý trong không gian tất cả các
phương tiện vật chất của sản xuất tại nơi làm việc.
- Chỉ tiêu đánh giá trình độ tổ chức nơi làm việc .
2.2.2. Tổ chức phục vụ nơi làm việc
Tổ chức phục vụ nơi làm việc là cung cấp cho nơi làm việc các loại phương tiện vật
chất kỹ thuật cần thiết và tạo các điều kiện thuận lợi để tiến hành quá trình lao động. Nói
khác đi, tổ chức phục vụ nơi làm việc là tổ chức đáp ứng đầy đủ các nhu cầu cho các nơi
làm việc để quá trình lao động diễn ra một cách liên tục và có hiệu quả.
Nếu việc tổ chức phục vụ nơi làm việc mà không tốt thì sẽ dẫn đến lãng phí thời gian
lao động rất lớn. Vì vậy, tổ chức phục vụ nơi làm việc là điều kiện không thể thiếu được
của bất kỳ quá trình sản xuất nào.
Để phục vụ nơi làm việc một cách đồng bộ và có hiệu quả thì việc tổ chức phục vụ nơi
làm việc trong doanh nghiệp cần phải tuân theo các nguyên tắc sau đây:
- Phục vụ theo chức năng nghĩa là việc xây dựng hệ thống phục vụ nơi làm việc phải
theo các chức năng phục vụ riêng biệt, phải căn cứ vào nhu cầu của sản xuất về số lượng,
chất lượng và tính quy luật của từng chức năng để tổ chức phục vụ được đầy đủ và chu
đáo.
- Phục vụ theo kế hoạch nghĩa là phải căn cứ vào kế hoạch sản xuất để xây dựng kế
hoạch phục vụ sao cho việc phục vụ phù hợp với tình hình sản xuất, sử dụng một cách có
hiệu quả lao động và thiết bị, giảm bớt thời gian lãng phí do chờ đợi phục vụ.
- Phục vụ phải mang tính dự phòng, nghĩa là hệ thống phục vụ phải chủ động đề phòng
những hỏng hóc thiết bị để đảm bảo sản xuất được liên tục trong mọi tình huống.
- Phục vụ phải mang tính đồng bộ, nghĩa là cần phải cần có sự phối hợp giữa các chức
năng phục vụ khác nhau trên quy mô toàn doanh nghiệp để đáp ứng mọi nhu cầu phục vụ,
không để thiếu một nhu cầu nào.
- Phục vụ phải mang tính linh hoạt, nghĩa là hệ thống phục vụ phải nhanh chóng loại
Tổ chức lao động khoa học và ứng dụng tại DAB
Trang 15
trừ các hỏng hóc, thiếu sót không để sản xuất chính bị ngừng trệ.
- Đảm bảo chất lượng và độ tin cậy cao.
- Phục vụ phải mang tính kinh tế, nghĩa là phục vụ tốt cho sản xuất với chi phí về lao
động và tiền vốn ít nhất.
Trong một doanh nghiệp thường áp dụng một trong các hình thức phục vụ là: phục vụ
tập trung, phục vụ phân tán hoặc phục vụ hỗn hợp.
2.3. Nghiên cứu và phổ biến các phương pháp, thao tác lao động hợp lý nhằm đạt năng
suất lao động cao bảo đảm an toàn lao động cho người lao động
Nhằm tiết kiệm hao phí lao động , với trình tự thực hiện các thao tác sản xuất hợp lý
nhất.
Trước hết cần phân tích các thao tác và phương pháp làm việc của bộ phận , đơn vị .
Phát hiện những người thực hiện tốt nhất các phương pháp hay thao tác lao động cụ thể ,
rồi phổ biến kinh nghiệm cho các công nhân cùng nghề . Hoặc có thể so sánh các phương
pháp và thao tác lao động của một số công nhân , phát hiện phát hiện những phương pháp
và thao tác hợp lý nhất , làm cho chúng trở thành của riêng đối với các công nhân khác .
Lựa chọn hình thức nào là tuỳ thuộc vào mức độ lặp lại , mức phổ thông và mức phức
tạp của từng công việc sản xuất nhất định . Vấn đề quan trọng là sau khi phát hiện phương
pháp và thao tác làm việc hợp lý , các nhà quản lý cần lập phương án áp dụng các thao tác
và phương pháp đó váo sản xuất của bộ phận, đơn vị.
2.4. Cải thiện điều kiện lao động giảm nhẹ sự nặng nhọc của công việc, giữ gìn tăng
cường sức khoẻ cho người lao động, tạo ra những điều kiện lao động thuận lợi
Chế độ làm việc và nghỉ ngơi là trật tự luân phiên và độ dài thời gian của các giai đoạn
làm việc và nghỉ giải lao được thành nhịp đối với mỗi dạng lao động. Chế độ làm việc và
nghỉ ngơi trong doanh nghiệp bao gồm: chế độ làm việc và nghỉ ngơi trong ca. Chế độ
Tổ chức lao động khoa học và ứng dụng tại DAB
Trang 16
làm việc và nghỉ ngơi trong tuần trong tháng, chế độ làm việc và nghỉ ngơi trong năm.
Trong nền sản xuất hiện đại có đặc trưng là trình độ phân công và hiệp tác lao động
phát triển ở mức cao, quy trình công nghệ chế tạo sản phẩm phức tạp, vì thế càng đòi hỏi
phải xây dựng chế độ làm việc và nghỉ ngơi hợp lý. Vì chế độ làm việc và nghỉ ngơi có
ảnh hưởng đến tính đồng bộ của dây chuyền sản xuất, ảnh hưởng đến tính liên tục của cả
quá trình sản xuất. Mặt khác chế độ làm việc và nghỉ ngơi hợp lý là một phương tiện để
khắc phục sự mệt mỏi, là một biện pháp để tăng năng suất lao động và bảo vệ sức khoẻ
người lao động.
Theo Mác, mục đích của nền sản xuất xã hội chủ nghĩa là làm thoả mãn ngày càng đầy
đủ hơn những nhu cầu vật chất và tinh thần ngày càng tăng của bản thân người lao động.
Muốn đạt được mục đích đó thì phải không ngừng nâng cao năng suất lao động và hiệu
quả sản xuất kinh doanh. Một trong những nhân tố quan trọng để tăng năng suất lao động,
nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả của sản xuất là thường
xuyên áp dụng và hoàn thiện các biện pháp khuyến khích vật chất và tinh thần đối với
người lao động, tức là thoả mãn các nhu cầu của họ.
Nhu cầu cuộc sống của người lao động rất phong phú và đa dạng. Nó có tính lịch sử và
tính giai cấp rõ rệt. Nhu cầu và sự thoả mãn nhu cầu đều gắn liền với sự phát triển của nền
sản xuất xã hội và sự phân phối các giá trị vật chất và tinh thần trong điều kiện xã hội đó.
Trong các nhu cầu của người lao động, nhu cầu về vật chất là nhu cầu hàng đầu đảm
bảo đời sống cho họ làm việc tạo ra các của cải vật chất và làm nên lịch sử. Cùng với sự
phát triển của lịch sử, các nhu cầu vật chất của con người ngày càng tăng lên cả về số
lượng và chất lượng. Trình độ phát triển của xã hội ngày càng cao thì nhu cầu càng nhiều,
càng phức tạp hơn, thậm chí những nhu cầu đơn giản nhất cũng không ngừng thay đổi .
Nhu cầu về tinh thần của người lao động cũng rất phong phú và đa dạng.
- Thứ nhất: Họ có nhu cầu lao động, nhu cầu làm việc có ích, có hiệu quả cho bản thân
và xã hội. Bởi vì , lao động là hoạt động quan trọng của con người, là nguồn gốc của mọi
sáng tạo của con người, là nơi phát sinh mọi kinh nghiệm và tri thức khoa học nhằm làm
Tổ chức lao động khoa học và ứng dụng tại DAB
Trang 17
giàu cho xã hội và thoả mãn những nhu cầu ngày càng tăng của con người.
- Thứ hai: Nhu cầu học tập để nâng cao trình độ chuyên môn và nhận thức. Khi trình
độ khoa học kỹ thuật ngày càng cao thì nhu cầu học tập của người lao động càng lớn và
nhờ đó họ nhận thức thế giới xung quanh đúng đắn hơn. Mọi biện pháp nhằm thoả mãn
nhu cầu học tập và nâng cao nhận thức cho người lao động, thực chất là khuyến khích họ
học tập để vươn tới những kiến thức chuyên môn cao hơn, những khả năng sáng tạo mới
hiệu quả hơn.
- Thứ ba: Nhu cầu thẩm mỹ và giao tiếp xã hội. Đây là nhu cầu tinh thần đặc biệt và tất
yếu của con người đòi hỏi người lãnh đạo doanh nghiệp cần phải quan tâm.
- Thứ tư: Nhu cầu công bằng xã hội, trong lao động cũng như trong cuộc sống ngày
nay mọi người đều muốn sự công bằng. Công bằng xã hội là nhu cầu vừa cấp bách vừa
lâu dài, mỗi người và mỗi tập thể cần phấn đấu được thoả mãn, đồng thời đấu tranh chống
lại mọi bất công, tiêu cực để giành lấy sự công bằng cao hơn đầy đủ hơn.
2.5. Hoàn thiện định mức lao động
Định mức lao động chịu tác động của các thành tựu tiến bộ khoa học kỹ thuật.
Mặt khác, trong nền sản xuất xã hội, định mức lao động cũng thực hiện nhiều chức
năng quan trọng khác nhau. Hiệu quả của nó tuỳ thuộc vào mức độ và tính chất tiên tiến,
có căn cứ khoa học của các mức lao động cụ thể.
Định mức lao động tạo khả năng kế hoạch hoá tốt hơn, đảm bảo thực hiện có hiệu quả
nhất việc tính toán xác định số lượng máy móc thiết bị và số lượng lao động cần thiết,
khuyến khích nguồn dự trữ trong sản xuất vv…
Mức thời gian là số lượng thời gian cần thiết được quy định để một công nhân hoặc
một nhóm công nhân có trình độ lành nghề nhất định hoàn thành một đơn vị công việc
trong những điều kiện tổ chức – kỹ thuật nhất định. Mức sản lượng là số lượng sản phẩm
được quy định để công nhân hay một nhóm công nhân có trình độ thành thạo nhất định
Tổ chức lao động khoa học và ứng dụng tại DAB
Trang 18
phải hoàn thành trong một đơn vị thời gian với những điều kiện tổ chức – kỹ thuật nhất
định. Mức thời gian và mức sản lượng có liên quan mật thiết với nhau, tuỳ điều kiện và
đặc điểm của sản xuất mà người ta tính mức thời gian hay là mức sản lượng.
Tổ chức lao động khoa học trong doanh nghiệp có nhiệm vụ hoàn thiện các phương
pháp định mức lao động, mở rộng định mức có căn cứ khoa học. Nghiên cứu thời gian lao
động, kết cấu mức thời gian, phương pháp định mức lao động, phân tích khảo sát xây
dựng mức mới nếu có thời gian.
2.6. Tổ chức trả lương phù hợp với số lượng và chất lượng lao động cũng như sử dụng
có hiệu quả chế độ khuyến khích vật chất cho người lao động
Có thể động viên người lao động thông qua phần thưởng.
Phần thưởng phải thỏa mãn ba điều kiện:
- Phải thỏa mãn nhu cầu cá nhân của người lao động.
- Phải công bằng (công bằng cá nhân và công bằng xã hội).
- Phải gắn với việc thực hiện nhiệm vụ.
2.7. Đào tạo và nâng cao trình độ lành nghề cho người lao động
Ngành nghề tài chính- ngân hàng luôn đòi hỏi phải cập nhật trình độ công nghệ hiện
đại, nhanh chóng và các kỹ năng mềm cho nhân viên. Việc thường xuyên mở các lớp đào
tạo thêm kỹ năng và chuyên môn giúp nhân viên cập nhật với các công nghệ hiện đại theo
kịp sự phát triển trong giới tài chính ngân hàng là rất cần thiết.
2.8. Tổ chức công tác thi đua, khen thưởng và củng cố kỷ luật lao động
2.8.1. Tổ chức thi đua, khen thưởng
Khác với cạnh tranh, không chỉ là thi đua của những người sản xuất riêng lẻ, bị áp bức
bóc lột, hoạt động cho lợi ích của những người dân sở hữu riêng, mà là thi đua của những
Tổ chức lao động khoa học và ứng dụng tại DAB
Trang 19
thành viên trong tập thể sản xuất, thoát khỏi sự áp bức bóc lột hoạt động cho lợi ích
chung.
Mục đích của thi đua trong doanh nghiệp là nâng cao năng suất lao động, tạo ra nhiều
sản phẩm có chất lượng , hợp thị hiếu ,nâng cao tính tổ chức và kỷ luật, tiết kiệm các
nguồn vật chất và lao động, và cuối cùng là phục vụ cho quyền lợi chung của quần chúng
lao động .
Thi đua trong doanh nghiệp có các hình thức sau:
- Thi đua cá nhân: Hình thức thi đua này được tổ chức giữa cá nhân những người lao
động. Đây là hình thức được sử dụng rộng rãi trong các doanh nghiệp. Thi đua cá nhân có
thể được tổ chức trong phạm vi một tổ, một đội sản xuất, một bộ phận sản xuất, một phân
xưởng nhưng có khi ở phạm vi một doanh nghiệp.
-Thi đua tập thể: Hình thức thi đua này được được tổ chức giữa các tổ, đội , các bộ
phận sản xuất, các phân xưởng phòng ban với nhau. Hình thức thi đua này tạo ra sự gắn
bó tinh thần và trách nhiệm để cùng hoàn thành một nhiệm vụ chung.
Nó có tác dụng rất to lớn trong việc xây dựng thái độ lao động mới, xây dựng con
người mới, lối sống mới và góp phần đưa năng suất lao động chung của doanh nghiệp
tăng lên, hoàn thành kế hoạch sản xuất của doanh nghiệp, làm cho sản xuất kinh doanh
đạt hiệu quả cao hơn.
Thi đua trong doanh nghiệp phải tuân thủ các nguyên tắc chính sau đây thì mới đạt
được hiệu quả cao:
- Thứ nhất: Thi đua phải thực hiện tốt quy chế dân chủ ,tiến hành công khai, tức là các
tập thể sản xuất đưa ra và thảo luận công khai trước toàn thể cán bộ công nhân viên
những kinh nghiệm và phương pháp lao động tốt nhất của mình, kết quả lao động của
mình trong thi đua. Lãnh đạo đơn vị phải không ngừng cung cấp thông tin cho cán bộ
công nhân viên về quá trình thi đua và kết quả cụ thể của nó.
- Thứ hai: Phải so sánh kết quả của những người tham gia thi đua. Nguyên tắc này đòi
hỏi phải biết và so sánh được thành tích của người này, tập thể này với người khác tập thể
Tổ chức lao động khoa học và ứng dụng tại DAB
Trang 20
khác, giữa thời kỳ này với thời kỳ trước về các chỉ tiêu thi đua.
Do vậy, Khi tiến hành thi đua doanh nghiệp phải có một hệ thống các chỉ tiêu và điều
kiện thống nhất cho phép có thể so sánh được kết quả của các cá nhân và tập thể tham gia
thi đua về số lượng và chất lượng.
- Thứ ba: Thi đua phải phổ biến được những kinh nghiệm tiên tiến.
- Thứ tư: Nguyên tắc kết hợp hài hòa giữa khuyến khích vật chất và khuyến khích tinh
thần trong thi đua.
Các nguyên tắc trên có một mối quan hệ mật thiết với nhau. Vì thế, khi tổ chức thi đua
doanh nghiệp phải tuân thủ tất cả các nguyên tắc đó, không được bỏ sót hoặc coi nhẹ một
nguyên tắc nào.
2.8.2. Các biện pháp tăng cường kỷ luật lao động
Kỷ luật là nền tảng để xây dựng xã hội. Không có kỷ luật thì không thể điều chỉnh
được mối quan hệ giữa người với người trong sản xuất và các hoạt động của họ trong các
tổ chức xã hội. Kỷ luật là những tiêu chuẩn quy định hành vi của con người trong xã hội,
nó được xây dựng trên cơ sở pháp lý hiện hành và những chuẩn mực đạo đức xã hội .
Kỷ luật lao động là sự tôn trọng và thực hiện một cách nghiêm túc tự nguyện, tự giác
của những người lao động đối với các nội quy lao động trong các cơ quan, doanh nghiệp
và tổ chức, đồng thời đó cũng là thước đo đạo đức và lối sống của người lao động. Kỷ
luật lao động là một khái niệm rộng, được xem xét ở nhiều góc độ.
- Về mặt lao động: Kỷ luật lao động là sự chấp hành và thực hiện một cách tự nguyện,
tự giác các chế độ ngày làm việc của công nhân viên (thời gian bắt đầu và kết thúc ca làm
việc, thời gian nghỉ ngơi, sử dụng triệt để thời gian làm việc vào mục đích sản xuất sản
phẩm, quỹ thời gian làm việc trong tuần, tháng, năm vv…).
- Về mặt công nghệ: Kỷ luật lao động là sự chấp hành một cách chính xác các quy trình
công nghệ các chế độ làm việc của máy móc thiết bị, các quy trình vận hành…
- Về mặt sản xuất: Kỷ luật lao động là việc thực hiện nghiêm túc các nhiệm vụ sản xuất
Tổ chức lao động khoa học và ứng dụng tại DAB
Trang 21
được giao, có ý thức bảo quản giữ gìn máy móc, thiết bị, dụng cụ vật tư …, là sự chấp
hành một cách vô điều kiện các chỉ thị, mệnh lệnh về sản xuất, tuân theo các chế độ bảo
hộ lao động kỹ thuật an toàn và vệ sinh trong sản xuất.
Kỷ luật lao động có một vai trò rất to lớn trong sản xuất. Bất kỳ một nền sản xuất nào
cũng không thể thiếu được kỷ luật lao động. Bởi vì, để đạt được mục đích cuối cùng của
sản xuất thì phải thống nhất mọi cố gắng của công nhân, phải tạo ra một trật tự cần thiết
và phối hợp hành động của mọi người tham gia vào quá trình sản xuất. Chấp hành tốt kỷ
luật lao động sẽ làm cho thời gian lao động hữu ích tăng lên, các quy trình công nghệ
được đảm bảo, máy móc thiết bị, vật tư nguyên vật liệu… được sử dụng tốt hơn vào mục
đích sản xuất. Tất cả những điều đó làm tăng số lượng và chất lượng sản phẩm.
Có nhiều biện pháp để tăng cường kỷ luật lao động: các biện pháp tác động đến người
lao động vi phạm kỷ luật lao động (Giáo dục thuyết phục đối với những người vi phạm
nhẹ. Biện pháp hành chính cưỡng bức như: phê bình, cảnh cáo, hạ tầng công tác, hạ cấp
bậc kỹ thuật, chuyển sang làm việc khác, buộc thôi việc …). Tổ chức lao động khoa học
để nâng cao tinh thần trách nhiệm của người lao động đối với công việc mình làm, xoá bỏ
các điều kiện có thể dẫn tới vi phạm kỷ luật lao động, hạn chế các vụ vi phạm kỷ luật lao
động.
3. Nguyên tắc, ý nghĩa của tổ chức lao động khoa học
3.1. Nguyên tắc
3.1.1.Tính khoa học
Các đơn vị, các doanh nghiệp muốn hoàn thiện công tác lao động cần phải quán triệt
các chủ trương chính sách của Đảng và của nhà nước trong quá trình phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước, đồng thời các biện pháp phải tuân theo, đáp ứng yêu cầu khách quan
của nền kinh tế thị trường, chỉ trên cơ sở đó mới có khả năng giải quyết đầy đủ và khách
quan nhiệm vụ của tổ chức lao động khoa học.
Tính khoa học của tổ chức lao động khoa học được thể hiện về đánh giá đề ra những
Tổ chức lao động khoa học và ứng dụng tại DAB
Trang 22
biện pháp phù hợp với thực tiễn lao động sản xuất tình hình kỹ thuật công nghệ và trình
độ công nghệ của đất nước, trên cơ sở đó mới có khả năng chính tư tưởng xa rời thực tế,
dập khuôn máy móc công tác tổ chức lao động.
Ngoài ra tính khoa học còn được thể hiện ở việc đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến
lao động, lựa chọn các phương án tối ưu để giải quyết các vấn đề sản xuất của đơn vị,
doanh nghiệp, phát triển khai thác khả năng tiềm tàng để nâng cao năng suất lao động. Để
giải quyết tốt yêu cầu đó, tổ chức lao động cần phải dựa vào kết quả của các ngành khoa
học khác mà chủ yếu là khoa học tính toán, tâm lý lao động, sinh lý lao động thống kê.
Tổ chức lao động tuân thủ theo nguyên tắc này còn cho phép loại bỏ được tính chủ quan
giải quyết các vấn đề tổ chức lao động thiếu khoa học, đồng thời ngăn ngừa tư tưởng hành
chính đơn thuần và thiếu trách nhiệm trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao.
3.1.2. Tính kế hoạch
Tính kế hoạch của tổ chức lao động được bắt đầu từ yêu cầu sản xuất và thị trường. Kế
hoạch các biện pháp về tổ chức lao động là vấn đề rất quan trọng, dựa trên cơ sở kế hoạch
đó mà có tiến độ thực hiện rõ ràng, nâng cao tinh thần trách nhiệm trong khi thực hiện các
biện pháp tổ chức lao động đề ra, khắc phục được hiện tượng đại khái tuỳ tiện hoặc trì trệ
trong việc áp dụng các biện pháp.
Các đơn vị, doanh nghiệp cần phải lập kế hoạch lao động theo thành quý, năm dựa trên kế
hoạch giao cho phân xưởng, bộ phận có kế hoạch thực hiện cụ thể. Có lập kế hoạch tổ
chức lao động thì mới có phương án tác chiến và đánh giá thực hiện các chỉ tiêu năng suất
lao động, năng lực sản xuất, quỹ thời gian lao động, trình độ cơ giới hoá và tự động hoá…
của đơn vị, doanh nghiệp.
3.1.3. Tính hệ thống
Những biện pháp đơn lẻ không được hiệu quả lao động cao trong tổ chức lao động,
không đảm bảo cải tiến được tổ chức lao động một cách toàn diện, khoa học. Chỉ có thể
đạt được hiệu quả lớn nhất trên cơ sở hoàn thiện tổ chức lao động theo một hệ thống bao
gồm tất cả các hướng và đối với mọi lao động (trực tiếp, gián tiếp) nghĩa là cần xem xét
Tổ chức lao động khoa học và ứng dụng tại DAB
Trang 23
từng mặt của vấn đề tổ chức lao động như bộ phận của một thể thống nhất và phải giải
quyết các vấn đề riêng biệt đó theo nhiệm vụ đề ra cho toàn hệ thống.
Tính hệ thống của tổ chức lao động xuất phát từ mối quan hệ chặt chẽ và phụ thuộc lẫn
nhau của từng yếu tố như : tính chất tiên tiến của các phương pháp thao tác lao động chặt
chẽ với tổ chức quy hoạch, trang bị, bố trí và phục vụ nơi làm việc, những hình thức hiệp
tác… Như vậy chỉ thực hiện tốt những vấn đề của hệ thống mới đảm bảo hoàn thiện tổ
chức lao động một cách toàn diện, tránh tình trạng phát sinh những chỗ mất cân đối giữa
các yếu tố và bộ phận của chúng.
3.1.4. Tính kích thích vật chất, tinh thần
Tổ chức lao động khoa học là phải thực hiện đầy đủ tính kích thích vật chất, tinh thần
đối với người lao động. Có như vậy mới tạo động lực thúc đẩy sản xuất, phát triển và tạo
năng suất lao động, hiệu quả lao động ngày càng cao.
Nội dung chủ yếu trong việc khuyến khích vật chất là tổ chức các chế độ tiền lương, tiền
thưởng phải gắn với năng suất lao động và tiến bộ kỹ thuật.
Bên cạnh việc tổ chức tiền lương, tiền thưởng thì việc mở rộng và tăng cường phúc lợi tập
thể cũng tạo điều kiện thuận lợi để khuyến khích người lao động yên tâm, phấn khởi, tích
cực lao động sản xuất hơn, luôn luôn quan tâm đến việc tổ chức các vấn đề liên quan đến
đời sống người lao động như : Nhà trẻ, mẫu giáo, bệnh xá, câu lạc bộ.
Đi đôi với khuyến khích vật chất cần phải coi trọng bồi dưỡng nêu cao tinh thần cho
người lao động bằng cách tổ chức giáo dục, xây dựng thái độ lao động mới, phát động
phong trào thi đua lao động sản xuất, phát minh sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, tổ chức cho
người lao động được đi tham quan du lịch… và có các hình thức khen thưởng thích hợp
như : Tặng danh hiệu cao quý lao động giỏi, giấy khen, huân, huy chương.
3.2. Ý nghĩa
Trước khi thực hiện bất kỳ hoạt động nào cũng cần tiến hành xây dựng một kế hoạch
chặt chẽ thống nhất, khoa học có tính thực tiễn cao vì vậy nếu không có hoạt động này
quá trình thực hiện công việc sẽ gặp phải những khó khăn nhất định.
Tổ chức lao động khoa học và ứng dụng tại DAB
Trang 24
Nếu không tổ chức lao động khoa học sẽ không thể thực hiện tốt việc phối hợp trong hoạt
động một cách thống nhất do đó có thể sẽ gặp phải những cản trở nhất định trong quá
trình thực hiện nhiệm vụ của từng cá nhân bộ phận.
Tổ chức lao động khoa học là cơ sở cho việc khai thác khả năng tiềm lực hiện có và sẽ
có trong mỗi doanh nghiệp.
Tổ chức lao động khoa học sẽ góp phần tiết kiệm những nguồn lực và từ đó nâng cao
hiệu quả của những hoạt động.
Tổ chức lao động khoa học giúp cho những cán bộ quản lý chủ động điều hành chỉ đạo
sự hoạt động của toàn bộ cá nhân và bộ phận đã được giao nhiệm vụ.
Như vậy chất lượng của công tác tổ chức lao động khoa học cũng được xem như là một
trong những tiêu chí để đánh giá trình độ tổ chức sản xuất, tổ chức lao động năng lực
quản lý của những cán bộ lãnh đạo cũng như trình độ chuyên môn nghiệp vụ của từng lao
động cụ thể.
III. Một số hướng nghiên cứu của tổ chức lao động khoa học hiện đại trên thế
giới
1. Tối ưu hoá động tác của người lao động
Khi đó, năng suất lao động tăng cao, giá thành sản phẩm hạ và người lao động thực sự
vui thích khi làm việc. Muốn vậy, trong quy trình động tác lao động, cần loại bỏ tất cả các
động tác thừa, các động tác tiềm ẩn nguy cơ tai nạn lao động; không những thế còn phải
sắp xếp trình tự các động tác hợp lý, xây dựng thành tiêu chuẩn và đào tạo cho công nhân.
Hướng nghiên cứu thứ hai là cải thiện điều kiện lao động. Điều kiện lao động ảnh hưởng
trực tiếp đến năng suất lao động và tâm sinh lý của người lao động. Điều kiện lao động
bao gồm nhiều yếu tố: nhiệt độ, độ ẩm, bức xạ, gió... Đối với mỗi yếu tố, con người chỉ có
thể hoạt động bình thường trong một ngưỡng nào đó. Theo nghiên cứu của Đại học công
nghệ Helsinki – Phần Lan, nhiệt độ môi trường tiêu chuẩn của người công nhân là từ 18 –
310C, khoảng hiệu quả nhất là từ 21 – 230C. Ngoài ngưỡng này, năng suất lao động giảm
Tổ chức lao động khoa học và ứng dụng tại DAB
Trang 25
nhanh. Độ ẩm cũng vậy, độ ẩm cao cản trở sự bay hơi của mồ hôi, làm tăng thân nhiệt, là
môi trường cho vi khuẩn phát triển, độ ẩm thấp gây khô mũi, nứt nẻ da... Độ ẩm môi
trường lý tưởng cho công nhân là 40 – 60%.
2. Kích thích lao động
Trong những năm gần đây rất được các nhà quản lý quan tâm tìm hiểu và đẩy mạnh áp
dụng, nó tìm ra những nhu cầu thiết yếu về vật chất và tinh thần của người lao động và
cách thoả mãn chúng. Từ năm 1914, Henry Ford đã thực hiện hai chính sách: trả công “5
đôla một ngày” và tuần làm việc 40h; hiệu quả từ chất lượng sản phẩm và năng suất đáng
kinh ngạc của công nhân đã chững minh cho luận điểm đúng đắn của ông, vốn bị hoài
nghi và chỉ trích rất nhiều. Như vậy trong nhiều trường hợp, những đầu tư để kích thích
người lao động đem lại hiệu quả lớn hơn nhiều so với chi phí đã bỏ ra.
3. Sự phân công và hợp tác trong lao động
Nếu hai hướng nghiên cứu trên quan tâm chủ yếu tới cá thể người lao động thì hướng
nghiên cứu về sự phân công và hợp tác trong lao động lại chú trọng về mặt tổ chức tập thể
lao động. Chẳng hạn trong công trường xây dựng, có rất nhiều loại công việc, từng loại
công việc lại được phân chia nhỏ: công tác chính và công tác phụ, công tác có kỹ thuật
cao và công tác đơn giản. Do đó, mỗi tổ thợ đều có cơ cấu với nhiều bậc thợ hỗ trợ nhau.
Ngoài ra, sự hợp tác lao động thể hiện khi một số tổ lao động cùng phối hợp để tạo ra một
sản phẩm: công tác bê tông toàn khối chỉ có thể thực hiện nhờ sự phối hợp đầy đủ của các
tổ ván khuôn, cốt thép và bê tông.
Ở mức tổ chức cao hơn, cần nghiên cứu tìm ra những mô hình quản lý thích hợp. Hình
thức tổ chức và quản lý của doanh nghiệp phải đảm bảo gắn kết chặt chẽ người lao động
với doanh nghiệp đó, chẳng hạn cổ phần hoá. Khi người lao động tìm được động lực to
lớn để làm việc, cống hiến hết mình, mọi quá trình trong doanh nghiệp sẽ được chính
người lao động giám sát chặt chẽ, từ hiệu quả sử dụng tài nguyên, chất lượng sản phẩm
Tổ chức lao động khoa học và ứng dụng tại DAB
Trang 26
cũng như bảo vệ môi trường... Kim Woo Choong, người sáng lập ra tập đoàn Daewoo, là
bậc thầy trong việc truyền cảm hứng làm việc tới mức: “nếu các công ty khác làm việc từ
9h sáng đến 5 h chiều thì nhân viên của chúng tôi làm việc từ 5h sáng đến 9h tối,..., kết
quả là Daewoo chỉ cần 22 năm để phát triển bằng thành quả trong suốt 44 năm của công
ty khác...”.
Sở dĩ người lao động làm việc như một niềm vui thích vô bờ bến, coi công ty như gia
đình mình, cống hiến vì công ty cũng như cống hiến cho gia đình thân yêu.
Tổ chức lao động khoa học và ứng dụng tại DAB
Trang 27
CHƯƠNG II: ỨNG DỤNG TỔ CHỨC LAO ĐỘNG KHOA HỌC
TẠI NGÂN HÀNG TMCP ĐẠI Á
I. Giới thiệu Ngân hàng TMCP Đại Á
1. Sự hình thành và phát triển
Ngân hàng TMCP Đại Á (DAB) được thành lập và đi vào hoạt động từ ngày
30/07/1993, là ngân hàng cổ phần đầu tiên hoạt động tại địa bàn tỉnh Đồng Nai.
Khởi đầu chỉ là Ngân hàng TMCP nông thôn hoạt động tại tỉnh Đồng Nai với 1 tỷ đồng
vốn điều lệ, đến nay Đại Á Ngân hàng đã trải qua 17 năm phát triển vượt bậc với vốn điều
lệ đạt 3.100 tỷ đồng, tổng tài sản đến ngày 31/12/2010 đạt 11.186 tỷ đồng và đứng vị trí
thứ 256 trong 1.000 đơn vị đóng thuế cao nhất Việt Nam năm 2010.
Mục tiêu của DAB là trở thành 1 trong 20 Ngân hàng TMCP bán lẻ hàng đầu Việt Nam
, và giai đoạn 2009 – 2014 phấn đấu trở thành 1 trong 10 Ngân hàng hàng đầu về công
nghệ, dịch vụ.
Năm 2010 cùng với việc đầu tư hệ thống Core Banking, hệ thống nhận diện thương
hiệu, DAB cũng đã và đang từng bước vận hành dự án tái cấu trúc theo mô hình quản lý
hiện đại và từng bước khắc phục, cải tiến cho phù hợp với định hướng phát triển của
Ngân hàng. Bên cạnh đó, việc phiên lương cho cán bộ công nhân viên được thực hiện trên
cơ cở lượng hóa công việc giữa chức danh, vị trí và từng công việc. Việc tổ chức bộ máy,
cơ cấu sắp xếp lại nhân sự cho phù hợp với mô hình cũng đã được triển khai và từng bước
đi vào ổn định.
2. Cơ cấu tổ chức
Tổ chức lao động khoa học và ứng dụng tại DAB
Trang 28
3. Đặc điểm lao động ngành ngân hàng
Lao động hoạt động trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng chủ yếu ở trình độ Đại học và
trên đại học, có yêu cầu chuyên môn cao, mang tính chuẩn mực quốc tế.
Lực lượng lao động chính của ngành này, hàng năm số lượng nghỉ chế độ cũng khá lớn
và sàng lọc trong hoạt động đối với những người đã tuyển dụng nhưng không làm được
việc cũng nhiều. Bên cạnh đó, hàng năm có sự di chuyển nhân lực từ ngân hàng này sang
ngân hàng kia, do vậy bộc lộ nơi thừa, nơi thiếu nên mọi người đều có cảm giác thiếu
nhân lực.
Ngân hàng TMCP Đại Á là một ngân hàng được coi là sinh sau đẻ muộn so với các
ngân hàng lớn khác, phải cạnh tranh với các ngân hàng có tiềm lực lớn về thương hiệu và
nguồn vốn. Ngoài việc phải thu hút và giữ chân nhân tài, DAB còn phải quan tâm đến
việc tổ chức lao động một cách hợp lý, khoa học để tạo năng suất lao động cao, đưa DAB
Tổ chức lao động khoa học và ứng dụng tại DAB
Trang 29
từng bước thành công.
II. Thực hiện tổ chức lao động khoa học tại DAB
1. Sự phân công và hiệp tác lao động
DAB thực hiện tổ chức công việc một cách hợp lý. Trong phân công và tổ chức công
việc, không để chồng chéo chức năng hoặc có những việc không ai làm. Có quy định rõ
ràng về quy trình, quyền hạn và trách nhiệm công việc của từng phòng ban, bộ phận, cá
nhân. Mọi sự phối hợp công việc đều dựa theo quy trình và có phân công, giao trách
nhiệm cụ thể từng mảng, từng giai đoạn.
Ngoài ra, nhằm bố trí đúng người đúng việc cũng như tận dụng và phát huy khả năng
của người lao động, định kỳ hàng quý DAB tổ chức các kỳ thi nội bộ cho những cán bộ
nhân viên có nguyện vọng chuyển sang vị trí khác (ví dụ từ vị trí Nhân viên pháp lý
chứng từ sang Nhân viên quan hệ khách hàng, từ Nhân viên Thanh toán quốc tế sang
Nhân viên nguồn vốn và kinh doanh tiền tệ, từ Giao dịch viên lên Kiểm soát viên, …).
Bên cạnh đó, trước khi ban hành một quy trình hay một sản phẩm dịch vụ mới, ngoài
việc nghiên cứu thị trường, DAB đều kêu gọi và lắng nghe ý kiến đóng góp của nhân
viên, khuyền khích nhân viên đưa ra những cải tiến đổi mới phù hợp nhằm hoàn thiện quy
trình hay sản phẩm dịch vụ đó.
Về phương diện lãnh đạo, việc phân quyền và ủy quyền cũng được thực hiện một cách
linh hoạt nhằm tránh cho nhà lãnh đạo ngoài ngoài việc đảm nhiệm việc quản lý đơn vị
còn phải tham gia vào các giao dịch cụ thể, làm ảnh huởng tới chất luợng quản lý. Ví dụ,
các khoản thu, chi kế toán, duyệt hạn mức cấp tín dụng hay các giao dịch mua bán ngoại
tệ đều được giám đốc ủy quyền cho các trưởng phòng, trưởng bộ phận nghiệp vụ liên
quan tự quyết và tự chịu trách nhiệm ở một mức phán quyết nhất định, vượt trên mức đó
mới phải trình lên ban giám đốc. Điều này không những làm giảm áp lực cho nhà lãnh
đạo mà còn tăng tính chủ động, sáng tại, kích thích tinh thần làm việc cho nhân viên.
Tổ chức lao động khoa học và ứng dụng tại DAB
Trang 30
2. Tổ chức phục vụ nơi làm việc
Nơi làm việc được bố trí ngăn nắp, gọn gàng, sạch sẽ với trang thiết bị đầy đủ.
Đặc biệt, năm 2010 DAB đã đầu tư gần 1,9 triệu USD cho hệ thống Core Banking giúp
ngân hàng có thể phát triển nhiều sản phẩm dịch vụ ngân hàng điện tử, tạo điều kiện phục
vụ khách hàng thuận lợi hơn, cũng như hỗ trợ tối đa cho nhân viên trong quá trình làm
việc.
3. Cơ chế lương thưởng phù hợp, công bằng và công khai minh bạch
3.1. Nguyên tắc sử dụng quỹ tiền lương của DAB
- Tiền lương được trả trực tiếp, đầy đủ, đúng thời hạn về số lượng, chất lượng và tiến
độ thực tế hoàn thành công việc của cán bộ nhân viên, phù hợp với kết quả hoạt động
kinh doanh của DAB.
- Phân phối tiền lương cho cán bộ nhân viên theo nguyên tắc: những người thực hiện
công việc như nhau thì hưởng lương như nhau; những người thực hiện các công việc đòi
hỏi trình độ quản lý, trình độ chuyên môn cao, kỹ thuật cao, tay nghề hoặc nghiệp vụ giỏi,
đóng góp nhiều vào kết quả kinh doanh của DAB thì được trả lương cao.
- Quỹ tiền lương dùng để trả lương cho cán bộ nhân viên đang làm việc tại DAB,
không sử dụng quỹ tiền lương vào mục đích khác.
3.2. Cách thức trả lương
Tiền lương được trả theo 2 vòng:
- Mức lương vòng 1 được trả cho tất cả cán bộ nhân viên theo quy định hệ thống thang
lương, bảng lương và chế độ phụ cấp của Đại Á Ngân hàng do Hội đồng Quản trị ban
hành.
- Mức lương vòng 2 được trả cho cán bộ nhân viên theo chức danh công việc và đánh
giá kết quả công việc trên cơ sở quỹ lương chung của đơn vị, đảm bảo nguyên tắc làm
nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng lương.
Tổ chức lao động khoa học và ứng dụng tại DAB
Trang 31
Để tránh quản lý theo cảm tính, cào bằng DAB thực hiện việc luợng hóa và đo luờng
kết quả công việc thông qua các tiêu chuẩn, các chỉ tiêu đuợc quy định rõ ràng đối với
từng nhân viên, từng mảng công việc. Hàng tháng, mỗi đơn vị đều thực hiện đánh giá xếp
loại nhân viên một cách công khai, công bằng đề quyết định mức lương của nhân viên.
Ví dụ: đối với nhân viên nhận chỉ tiêu kinh doanh và nhân viên thực hiện công việc
theo khối lượng, thì tiêu chí đánh giá được lượng hóa cụ thể như 3 bảng dưới đây:
Bảng 1: Mục tiêu đánh giá:
Stt Mục tiêu Trọng
số
1 Mục tiêu công việc: 80%
a Hoàn thành chỉ tiêu Dư nợ … 30%
b Hoàn thành chỉ tiêu Huy động … 30%
c Hoàn thành chỉ tiêu Phí DV 20%
d Chỉ tiêu Nợ quá hạn 20%
Cộng 1 100%
2 Mục tiêu năng lực: 20%
a Dịch vụ khách hàng 25%
b Sáng tạo và chủ động thực hiện công việc 25%
c Giao tiếp 25%
d Tinh thần làm việc nhóm 25%
Tổ chức lao động khoa học và ứng dụng tại DAB
Trang 32
Cộng 2 100%
Bảng 2: Thang điểm đánh giá:
Chỉ tiêu kinh doanh/thực hiện
công việc
Thang
điểm
Chỉ tiêu nợ quá hạn
(NQH)
Thang
điểm
Hoàn thành vượt chỉ tiêu từ 15%
trở lên 5 Đạt <90% chỉ tiêu 5
Hoàn thành và vượt chỉ tiêu
<15% 4 Đạt 90% - <100% chỉ tiêu 4
Hoàn thành từ 95-<100% chỉ tiêu 3
Đạt 100% - <105% chỉ
tiêu 3
Hoàn thành chỉ tiêu từ 90 - <95% 2
Đạt 105% - <110% chỉ
tiêu 2
Hoàn thành chỉ tiêu dưới <90% 1
Đạt từ 110% chỉ tiêu trở
lên 1
Bảng 3: Xếp loại:
Xếp loại Điểm hoàn
thành m.tiêu
Diễn giải
Loại 1
Xuất sắc, luôn
vượt trội các yêu
cầu công việc
4.7-5 - Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Có
thành tích nổi trội;
- Có thể phát triển đề bạt, trường hợp là nhân viên
có thể đề bạt làm quản lý. Trường hợp làm quản
lý có thể đề bạt vào chức vụ cao hơn.
- Có ý thức đặt quyền lợi của Đại Á Ngân hàng cao
hơn quyền lợi cá nhân trong mọi tình huống
Loại 2
Hoàn thành tốt
hơn các yêu cầu
3.7-4.6 - Hoàn thành tốt hơn sự mong đợi, các yêu cầu
công việc
- Chủ động trong công việc
- Có ý thức chấp hành tốt các yêu cầu của Đơn vị,
của Đại Á Ngân hàng
Loại 3
Đạt yêu cầu công
việc
2.7-3.6 - Đạt được sự mong đợi và yêu cầu công việc
- Có khả năng hoàn thành công việc ôn định
- Có năng lực ở vị trí hiện tại
Loại 4
Đôi khi không
1.7-2.6 - Không hoàn thành công việc và phải cải thiện
trong 1 vài lĩnh vực công tác được giao
Tổ chức lao động khoa học và ứng dụng tại DAB
Trang 33
đạt yêu cầu. Cần
đào tạo thêm
- Cần được kèm cặp huấn luyện để tiến bộ
- Cần được hướng dẫn chi tiết căn kẻ khi giao
nhiệm vụ mới
Loại 5
Không đạt yêu
cầu công việc
<1.7 - Thường xuyên không hoàn thành nhiệm vụ được
giao, không đáp ứng được yêu cầu công việc
- Bị hình thức kỷ luật khiển trách bằng văn bản trở
lên
- Có hành vi thái độ gây thiệt hại đến uy tín và tài
sản Đại Á Ngân hàng.
3.3. Tăng lương và điều chỉnh lương căn bản
Định kỳ vào tháng 01 và tháng 7 hàng năm, Hội đồng lương họp rà soát, đánh giá và
xếp hệ số lương cơ bản theo chức danh cho cán bộ nhân viên.
Thời gian xét nâng lương cơ bản định kỳ cho các chức danh:
- 3 năm một lần xét nâng lương cán bộ quản lý.
- 2 năm một lần xét nâng lương cho nhân viên.
- Riêng đối với khối quan hệ khách hàng có thể xem xét nâng lương cơ bản 1 năm một
lần.
Ngoài ra, DAB còn linh hoạt điều chỉnh lương căn cứ vào chỉ số CPI từng thời kỳ để
kịp thời hỗ trợ trượt giá cho nhân viên.
4. Quan tâm đến đời sống nhân viên
Hàng năm DAB đều tổ chức hoặc tham gia các giải bóng đá nhằm tạo sân chơi giải trí
lành mạnh cho nhân viên. Tổ chức những cuộc hội thảo, liên hoan, du lịch, nói chuyện….
vào những dịp lễ như 8.3, 30/4, ...
Ngoài ra, DAB còn tạo điều kiện cho nhân viên và thân nhân được vay vốn ưu đãi
nhằm hỗ trợ cuộc sống.
Tổ chức lao động khoa học và ứng dụng tại DAB
Trang 34
5. Thường xuyên tổ chức các lớp học về kỹ năng nghiệp vụ và kỹ năng mềm nhằm
nâng cao trình độ cho nhân viên
DAB liên tục tổ chức các chương trình đào tạo cho nhân viên về các kỹ năng như: Kỹ năng
giao tiếp khách hàng, kỹ năng đàm phán, kỹ năng xử lý tình huống, … để nhân viên có thể đáp
ứng yêu cầu công việc ngoài các chương trình đạo tạo cơ bản về chuyên môn. DAB cũng liên tục
cập nhật các trình độ công nghệ về lĩnh vực tài chính – ngân hàng trên thế giới và phổ biến cho
nhân viên. Điều này giúp nhân viên tự tin và chủ động hơn trong các công việc của mình.
6. Công tác thi đua khen thưởng
DAB đưa ra hai chương trình xuyên suốt năm là
- Chương trình “Đồng hành cùng DAB”: nhằm khuyến khích nhân viên trong công tác
huy động tiền gửi.
- Chương trình “Chúng tôi là đơn vị bán hàng xuất sắc nhất”: nhằm khuyến khích các
kênh phân phối tăng trưởng các chỉ tiêu lợi nhuận.
Cả hai chương trình đều có những quy định rõ ràng về điểm huy động, điểm tăng
trưởng cho từng đơn vị và cá nhân.
7. Thực hiện việc định mức lao động
Các qui trình DAB ban hành đều quy định rõ ràng về thời gian thực hiện cho từng công
đoạn nhằm đảm bảo tiến độ chung, nhằm phục vụ tốt nhất nhu cầu khách hàng.
Ví dụ như quy định về thời gian thẩm định hồ sơ vay, thời gian thẩm định tài sản, thời
gian công chứng và đăng ký giao dịch đảm bảo, thời gian giải ngân, …
Tổ chức lao động khoa học và ứng dụng tại DAB
Trang 35
CHƯƠNG III: KẾT LUẬN
Lĩnh vực tài chính-ngân hàng là một trong các lĩnh vực chịu ảnh hưởng lớn nhất của
cạnh tranh khi Việt Nam tiến hành hội nhập. Cũng như các Ngân hàng trong nước khác,
DAB gặp khó khăn trong cạnh tranh với các tập đoàn lớn không chỉ bởi trình độ công
nghệ, trình độ quản lý mà ngoài ra, nguồn vốn có hạn cũng là một điểm hạn chế của Ngân
hàng. Do đó, việc bố trí tổ chức lao động khoa học thực sự đã góp phần lớn để giúp DAB
có thể đứng vững trên thị trường và tiếp tục khẳng định thương hiệu trong lĩnh vực Ngân
hàng thương mại.
Đề tài chúng tôi thảo luận dựa trên các khái niệm cơ bản về Tổ chức lao động khoa học
mà các nhà quản lý đã đưa ra. Việc áp dụng trong công tác quản lý của Ngân hàng TMCP
Đại Á cũng như bất kỳ Ngân hàng hay tổ chức nào khác sẽ gặp một vài hạn chế nhất định
nên cần có thêm những thảo luận tiếp theo.
Đóng góp của đề tài là đã đưa ra được một số các khái niệm, nội dung cơ bản của công
tác Tổ chức lao động khoa học; nêu được thực trạng của Ngân hàng TMCP Đại Á từ khi
thành lập đến nay, cũng như công tác Tổ chức lao động trong Ngân hàng.
Tuy nhiên, nhóm mới chỉ dừng lại ở việc minh họa cho các khái niệm, nội dung cơ bản
của Tổ chức lao động khoa học trong tổ chức bằng các hoạt động thực tiễn của Ngân hàng
TMCP Đại Á giúp người đọc hiểu rõ hơn về các khái niệm, nội dung đó chứ chưa đưa ra
giải pháp cụ thể cho Ngân hàng.
Đây có thể là một tài liệu tham khảo tốt cho môn học quản trị và cũng là một hướng
gợi mở cho các đề tài tiếp theo thảo luận về công tác Tổ chức lao động trong tổ chức.
Xin chân thành cảm ơn.
Tổ chức lao động khoa học và ứng dụng tại DAB
Trang 36
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Tổ chức lao động khoa học – Tập I, II Trường Đại học Kinh tế quốc dân
Hà Nội.
2. Giáo trình Kinh tế lao động - Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội.
3. Giáo trình Quản trị học – Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh
4. Quy chế tiền lương Ngân hàng TMCP Đại Á.
5. Quy định về đánh giá hoạt động của đơn vị và nhân viên tại Ngân hàng TMCP Đại
Á.
6. Thỏa ước lao động tập thể Công đoàn cơ sở Ngân hàng TMCP Đại Á.
Tổ chức lao động khoa học và ứng dụng tại DAB
Trang 37
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 7:
1. TRƯƠNG LÊ LỘC
2. DƯƠNG THỊ MAI
3. NGUYỄN THỊ TRÚC MAI
4. TẠ THỊ TUYẾT MAI
5. VÕ THỊ HỒNG MINH
6. ĐÀO MỘNG LONG
7. NGUYỄN HOÀNG MINH
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tieu_luan_nhom_7_final_0128.pdf