Toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia, xu thế này đang bị một số nước phát triển và các tập đoàn kinh tế tư bản xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh, vừa tạo ra những cơ hội cho sự phát triển nhưng cũng vừa có những thách thức đối với các quốc gia, nhất là các quốc gia đang ở trình độ kém phát triển. Vì toàn cầu hoá là một xu thế, một quá trình khách quan cho nên không thể đảo ngược.
1 Lời hứa của các tổ chức toàn cầu:
1.1 Lợi ích của toàn cầu hoá: thông qua thương mại quốc tế giúp các quốc gia tăng trưởng nhanh hơn, nhiều người trên thế giới sống lâu hơn và hưởng mức sống cao hơn trước đây, giảm đi tình trạng cô lập mà các nước đang phát triển thường gặp và tạo ra cơ hội tiếp cận tri thức cho nhiều người ở các nước đang phát triển
1.2 Tác hại của toàn cầu hoá: làm gia tăng tình trạng nghèo đói và bất bình đẳng trong xã hội, tự do hoá thị trường tài chính nhanh chóng trong khi chưa có các cơ chế cạnh tranh và kiểm soát đã dẫn tới khủng hoảng tài chính châu Á (1997), việc xoá bỏ các hàng rào thương mại để thị trường tự do cạnh tranh (không có sự điều tiết của chính phủ) đã gây thiệt hại lớn cho các nước đang phát triển bởi hàng hoá của họ sản xuất ra không thể cạnh tranh được với hàng hoá nước ngoài, việc nới lỏng kểm soát thị trường vốn ở Mỹ Latinh và châu Á đưa đến sự sụp đổ của hệ thống tỉ giá và sự suy yếu của hệ thống ngân hàng, môi trường bị huỷ hoại, tham nhũng gia tăng
1.3 Những sai lầm của 3 tổ chức (IMF, WB, WTO) điều phối toàn cầu hoá:
1.3.1 Cơ sở hình thành IMF: IMF được thành lập trên cơ sở niềm tin thị trường thường là không hoàn hảo nhưng nó lại quá tin vào sự hoạt động hiệu quả của thị trường tự do và cần có áp lực quốc tế buộc các nước theo đuổi chính sách kinh tế tiền tệ -tài khoá mở rộng nhằm kích thích nền kinh tế thì IMF lại thường chỉ chấp nhận cho vay nếu các nước thực hiện chính sách tiền tệ -tài khóa khắc khổ (giảm thâm hụt ngân sách, tăng thuế, tăng lãi suất) dẫn tới sự thu hẹp nền kinh tế. Từ 2 nguyên nhân trên mà từ khi thành lập đến nay các chính sách của IMF đưa ra thường mang lại tác hại nhiều hơn là những lợi ích mà nó đem lại cho nền kinh tế toàn cầu.
1.3.2 Những sai lầm của IMF: Thứ nhất, do quá tin vào hiệu quả của tự do hoá mà nó thường xem nhẹ vai trò của chính phủ (luôn xem chính phủ là nguồn gốc của mọi vấn đề). Thứ hai, mặc dù IMF và WB – 2 tổ chức được lập ra với những mục đích khác nhau (nhiệm vụ của IMF là tập trung vào các vấn đề khủng hoảng, nhiệm vụ của WB là giải quyết các vấn đề cơ cấu kinh tế các nước) nhưng hoạt động thì ngày càng chồng chéo lên nhau (WB chỉ cho các nước vay khi có sự chấp thuận của IMF. Chính vì thế mà nó đã áp đặt một số điều kiện lên các quốc gia khi các nước này cần sự giúp đỡ của nó). Thứ ba, IMF đã đi quá xa giới hạn và khả năng của nó thay vì tập trung vào việc giải quyết những vấn đề kinh tế vĩ mô. Nó cho rằng, các vấn đề cơ cấu đều ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế và do đó sẽ ảnh hưởng tới ngân sách chính phủ hay thâm hụt thương mại. Vì vậy, nó cảm thấy mọi vấn đề đều nằm trong quyền quản lí của mình. Thứ 4, IMF là một tổ chức công đại diện cho các nước thì nó phải là một tổ chức độc lập và minh bạch nhưng trên thực tế các hoạt động của IMF không những bị chi phối bởi ý chí chung của các nước G7 mà còn bởi giới tư bản thương mại, tài chính ở nước đó. Thứ 5 là sự thiếu minh bạch – dân chủ trong việc thảo luận về các chiến lược giải pháp của tổ chức này cho các quốc gia đang phát triển.
Như vậy, trong suốt nửa thế kỉ kể từ khi thành lập đến nay, IMF gần như đã thất bại trong sứ mệnh của nó. Lẽ ra, khi các nước gặp khó khăn về kinh tế thì nó phải trợ giúp tài chính cho các nước này phục hồi trạng thái gần toàn dụng lao động thì nó lại không thực hiện. Điều này đã dẫn tới khủng hoảng kinh tế nổ ra ngày càng nhiều và ngày càng khốc liệt. Tồi tệ hơn, những chính sách mà IMF áp đặt, đặc biệt là tự do hoá thị trường tài chính quá sớm đã đưa đến sự bất ổn định toàn cầu và khi một nước bị khủng hoảng thì các trợ giúp của các chương trình IMF lại càng làm cho tình hình trở nên tồi tệ hơn, đặc biệt là người nghèo.
1.3.3 Thoả thuận Bretton Woods: đã kêu gọi thành lập một tổ chức kinh tế quốc tế thứ 3, WTO, để kiểm soát quan hệ thương mại quốc tế không những nhằm hạn chế việc các nước tăng thuế nhập khẩu bảo vệ nền kinh tế nội địa gây ra sự tràn lan của suy thoái kinh tế mà còn thúc đẩy sự lưu chuyển hàng hoá và dịch vụ và tạo ra một diễn đàn để đảm bảo đàm phán thương mại được diễn ra và những thoả thuận được thực hiện. Như vậy, những ý tưởng và dự định đằng sau sự hình thành của các tổ chức quốc tế đều là tốt đẹp, nhưng dần qua thời gian đã bị biến dạng thành những thứ khác nhau. Những định hướng hoạt động của IMF, nhấn mạnh đến sự thất bại của thị trường và vai trò của chính phủ trong việc tạo việc làm đã bị thay thế bởi tư tưởng thị trường tự do. Tư tưởng này, chính là một phần của đồng thuận Washington- một sự đồng thuận giữa IMF, WB, Bộ tài chính Mỹ về "các chính sách đúng" cho các nước phát triển.
20 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2962 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Toàn cầu hoá và những mặt trái, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trụ cột của Đồng thuận Washington nhưng lại là một bộ phận chủ yếu của quá trình toàn cầu hoá. Theo Đồng thuận này, thì tăng trưởng xảy ra thông qua tự do hoá thị trường. Tư nhân hoá, tự do hoá và sự ổn định kinh tế vĩ mô sẽ tạo điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư và đầu tư sẽ là tiền đề cho tăng trưởng. Tuy nhiên, đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng có những mặt trái của nó bởi nếu chưa có luật cạnh tranh hoặc có nhưng không được thực thi hiệu quả và chưa xác định được nhịp độ mở cửa ở mức nào thì sau khi các hãng nước ngoài đánh bật sự cạnh tranh của các doanh nghiệp sở tại, chúng sẽ sử dụng sức mạnh độc quyền để tăng giá và như vậy lợi ích của giá hàng hoá rẻ sẽ chỉ tồn tại trong thời gian ngắn. Ngay cả trong thị trường tài chính cũng vậy, khi các ngân hàng lớn của nước ngoài vào cung cấp bảo hiểm cao hơn cho người gửi tiền so với các ngân hàng nhỏ địa phương thì luồng vốn trong nước tất nhiên sẽ chảy vào các ngân hàng lớn và nhiều người đã lo ngại rằng tiền sẽ chảy về các trung tâm tài chính lớn như New York sẽ làm cạn kiệt nguồn vốn ở nhưng khu vực xa xôi cần vốn. Và trường hợp của Argentina đã cho chúng ta thấy rõ nguy cơ này. Thêm vào đó, là các ngân hàng nước ngoài được hình thành theo luật của nước ngoài nên khi tham gia vào hoạt động ở một nước nào đó nó thường chỉ chịu tác động của luật doanh nghiệp nước đó chứ không chịu tác động nhiều của luật của các tổ chức tín dụng. Chính vì thế, mọi tác động của ngân hàng trung ương thông qua lãi suất chiết khấu thì thường chỉ có các ngân hàng trong nước chịu ảnh hưởng nhiều.
3.4 Kinh tế học "lọt sang xuống nia": Muốn giảm nghèo đói trước tiên cần có tăng trưởng kinh tế. Nhưng khi việc tăng trưởng kinh tế đạt hiệu quả thì cần phải có cơ chế phân chia hợp lí để đảm bảo rằng người nghèo được hưởng lợi từ thành quả đó. Bởi lẽ, bản thân tăng trưởng không thể tự nó thu hẹp được khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng.
3.5 Những ưu tiên và chiến lược: Trước tiên, chúng ta cần phải xem xét không chỉ những gì mà IMF đã đưa vào lịch trình hành động của nó mà ngay cả những gì đã bị bỏ sót. Bởi lẽ, nhiều điểm không được đề cập trong đồng thuận Washington lại có thể mang lại cùng lúc tăng trưởng cao hơn và bình đẳng hơn. Vì vậy, trước hết các nước đang phát triển cần phải tập trung vào những mục tiêu sau: (1) cải cách ruộng đất để người lao động nghèo không chỉ có đất để sản xuất mà còn có khả năng tiếp cận nguồn tín dụng, (2) kiểm soát các vấn đề về tài chính một cách hiệu quả bởi đây là nguồn gốc của những cuộc khủng hoảng trên thế giới, (3) cần phải có cấu trúc kiểm soát phù hợp trước khi tự do hoá thị trường tài chính, (4) xem xét và xác định rõ vai trò của chính phủ trong nền kinh tế thị trường bởi hầu hết các thị trường đều hoạt động không hiệu quả và cần có sự can thiệp của chính phủ…và cuối cùng là các tổ chức quốc tế chỉ nên là người tư vấn và tài trợ nguồn vốn cần thiết cho các nước để họ có thể tự mình thực hiện những chọn lựa của họ dựa trên những hiểu biết về hậu quả và những rủi ro của từng lựa chọn.
4 Cuộc khủng hoảng Đông Á:
4.1 Một vài nguyên nhân tạo nên sự "thần kì Đông Á": Sự "thần kì Đông Á" được thể hiện rõ trên 2 mặt đó là sự tăng trưởng của thu nhập và sự giảm thiểu nghèo đói một cách nhanh chóng. Có được điều này là do các chính phủ các nước Đông Á đã có những chính sách hết sức đúng đắn: họ coi thương mại là quan trọng nhưng trọng tâm là thúc đẩy xuất khẩu chứ không phải xoá bỏ trở ngại cho nhập khẩu. Họ không nóng vội trong việc tự do hoá các thị trường một cách nhanh chóng mà được thực hiện theo một lịch trình cụ thể. Hơn thế nữa, vai trò của chính phủ trong các nước Đông Á là hết sức quan trọng bởi họ chính là những người định hướng thị trường và thúc đẩy thị trường phát triển.
4.2 Tại sao chính sách của IMF và Bộ tài chính Mỹ lại dẫn đến khủng hoảng: IMF và Bộ tài chính Mỹ cho rằng, tự do hoá hoàn toàn tài khoản vốn sẽ giúp khu vực này tăng trưởng nhanh hơn. Những nước Đông Á không cần thêm vốn bởi họ có tỷ lệ tiết kiệm cao. Tuy nhiên, họ vẫn bị thúc giục tự do hoá tài khoản vốn vào cuối những năm 80 và đầu những năm 90. Mà khi tự do hoá tài khoản vốn mà chưa có những thể chế đi kèm đã dẫn tới vô số rủi ro trong tài khoản vốn. Và một lẽ đương nhiên, khi rủi ro tăng thì tâm lý của nhà đầu tư sẽ bị ảnh hưởng và việc tháo chạy vốn là điều không thể tránh khỏi.
IMF cho rằng, kiểm soát thị trường tài chính sẽ giảm hiệu quả kinh tế nhưng trên thực tế thì đây là một lập luận sai lầm. Bởi trước khi tự do hoá, Thái Lan áp đặt nghiêm ngặt trong việc cho vay đầu cơ bất động sản của ngân hàng. Họ quy định những hạn chế này vì họ là một nước nghèo cần có tăng trưởng và họ tin rằng đầu tư số vốn ít ỏi của mình vào khu vực sản xuất sẽ tạo thêm việc làm và kích thích tăng trưởng. Họ cũng biết rằng cho vay đầu cơ bất động sản là nguồn gốc cơ bản của suy thoái kinh tế và kiểu cho vay này sẽ dẫn đến bong bóng đầu tư, những bong bóng này chắc chắn sẽ vỡ khi nền kinh tế chao đảo. Tuy nhiên, sau khi tự do hoá tài chính theo chỉ dẫn của IMF mà chưa có được một lịch trình hợp lý và một chính sách đầy đủ đã đẩy Thái Lan lâm vào suy thoái ngày càng trầm trọng.
4.3 Những sai lầm của IMF trong khủng hoảng Đông Á (1997):
4.3.1 Sai lầm đầu tiên dẫn tới khủng hoảng là IMF đã chuẩn đoán sai vấn đề. Bởi lẽ, khi xảy ra khủng hoảng, Đông Á đang ở trong tình trạng tương đối ổn định về kinh tế vĩ mô với áp lực lạm phát thấp và ngân sách chính phủ đang cân bằng hoặc thặng dư. Điều này có 2 hàm ý. Thứ nhất là sự sụp đổ của thị trường ngoại hối và chứng khoán, sự tan vỡ của bong bong nhà đất kèm theo sự sụt giảm đầu tư và tiêu dùng đã đưa Đông Á đến suy thoái. Thứ hai là sự sụp đổ kinh tế sẽ làm suy giảm doanh thu thuế và tạo ra mất cân đối ngân sách. Như vậy, vấn đề mà các nước Đông Á cần giải quyết trước mắt là thâm hụt thực hơn là thâm hụt cơ cấu (thâm hụt tồn tại ngay cả khi nền kinh tế hoạt động ở mức toàn dụng). Nhưng IMF lại tập trung vào giải quyết thâm hụt cơ cấu.
Thứ hai, nguyên nhân suy thoái kinh tế của Đông Á là do thiếu cầu chứ không phải dư cầu như ở Mỹ Latinh. Vì thế, biện pháp tốt nhất để ngăn ngừa khủng hoảng là chính phủ phải tìm cách kích cầu như giảm thuế, tăng chi tiêu hoặc nới lỏng chính sách tiền tệ. Nhưng IMF đã không làm thế, nó chỉ cho các nước vay khi các nước này cam kết thực hiện chính sách thắt chặt. Nhưng khi thực hiện chính sách này thì nó không chỉ tác động đến bản thân nền kinh tế nước đó mà còn ảnh hưởng tiêu cực đến những nước láng giềng bởi khi gặp suy thoái các nước đều vực dậy nền kinh tế bằng cách cắt giảm nhập khẩu và chuyển nhu cầu tiêu dùng sang hàng nội địa. Các nước cắt giảm nhập khẩu bằng hàng rào thuế quan và phá giá tiền tệ, làm cho hàng hoá của mình rẻ hơn trong khi hàng hoá của các nước khác đắt hơn. Điều này đã làm cho sự lan truyền suy thoái kinh tế từ nước này sang nước khác trầm trọng hơn.
Thứ ba là các doanh nghiệp ở Đông Á là các doanh nghiệp có tỷ lệ nợ cao vì thế việc áp đặt lãi suất cao đã đẩy nó nhanh chóng lâm vào tình trạng phá sản. Thậm chí nếu không phá sản, giá trị vốn cổ phần của doanh nghiệp cũng sẽ giảm nhanh chóng khi nó phải trả những khoản nợ khổng lồ cho các chủ nợ. Để bảo vệ cho luận điểm của mình là đúng, IMF đã lập luận rằng nếu lãi suất không được đẩy lên cao, tỷ giá sẽ sụp đổ và điều này sẽ gây thiệt hại cho các doanh nghiệp có nợ bằng đồng đô la. Nhưng thực tế là tăng lãi suất không hề ổn định đồng tiền mà thậm chí còn đẩy các doanh nghiệp chẳng liên quan gì phải trả giá cho những doanh nghiệp vay nợ nước ngoài nhiều. Hơn thế nữa, việc giảm lãi suất sau đó đã không làm cho các doanh nghiệp phục hồi lại được bởi giá trị của doanh nghiệp đã bị xoá bỏ hoàn toàn.
Thứ tư, trong khi Nhật Bản đề nghị giúp 100 tỉ USD để thành lập Quỹ tiền tệ Châu Á, nhằm tài trợ cho những biện pháp kích thích kinh tế cần thiết thì Bộ Tài chính Mỹ và IMF đã phản đối kịch liệt. Chỉ đến khi, nó không thể lờ đi được cuộc khủng hoảng thì sự trợ giúp 30 tỷ USD sau đó của Nhật Bản mới được thông qua. Nhưng ngay cả như thế, IMF vẫn cho rằng khoản tiền đó không nên dùng để kích thích nền kinh tế mà nên dùng để tái cấu trúc doanh nghiệp và hệ thống tài chính (cứu giúp các ngân hàng nước ngoài và các chủ nợ).
4.3.2 Vòng hai của những sai lầm: Lúng túng trong tái cơ cấu
Cái vòng luẩn quẩn trong một cuộc khủng hoảng: Hệ thống tài chính được coi là bộ não của nền kinh tế nên khi hệ thống tài chính tan vỡ các doanh nghiệp sẽ không thể vay vốn lưu động để duy trì sản xuất. Một cuộc khủng hoảng có thể tạo ra một vòng luẩn quẩn, trong đó ngân hàng cắt giảm vốn cho vay, doanh nghiệp cắt giảm sản suất và cuối cùng làm giảm sản lượng và thu nhập. Khi sản lượng và thu nhập giảm, lợi nhuận sẽ giảm, doanh nghiệp không trụ vững sẽ lâm vào phá sản. Mà khi doanh nghiệp phá sản đồng nghĩa doanh nghiệp đó không trả được nợ, mà nhiều doanh nghiệp không trả được nợ thì ngân hàng cũng có thể phá sản. Mà khi một ngân hàng phá sản sẽ kéo theo việc những người gửi tiền đổ xô đến rút tiền và điều này đã làm cho khủng hoảng suy thoái là không thể tránh khỏi. Chính vì thế, biện pháp tốt nhất là khi khủng hoảng kinh tế nổ ra là các ngân hàng yếu kém nên được mua lại hoặc sáp nhập vào các ngân hàng khác nhằm đảm bảo lợi ích của người gửi tiền tránh tình trạng rút tiền ồ ạt từ họ.
Coi trọng chọn lọc tự nhiên mà xem nhẹ việc giữ lưu thông cho nguồn vốn: Chiến lược tái cơ cấu tài chính của IMF được tiến hành bằng cách phân các ngân hàng thành 3 loại: những ngân hàng yếu kém cần phải đóng cửa ngay lập tức, những ngân hàng có thể cứu vãn được và những ngân hàng khoẻ mạnh. Nhưng để có thể tồn tại các ngân hàng phải đáp ứng được điều kiện của IMF là tỷ lệ vốn tối thiểu giữa vốn chủ sở hữu và dư nợ tín dụng cùng các tài sản khác. Nhưng điều này có thể là nan giải bởi khi nền kinh tế bị khủng hoảng nghiêm trọng như Đông Á thì rất khó có thể huy động vốn mới. Cách còn lại duy nhất để đáp ứng tỉ lệ vốn tối thiểu là giảm dư nợ cho vay nhưng khi các ngân hàng giảm dư nợ cho vay các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp có tỉ lệ nợ vay cao như Đông Á càng khó khăn hơn. Và khi nhu cầu về vốn này không được đáp ứng doanh nghiệp phải cắt giảm sản xuất và điều này chỉ càng làm cho nền kinh tế lâm vào vòng xoáy khủng hoảng sâu hơn.
Sở hữu không rõ ràng trong tái cấu trúc doanh nghiệp: Những doanh nghiệp đối mặt với phá sản thường nằm trong tình trạng không rõ ai là chủ, người chủ hiện tại hay người chủ nợ. Vấn đề sở hữu chưa được giải quyết khi các doanh nghiệp này thoát khỏi tình trạng phá sản. Nhưng nếu không có một chủ sở hữu rõ ràng, bộ máy quản lí hiện thời và người chủ cũ có động cơ làm thất thoát tài sản. Trong trường hợp này, chính phủ cần đóng vai trò chủ động đẩy mạnh tái cơ cấu tài chính để đảm bảo rằng doanh nghiệp có chủ thực sự. Tuy nhiên, IMF không nghĩ thế, họ cho rằng chính phủ không nên đóng vai trò chủ động trong tái cơ cấu tài chính nhưng nên thúc đẩy tái cơ cấu sản xuất, bán tài sản. Nhưng điều này chỉ làm cho tình hình kinh tế thêm xấu đi chứ không thể làm cho doanh nghiệp có khả năng phục hồi.
4.3.3 Đánh bạc với rối loạn chính trị: Với những sai lầm của IMF trong việc thi hành chính sách tài khoá và tiền tệ thu hẹp đã làm cho tình trạng bất ổn chính trị ngày càng tăng lên, đặc biệt với một quốc gia có lịch sử xung đột sắc tộc như Indonesia. Mà khi bất ổn chính trị xảy ra, thì niềm tin nền kinh tế được phục hồi sẽ trở thành không tưởng. Lúc này, luồng vốn sẽ tháo chạy chứ không thu hút được vốn vào đất nước.
Bên cạnh đó, việc cắt giảm mạnh trợ cấp lương thực và nhiên liệu cho người nghèo ở Indonesia đã càng làm cho bạo loạn xảy ra gay gắt hơn và nền kinh tế càng lâm vào khó khăn hơn. Thậm chí, ngay cả khi trợ cấp được khôi phục lại thì cũng khó có thể hàn gắn lại được như trước.
4.4 Các nước Đông Á đã vượt qua khủng hoảng như thế nào?
4.4.1 Thành công của Malaysia, Trung Quốc
Thành công của Malaysia có được là do: (1) Mặc dù tỷ lệ nợ khó đòi cao nhưng ngân hàng trung ương đã có những quy định chặt chẽ đảm bảo các ngân hàng trích đủ dự phòng rủi ro. Những quy định chặt chẽ này đã giúp các ngân hàng tránh được rủi ro biến động tỷ giá và hạn chế tỉ lệ nợ nước ngoài của các doanh nghiệp mà ngân hàng cho vay. (2) Khi khủng hoảng khu vực biến thành khủng hoảng toàn cầu và thị trường tài chính đóng băng, chính phủ Mahathir đã có định đồng ringgit (3.8 ringgit=USD), giảm lãi suất và ra sắc lệnh rút tất cả các nguồn tiền tệ gửi ở nước ngoài. Chính phủ cũng áp đặt giới hạn chặt chẽ trong chuyển vốn đầu tư nước ngoài ra khỏi Malaysia trong vòng 12 tháng. Những gải pháp này được thông báo là ngắn hạn và được chuẩn bị chu đáo để làm rõ rằng nước này không hề ngăn cản đầu tư nước ngoài dài hạn. Những ai đã đầu tư tiền vào Malaysia có lợi nhuận được chuyển lợi nhuận ra nước ngoài. Điều này, đã giúp họ tránh được nhiều rủi ro do dòng vốn chảy vào hoặc ra đã được kiểm soát. Hơn nữa, kiểm soát vốn đã giúp cho họ hạ lãi suất dẫn tới là ít doanh nghiệp bị phá sản, tiền quỹ dùng để cứu các doanh nghiệp cũng ít hơn nên chính phủ cũng ít phải vay nợ hơn.
Thành công của Trung Quốc là do: (1) khi gặp suy thoái kinh tế, chính phủ đã thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô mở rộng thay vì là thu hẹp như cảnh báo của IMF. Điều này đã giúp họ tăng trưởng kinh tế mạnh hơn và tạo ra nhiều cơ hội lớn cho đầu tư công cộng với tỷ suất lợi nhuận cao. (2) Trong khi quyết định kinh tế, họ đã quan tâm tới mối quan hệ ổn định vĩ mô và kinh tế vi mô và tiếp tục tái cơ cấu khu vực doanh nghiệp và tài chính, đồng thời xem xét kĩ mối quan hệ giữa kinh tế với ổn định chính trị xã hội. Và những điều trên, cộng hưởng lại đã giúp Trung Quốc vượt qua khủng hoảng một cách nhanh chóng.
4.4.2 Bức tranh tương phản giữa Hàn Quốc và Thái Lan: Trong khi Thái Lan tuân thủ hoàn toàn vào phương thuốc của IMF thì Hàn Quốc đã đi theo phương thức ngược lại. Chính phủ Hàn Quốc cũng như Malaysia đã đóng vai trò chủ động hơn trong tái cơ cấu doanh nghiệp, họ giữ tỉ giá thấp thay vì để tăng lên nhằm tích luỹ dự trữ ngoại tệ, kích thích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu. Và điều này đã giúp cho Hàn Quốc phục hồi nhanh hơn nhiều so với Thái Lan.
4.5 Chiến lược thay thế: Trước tiên, để thoát khỏi khủng hoảng đòi hỏi cần giữ nền kinh tế ở mức toàn dụng lao động nhất có thể. Để đạt được nó cần duy trì chính sách tài khoá và tiền tệ mở rộng. Tiếp theo là phải tái cơ cấu tài chính nhưng với mục tiêu là duy trì dòng vốn, tạm dừng thanh toán các khoản nợ. Trong tái cơ cấu doanh nghiệp cần một điều khoản phá sản đặc biệt nhằm giải quyết nhanh những khó khăn do biến động kinh tế vĩ mô lớn hơn mức thông thường. Bên cạnh đó, chính phủ cần phải can thiệp mạnh mẽ để tập trung tái cơ cấu tài chính, thiết lập quan hệ sở hữu rõ ràng để làm cho các doanh nghiệp tham gia trở lại thị trường tín dụng, tận dụng cơ hội xuất khẩu do tỷ giá thấp mang lại, hạn chế thất thoát tài sản và tạo động lực mạnh mẽ cho doanh nghiệp tham gia mọi quá trình tái sản xuất.
5 Sự thất bại về chính sách của IMF tại Nga:
5.1 Nguyên nhân thất bại của kinh tế kế hoạch hoá tập trung: (1) không có một cơ quan chính phủ nào có thể thu thập và xử lý đầy đủ thông tin cần thiết để đảm bảo nền kinh tế vận hành tốt. (2) Không có sở hữu tư nhân và động lực lợi nhuận sẽ không khuyến khích được sản xuất. (3) Chế độ thương mại bị kiểm soát kết hợp với bao cấp tràn lan và giá cả tuỳ tiện làm cho hệ thống giá cả bị bóp méo.
5.2 Những thách thức và cơ hội trong quá trình chuyển đổi:
5.2.1 Thách thức: (1) Các ngân hàng ở Nga cũng huy động tiền gửi nhưng họ không có quyền quyết định cho ai vay cũng như không có trách nhiệm giám sát để khoản vay đó sẽ được trả. Thay vào đó, họ chỉ việc cung cấp vốn theo lệnh của cơ quan kế hoạch trung ương. Tương tự các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá, họ cũng không được quyết định sản xuất cái gì, mà chỉ cần họ sản xuất đủ chỉ tiêu theo những đầu vào sẵn có. Điều này dẫn đến nạn tham nhũng và lách luật ngày càng gia tăng khi Nga chuyển sang kinh tế thị trường. (2) Trong hoạt động sản xuất nông nghiệp, nông dân được cấp hạt giống và phân bón, họ không phải lo lắng về đầu vào hay bán sản phẩm như thế nào? (3) Dưới chế độ Liên Xô cũ, cũng không hề có thất nghiệp do đó không cần có bảo hiểm thất nghiệp. Công nhân thường làm cho một doanh nghiệp nhà nước đến hết đời và doanh nghiệp cấp nhà và lương hưu cho họ nên thị trường nhà đất và hệ thống an sinh cũng không hề tồn tại. (4) Họ phải chuyển đổi hệ thống một giá sang hệ thống giá kinh tế thị trường. Họ cũng phải tư nhân hoá tất cả các doanh nghiệp nhà nước và tạo ra cách thức kinh doanh mới nhằm phân bổ nguồn lực một cách hiệu quả.
5.2.2 Cơ hội: Nga là một nước giàu và người dân có trình độ giáo dục cao, đặc biệt là trong lĩnh vực khoa học kĩ thuật rất quan trong trong nền kinh tế mới.
5.3 Chiến lược cải cách: Do nhiệt tình và mong muốn chuyển nhanh sang kinh tế thị trường, hầu hết giá cả được thả nổi đã tạo động cơ cho lạm phát quét sạch các khoản tiết kiệm và đưa vấn đề ổn định vĩ mô lên hàng đầu. Để kiềm chế lạm phát, biện pháp tiếp theo đó được thực hiện là thắt chặt chính sách tiền tệ và nâng cao lãi suất. Điều này đã làm cho nhiều người không có đủ tiền để mua những doanh nghiệp được tư nhân hoá. Thậm chí, nếu họ có mua được thì việc vực dậy chúng cũng là rất khó trong bối cảnh lãi suất cao và thiếu những thể chế tài chính cung cấp vốn vay.
Trong khi hầu hết giá cả được thả nổi thì một giá giá cả quan trọng được giữ ở mức thấp như tài nguyên thiên nhiên đã dẫn đến nhiều người lợi dụng vào chính sách sai lầm của chính phủ để làm giàu thay vì kiếm tiền bằng cách thành lập doanh nghiệp mới. Những điều trên, đã làm cho chiến lược cải cách cấp tiến ở Nga gặp thất bại: GNP giảm từ năm này qua năm khác kể từ sau 1989. Các chương trình ổn định hoá, tự do hoá, tư nhân hoá với mục đích là tạo ra những tiền đề tăng trưởng cũng không tạo ra được bất cứ một sự tăng trưởng nào. Chính phủ mặc dù có tài nguyên dồi dào nhưng lại nghèo. Chính phủ không thể trả nổi lương hưu cho người già và trợ cấp phúc lợi cho người nghèo.
5.4 Cuộc khủng hoảng 1998: Trong khi nền kinh tế đang nợ nần nặng nề thì lãi suất cao do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng Đông Á tạo ra những khó khăn mới giá dầu mỏ giảm và phá giá tiền tệ là không tránh khỏi.
Đồng rúp bị đánh giá quá cao dẫn tới hàng nhập khẩu tràn ngập, hàng nội địa phải cạnh tranh vất vả, đầu tư chững lại, hàng tiêu dùng không được sản xuất. Như vậy, tỷ giá bị đánh giá quá cao kết hợp với chính sách kinh tế vĩ mô mà IMF đưa vào đã "bóp chết" nền kinh tế.
Trong khi đồng rúp bị đánh giá cao là một thảm hoạ đối với người dân nước Nga và nước Nga thì với tầng lớp doanh nhân mới tỷ giá cao là một mối lợi. Vì họ chỉ cần ít đồng rúp để đổi được 1 đồng USD.
Mặc cho những khổ sở mà phần lớn người dân Nga phải gánh chịu, IMF lại khăng khăng chống lại bất kì một sự thay đổi nào trong tỷ giá và sẵn sàng bỏ hàng tỉ USD để tránh điều đó. Cho tới tháng 6/1998, Nga cần phải có sự trợ giúp bên ngoài để giữ tỷ giá. Niềm tin vào đồng rúp bị xói mòi và họ tin rằng việc phá giá đồng rúp là không tránh khỏi, lãi suất trong nước tăng vọt và tiền chạy khỏi nước Nga với tốc độ nhanh khi người dân chuyển tiền từ rúp sang USD.
Thêm vào đó, trước khi xảy ra khủng hoảng IMF đã thúc giục Nga vay ngoại tệ nhiều hơn và giảm vay bằng đồng rúp. Họ cho rằng, lãi suất đồng rúp cao hơn đồng USD nên vay bằng đồng USD chính phủ có thể tiết kiệm được chi phí. Nhưng họ đã sai lầm, bởi nếu đồng rúp bị phá giá, Nga sẽ gặp khó khăn gấp bội khi phải trả nợ cho khoản nợ bằng USD.
5.5 Kế hoạch cứu giúp và sự thất bại: Khi khủng hoảng nổ ra, IMF là người lãnh đạo những nỗ lực cứu giúp nhằm ngăn chặn sự suy giảm tỷ giá. Tổng cộng khoản giúp đỡ cả gói là 22.6 tỉ USD, trong đó IMF là 11.2 tỉ USD, WB là 6 tỉ và phần còn lại do chính phủ Nhật Bản cung cấp. Tuy nhiên, khoản vay này đã tao ra nhiều băn khoăn, họ lo rằng liệu những lợi ích đối với tăng trưởng trong tương lai có đủ lớn để bù đắp cho khoản vay này không hay chỉ gây thêm nạn tham nhũng và làm thất thoát tài sản? Thật không may, là những băn khoăn này đã trở thành hiện thực; kế hoạch cho vay tiền để ổn định tỷ giá đã không mang lại hiệu quả mà còn gây ra thiệt hại cho nền kinh tế. Cụ thể, đến tháng 1/1999, đồng rúp đã mất giá so với thực tế hơn 45% so với thời điểm tháng 7/1998, và chỉ sau 3 tuần kể từ khi khoản vay được thực hiện, Nga tuyên bố đơn phương ngừng thanh toán khoản nợ và phá giá đồng rúp. Tuyên bố này, đã đẩy nhanh cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Lãi suất cho vay các thị trường mới nổi tăng cao hơn cả mức đỉnh cao của cuộc khủng hoảng Đông Á. Mà khi lãi suất tăng, người nông dân và doanh nghiệp không thể tiếp cận được nguồn vốn tín dụng. Điều này đã làm cho nghèo đói và bất bình đẳng gia tăng nhanh chóng từ 2% người nghèo (1989) lên 23.8% (1998). Hơn nữa, khi bất bình đẳng và nghèo đói gia tăng nó đã làm cản trở tăng trưởng và gây nên mất ổn định về chính trị.
5.6 Liệu pháp sốc liệu có phù hợp với nền kinh tế của Nga trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường hay không? Cuộc tranh luận lớn nhất về chiến lược cải cách của nước Nga tập trung vào tốc độ của cuộc cải cách. Những người ủng hộ liệu pháp sốc cho rằng, nếu họ không tư nhân hoá nhanh chóng, tạo ra một lực lượng lớn có lợi ích đi theo chủ nghĩa tư bản, sẽ có sự đảo chiều quay lại con đường chủ nghĩa cộng sản. Những người ủng hộ cải cách từng bước lại cho rằng, nếu họ chuyển đổi quá nhanh, cải cách sẽ trở thành thảm hoạ với thất bại kinh tế đi kèm với tham nhũng chính trị. Họ tin rằng quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường sẽ tốt hơn nếu được chuyển đổi với nhịp độ hợp lí, theo thứ tự phù hợp. Bởi nếu tư nhân hoá một lĩnh vực độc quyền mà chưa có môi trường cạnh tranh hay một cơ chế quản lý hiệu quả có thể sẽ biến thành độc quyền tư nhân, bóc lột người tiêu dùng thậm chí còn tồi tệ hơn. Vì vậy, vội vã sẽ gây ra lãng phí và không thể có được một chương trình cải cách tốt. Thứ tự và nhịp độ cải cách đóng vai trò quan trọng. Chẳng hạn, có những điều kiện tiên quyết để tư nhân hoá thành công trên quy mô lớn và việc tạo ra những điều kiện tiên quyết đó cần có thời gian. Hình mẫu cải cách ở Nga cho thấy động cơ lợi ích đóng vai trò quan trọng nhưng chủ nghĩa tư bản nửa mùa ở Nga không tạo ra động lực cho hoạt động tạo ra của cải vật chất và tăng trưởng kinh tế mà tạo ra động lực cho hoạt động bòn rút tài sản.
6. Luật lệ thương mại bất công và những thủ đoạn khác:
6.1 Điều đáng lẽ nên làm: Những lợi ích dài hạn của phương Tây có lẽ đã được đảm bảo tốt hơn nếu như IMF và Bộ tài chính Mỹ không dính líu quá thân mật với một vị lãnh đạo cụ thể nào, miễn là họ duy trì được sự ủng hộ rộng rãi trong các tiến trình dân chủ. Điều này có thể đạt được thông qua việc ủng hộ những nhà lãnh đạo trẻ mới nổi ở Moscow và các tỉnh, những người chống lại tham nhũng và nỗ lực tạo dựng một nền dân chủ thực sự.
6.2 Lợi ích của Mỹ và cải cách ở Nga: Có nhiều người ở Nga cho rằng những chính sách của IMF thất bại không phải là một tai nạn ngẫu nhiên: những thất bại này đều được tính toán nhằm bòn rút sức mạnh của Nga và làm cho nó vĩnh viễn không thể trở thành mối đe doạ trong tương lai. Nhưng, những chính sách đó không hoàn toàn vô vị lợi. Lợi ích kinh tế của Mỹ - nói đúng hơn là những lợi ích thương mại, tài chính đã được phản ánh trong chính sách này. Chẳng hạn, sự trợ giúp vào tháng 7/1998 vừa là sự trợ giúp cho những ngân hàng phương Tây có nguy cơ mất hàng tỉ USD, vừa là sự trợ giúp cho Nga. Nhưng không chỉ lợi ích trực tiếp của phố Wall mà cả hệ tư tưởng phổ biến trong công đồng tài chính cũng ảnh hưởng đến các chính sách. Chẳng hạn, phố Wall cho rằng lạm phát làm xói mòn giá trị thực các khoản nợ, làm tăng lãi suất và làm giảm giá trái phiếu. Với các nhà tài chính, thất nghiệp không phải là mối quan tâm nhiều lắm. Với phố Wall, chẳng có gì quan trọng bằng tài sản tư nhân nên chẳng có gì ngạc nhiên khi tư nhân hoá được quan tâm đến thế.
Những nhóm lợi ích ở Mỹ đã tác động đến chính sách theo cách đi ngược lại với lợi ích quốc gia và làm cho Mỹ có vẻ như một đất nước đạo đức giả. Nước Mỹ ủng hộ tự do thương mại nhưng khi các nước nghèo tìm ra được một mặt hàng nào đó có thể xuất sang Mỹ thì thường là những nhóm lợi ích bảo hộ lại thắng thế. Họ sử dụng nhiều luật lệ thương mại để dựng lên những hàng rào thép gai nhằm ngăn cản nhập khẩu từ các quốc gia đang phát triển.
6.3 Vụ hình thành Cartel nhôm: Ngay sau khi giá nhôm rơi tự do vào năm 1994, những nhóm lợi ích ở Mỹ đã can thiệp vào thương mại và quá trình cải cách. Để phản ứng lại sự sụt giá, những nhà sản xuất nhôm Mỹ đã cáo buộc Nga bán phá giá. Nhưng trên thực tế, Nga đang bán đúng giá quốc tế, mức giá đã bị giảm là do cầu về nhôm trên toàn cầu giảm khi kinh tế toàn cầu suy thoái và bởi Nga cắt giảm sử dụng nhôm cho các máy bay quân sự. Nhưng điều đáng nói ở đây là, Mỹ là quốc gia rất ủng hộ chính sách kinh tế thị trường nhưng chính phủ Mỹ không chỉ cho phép mà còn đóng vai trò quan trong trong việc tạo ra cartel nhôm. Cartel này hoạt động bằng cách hạn chế sản lượng nhằm nâng giá nhôm lên. Điều này đã gây ảnh hưởng không tốt bởi nó dễ tạo ra những cuộc chiến đẫm máu để tranh giành hạn ngạch vì với cartel, mỗi nước sẽ được cấp một hạn ngạch nhôm họ được phép sản xuất hoặc xuất khẩu.
6.4 An ninh quốc gia để bán: Vào thời kì của chính quyền Bush (cha) và thời kì đầu của chính quyền Clinton, Nga và Mỹ đã kí một bản thoả thuận "biến gươm giáo thành cày cuốc". Một doanh nghiệp của chính phủ Mỹ - USEC sẽ mua uranium lấy từ đầu đạn hạt nhân của Nga và chuyển về Mỹ sử dụng trong các nhà máy điện nguyên tử. Vụ mua bán này sẽ giúp Nga số tiền Nga đang cần để kiểm soát tốt hơn kho nguyên liệu hạt nhân Nga đang nắm giữ.
Không thể tin nổi là người ta lại viện dẫn đến những luật thương mại công bằng để cản trở vụ chuyển giao này. Nhưng nhà sản xuất uranium của Mỹ tuyên bố rằng Nga đang bán phá giá uranium trên thị trường Mỹ. Tuy nhiên thì cũng như vụ hình thành Cartel nhôm đã trình bày ở trên, Nga hoàn toàn không bán phá giá.
Hơn nữa, khi USEC được uỷ quyền để mang uranium đã làm giàu từ Nga về thì nhiều chuyên gia đã cảnh báo về động cơ của một USEC bị tư nhân hoá- nó sẽ có động cơ để không mang uranium về Mỹ. Đây là một mối lo ngại về sự tràn lan của vũ khí hạt nhân - về việc nguyên liệu hạt nhân sẽ lọt vào tay của những tổ chức khủng bố. USEC khăng khăng rằng sẽ không bao giờ hành động đi ngược lại lợi ích của Mỹ và khẳng định sẽ mang uranium về ngay sau khi Nga muốn bán. Nhưng khi Nga tăng gấp ba lần lượng hàng, USEC không chỉ từ chối vụ việc mà còn phải trả một khoàn lớn để giữ bí mật đề nghị này của Nga.
6.5 Bài học cho nước Nga: IMFvà Bộ tài chính Mỹ cho rằng, tự do hoá thương mại là cần thiết để xây dựng thành công trong nền kinh tế thị trường nhưng khi Nga cố gắng xuất khẩu nhôm và uranium sang Mỹ, họ thấy cánh cửa đã bị đóng kín. Thực tế là nước Mỹ đã thành công mà chẳng cần tự do hoá thương mại. Họ được dạy là cạnh tranh là quan trọng nhưng chính phủ Mỹ lại đang thành lập một cartel về nhôm và trao quyền độc quyền nhập khẩu uranium đã làm giàu cho một nhà sản xuất độc quyền của Mỹ. IMF va Mỹ đã yêu cầu Nga tư nhân hoá nhanh chóng nhưng nỗ lực tư nhân hoá ở Mỹ kéo dài nhiều năm trời.
7 Những con đường tốt hơn đi tới kinh tế thị trường:
7.1 Con đường dẫn đến thành công của Ba Lan và Trung Quốc: Ba Lan va Trung Quốc đã áp dụng những phương pháp khác với những phương pháp mà Đồng thuận Washington ủng hộ. Kết quả là Ba Lan là nước thành công nhất trong những nước Đông Âu, Trung Quốc đạt mức tăng trưởng nhanh nhất so với bất kì nền kinh tế lớn nào trong vòng 20 năm qua.
7.1.1 Con đường mà Ba Lan lựa chọn: Lúc đầu, Ba Lan cũng dùng "liệu pháp sốc" để đưa lạm phát phi mã xuống mức chấp nhận được. Sau khi lạm phát được giảm tới mức mong muốn, nước này đã áp dụng chiến lược tư nhân hoá dần dần cùng lúc với xây dựng những thể chế cơ bản của nền kinh tế thị trường, chẳng hạn các ngân hàng và một hệ thống pháp luật có thể cưỡng chế hợp đồng và xử lí phá sản một cách công bằng. Họ nhân ra rằng, không có các thể chế đó, một nền kinh tế thị trường không thể hoạt động tốt. Hơn nữa, họ đã chú tâm vào những việc mà IMF không chú ý đầy đủ như tầm quan trọng của sự ủng hộ dân chủ đối với quá trình cải cách, điều này đòi hỏi họ phải giữ thất nghiệp ở mức thấp, trợ cấp cho những người thất nghiệp, điều chỉnh lương hưu theo lạm phát và xây dựng cơ sở hạ tầng thể chế cần thiết cho nền kinh tế thị trường hoạt động. Việc tư nhân hoá dần dần giúp cho quá trình tái cơ cấu có thể thực hiện trước khi tư nhân hoá và các doanh nghiệp lớn có thể được chia thành những đơn vị nhỏ hơn. Nhờ đó, một khu vực doanh nghiệp nhỏ năng động có thể hình thành và được những doanh nhân trẻ mong muốn đầu tư cho tương lai của chính họ lãnh đạo.
7.1.2 Con đường của Trung Quốc chọn lựa: Ngay từ những bước đi đầu tiên của quá trình chuyển đổi, Trung Quốc đã tiến hành cải cách hệ thống nông nghiệp sang hệ thống "trách nhiệm cá nhân" (tư nhân chịu trách nhiệm một phần). Điều này đã tạo được sự ủng hộ rộng rãi: thử nghiệm thành công ở một tỉnh sau đó nhân rộng ra nhiều tỉnh khác nhưng vẫn thành công không kém. Kết quả của sự thành công này không phải do chính phủ bắt ép người dân thay đổi mà do người dân hăng hái đón nhận.
Bên cạnh việc chuyển đổi trong lĩnh vực nông nghiệp, Trung Quốc cũng đã tiến hành chuyển đổi hệ thống một giá trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang hệ thống giá thị trường. Họ đã duy trì hệ thống 2 giá, trong đó doanh nghiệp bán theo giá cũ những sản phẩm sản xuất theo hạn ngạch cũ còn những sản phẩm sản xuất vượt quá hạn ngạch được bán theo giá thị trường tự do. Hệ thống này đã tạo được động lực lợi nhuận nhưng tránh được khối lượng tái phân phối khổng lồ nếu như hệ thống giá mới được áp dụng ngay cho toàn bộ sản lượng, nó cũng tránh được nguy cơ lạm phát lan tràn do sử dụng liệu pháp sốc của Nga và ngay khi hoàn thành được mục tiêu đề ra, hệ thống hai giá đã được bãi bỏ.
Thêm vào đó, trong quá trình giải phóng nguồn lực trong nông nghiệp và để họ tự do tìm kiếm mặt hàng để sản xuất. Họ đã mời gọi các doanh nghiệp nước ngoài tham gia liên doanh bằng cách tạo lập môi trường cạnh tranh dẫn đến Trung Quốc trở thành nước nhận đầu tư nước ngoài lớn nhất trong thị trường mới nổi và đứng thứ 8 trên thế giới. Họ thành lập cùng lúc những cơ sở hạ tầng thể chế như cơ quan quản lý ngân hàng, uỷ ban chứng khoán và hệ thống an sinh. Khi hệ thống an sinh được hình thành, tạo ra nhiều việc làm mới họ mới bắt đầu nhiệm vụ tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, giảm quy mô của chúng cũng như quy mô của chính phủ.
Trong suốt những năm chuyển đổi, các doanh nghiệp hương trấn đóng vai trò trung tâm. Họ hướng nguồn vốn quý giá của họ vào nơi sinh lợi và họ phải cạnh tranh gay gắt để thành công. Họ biết liệu công ăn việc làm có đang được tao ra và thu nhập có tăng hay không. Mặc dù xã hội lúc này không có dân chủ nhưng mọi người có trách nhiệm rõ ràng đã tạo điều kiện cho những ngành công nghiệp mới hình thành ở nông thôn. Điều này đã góp phần làm giảm áp lực xã hội trong quá trình công nghiệp hoá. Như vậy, Trung Quốc đã xây dựng được nền tảng của nền kinh tế mới trên những thể chế có sẵn, duy trì và nâng cao được vốn xã hội, trong khi Nga lại làm xói mòn.
Như vậy, ngoài cách cải cách mà IMF đã thực hiện ở các nước như Thái Lan, Indonesia, Nga…thì còn có một cách cải cách khác - cải cách từng bước. Nó hoàn toàn gây ra ít đau đớn hơn trong ngắn hạn, ổn định chính trị xã hội tốt hơn và tăng trưởng nhanh hơn trong dài hạn.
7.2 Con đường mà Nga cần hướng tới: Để thiết lập những chính sách có thể tạo ra sự thay đổi trước tiên Nga cần nhìn lại những sai lầm trong quá khứ của nó: đó là sự thiếu tập trung vào những nền tảng của nền kinh tế thị trường, từ những thể chế tài chính cho các doanh nghiệp mới vay đến những luật lệ đảm bảo hợp đồng và thúc đẩy cạnh tranh, đến hệ thống tư pháp độc lập và trung thực. Vì thế, Nga cần phải làm nhiều hơn thay vì chỉ tập trung vào ổn định kinh tế vĩ mô và thúc đẩy tăng trưởng. Trước tiên, để có thể tăng trưởng, Nga cần phải tạo ra được một môi trường đầu tư thân thiện. Điều này đòi hỏi hành động từ tất cả các cấp chính quyền bởi lẽ nếu không có sự hành động nhất quán thì một chính sách tốt ở tầm quốc gia có thể bị làm hỏng bởi những chính sách kém ở tầm địa phương và khu vực. Hơn nữa, để có được tăng trưởng Nga cần phải đảm bảo ổn định chính trị. Bất bình đẳng lớn và nghèo đói tạo ra môi trường cho đủ loại phong trào, một trong số đó không chỉ là mối đe doạ đến tương lai kinh tế của Nga mà cả hoà bình thế giới. Thêm vào đó, Nga cần phải thu thuế trong các ngành tài nguyên thiên nhiên bởi vì doanh thu và sản lượng trong khu vực này dễ giám sát và do đó dễ thu thuế. Nga cũng phải đưa ra những biện pháp cứng rắn nhằm ngăn chặn việc các doanh nghiệp không nộp thuế. Bởi nếu các doanh nghiệp nộp thuế, chính phủ Nga sẽ có nguồn lực để giải quyết những vấn đề tồn tại trong xã hội.
8 Lịch trình khác của IMF:
8.1 IMF xưa và nay: IMF được thành lập trên cơ sở nhằm đảm bảo cho nền kinh tế các nước hoạt động ở mức toàn dụng, sửa chữa những thất bại của thị trường, những thất bại thông qua quá trình phối hợp hành động và cung cấp tính thanh khoản cho các nước đang gặp suy thoái mà không đủ khả năng để theo đuổi chính sách tiền tệ mở rộng. Nhưng ngày nay, IMF lại làm ngược lại. Họ cho rằng thị trường luôn làm việc hiệu quả và chính phủ nói chung làm việc tồi. Họ gây áp lực lên các nước, đặc biệt là các nước đang phát triển, thực hiện nhiều chính sách vĩ mô thu hẹp hơn cả mức mà các nước này mong muốn lựa chọn theo ý mình. Kết quả là, những chính sách không chỉ làm cho các vấn đề mà nó giải quyết tồi tệ thêm mà còn làm cho những vấn đề đó xuất hiện lặp đi lặp lại.
8.2 Vai trò mới cho một chế độ tỷ giá mới? Như đã biết, IMF là tổ chức luôn ủng hộ thị trường tự do bởi nó tin rằng thị trường sẽ hoạt động tốt hơn khi không có sự can thiệp của chính phủ. Nhưng gần đây, IMF đã thực hiện những can thiệp mạnh mẽ, nó đã chi hàng tỉ USD để giữ tỉ giá ở Brazil và Nga tại mức không bền vững. IMF lý giải cho sự can thiệp đó là đôi khi thị trường thể hiện sự bi quan thái quá và nó có thể giúp ổn định thị trường. Tuy nhiên, thị trường có thể rơi vào tình trạng bi quan như IMF đã lý giải thì thị trường cũng có thể rơi vào tình trạng lạc quan thái quá. Điều này, không chỉ xuất hiện trên thị trường ngoại hối mà ngay cả trên thị trường tài chính. Chẳng hạn, sự lạc quan thái quá đã dẫn đến bong bóng bất động sản và thị trường chứng khoán của Thái Lan (do dòng tiền nóng liên tục chảy vào nước này). Nhưng sau sự lạc quan thái quá này là sự bi quan thái quá: dòng vốn đột ngột đảo chiều. Trên thực tế, sự thay đổi hướng của dòng vốn đầu cơ là nguyên nhân gốc rễ của sự biến động tỷ giá. Nhưng tư tưởng thị trường tự do đã tạo điều kiện cho dòng tiền đầu cơ nóng chảy vào và chảy ra khỏi một nước dễ dàng hơn nên khi IMF chi hàng tỉ USD vào để ổn định tỉ giá ở mức quá cao. Điều này đã tạo điều kiện cho phần lớn nhà đầu cơ kiếm lợi được một khoản bằng với khoản lỗ của chính phủ.
8.3 Thâm hụt thương mại: Khi thâm hụt thương mại lớn có thể là một vấn đề bởi nó ngụ ý rằng một nước phải vay nợ hết năm này đến năm khác. Và nếu như những người cho vay thay đổi ý kiến và dừng cho vay thì nước này thường sẽ gặp vấn đề lớn - một cuộc khủng hoảng.
8.4 Phá sản và rủi ro đạo đức: Trong nền kinh tế thị trường, nếu một chủ nợ có nợ xấu, anh ta phải chịu toàn bộ tổn thất. Người vay nợ có thể sẽ bị phá sản và các nước đều có luật về thủ tục phá sản. Nhưng các chương trình của IMF thì thường đi ngược lại, họ cung cấp tiền cho các chính phủ để trợ giúp cho các chủ nợ. Các chủ nợ, do dự đoán được việc IMF sẽ trợ giúp, nên không có động lực mạnh mẽ để đảm bảo người vay có thể trả nợ. Đây chính là vấn đề "rủi ro đạo đức" phổ biến trong ngành bảo hiểm bởi lẽ bảo hiểm đã làm giảm động lực cần cẩn trọng. Nếu như bạn là một người cho vay bạn sẽ ít quan tâm đến việc lựa chọn người vay một khi biết rằng bạn sẽ được trợ giúp nếu như khoản vay đó không đòi được. Tương tự, các doanh nghiệp thận trọng có thể mua bảo hiểm để chống lại sự biến động tỷ giá nhưng việc IMF can thiệp để ngăn cản việc mất giá đồng tiền đã khuyến khích họ chấp nhận rủi ro do biến động tỷ giá và không phải lo lắng về nó.
8.5 Liệu IMF có phục vụ cho cộng đồng tài chính?
Sự thiếu nhất quán trong mục tiêu và hành động của IMF đã dẫn đến vô số vấn đề và người ta đã đặt câu hỏi, tại sao lại có sự thiếu nhất quán? Tại sao cứ tồn tại mãi, hết lần này đến lần khác, cả sau khi vấn đề đó đã được chỉ ra? Liệu có một thế lực nào đó đứng sau IMF chi phối hành động của nó hay không? Chúng ta hãy thử tìm hiểu:
Như chúng ta đã đề cập trong phần 1.3.5, nhiều trong số nhân viên chủ chốt của IMF đến từ công đồng tài chính và nhiều trong số những nhân viên chủ chốt của IMF sau khi đã phục vụ tốt những lợi ích của công đồng này, lại rời IMF để nhận những công việc được trả lương cao trong cộng đồng tài chính. Chính vì thế, người ta đã lo lắng rằng, liệu các quan chức của IMF có bị cám dỗ để đối đãi với những ông chủ tương lai của họ đặc biệt tốt, với hi vọng bằng việc làm đó, tương lai của họ sẽ được nâng đỡ ngay cả khi không có một cam kết đền bù tương xứng rõ ràng.
IMF tin rằng tự do hoá thị trường tài chính sẽ dẫn đến tăng trưởng nhanh hơn cho các nước đang phát triển. IMF không bao giờ muốn làm hại người nghèo và tin rằng các chính sách mà nó cổ vũ sẽ đem lại cho lợi ích cho họ, IMF tin vào kinh tế học lọt sang xuống nia và lại không muốn xem quá kĩ bằng chứng có thể nói khác đi. IMF tin rằng kỉ luật của thị trường vốn sẽ giúp các nước nghèo tăng trưởng và do đó nó tin rằng giữ quan hệ tốt với các thị trường tài chính có tầm quan trọng hàng đầu. Khi xem xét chính sách của IMF theo cách này, việc IMF tập trung cho các chủ nợ nước ngoài thu nợ hơn là giúp các doanh nghiệp trong nước hoạt động là có thể hiểu được. IMF không phải là người thu tiền cho G7 nhưng rõ ràng nó đã làm việc hết mình để đảm bảo rằng những chủ nợ trong G7 thu được nợ. Điều này có thể được minh chứng trong cuộc khủng hoảng Đông Á, khi các nước này khủng hoảng lẽ ra IMF phải trợ giúp quá trình giải quyết nợ, phải thu xếp việc ngừng trả nợ cho phép các nước và các doanh nghiệp của họ có thời gian để trả nợ, để tái khởi động nền kinh tế trì trệ của họ. Nhưng ngược lại IMF đã không làm như thế.
Hơn nữa, khi khủng hoảng xảy ra ở nước Nga, hàng tỉ USD IMF cung cấp đã được dùng để bảo vệ tỷ giá ở một mức không bền vững đã tạo điều kiện thuận lợi cho người giàu và người nước ngoài có thể dễ dàng rút tiền của họ ra khỏi đất nước chỉ trong một thời gian ngắn (thông qua việc mở rộng thị trường tài chính mà IMF đã thúc đẩy).
Bên cạnh đó, sau cuộc khủng hoảng Đông Á, những chính sách thắt chặt được áp đặt nhanh chóng lên các nước này đã nhanh chóng dẫn đến sự giảm sút nhập khẩu và sự tích tụ nhanh chóng dự trữ ngoại tệ. Từ góc nhìn của một tổ chức lo lắng về khả năng trả nợ cho chủ nợ, điều này có ý nghĩa: không có dự trữ ngoại tệ, các nước sẽ không thể trả tiền vay bằng USD mà họ và các doanh nghiệp của họ đã vay. Nhưng nếu họ quan tâm đến sự ổn định toàn cầu và sự phục hồi kinh tế của các nước và khu vực, họ phải có cách tiếp cận nới lỏng hơn về tích tụ dự trữ ngoại tệ và cùng lúc đó đưa ra những chính sách để ngăn đất nước khỏi những ảnh hưởng của sự thất thường của các nhà đầu cơ quốc tế. Thái Lan đã tiêu hết dự trữ ngoại tệ năm 1997 để chống lại các nhà đầu cơ. Một khi đã quyết định rằng Thái Lan phải nhanh chóng tích luỹ lại ngoại tệ, việc nước này rơi vào suy thoái trầm trọng là không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, nếu IMF có một chiến lược cảm thông hơn với những lo lắng của con nợ, ít tập trung vào lợi ích của các chủ nợ, đảm bảo cho nền kinh tế vận hành tốt và tạm hoãn tích luỹ ngoại tệ vài năm cho đến khi nền kinh tế quay lại quỹ đạo tăng trưởng thì các nước này đã có thể nhanh chóng thoát khỏi khủng hoảng. Không chỉ riêng cách tạm ngừng trả nợ có thể đem lại lợi ích cho các nước Đông Á mà còn có các cách khác cũng đem lại những kết quả tương tự như: kiểm soát vốn ngắn hạn và "thuế rút vốn" của Malaysia. Các cách này đều nhằm mục đích bảo vệ một nước khỏi sự tàn phá của các nhà đầu cơ hay các chủ nợ.
Với những minh chứng trên đây, chúng ta có thể thấy rõ những băn khoăn của nhiều người về IMF phục vụ lợi ích cho cộng đồng tài chính là hoàn toàn có thực.
9 Con đường phía trước:
9.1 Lợi ích và hệ tư tưởng: Trong khi các tổ chức dường như coi những lợi ích thương mại và tài chính trên hết thảy mọi thứ khác, họ lại không cho là mình đang làm điều đó, mặc cho những bằng chứng chứng minh điều ngược lại. Như vậy, thách thức lớn nhất không phải nằm trong bản thân các tổ chức mà là trong tư duy; quan tâm đến môi trường, đảm bảo rằng người nghèo có tiếng nói trong các quyết định ảnh hưởng đến họ, thúc đẩy dân chủ thương mại công bằng là cần thiết nếu muốn đạt được những lợi ích tiềm tàng của toàn cầu hoá. Vấn đề là các tổ chức này phải thể hiện suy nghĩ của những người mà chúng có trách nhiệm quan tâm. Nhưng, việc thay đổi hệ tư tưởng đã ăn sâu vào một tổ chức như IMF,WTO, WB là không hề dễ dàng.
9.2 Sự cần thiết phải có các tổ chức công quốc tế: Chúng ta không thể đảo ngược được toàn cầu hoá. Chúng ta phải sống chung với nó. Vấn đề là chúng ta làm thế nào để toàn cầu hoá hoạt động có hiệu quả. Và để cho nó hoạt động có hiệu quả cần phải có các tổ chức công quốc tế. Tất nhiên, những tổ chức này nên tập trung vào những vấn đề cần thiết phải có hành động phối hợp toàn cầu bởi lẽ toàn cầu hoá nghĩa là sự gia tăng nhận thức về những "đấu trường"có ảnh hưởng mang tính toàn cầu. Chính trong những đấu trường đó cần thiết phải có sự phối hợp hành động toàn cầu và những hệ thống giám sát toàn cầu. Sự nhận thức về những lĩnh vực này đã đi kèm với sự hình thành các tổ chức toàn cầu để giải quyết những mối lo chung.
9.3 Quản trị và minh bạch: Sự thay đổi cơ bản nhất, cần thiết để làm cho toàn cầu hoá hoạt động theo hướng mà nó nên đi là cần có một sự thay đổi về cơ cấu quản trị. Điều này đòi hỏi phải có sự thay đổi về cách bỏ phiếu ở IMF, WB và trong tất cả các tổ chức kinh tế quốc tế. Những thay đổi đó nhằm đảm bảo rằng không chỉ tiếng nói của các bộ trưởng thương mại được nghe ở WTO hay tiếng nói của bộ trường tài chính ở IMF và WB. Tuy nhiên, để có được những thay đổi này không phải là điều dễ dàng.
Nếu không có sự thay đổi cơ bản trong cơ cấu quản trị, cách quan trọng nhất là các tổ chức quốc tế nên quan tâm hơn đến người nghèo, môi trường và những mối quan tâm chính trị xã hội rộng lớn là phải tăng cường tính minh bạch và mở cửa. Chúng ta đã công nhận vai trò quan trọng hiển nhiên của báo chí tự do và quyền được tiếp cận thông tin để kiểm soát các chính phủ được bầu cử dân chủ của chúng ta. Bất kì thủ đoạn nào, bất kì sự ưu ái nào đều phải chịu sự phán xét và áp lực của dư luận đã có tác động hết sức hiệu quả. Minh bạch thậm chí còn quan trọng hơn trong các tổ chức công như IMF, WB, WTO bởi vì những nhà lãnh đạo đó không được bầu trực tiếp. Mặc dù, chúng là tổ chức công nhưng chúng không chịu trách nhiệm trực tiếp đối với công chúng. Trong khi điều này hàm ý rằng, các tổ chức này phải công khai hơn thì thực tế chúng thậm chí còn kém minh bạch hơn. Mà như chúng ta đã biết, sự thiếu minh bạch thường gây ra những hậu quả nghiệm trọng, tuy nhiên ngay cả khi các chính sách không bị ảnh hưởng bởi những lợi ích cục bộ, sự bí mật cũng gây ra nghi ngờ và chính sự nghi ngờ này làm tăng nguy cơ và giúp duy trì các phong trào phản đổi. Vì thế, một yêu cầu đặt ra là các tổ chức công phải tăng cường công khai và minh bạch bởi lẽ mọi người dân trên thế giới này cần phải biết được các tổ chức này đang làm gì và các quyết định đó được đưa ra như thế nào.
9.4 Cải cách IMF và hệ thống tài chính toàn cầu: Nhận thức về các vấn đề toàn cầu hoá đã tiến một bước dài. Nhưng cải cách hệ thống tài chính quốc tế mới chỉ bắt đầu. Do đó, những cải cách cần thiết chủ yếu bao gồm:
** Thừa nhận sự nguy hiểm của tự do hoá thị trường tài chính và rằng các luồng vốn ngắn hạn ( dòng tiền nóng) gây ra ngoại ứng lớn, gây thiệt hại trực tiếp cho những người không tham gia trực tiếp vào giao dịch. Vì thế, các tổ chức quốc tế nên tập trung nỗ lực làm cho sự can thiệp có hiệu quả hơn.
** Cải cách luật phá sản và ngừng thanh toán. Cách phù hợp để giải quyết vấn đề khi con nợ tư nhân không trả được cho các chủ nợ, dù cho nợ nước ngoài hay nợ trong nước là phá sản chứ không phải thông qua các chương trình trợ giúp của IMF để giúp các chủ nợ. Một cải cách như vậy sẽ có lợi là làm cho các chủ nợ phải cẩn thận và kĩ càng hơn khi cho vay.
** Không dựa nhiều vào các chương trình trợ giúp. Bởi nó thường làm giảm sự cẩn trọng khi cho vay và làm giảm động lực áp dụng các biện pháp chống rủi ro tỷ giá.
** Cải tiến kiểm soát ngân hàng - kể cả về nội dung quy định và việc thực hiện - ở cả các nước đang phát triển và kém phát triển. Những quy định thiếu chặt chẽ ở các nước đang phát triển có thể gây ra thói quen cho vay thiếu lành mạnh, dẫn đến "xuất khẩu" tính bất ổn sang nước khác. Sự nới lỏng kiểm soát tài chính và sự lệ thuộc quá mức vào những tiêu chuẩn vốn an toàn đã bị làm sai lệch và làm tăng tính bất ổn. Điều cần thiết là phải có một cách tiếp cận rộng hơn, ít giáo điều hơn đối với việc kiểm soát tài chính, được điều chỉnh để phù hợp với hoàn cảnh và năng lực của mỗi nước.
** Cải tiến quản lí rủi ro bằng cách mua bảo hiểm chống lại những biến động trên thị trường vốn quốc tế.
** Cải tiến hệ thống bảo hiểm xã hội để nâng cao năng lực của những người dễ bị tổn thương ở trong nước để họ chống đỡ rủi ro tốt hơn.
** Nâng cao khả năng đối phó với khủng hoảng bằng cách thiết kế các chương trình trợ giúp phù hợp, đảm bảo hệ thống bảo hiểm xã hội thực sự tồn tại ở các nước đang phát triển và hoạt động một cách có hiệu quả, giữ vững ổn định chính trị- xã hội để có thể thu hút luồng vốn nước ngoài vào trong nước một cách thường xuyên và ổn định …
9.5 Cải cách WB và viện trợ phát triển: Sau một chuỗi dài những thất bại ở các nước phát triển- các tổ chức quốc tế trong đó có WB đã bắt đầu xử lý nghiêm túc những vấn đề căn bản mà người ta phê phán nó. Quá trình xử lí này có liên quan đến sự thay đổi triết lí ở 3 khu vực: phát triển, viện trợ nói chung và viện trợ của WB nói riêng, và mối quan hệ giữa WB và các nước đang phát triển. Thông qua việc xử lí và cải cách này, họ đã nhận ra được tầm quan trọng của các vấn đề mà họ đã nhận thức được từ lâu như: việc chỉ chi tiêu trong giới hạn ngân sách, tầm quan trọng của giáo dục và sự ổn định của kinh tế vĩ mô. Bên cạnh đó, họ cũng nhận ra được nhiều bài học mới như thành công không chỉ đến từ việc thúc đẩy giáo dục phổ thông mà còn từ sự hình thành nền tảng công nghệ mạnh, bao gồm cho cả hỗ trợ cho đào tạo công nghệ cao; các nước hoàn toàn có thể vừa nâng cao sự công bằng vừa đạt được tăng trưởng nhanh cùng một lúc; sự ủng hộ thương mại và mở cửa cũng quan trọng nhưng chính tạo việc làm từ mở rộng xuất khẩu chứ không phải mất việc làm do tăng nhập khẩu, đã đóng góp vào tăng trưởng. Khi các chính phủ hành động để thúc đẩy xuất khẩu và hỗ trợ các doanh nghiệp mới, tự do hoá sẽ có tác dụng.
9.5.1 Viện trợ: có thể tạo vật cản cho sự chuyển đổi hiệu quả do việc áp đặt các điều kiện mang tính chính trị và tồi tệ hơn những điều kiện này làm xói mòn các tiến trình dân chủ. Vì thế, cần thay thế việc áp đặt các điều kiện lên một nước bằng việc cho phép họ tự do lựa chọn chiến lược phát triển và chấm dứt chỉ đạo vi mô như trong quá khứ. Bởi lẽ, viện trợ mang tính lựa chọn có thể có những tác động đáng kể, vừa thúc đẩy tăng trưởng vừa làm giảm nghèo đói.
9.5.2 Xoá nợ: Đối với các nước đang phát triển nợ nần là một gánh nặng trong quá trình phát triển đất nước bởi lẽ một phần lớn thu nhập từ xuất khẩu của họ phải dùng để trả nợ cho các nước phát triển. Vì vậy, nếu không xoá nợ, các nước đang phát triển không thể tăng trưởng được. Tuy nhiên, các chương trình xoá nợ hiện nay mới chỉ là xoá nợ cho những nước nghèo nhất, chính vì thế chương trình này cần phải được tiến xa hơn nữa đặc biệt là những quốc gia bị ảnh hưởng bởi những sai lầm của các chính sách của IMF.
9.6 Cải cách WTO và cân bằng lịch trình thương mại: Cải cách WTO sẽ đòi hỏi suy nghĩ sâu hơn về một lịch trình thương mại công bằng- công bằng hơn trong cách đối xử lợi ích của các nước đang phát triển, công bằng hơn khi đối xử với những mối quan tâm vượt ra ngoài phạm vi thương mại như môi trường.
9.7 Tiến đến toàn cầu hoá giàu tính nhân văn: Một trong những lí do người ta phản đối toàn cầu hoá là do toàn cầu hoá dường như làm xói mòn những giá trị truyền thống. Chính vì thế, để đánh giá toàn cầu hoá, những người chịu trách nhiệm quản lí nó cần phải đánh giá đầy đủ những lợi ích tích cực cũng như những mặt trái mà nó đem lại. Bên cạnh đó, cần phải xem xét tốc độ toàn cầu hoá để có thể điều chỉnh, đáp ứng được những thách thức mới và hạn chế những ảnh hưởng của nó đến dân chủ. Nếu toàn cầu hoá tiếp tục được tiến hành theo cách hiện đại, nếu chúng ta không học được những sai lầm trong quá khứ, toàn cầu hoá sẽ không thể thành công trong thúc đẩy phát triển mà còn tiếp tục tạo ra nghèo đói và bất ổn. Nếu không cải cách, làn sóng phản đối đã hình thành sẽ dâng cao hơn và sự bất mãn với toàn cầu hoá sẽ gia tăng. Hơn nữa, để tiến đến toàn cầu hoá giàu tính nhân văn thì cần phải có sự thay đổi trong các tổ chức và trong tư duy. Hệ tư tưởng thị trường tự do phải được thay bằng những phân tích dựa trên khoa học kinh tế và sự đúc kết từ sự hiểu biết những thất bại của chính phủ và thị trường. Họ cũng cần phải có trách nhiệm với chính phúc lợi của họ. Họ có thể kiểm soát ngân sách sao cho không có sự chi tiêu quá mức, họ có thể xoá bỏ những hàng rào bảo hộ và xây dựng những quy định chặt chẽ để bảo vệ nước họ trước các nhà đầu cơ nước ngoài và hành vi gian lận trong kinh doanh. Họ cần được khuyến khích áp dụng các luật phá sản và cấu trúc luật pháp cần được điều chỉnh cho phù hợp với tình hình của nước họ, chứ không áp đặt những khuôn mẫu do những nước phát triển hơn định ra. Chính vì thế các tổ chức quốc tế cần phải đảm bảo để các nhà kinh tế, quan chức và chuyên gia ở các nước đang phát triển tham gia tích cực và rộng rãi vào những tranh luận. Có như thế, chúng ta mới có thể tiến tới một toàn cầu hoá mang tính nhân văn sâu sắc.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Toàn cầu hoá và những mặt trái.doc