Ngày nay, nhờ có TMĐT với khả năng mua bán toàn cầu, thị trường mở ra
gần như vô tận với các DN nếu như sản phẩm hàng hóa của họ đạt tiêu chuẩn quốc
tế, được người tiêu dùng ưa thích và điều kiện hỗ trợ kèm theo hoàn hảo; TMĐT
cũng giúp cho việc trao đổi thông tin và tiếp cận với khoa học công nghệ mới nhanh
hơn. Môi trường thuận tiện giúp VN phát triển nhanh chính là Internet và môi
trường để cộng đồng DN VN làm quen và thử sức hội nhập với quốc tế là TMĐT.
Vì vậy chúng ta cần ứng dụng những phương thức đó để thực hiện CNH - HĐH.
Trong lộ trình hội nhập với cộng đồng thế giới hiện nay, VN đã có những
bước tiến dài và vững chắc vào nền kinh tế khu vực và quốc tế. Một mốc quan trọng
đánh dấu quá trình đó là việc ký kết hiệp định thương mại Việt – Mỹ năm 2000, mở
ra cơ hội hợp tác, đầu tư và tăng cường xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Tuy nhiên,
việc hiện thực hóa những tiềm năng đó đòi hỏi nhiều điều kiện, một trong số đó là
việc làm quen với tập quán, tác phong khi đàm phán, ký kết hợp đồng với DN Mỹ
và chính sách ngoại thương của Mỹ. Như đã thảo luận ở chương 2, TMĐT đã trở
thành một phương thức kinh doanh và giao dịch ứng dụng rộng rãi trong giới kinh
doanh ở Mỹ, chính sách của Mỹ là đi đầu trong TMĐT quốc tế, Mỹ đã và đang nêu
lên vấn đề này trong các hiệp định song phương và đa phương. Do đó, việc nhiều
DN Mỹ tìm cơ hội hợp tác và đầu tư ở VN thông qua con đường điện tử sẽ là việc
phổ biến. Nếu DN VN không sớm làm quen và thích nghi với phương thức này, một
rào cản vô hình sẽ được dựng lên, ngăn cách DN các bên trong việc tiếp cận và tìm
hiểu cơ hội làm ăn. Những tiềm năng và cơ hội phát triển sẽ chỉ mãi còn nằm trên
giấy tờ. Do đó, phát triển TMĐT là một trong các giải pháp cần được thực hiện để
đón bắt cơ hội và đáp ứng các đòi hỏi trong việc thực thi hiệp định này.
105 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3371 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Triển vọng phát triển thương mại điện tử ở các nước đang phát triển và một số giải pháp đối với Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PĐT là một quá trình liên tục và lâu dài bởi chừng nào còn xã hội thì nền
hành chính còn cần tiến hóa và hoàn thiện. Cơ quan nhà nước ở đây không chỉ bao
gồm các cơ quan thuộc khối hành pháp (các Bộ, cơ quan ngang Bộ và Ủy ban nhân
dân các cấp) mà còn bao gồm cả các cơ quan thuộc khối lập pháp (Quốc hội), tư
pháp (Tòa án, Viện kiểm sát) hay các cơ quan Đảng. Nghĩa là, tất cả các cấp đều
phải triển khai CPĐT, cấp nào gần dân nhiều nhất thì càng phải triển khai sớm.
Về mặt quản lý nhà nước, Chính phủ nên xây dựng kế hoạch thực hiện gồm
những hướng dẫn triển khai thực hiện một cách hệ thống cho các Bộ, ngành, tỉnh,
thành phố, cần có chính sách khuyến khích sử dụng Internet, đặc biệt các giao dịch
CPĐT cần triển khai từng phần, thu hút xây dựng một hệ thống cơ sở hạ tầng thông
tin, chú trọng đến công tác đào tạo đội ngũ quản lý thiết kế kỹ thuật có trình độ. Nhà
nước cần đi tiên trong trong hoạt động thúc đẩy TMĐT thông qua việc ứng dụng
các nguyên tắc của TMĐT vào việc quản lý bộ máy Chính phủ. Kinh nghiêm của
các quốc gia công nghiệp mới như Singapore, Hàn Quốc cho thấy Chính phủ đóng
vai trò vô cùng quan trọng trong việc xúc tiến TMĐT bằng việc trực tiếp tham gia
vào lĩnh vực này.
Bên cạnh đó, các vấn đề bảo mật thông tin, tính hợp pháp của thông tin và
văn bản cũng như sử dụng phông chữ tiếng Việt thống nhất, quy định rõ quyền và
trách nhiệm của các DN, cá nhân đối với việc khai thác thông tin, v.v… cũng cần
được tính toán kỹ để mô hình CPĐT thực sự là người bạn của DN và người dân.
1.2. Tăng cường khuyến khích và hỗ trợ doanh nghiệp trong thương mại điện tử
+ Cần có chính sách ưu đãi về tài chính, thuế cho các DN tham gia TMĐT:
Hiện nay ở VN, việc thu thuế từ những nhà cung cấp nhỏ hay người tiêu
dùng gặp rất nhiêu khó khăn. Việc ban hành luật thuế trong TMĐT phải tùy thuộc
74
vào từng giai đoạn phát triển của TMĐT. Trước mắt, Nhà nước có thể ban hanh luật
thuế hướng vào các nhà cung cấp dịch vụ lớn. Tuy nhiên, các cơ quan thuế phải tạo
điều kiện thuận lợi nhất để các nhà cung cấp dịch vụ trực tiếp qua Internet có thể
chấp hành luật thuế. Thủ tục đăng ký, kê khai thuế phải đơn giản và ít tốn kém. Có
thể giảm hoặc miễn 50% thuế VAT đối với các giao dịch TMĐT.
+ Hỗ trợ mạnh mẽ các DN ứng dụng TMĐT:
Chính phủ cần có những chính sách hỗ trợ DN trong từng giai đoạn như là
một biện pháp hỗ trợ xúc tiến thương mại đối với DN VN hiện nay. Đặc biệt, Nhà
nước cần tham gia vào TMĐT không chỉ với tư cách quản lý, định hướng vĩ mô mà
cần tham gia nhiều hơn nữa vào TMĐT với tư cách nhà tư vấn. Nhiều DN tỏ ra lo
lắng và chậm triển khai thực hiện TMĐT không phải vì họ thiếu thiết bị, công cụ,
không đủ chi phí, hay vì đường truyền thông tin qua mạng còn chậm, v.v… mà
chính vì họ thiếu tư vấn. Do chưa quen giao dịch trên mạng, lại thiếu tư vấn nên
nhiều DN chưa hiểu được nội dung, đặc điểm và các điều kiện cần thiết để thực
hiện phương thức kinh doanh mới này, từ đó dẫn đến tâm lý e ngại và chưa thật sự
tin vào hiệu quả mà TMĐT đem lại. Xuất phát từ thực tế và kinh nghiệm của nhiều
nước đã triển khai thực hiện TMĐT, thì muốn phát triển TMĐT cần phải có một bộ
phận chuyên trách ở tầm quốc gia thực hiện nhiệm vụ này từ cấp Trung ương đến
địa phương. Bộ phận này sẽ là nơi chịu trách nhiệm tư vấn nhằm nâng cao nhận
thức và năng lực cho DN, giúp các DN xác định loại hình hoạt động phù hợp cho
từng ngành hàng, xây dựng website sân chơi chung cho các DN; hỗ trợ giải đáp các
thắc mắc của các đối tượng tham gia sử dụng TMĐT, v.v…; hướng dẫn các văn bản
pháp luật, đồng thời là nơi tập trung cơ sở dữ liệu thương mại giúp DN có thể tiếp
thị và tìm kiếm thị trường trực tiếp trên mạng và chủ động tổ chức thực hiện từng
bước dự án phát triển TMĐT. Trên thực tế, Bộ Công Thương đã thành lập Cục
Thương mại điện tử và Công nghệ thông tin nhưng dường như các DN còn ít biết
đến vai trò và chức năng hỗ trợ của Cục đối với sự phát triển của mình.
Bên cạnh đó, do hoạt động sản xuất kinh doanh trong các lĩnh vực khác nhau
đều có những đặc điểm riêng, để nâng cao chất lượng của hoạt động hỗ trợ DN,
trong thời gian tới Cục Thương mại điện tử và Công nghệ thông tin cần phối hợp
75
chặt chẽ hơn với các Hiệp hội và cơ quan quản lý nhà nước về TMĐT tại địa
phương (Sở Công Thương) để xây dựng và triển khai các hoạt động hỗ trợ cho DN
hoạt động trong từng lĩnh vực kinh doanh cụ thể.
1.3. Nâng cao nhận thức của toàn dân về thương mại điện tử
+ Cần đưa ra cách hiểu thống nhất về TMĐT:
Hiện nay, Internet và website đã trở nên khá quen thuộc với nhiều người,
nhiều DN. Song cùng với sự phổ biến đó là sự nhầm lẫn do chưa hiểu hết, chưa
nhận thức hết về TMĐT hoặc có những cách hiểu không giống nhau về TMĐT.
Ngay cả trên thế giới cũng chưa thống nhất được một cách hiểu về TMĐT mà vẫn
tồn tại những khái niệm theo nghĩa hẹp và nghĩa rộng. Do đó, VN cần phải đưa ra
được định nghĩa chính xác, phù hợp với điều kiện của VN. Sẽ thuận lợi hơn nếu
hiểu TMĐT theo nghĩa rộng, rằng việc áp dụng điện thoại, telex, fax, v.v… đều là
các thiết bị điện tử và đó chính là bước đầu của TMĐT để tạo sự tự tin cho DN khi
bước vào TMĐT.
+ Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến và đào tạo chính quy TMĐT:
Xét về cách sống và làm việc, đa số dân chúng Việt Nam vẫn còn quen giao
dịch trên văn bản giấy tờ, mua hàng nhất thiết phải trải qua công đoạn nhìn, sờ,
nếm, thử, v.v… đều là các thói quen khác biệt một cách căn bản với khái niệm
TMĐT. Do đó, để triển khai được TMĐT tại Việt Nam, cần tăng cường giáo dục,
thông tin, tuyên truyền về lợi ích to lớn khi họ tham gia vào hoạt động này. Mặt
khác, Chính phủ cần cho phép và khuyến khích hỗ trợ nhiều hơn trong việc đưa các
báo chí, trung tâm thông tin, tra cứu trên mạng, v.v… để các doanh nghiệp và cá
nhân có thể dùng Internet để tra cứu thông tin, tìm bạn hàng, quảng cáo thông tin về
mình, v.v…
Từ năm 2006 đến nay, hoạt động tuyên truyền phổ biến về TMĐT đã được
các cơ quan quản lý nhà nước, các cơ quan thông tin đại chúng và nhiều DN quan
tâm thúc đẩy nên đã có sự phát triển khá mạnh mẽ. Đến nay, nhận thức của DN và
người tiêu dùng về lợi ích của TMĐT đã có chuyển biến rõ rệt. Trong giai đoạn
2009 - 2010, hoạt động tuyên truyền phổ biến cần tập trung vào một số vấn đề đang
được nhận định là các trở ngại lớn đối với việc tham gia TMĐT của DN và người
76
tiêu dùng như vấn đề bảo vệ thông tin cá nhân, thúc đẩy hình thành thói quen mua
sắm trên mạng, sử dụng thẻ thanh toán, v.v… VN cần tiếp tục đẩy mạnh hoạt động
tuyên truyền, phổ biến về tầm quan trọng của vấn để bảo vệ thông tin cá nhân đến
các tổ chức, DN và nhân dân. Đặc biệt, cần tăng cường triển khai hoạt động cấp
chứng nhận website TMĐT uy tín.
1.4. Nâng cao chất lượng hạ tầng cơ sở nhân lực cho thương mại điện tử
Do yêu cầu phát triển TMĐT đòi hỏi phải có một lực lượng chuyên gia
CNTT đủ mạnh, vì vậy, quan điểm về giải pháp cho cơ sở hạ tầng nhân lực phục vụ
cho TMĐT cần được đặt trong quan điểm chung trong quy hoạch đào tạo nhân lực
CNTT của quốc gia.
Trong thời gian tới cần có sự phối hợp chặt chẽ hơn nữa giữa các cơ quan
quản lý nhà nước liên quan là Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Công Thương trong
việc dự báo nhu cầu nguồn nhân lực cũng như đánh giá lại chất lượng đào tạo hiện
nay để có những biện pháp thúc đẩy hoạt động đào tạo TMĐT đi vào chiều sâu, đáp
ứng nhu cầu ngày càng tăng đối với nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao.
Các trường ĐH, CĐ và cộng đồng DN cần chủ động xây dựng mối quan hệ hữu cơ
liên quan đến cung cầu nhân lực về TMĐT. Đồng thời, Nhà nước cũng cần hỗ trợ
cho các đề tài nghiên cứu về CNTT nhằm khuyến khách mọi người tham gia nghiên
cứu chuyên sầu về lĩnh vực TMĐT.
Hình thành các mạng lưới đào tạo nhân lực CNTT ở các vùng kinh tế xã hội
trọng điểm (Hà Nội, Đà Nẵng, TP.HCM). Mạng lưới đào tạo bao gồm các trường
đại học công nghệ, việc nghiên cứu, các trung tâm đào tạo nhân lực thông tin của
các DN trong nước, của các loại hình kinh tế và các DN có vốn đầu từ nước ngoài.
Thực hiện đào tạo song ngữ (Anh – Việt) trong một số khoa CNTT ở các trường đại
học trọng điểm nhằm giúp những người tốt nghiệp có năng lực ngoại ngữ phục vụ
tốt công việc.
Có thể thấy lực lượng các chuyên gia CNTT và đông đảo người dùng
Internet tham gia TMĐT trong các cơ quan nhà nước, DN và dân chúng đóng vai
trò chiến lược trong lộ trình tiếp cận và ứng cụng TMĐT của quốc gia. Do đó, để
đáp ứng yêu cầu phát triển TMĐT về cơ sở hạ tầng nhân lực, cần chú trọng phát
77
triển nhanh lực lượng cán bộ chuyên sâu, đặc biệt là chuyên gia phần mềm đáp ứng
kịp thời, thường xuyên nhu cầu thực tiễn. Bên cạnh đó, cần đặc biệt quan tâm tới
việc tăng cường nâng cao năng lực nhận thức về TMĐT của các chủ thể tham gia.
Công tác tuyên truyền phổ biến thông tin về TMĐT, kỹ thuật và kỹ năng
TMĐT cần được hỗ trợ bởi các chính sách giá cả hợp lý nhằm tạo một tầng lớp
công chúng đông đảo cho TMĐT.
Đa dạng hóa và xã hội hóa các hình thức đào tạo về TMĐT, từ các chương
trình đào tạo dài hạn ở các cấp học cho đến các lớp bồi dưỡng ngắn hạn cho các đối
tượng trong xã hội là một hướng đi cần được khuyến khích. Chính phủ và DN cũng
có thể có các chương trình học bổng gửi cán bộ nhân viên ra nước ngoài đào tạo về
CNTT, Internet và TMĐT, hỗ trợ cho các đề tài nghiên cứu về CNTT nhằm khuyến
khích mọi người tham gia nghiên cứu về TMĐT, v.v…
Ngoài ra, các hội thảo chuyên đề về TMĐT, công tác nghiên cứu và triển
khai TMĐT ở các tổ chức kinh tế xã hội, các nỗ lực hợp tác quốc tế về TMĐT cũng
cần được tiếp tục mở rộng hơn.
1.5. Hoàn thiện hạ tầng cơ sở pháp lý về thương mại điện tử
+ Đẩy mạnh triển khai các văn bản pháp luật về TMĐT:
Cho đến hết năm 2009, các nghị định hướng dẫn Luật Giao dịch điện tử và
phần lớn các nghị định hướng dẫn Luật Công nghệ thông tin đã được ban hành. Tuy
nhiên, TMĐT là lĩnh vực còn mới mẻ lại dựa trên nền tảng công nghệ tiên tiến, để
các văn bản quy phạm pháp luật nói trên thực sự đi vào cuộc sống, tạo ra môi
trường quản lý và hỗ trợ hiệu quả cho hoạt động các DN, các cơ quan quản lý nhà
nước cần nỗ lực hơn nữa trong việc triển khai thực hiện các văn bản pháp luật đã
ban hành. Trong triển khai cần chú trọng tới hoạt động hướng dẫn, phổ biến nội
dung của các văn bản pháp luật để các DN hiểu và thực hiện đúng các quy định đã
ban hành, xem đây là một khâu then chốt giúp triển khai và hoàn thiện môi trường
pháp lý về TMĐT.
+ Nâng cao năng lực giải quyết tranh chấp về TMĐT:
Từ năm 2008 việc giao kết hợp đồng trực tuyến cũng như các giao dịch trực
tuyến khác như thanh toán điện tử và mua bán các sản phẩm số hóa tăng lên nhanh
78
chóng cả về số lượng lẫn giá trị. Tuy nhiên, cùng với đó là sự gia tăng của các vụ
tranh chấp thương mại liên quan tới mua bán trực tuyến. Đồng thời, những tranh
chấp về tài sản trí tuệ liên quan tới môi trường mạng như tên miền và bản quyền tác
giả cũng gia tăng với độ phức tạp cao. Trong khi đó, năng lực giải quyết tranh chấp
về TMĐT của VN còn thấp. Các tòa án kinh tế, trọng tài kinh tế, các tổ chức thanh
tra viễn thông và thương mại, các tổ chức thực thi cạnh tranh lành mạnh và bảo vệ
người tiêu dùng, các cơ quan điều tra, v.v... chưa được đào tạo tốt về lĩnh vực này
và hầu như chưa có kinh nghiệm trong việc giải quyết tranh chấp. Do đó, một nhiệm
vụ cấp bách của VN là phải nâng cao năng lực giải quyết tranh chấp về TMĐT. Nhà
nước cần ban hành một cơ chế giải quyết tranh chấp đối với các giao dịch trên mạng
sao cho phù hợp với các đặc thù của VN, trong đó quy định về những vấn đề cơ bản
như: Các cơ quan giải quyết tranh chấp trong các giao dịch trên mạng; Nguyên tắc
giải quyết tranh chấp trong các giao dịch trên mạng; Quy trình, thủ tục giải quyết
tranh chấp theo cơ chế giải quyết tranh chấp trong các giao dịch trên mạng; v.v…
1.6. Tăng cường hợp tác quốc tế về thương mại điện tử
Từ năm 2006 đến nay, VN đã chủ động từng bước tham gia vào các hoạt
động hợp tác về TMĐT trong các diễn đàn đa phương như APEC, UNCITRAL,
UN/CEFACT, UNCTAD, v.v… và hợp tác song phương với các quốc gia, vùng
lãnh thổ như Hoa Kỳ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, v.v… Trong giai đoạn tới
VN cần tăng cường hơn nữa việc tham gia vào hoạt động của các tổ chức hợp tác
quốc tế đa phương, trong đó tập trung vào APEC, UNCITRAL, WTO để hỗ trợ việc
xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về TMĐT, thực hiện tốt, có hiệu quả các
cam kết quốc tế về TMĐT mà VN tham gia. Việc xây dựng, ban hành, phổ biến các
tiêu chuẩn, quy chuẩn về trao đổi dữ liệu điện tử trong nước hài hoà với tiêu chuẩn
quốc tế sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển TMĐT nước ta thời gian tới.
Do đó VN cần tham gia tích cực hơn nữa vào hoạt động của Tổ chức hỗ trợ thương
mại và TMĐT của Liên Hợp quốc (UN/CEFACT). Hợp tác song phương với các
quốc gia tiên tiến về TMĐT và có quan hệ thương mại đầu tư lớn với VN như Hoa
Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, v.v… cũng cần được đẩy mạnh hơn nữa nhằm tìm kiếm
các giải pháp hỗ trợ DN giảm chi phí giao dịch hành chính, nâng cao năng lực cạnh
79
tranh trong bối cảnh kinh tế thế giới đang suy giảm hiện nay. Bên cạnh đó, VN cũng
cần tăng cường thực hiện các cam kết về TMĐT trong các hiệp định khu vực mậu
dịch tự do, hỗ trợ các DN, hiệp hội trong việc tham gia hoạt động của tổ chức quốc
tế về TMĐT như Liên minh các Tổ chức cấp chứng nhận website TMĐT uy tín
Châu Á - Thái Bình Dương, Liên minh thương mại điện tử Châu Á - Thái Bình
Dương, v.v… và từng bước nâng cao uy tín của doanh nghiệp Việt Nam trong hoạt
động thương mại điện tử.
1.7. Tiêu chuẩn hóa công nghiệp và thương mại
Các tiêu chuẩn, quy chuẩn về TMĐT có tầm quan trọng rất lớn đối với sự
phát triển TMĐT. Kế hoạch tổng thể phát triển TMĐT giai đoạn 2006 – 2010 đã
nhấn mạnh tới việc phát triển các công nghệ hỗ trợ TMĐT trên cơ sở khuyến khích
chuyển giao công nghệ từ nước ngoài, ban hành và phổ cập các tiêu chuẩn chung sử
dụng trong TMĐT, đặc biệt là chuẩn trao đổi dữ liệu điện tử (EDI và ebXML).
Trong hai năm 2006 và 2007, Bộ Khoa học và Công nghệ và một số bộ ngành và
DN đã nghiên cứu, ban hành một số tiêu chuẩn và ứng dụng EDI và ebXML như
Nghị định số 57/2006/NĐ-CP ngày 29/6/2006 về TMĐT quy định nhiệm vụ của cơ
quan quản lý nhà nước đối với việc ban hành các tiêu chuẩn về TMĐT, Nghị định
số 127/2007/NĐ-CP ngày 01/8/2007 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật
Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật, v.v... Tuy nhiên, việc ban hành và phổ biến các
tiêu chuẩn và quy chuẩn quốc gia về TMĐT vẫn chưa tương xứng với xu hướng
phát triển của loại hình giao dịch DN với DN (B2B) quy mô lớn. Vì thế, các cơ
quan quản lý nhà nước, đặc biệt là Bộ Công Thương và Bộ Khoa học và Công nghệ
cần đẩy mạnh hoạt động xây dựng, ban hành và phổ biến các tiêu chuẩn, quy chuẩn
quốc gia về TMĐT.
1.8. Bảo mật an ninh thông tin
Hiện nay bảo vệ dữ liệu đang là một trong những vấn đề được quan tâm đặc
biệt của TMĐT. Ngày càng có nhiều quốc gia ban hành các luật bảo vệ dữ liệu
nhằm ngăn cản không cho thông tin được truyền gửi tới những nước không có
phương tiện bảo vệ thông tin. Hậu quả là tại những nước không có các cơ chế bảo
vệ thông tin thích đáng, TMĐT sẽ khó có thể phát triển.
80
Bảo mật được hiểu như việc sử dụng các phương tiện công nghệ được công
nhận quốc tế và có tính liên tác chống truy nhập bất hợp pháp vào các dữ liệu. Bảo
vệ dữ liệu để tạo ra môi trường tin cậy và an toàn nhằm tạo thuận lợi cho mạng
thông tin liên biên giới và giúp tăng cường thương mại quốc tế. Yêu cầu về bảo mật
đối với cơ sở hạ tầng thông tin toàn cầu gồm: có mạng viễn thông đảm bảo an toàn
và tin cậy; có phương tiện hữu hiệu để bảo vệ các hệ thống thông tin kết nối tới các
mạng viễn thông; có biện pháp hiệu quả để xác nhận và bảo đảm tính bảo mật của
dữ liệu điện tử tránh được khả năng truy cập trái phép; đào tạo, nâng cao trình độ
cho những người sử dụng để họ hiểu và sử dụng được những biện pháp bảo mật đối
với hệ thống cơ sở dữ liệu của họ.
Từ năm 2006, vấn đề bảo mật an ninh thông tin trên môi trường mạng đã trở
thành một trở ngại đáng kể đối với việc tham gia TMĐT của cả DN và người tiêu
dùng. Theo xu hướng chung của TMĐT toàn cầu, trong những năm tới vấn đề dữ
liệu cá nhân sẽ nổi lên như một trong những trở ngại lớn nhất đối với sự phát triển
TMĐT, đặc biệt là các giao dịch DN với người tiêu dùng. VN cần có kế hoạch rõ
ràng để hạn chế tới mức cao nhất trở ngại này. Năm 2007, VN đã tham gia tích cực
với các thành viên của APEC triển khai một số hoạt động cụ thể về bảo vệ dữ liệu
cá nhân. VN cần tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa hoạt động phổ biến, tuyên truyền tới
các tổ chức, DN và công dân về vấn đề bảo vệ dữ liệu cá nhân thông qua việc xuất
bản các tài liệu, tổ chức hội thảo, đặc biệt là triển khai mạnh mẽ hoạt động dán nhãn
tín nhiệm các website TMĐT. Chính phủ cần quan tâm chỉ đạo xây dựng các sản
phẩm mật mã, thành thạo các dịch vụ xác nhận – chứng thực, các hệ thống an toàn
thông tin, cung cấp xem xét khả năng ứng dụng các sản phẩm của nước ngoài vào
môi trường TMĐT. Một chiến lược quốc gia về mã hóa, kèm theo các chương trình
bảo vệ an toàn thông tin của cơ quan, DN và của cá nhân là điều kiện thiết yếu để
xây dựng được lòng tin của khách hàng cho các giao dịch TMĐT.
1.9. Phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật công nghệ cho thương mại điện tử
+ Đầu tư hơn nữa cho CNTT:
Hạ tầng cơ sở CNTT là một nền tảng để phát triển TMĐT. Vấn đề xây dựng
và phát triển cơ sở hạ tầng CNTT được các nước trong khối ASEAN coi như một
81
trong số các nguyên tắc chỉ đạo hành động lập thể trong lĩnh vực TMĐT. Một trong
những cân nhắc cơ bản của của TMĐT là tính thường hữu toàn cầu và tính dễ tiếp
cận với cơ sở hạ tầng truyền thông. Các dịch vụ viễn thông cơ bản phải thường hữu
đối với đa số dân chúng và chi phí thấp là điều kiện tiên quyết đối với TMĐT và do
đó trước hết cần phải xây dựng một hạ tầng cơ sở viễn thông cơ bản. Chi phí cao sẽ
cản trở việc truy cập vào mạng thông tin, vì vậy gói dịch vụ viễn thông cũng như
giá các thiết bị thông tin như phần cứng, phần mềm cần thiết để truy nhập mạng
truyền thông cần phải phù hợp mức sống của người dân. Tuy nhiên, ở VN hiện nay,
vấn đề hạ tầng viễn thông đang gây rất nhiều trở ngại:
- Những người sử dụng mạng phàn nàn vì chi phí lắp đặt, chi phí thuê bao và
cước điện thoại quá cao, trong khi mạng kết nối hay bị tắc nghẽn.
- Các DN thì phàn nàn vì chính sách viễn thông độc quyền khiến cho họ mất
đi nhiều cơ hội hợp tác kinh doanh.
Không những thế các rào cản đối với các thiết bị thông tin nhập khẩu như
thuế đánh vào các linh kiện máy tính, thiết bị viễn thông vẫn duy trì ở mức cao làm
cho các DN và người sử dụng khó mà mua được các máy tính và thiết bị thông tin
cần thiết với giá cả hợp lý để tham gia vào TMĐT. Chính vì vậy, nhằm khuyến
khích và phát triển TMĐT, Chính phủ VN cần dỡ bỏ các rào cản này đối với lĩnh
vực CNTT và viễn thông. Cụ thể cần:
- Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư vào hoạt động viễn
thông, giảm dần độc quyền, giảm các rào cản đối với các trang thiết bị viễn thông
nhập khẩu, giám sát hợp lý các mặt hàng nhập khẩu, tránh những công nghệ lạc
hậu.
- Thúc đẩy và duy trì cạnh tranh trong ngành này, giảm và duy trì mức chi phí
hợp lý đối với việc cài đặt, thuê bao mạng và giảm cước điện thoại, mở cửa cho
các nhà đầu tư nước ngoài có thể tham gia đầu tư ở một mức nhất định.
- Đảm bảo bất kỳ người sử dụng nào cũng có thể tiếp cận nhiều dịch vụ trên
mạng thông tin ở cả các vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít người.
Tuy nhiên, việc đầu tư vào toàn bộ hạ tầng cơ sở rất tốn kém và không thể
tiến hành một cách riêng lẻ. Trong tình hình nước ta hiện nay, với nguồn ngân sách
82
ít ỏi, trong khi đó tất cả các lĩnh vực đều có nhu cầu phải đầu tư thì điều quan trọng
là phải xây dựng một danh mục đầu tư cần được ưu tiên trước. Đối với cơ sở hạ
tầng CNTT trong lĩnh vực TMĐT thì trước mắt nên đầu tư cho các CNTT cần thiết
như viễn thông, công nghệ phần mềm, phần cứng, các công nghệ kỹ thuật ứng dụng
trong việc chứng thực, v.v… Mặt khác, Nhà nước cần phải hỗ trợ cho các DN có
khả năng đầu tư cho công nghệ, giảm bớt chi phí truy cập Internet bằng cách hỗ trợ
giá cho các DN cung cấp dịch vụ mạng hoặc loại bỏ những quy định bất hợp lý đối
với nhà cung cấp dịch vụ mạng.
Trong thời gian tới, VN cần đảm bảo khả năng cung cấp điện năng đầy đủ,
ổn định giá cả hợp lý. Bên cạnh chính sách thuế khuyến khích nhập khẩu các linh
kiện thiết bị tin học, cần tận dụng khả năng hợp tác liên doanh và chuyển giao công
nghệ để phát triển các cơ sở sản xuất, lắp ráp các thiết bị tin học cũng như xây dựng
các cơ sở thiết kế, chế tạo thiết bị truyền thông và tin học chuyên dụng đáp ứng nhu
cầu trong nước và tiến tới xuất khẩu.
+ Phát triển kết cấu hạ tầng viễn thông hiện đại tương thích với hệ thống tiêu
chuẩn quốc tế:
Để phát triển TMĐT, cần xây dựng một hạ tầng CNTT đảm bảo tiêu chuẩn
từ DN đến nhà nước, đồng thời đảm bảo tiêu chuẩn ấy phù hợp với tiêu chuẩn quốc
tế. Để đạt được điều này, ngành CNTT và viễn thông cần quan tâm đến một số vấn
đề cơ bản sau:
- Đưa ra các tiêu chuẩn kỹ thuật đối với CNTT, các tiêu chuẩn đó phải phù
hợp với khả năng trong nước và đảm bảo tính tương thích về lâu dài với các công
nghệ tiên tiến trên phạm vi toàn cầu.
- Tiếp tục khuyến khích phát triển công nghệ phần mềm, coi đây là một đòn
bẩy kinh tế chiến lược để phát huy nội lực trong nước, tạo đà tăng trưởng cao cho
thị trường CNTT và TMĐT.
- Các quy định và chính sách quản lý phải đảm bảo sự trung lập về mặt công
nghệ (đảm bảo có thể quản lý các công nghệ đã, đang và sẽ có, và không ngăn cản
sự phát triển của TMĐT, đồng thời cắt giảm thuế cho các hoạt động liên quan đến
lĩnh vực CNTT).
83
- Tham gia các cuộc hội thảo, thảo luận quốc tế; tham gia liên kết và hợp tác
quốc tế song phương và đa phương trong lĩnh vực nghiên cứu, hỗ trợ, v.v.… cho
ngành CNTT.
1.10. Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và bảo vệ người tiêu dùng
Thương mại trên Internet sẽ thường xuyên liên quan đến việc bán và cho
phép sử dụng sở hữu trí tuệ. Để xúc tiến TMĐT, người bán cần phải biết chắc chắn
rằng sở hữu trí tuệ của mình sẽ không bị đánh cắp, còn người mua cần phải biết
chắc rằng mình đang nhận được các sản phẩm đích thực. Vì vậy, cần có sự bảo vệ
rõ ràng và có hiệu quả đối với bản quyền bằng phát minh và nhãn hiệu thương mại
để chống đánh cắp và gian lận.
Về vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, hiện nay VN đã xây dựng được một
khuôn khổ pháp lý tương đối đầy đủ. Tuy nhiên, trong thời gian tới, VN cần tiếp tục
xây dựng một văn bản luật riêng điều chỉnh sở hữu trí tuệ để mở rộng phạm vi điều
chỉnh theo yêu cầu của điều kiện mới. Vấn đề phải giải quyết đối với VN cũng như
đối với một số nước đang phát triển trong khu vực là tăng cường sự phối hợp hành
động giữa các cơ quan hữu quan như Cục Bản quyền, Cơ quan Công an, v.v… để
thi hành luật có hiệu quả.
Người tiêu dùng tham gia vào TMĐT dưới các hình thức như mua hàng, sử
dụng các dịch vụ trực tuyến, nộp thuế, xin giấy phép, tham gia bán đấu giá, mua
hàng đã qua sử dụng, v.v… cũng cần được bảo vệ. Đặc biệt là các thông tin cá nhân
hay bí mật riêng tư của họ. Khi tham gia vào mua bán trực tuyến, người tiêu dùng
luôn phải lo ngại về quyền lợi của mình và khả năng đảm bảo an toàn cho các thông
tin cá nhân mà họ đã cung cấp cho các DN bán hàng. Những người thu thập dữ liệu
cần phải cho người tiêu dùng biết họ đang thu thập các thông tin gì và dùng thông
tin đó như thế nào. Nói cách khác, người tiêu dùng cần phải có được sự lựa chọn
thực sự đối với việc sử dụng thông tin cá nhân không được sự đồng ý của người đó,
và việc sử dụng không đúng đắn hoặc sự tiết lộ thông tin cá nhân không chính xác,
lỗi thời, không đầy đủ hoặc không thích hợp sẽ phải được bồi thường.
Hiện nay, ở VN còn chưa có Luật Bảo vệ người tiêu dùng. Cho nên, việc bảo
vệ các thông tin cá nhân được cung cấp trên mạng khi người tiêu dùng tham gia
84
TMĐT vẫn còn là một vấn đề rất mới, cần được xúc tiến triển khai trong thời gian
sớm nhất.
2. Giải pháp vi mô
2.1. Xác định mục tiêu hoạt động kinh doanh chủ yếu
Việc đầu tiên cần cân nhắc là lợi ích chủ yếu cho hoạt động kinh doanh của
công ty, công ty theo đuổi mục tiêu nào thông qua TMĐT: gia tăng lượng kinh
doanh một sản phẩm nào đó, sự nhận biết tên hàng, tăng cường các quan hệ đầu tư,
quan hệ cộng đồng, đẩy mạnh dịch vụ khách hàng, giảm giá bán, mở rộng kênh bán
hàng sang một thị trường mới hay giảm chi phí phân phối các sản phẩm dung liệu
như sản phẩm phần mềm, công việc dịch thuật hay soạn thảo, v.v… Sau khi nghiên
cứu đầy đủ về mục tiêu chủ yếu của công ty, cần phải đánh giá xem Internet có phải
là phương tiện cần thiết duy nhất để đạt được mục tiêu hay không.
2.2. Chủ động tích cực tham gia vào thương mại điện tử
Internet đã xóa đi ranh giới giữ thị trường trong nước và quốc tế, tạo ra
không ít cơ hội cho các DN mở rộng thị trường và đối tác kinh doanh. Trong
TMĐT, DN là người trực tiếp kinh doanh và TMĐT là phương tiện để kinh doanh
tốt hơn. Nhà nước chỉ đóng vai trò là người đề ra các chính sách chỉ đạo và hỗ trợ.
Như vậy, DN là chủ thể đầu tiên có nhu cầu tận dụng những lợi ích của TMĐT và
phải tự cân nhắc về việc đầu tư về trang thiết bị CNTT cần thiết để có thể ứng dụng
TMĐT tại DN của mình.
Tuy nhiên, TMĐT vừa có khả năng là một đòn bẩy cho sự phát triển của DN
nhưng cũng có thể là một bãi lầy tiêu tốn rất nhiều thời gian tiền bạc nếu một DN
không có sự chuẩn bị kỹ càng.
Vì vậy, để chủ động tham gia một cách có hiệu quả vào TMĐT, các DN cần
chú ý làm tốt công việc sau:
+ Cải tiến quy trình quản lý: Tiến hành TMĐT đồng nghĩa với việc chuyên
nghiệp hóa quy trình quản lý. DN cần phải có những quy trình kinh doanh và cơ cấu
tổ chức cần thiết để tạo sự tin tưởng cho khách hàng. Nhanh chóng đưa hệ thống
quản lý của công ty đi vào nề nếp, đảm bảo tính thống nhất quản lý trong toàn công
ty nhưng vẫn phát huy được tính chủ động, nhanh nhạy của các bộ phận kinh doanh.
85
+ Cải tiến bộ máy: Cơ cấu tổ chức của một DN thông thường sẽ khó thích
hợp với TMĐT. TMĐT đặt ra yêu cầu rất cao về tốc độ xử lý bao gồm: xử lý thông
tin khách hàng, xử lý đơn đặt hàng, giao hàng và dịch vụ khuyến mãi. DN cần phải
có một cơ cấu tổ chức mới với những vị trí nhân sự mới, được phân nhiệm rõ ràng
phục vụ cho kênh bán hàng qua mạng.
+ Thay đổi văn hóa làm việc: DN cần chú trọng vào dịch vụ khách hàng.
Những tập quán mới cần được xây dựng thông qua một hệ thống thưởng phạt rõ
ràng có tác dụng tích cực hơn là động viên chung chung. Việc ứng xử trong từng
khâu giao dịch đều thể hiện đạo đức, văn hóa trong kinh doanh, do vậy, phải giáo
dục cho toàn bộ công nhân viên những tập quán này.
+ Tăng cường khả năng CNTT của DN: Để tiến hành TMĐT đòi hỏi phải có
một đội ngũ nhân lực phù hợp. Mặt khác bản thân hạ tầng CNTT của DN cũng phải
được nâng cấp cho phù hợp với yêu cầu của TMĐT.
Trước tiên, DN phải nhận thức được những lợi ích, cơ hội mà TMĐT có thể
mang lại. Trên cơ sở nhận thức đó, DN cần phải quan tâm nên áp dụng TMĐT như
thế nào, lựa chọn các giải pháp TMĐT phù hợp với công việc kinh doanh của mình
và bắt tay vào triển khai áp dụng. Trong xu thế phát triển như vũ bão của TMĐT
toàn cầu thì những công việc triển khai này không nên quá chậm trễ. Kinh nghiệm
của nhiều DN cho thấy giai đoạn đầu sử dụng TMĐT còn nhiều bỡ ngỡ, trục trặc và
khá tốn kém nhưng sau một thời gian thì người ta lại phải ngạc nhiên về tính ưu việt
của nó trong mọi công việc.
Bên cạnh đó, phải tạo đội ngũ quản lý và nhân viên am hiểu tình hình kinh
doanh trong thời đại mới, có kỹ năng sử dụng máy tính và mạng, có trình độ tiếng
Anh cần thiết, DN cũng phải chủ động tham gia các hội thảo chuyên đề về TMĐT
do Chính phủ hoặc các tổ chức nước ngoài tổ chức để bổ xung kiến thức cũng như
kỹ thuật TMĐT tiên tiến. Đây cũng là cơ hội để DN có thể học hỏi kinh nghiệm
nước ngoài về cách thức kinh doanh hiệu quả trên Internet.
Đối với những DN lớn, cần mạnh dạn nghiên cứu áp dụng các giải pháp TMĐT
do các tập đoàn lớn trên thế giới cung cấp. DN phải đánh giá được chi phí bỏ ra và
86
kết quả kinh doanh có thể đạt được nhờ hợp đồng, giao dịch qua TMĐT, đặc biệt là
nhờ khả năng mở rộng tìm kiếm đối tác trên quy mô toàn cầu.
2.3. Nghiên cứu môi trường kinh doanh thương mại điện tử
Để có thể xây dựng được chiến lược phù hợp, việc phân tích cơ hội và rủi ro
từ môi trường kinh doanh là rất quan trọng và cần thiết.
DN cần xem xét các vấn đề như quan hệ với khách hàng, nhà cung cấp, nhân
viên và các đối tác hay các quy trình có thể được cải thiện với sự giúp đỡ của
Internet. Một kế hoạch tốt cần đề cập tới tất cả các vấn đề: phân tích môi trường bên
trong và bên ngoài, lựa chọn mô hình TMĐT, tài chính, marketing, tổ chức nhân sự
và phải có một quỹ thời gian hợp lý. Cần lưu ý rằng việc chia sẻ tầm nhìn với các
đối tác và nhà tư vấn để tiếp thu thêm những ý kiến đóng góp sẽ hoàn thiện hơn con
đường tiếp cận TMĐT trong DN.
2.4. Xây dựng phương án kinh doanh thương mại điện tử
Căn cứ vào các mục tiêu đã được lập của công ty, các thông số nhân khẩu
học của Internet phải được kiểm tra kỹ lưỡng để xác định thị phần mục tiêu. DN nên
phân đoạn để tìm ra thị trường thích hợp nhất cho các sản phẩm và dịch vụ của DN.
+ Chú trọng phát triển sản phẩm:
Một trong số những yếu tố quyết định sự thành bại trong kinh doanh chính là
lượng sản phẩm của doanh nghiệp. Yêu cầu về chất lượng sản phẩm cũng không là
một ngoại lệ đối với thương mại điện tử. Sản phẩm của doanh nghiệp phải có được
chỗ đứng trên thị trường. Vì vậy DN phải tìm xem đặc điểm và lợi ích nào của sản
phẩm làm nó nổi bật với mục đích sử dụng cụ thể; Sản phẩm có thể cạnh tranh với
những sản phẩm hàng đầu trên thị trường mà nó muốn tham gia không; Sản phẩm
có điển hình không, hay chỉ là đang khắc phục khuyết điểm trước đây; Cần có chiến
lược thay thế sản phẩm đặc biệt với sản phẩm cũ và hiện thời vì sản phẩm nào sớm
hay muộn cũng bị thay thế bằng sản phẩm mới khi vòng đời sản phẩm đã hết.
+ Xây dựng website của DN:
Hiện nay có nhiều công ty ở VN cung cấp dịch vụ thiết kế Hosting web với
nhiều giải pháp khác nhau đáp ứng yêu cầu đa dạng của khách hàng. DN có thể
87
chọn giải pháp chỉ thiết kế website đơn thuần giới thiệu về DN, nhằm mục đích
quảng cáo trên Internet. Tùy theo quy mô và tính chất mặt hàng kinh doanh, website
của DN có thể bao gồm một hoặc nhiều trang, có thể đăng ký tên miền riêng
(domain name) hoặc là một Sub-site nhỏ của các website lớn hơn (website của nhà
cung cấp dịch vụ Internet hoặc nhà cung cấp thông tin trên Internet). Đối với DN có
tầm cỡ lớn, có thể thiết kế website chuyên nghiệp có quy mô lớn để thực sự tiến
hành các nghiệp vụ của quá trình kinh doanh điện tử bao gồm việc giao dịch hai
chiều với khách hàng, trao đổi thông tin kinh doanh với bạn hàng, v.v… Theo kinh
nghiệm thực tế, một website tốt cần được trình bày đơn giản, dễ tải và có thật ít lần
kết nối, nội dung hữu ích, hấp dẫn mà không làm chậm sự vận hành của hệ thống,
đảm bảo tính an toàn của hệ thống và có cơ chế thanh toán phù hợp.
+ Thiết kế và xây dựng website:
Các DN có thể xây dựng các website với sự trợ giúp của một số các dịch vụ
trên Internet. Tuy nhiên, để xây dựng được một website đơn giản, các DN nên thuê
các chuyên gia thiết kế các website cho DN mình. Website của DN cần đảm bảo
một số tiêu chí sau:
- Phải thể hiện được chiến lược thị trường thông qua website: DN định
hướng mở rộng hoạt động của mình tới thị trường nào, kế hoạch phát triển của DN
tới các thị trường tiềm năng đó đã sẵn sàng chưa, cần có những điều kiện gì để thực
hiện giao dịch nếu như có yêu cầu đặt quan hệ từ một đối tác nước ngoài tại một thị
trường mà DN chưa có nhiều hiểu biết.
- Xác định nội dung cần đưa lên website: Thông tin cần ngắn gọn, xúc tích,
trình bày hợp lý, mỹ thuật và hấp dẫn. Hãy chọn nội dung cho website với phương
châm: “làm cho khách tham quan hiểu được mục đích của DN trong thời gian ngắn
nhất, phải tìm cách giữ chân họ…”
- Chọn tên miền phù hợp: Việc đặt tên miền nên lựa chọn phù hợp với nội
dung kinh doanh của công ty. Trong trường hợp ngược lại thì nên đặt tên theo lĩnh
vực kinh doanh.
- Tránh làm website chậm kết nối vì quá nhiều hình ảnh và phim. Tạo điều
kiện cho khách hàng truy cập nhanh, dễ dàng. DN nên tạo tốc độ truy cập website
88
với tốc độ nhanh nhất có thể, nên giữ kích thước Homepape dưới 20Kb. Cần loại bỏ
tất cả những đoạn “txt” không cần thiết, giảm hình ảnh giới thiệu xuống còn khoảng
dưới 10-20Kb. Sử dụng “Alt-text” đối với tất cả hình ảnh để đảm bảo khách hàng
của DN có thể đọc được một nội dung nhất định trong thời gian chờ website của
DN tải xuống hoàn toàn. Website của DN cần luôn cập nhật để phản ánh việc bán
hàng, chiết khấu hay sản phẩm có sẵn có theo thời gian thực tế.
+ Quảng cáo và giới thiệu website:
Khách hàng sẽ không tự tìm đến website, vì vậy DN nên đăng ký tên website
vào những công cụ tìm kiếm – Search Engine lớn nổi tiếng như: Google, Yahoo,…
hoặc đăng ký tên DN vào những trang vàng điện tử, các tổ chức hiệp hội để tham
gia vào các diễn đàn trên mạng và qua đó mở rộng mối quan hệ giao lưu. Thông qua
một cơ chế tự động tìm kiếm theo một số yêu cầu của các công cụ tìm kiếm nói
trên, người sử dụng Internet nhanh chóng tìm được thông tin cần thiết, có thể biết
địa chỉ và thử thăm DN. Ngoài ra, DN cũng có thể quảng cáo và giới thiệu website
dưới dạng các banner hoặc logo, qua email hoặc gửi thông báo tới những khách
hàng và đối tác có quan hệ làm ăn từ trước. Việc quảng cáo địa chỉ website trên báo
chí, truyền hình, v.v… hay in địa chỉ trên danh thiếp, giấy tiêu đề, bao thư,
catalogue và các tài liệu quảng cáo, giao dịch khác của công ty cũng là một cách
thức tốt để địa chỉ website của DN đến được với nhiều người.
+ Bảo vệ thông tin website và hệ thống bảo vệ an toàn cho khách hàng:
Cần chọn giải pháp an ninh thông tin bằng các phần mềm an ninh, đăng ký
với các nhà cung cấp dịch vụ Internet để đảm bảo có các biện pháp bảo vệ website.
DN phải có một máy chủ (Server) an toàn cao để bảo vệ thông tin, đảm bảo hệ
thống thanh toán an toàn, tin cậy và bảo mật cho khách hàng. DN cũng nên nêu rõ
chính sách bảo vệ thông tin của khách hàng trên website. Chỉ khi được thuyết phục
bởi tính bảo mật cao của hệ thống thanh toán, khách hàng mới sẵn sàng tiến hành
mua bán qua mạng không lo sợ về tình trạng mất cắp hay sợ lộ bí mật riêng tư.
+ Cập nhật và cải tiến website:
Một hệ thống hiện đại hay một website đẹp cũng không mấy hiệu quả nếu
thiếu thông tin được cập nhật và hệ thống không được bảo trì đầy đủ. Những quảng
89
cáo cũ, những liên kết chết hay chậm chạp rất dễ làm hỏng hình ảnh của DN. Vì
vậy, DN tham gia TMĐT cần đổi mới và phát triển thường xuyên.
Tính cập nhật của thông tin làm nên giá trị của một trang website. Do đó,
thông tin trên các trang điện tử của DN, cơ quan hành chính hay bất cứ một tổ chức
nào đều phải được cập nhật thường xuyên. Việc phổ biến các thông tin mới và cập
nhật là rất cần thiết.
+ Tăng cường cung cấp dịch vụ bổ trợ để thiết lập quan hệ thân thiết với
khách hàng:
DN cần bổ xung các dịch vụ đi kèm việc cung cấp sản phẩm của mình như:
thiết lập hệ thống thông tin phản hồi với khách hàng, có kế hoạch trả lời email của
khách hàng, trò chuyện qua mạng, dịch vụ tư vấn, dịch vụ “Self-help” cho khách
hàng. Nhờ đó mà luồng thông tin 2 chiều giữa DN với khách hàng mới được thông
suốt. Điều này giúp DN không ngừng đổi mới sản phẩm, dịch vụ và từng bước cá
biệt hóa khách hàng của mình. Đây cũng là cách lôi kéo khách hàng đến với DN vì
việc mua hàng qua mạng không chỉ liên quan đến vấn đề giá cả, giao hàng mà còn
là cách giải trí, thư giãn của khách hàng.
Thành công của hệ thống hay website của DN phụ thuộc vào sự ủng hộ của
những người sử dụng, dù chỉ là khách hàng, nhà cung cấp hay chính nhân viên của
DN. Khách hàng sẽ hài lòng với những dịch vụ hỗ trợ tốt (chẳng hạn như một cơ
chế tìm kiếm hay cam kết bảo mật), các chỉ dẫn đầy đủ và ngay lập tức trên website.
Không gì dễ mất bằng sự gắn bó của người sử dụng TMĐT với một website không
chú ý đến dịch vụ khách hàng. Nhưng cũng không gì dễ hơn việc duy trì nó nếu DN
chú ý đến điều này ngay từ đầu.
2.5. Chú trọng việc tham gia các sàn thương mại điện tử
Theo điều tra khảo sát tình hình ứng dụng TMĐT của DN năm 2008 và các
năm trước, việc tham gia các sàn TMĐT đem lại nhiều lợi ích với chi phí đầu tư rất
thấp về nguồn nhân lực và cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, năm 2008 mới có 12% DN
tham gia sàn TMĐT, tăng không đáng kể so với 10% của năm 2007. Trong giai
đoạn hiện nay, hầu hết các DN của VN là DN vừa và nhỏ chưa có điều kiện đầu tư
lớn cho việc ứng dụng TMĐT. Do đó, để tận dụng ưu thế của TMĐT trong việc
90
quảng bá, giao dịch, tìm kiếm khách hàng,... các DN cần tích cực tham gia vào các
sàn TMĐT loại hình giao dịch B2B và B2C của VN cũng như của các nước khác
trên thế giới.
2.6. Tăng cường nguồn nhân lực về thương mại điện tử
TMĐT là hình thức kinh doanh dựa trên nền tảng công nghệ cao, đòi hỏi cán
bộ của DN phải có một trình độ nhất định cả về kiến thức CNTT lẫn kiến thức
thương mại. Do vậy, để nâng cao hiệu quả đầu tư, ứng dụng TMĐT, các DN VN
cần nhanh chóng tăng cường nguồn nhân lực về lĩnh vực này. Ngoài các biện pháp
mang tính chất tạm thời như gửi cán bộ tham gia các khoá đào tạo ngắn hạn, mời
giảng viên về đào tạo tại chỗ, v.v… một trong các biện pháp bổ sung nguồn nhân
lực có chuyên môn phù hợp là liên kết với các cơ sở đào tạo để xác định rõ nhu cầu
đào tạo nguồn nhân lực về TMĐT của DN và tiến hành đào tạo cho cán bộ của DN.
2.7. Nâng cao ý thức tuân thủ các quy định pháp luật về thương mại điện tử
TMĐT VN đang trên đà phát triển nhanh. Hệ thống pháp luật liên quan tới
TMĐT về cơ bản đã được xác lập và đang liên tục được bổ sung. Ứng dụng TMĐT
trong hoạt động sản xuất kinh doanh của DN đang có xu hướng gia tăng. Để có thể
nắm bắt kịp thời và tuân thủ đúng pháp luật, các DN cần thường xuyên tìm hiểu và
thực hiện tốt các quy định pháp luật liên quan tới hoạt động kinh doanh trực tuyến
như các quy định về chứng từ điện tử, bán hàng qua mạng, giao kết và thực hiện
hợp đồng, thương hiệu và tên miền, xử phạt hành chính, bảo vệ dữ liệu cá nhân, giải
quyết tranh chấp, v.v...
Bên cạnh đó, các DN cần chủ động phát hiện, phản ảnh với các cơ quan quản
lý nhà nước về các vấn đề mới nảy sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh liên
quan tới TMĐT và đề xuất việc xây dựng chính sách và biện pháp quản lý mới.
Hiện nay, theo Luật Ban hành Văn bản quy phạm pháp luật, trước khi ban hành văn
bản quy phạm pháp luật, cơ quan chủ trì soạn thảo phải đăng tải công khai dự thảo
để xin ý kiến. Do đó, các DN cũng cần phát huy quyền lợi của mình trong việc đóng
góp ý kiến vào các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật liên quan tới TMĐT.
91
KẾT LUẬN
Khi nghiên cứu đề tài “Triển vọng phát triển thƣơng mại điện tử ở các
nƣớc đang phát triển và một số giải pháp đối với Việt Nam”, với những phân
tích, đánh giá, nhận định và với những số liệu trung thực khóa luận đi đến một số
kết luận như sau:
Sự ra đời của xa lộ thông tin, đặc biệt là các ứng dụng CNTT dựa trên kỹ
thuật số, máy tính xách tay, lưu trữ dữ liệu và hệ thống làm việc network đã đưa đến
khái niệm kinh tế số hóa và là động lực phát triển quan trọng của xã hội trong bối
cảnh quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đang làm biến đổi sâu sắc nền kinh
tế thế giới. Vai trò của TMĐT đối với nền kinh tế thời kỳ hậu công nghiệp không
còn ai nghi ngờ được nữa. TMĐT đã làm thay đổi mạnh mẽ phương thức thương
mại truyền thống, xóa mờ ranh giới địa lý trong giao lưu buôn bán giữa các quốc
gia nhờ đem lại khả năng giao dịch trực tuyến liên tục và không hạn chế. Việc ứng
dụng TMĐT giúp nâng cao trình độ tự động hoá; tiết kiệm chi phí trong sản xuất,
giao dịch và bán hàng cũng như mở ra nhiều cơ hội thâm nhập thị trường, thúc đẩy
cạnh tranh trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngoài việc cung cấp ngày càng
nhiều và trực tiếp các mối quan hệ, các hoạt động liên kết... cho các DN, người tiêu
dùng và cho cả Chính phủ, bản thân TMĐT sẽ còn làm nảy sinh nhiều sản phẩm và
thị trường mới. Từ đó, các quan niệm truyền thống về sở hữu, phương thức trao đổi,
lưu thông, phân phối, tâm lý tiêu dùng và phương thức quản lý kinh doanh đều sẽ
thay đổi.
Với những lợi ích to lớn như vậy, TMĐT được chờ đợi sẽ là một trong các
xu hướng phát triển nhất trong các xu hướng thương mại quốc tế hiện nay; và ưu thế
cạnh tranh trong quan hệ kinh tế thương mại giữa các nước sẽ phụ thuộc trực tiếp
vào tốc độ nhanh hay chậm trong ứng dụng hệ thống TMĐT. Sự cạnh tranh đó sẽ
phân chia ra một bên là những nền kinh tế trì trệ và một bên là những nền kinh tế
nhanh lẹ, gia tốc. Điều này đòi hỏi các nước phải có sự điều chỉnh một cách toàn
diện các điều kiện kinh tế, chính trị và văn hóa xã hội để thích ứng với yêu cầu mà
sự phát triển TMĐT đặt ra.
Về triển vọng phát triển, có thể khẳng định, cơ hội đang đến với tất cả các
quốc gia trên thế giới, bao gồm cả các nước đang phát triển như Trung Quốc, Ấn
Độ,… Sự gia tăng về trình độ phát triển CNTT và những thành tựu trong ứng dụng
92
TMĐT mà các nước đang phát triển đạt được trong những năm gần đây là một bằng
chứng cho thấy, họ hoàn toàn có thể nắm bắt được cơ hội đang mở ra phía trước.
Tuy nhiên, trong điều kiện bị hạn chế về trình độ và tiềm lực kinh tế, các
nước đang phát triển bị cuốn vào quỹ đạo này mà chưa có sự chuẩn bị đầy đủ. Họ
phải đối diện với thách thức bị lệ thuộc vào công nghệ và thụt lùi xa hơn trong nỗ
lực bắt kịp các nước khác. Hệ quả có thể thấy được là tính chất bất bình đẳng của
trật tự kinh tế quốc tế trong hiện tại sẽ vẫn tiếp tục được duy trì và ngày càng gia
tăng. Việc chấp nhận TMĐT có thể cho phép đi nhanh và xa hơn nhưng rủi ro, tổn
thất khi xảy ra cũng lớn. Do đó, tận dụng mọi điều kiện sẵn có và tranh thủ tối đa sự
hỗ trợ từ bên ngoài để thúc đẩy CNTT và các điều kiện trong nước cho TMĐT phát
triển, đồng thời hình thành lập trường về TMĐT để bảo vệ lợi ích quốc gia trên bàn
đàm phán đa phương và song phương là nhiệm vụ cấp bách của các nước này.
Là một nước đang phát triển, VN cũng đứng trước những cơ hội và thách
thức của xu thế phát triển khoa học công nghệ trên thế giới. Chiến lược phát triển đã
được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định là phải tiến hành quá trình CNH - HĐH và
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Sự hội nhập ấy có thành công hay không phụ
thuộc ngày càng nhiều vào sự kết hợp hữu hiệu giữa đổi mới giáo dục cơ bản, khoa
học công nghệ với những dạng kỹ năng và năng lực mới. Để chuyển dịch lên phía
trong chuỗi giá trị (value-chain) và tránh những sai lầm mà các nước đang phát triển
đã mắc phải, VN cần phải có những chính sách mới để xây dựng một hệ thống kinh
tế xã hội hiện đại, năng động và linh hoạt, có tác dụng khuyến khích tư duy sáng
tạo, đổi mới và tận dụng được khoa học công nghệ mới nhất. Ứng dụng TMĐT có
lẽ là con đường mà xu thế phát triển của nhân loại đã đặt ra trước mắt. Song, cần
lưu ý rằng, mặc dù phát triển TMĐT là hết sức cần thiết nhưng chúng ta cũng nên
thận trọng bởi những tác động sâu rộng và đa chiều của nó đến xã hội và từng cá
nhân, nếu đi không đúng hướng thì việc áp dụng TMĐT bị thất bại sẽ là điều không
thể tránh khỏi.
Nhìn từ góc độ toàn cầu, TMĐT đặt ra một vấn đề là các lợi ích của TMĐT
sẽ được chia sẻ như thế nào giữa các nước có trình độ công nghệ và tổ chức pháp lý
xã hội rất cách xa nhau; và các nước đang phát triển như VN liệu có thể duy trì
được khả năng cạnh tranh hợp lý để cùng phát triển? Qua phân tích các điều kiện
phát triển TMĐT kết hợp với nghiên cứu định hướng mục tiêu và phương hướng
phát triển TMĐT ở VN có thể thấy tất cả các hoạt động hiện nay nhìn chung chỉ
93
mới trên hướng biểu thị sự hưởng ứng với TMĐT, còn các hoạt động hướng vào
chuẩn bị một môi trường toàn diện và thực sự cho TMĐT (môi trường CNTT, môi
trường pháp lý, môi trường thanh toán tài chính và môi trường xã hội) thì chưa được
tiến hành một cách có hệ thống. Từ các vấn đề nêu trên đặt ra cho nước ta một yêu
cầu là “không thể sớm, cũng không thể muộn”. Không thể sớm nghĩa là để thực sự
tham gia TMĐT, đóng góp thực tế vào việc nâng cao hiệu quả hoạt động thương
mại, vào sự nghiệp CNH – HĐH đất nước thì trong dài hạn, cần tăng cường xây
dựng hạ tầng cơ sở hiện đại cho TMĐT. Không thể muộn nghĩa là ngay bây giờ đã
cần phải có sự nhận thức đầy đủ về tính tất yếu và mức độ tác động của nền kinh tế
số hóa và TMĐT, đồng thời xây dựng và triển khai nhanh chóng các chương trình
hành động phù hợp với tình hình thực tế của VN và các thỏa thuận mà VN đã cam
kết. Trong hai nhánh hoạt động trên đây, nên coi trọng nhánh chuẩn bị môi trường
lâu dài, tránh sa vào các hoạt động “phô diễn” ít hiệu quả, có thể đưa lại các hệ quả
không mong muốn. Điều này đòi hỏi Chính phủ và mọi thành phần kinh tế phải nỗ
lực hết mình xây dựng và hoàn thiện các điều kiện phát triển TMĐT một cách bền
vững. Trong đó, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực sẽ là ưu tiên chiến lược dài
hạn quan trọng nhất của đất nước ta.
Tóm lại, khi so sánh với mục đích ở phần mở đầu, khóa luận đã phần nào giải
quyết được những nhiệm vụ đã đặt ra. Trong đó, đã hệ thống hóa được các vấn đề lý
luận về thương mại điện tử, phân tích thực trạng và đánh giá triển vọng phát triển
TMĐT ở các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng, từ đó đưa ra
những giải pháp tối ưu cho sự phát triển TMĐT ở Việt Nam. Tuy nhiên, trong điều
kiện thời gian và trình độ kiến thức còn nhiều hạn chế, khóa luận mới chỉ dừng lại ở
việc nghiên cứu tổng quan nhất, các đánh giá, kiến nghị đưa ra chưa thực sự sắc bén
và còn rất nhiều thiếu sót. Em xin phép được tiếp tục nghiên cứu về vấn đề này
trong các nghiên cứu khoa học sau này, khi có điều kiện về thời gian và nhất là trình
độ kiến thức đã được hoàn thiện hơn.
94
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
1. Hoàng Anh (2008), Những lợi ích từ Internet, Tạp chí Thế giới vi tính, số 12.
2. Bộ Thương Mại (2008), Báo cáo thương mại điện tử Việt Nam 2007.
3. Bộ Công thương (2009), Báo cáo thương mại điện tử Việt Nam 2008.
4. Bộ Thương Mại (2003), Hiện trạng ứng dụng thương mại điện tử ở Việt Nam.
5. Bộ Thương Mại (2005), Kế hoạch phát triển thương mại điện tử 2006 - 2010.
6. Cục Ứng dụng CNTT (2009), Báo cáo Ứng dụng công nghệ thông tin năm
2008 - 2009.
7. Mai Ngọc Cường (2008), CNTT và những tác động, Tạp chí Kinh tế và Phát
triển, số 12.
8. Trần Dũng (2010), Phát triển thương mại Malaysia, cơ hội phía trước, Tạp
chí Những vấn đề Kinh tế và Chính trị Thế giới, số 02.
9. Phạm Thu Hương, Nguyễn Văn Thoan (2009), Ứng dụng Marketing điện tử
trong kinh doanh, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Xuất bản lần đầu, TP.HCM.
10. Nguyễn Phương Nhung (2007), Lợi thế của việc sử dụng e-marketing trong
hoạt động kinh doanh, Tạp chí Kinh tế và Chính trị thế giới, số 09.
11. Phạm Nguyên Phương (2009), Thực trạng và giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất
khẩu sản phẩm nông sản Việt Nam vào thị trường Mỹ, Trường đại học An
Giang.
12. Nguyễn Thắng (2009), Tương lai nào cho CNTT Thái Lan, Tạp chí PC World
Việt Nam, số 09.
13. Nguyễn Mạnh Tuân, Võ Văn Huy (2007), Bản chất và quan hệ giữa các phạm
trù thông tin trong hệ thống thông tin, Tạp chí Phát triển KH&CNTT, tập 10,
số 08.
14. Tuấn Trần (2008), CTTT-TT – Góc nhìn cận cảnh, Tạp chí Bưu chính Viễn
thông, kỳ 1 tháng 12.
95
TÀI LIỆU TIẾNG ANH
15. Aaditya Matoo and Ludger Schuknecht (2005), Trade policy for Electronic
Commerce, WTO Working Papers.
16. Bakos, Yannis (2002), The Emerging Role of Electronic Marketplaces on the
Internet, Research paper, OECD.
17. Caroline Freund, Diana Weinhold (2007), On the effect of the Internet on
international trade, International Discussion Paper, no.693.
18. Didar Singh, (2009), E - Commerce Outlook, Philippines Economic Review,
no.11.
19. Hoh O’Connor và Eamonn Galvin (2000), Marketing in the digital age,
Financial Times management.
20. Jill H.Ellsworth và Matthew V.Ellsworth (1997), Marketing on the Internet -
2
nd
Edition, John Wiley.
21. Jonathan Coppel (2000), E-commerce: Impacts and Policy Challenges, OECD
Working Paper, no.252.
22. Mann, Catherine L. et al (2000), Global Electronic Commerce: A policy
Primer, Institute for International Economics.
23. Nezu. R (2000), E-commerce, a Revolution with Power, OCVD Directorate
for Science, Technology and Industry.
24. OECD (2000), E-commerce for Development: Prospects and Policy Issues,
CD/ DOC(00)8.
25. Somkiat Tangkit Vanich (2001), Global E-commerce Policies seen from the
South, Thailand Development Research Institute.
26. The Newspaper and the Economist group (2008), Readiness for the Networked
World. A guide for Developing Countries, The economist, no.7
27. The Newspaper and the Economist group (2009), E-commerce and The
Emerging Economies, The Economist, no.9.
28. UNCTAD (2009), E-commerce and development 2008.
96
WEBSITE
29.
30.
31.
market-is-growing-fast/
32.
he_gioi-4-48103.html
33.
gioi/malaysia-mot-dat-nuoc-tran-day-su-loi-cuon/33660.005312.html
34.
_internet.html
35.
mai-dien-tu-toan-cau.html
36. ính_phủ_điện_tử
37. ương_mại_điện_tử
38.
wall/10855489/176/
39.
muon-co-1-ty-nguoi-dung-toan-cau.html
40.
Internet-Viet-Nam-va-The-Gioi/99/
41.
tien-ro-net-cua-nen-tmdt-viet-nam.html
42.
trong-thuong-mai-dien-tu.html
43.
nguoi-su-dung-internet.htm
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4580_2044.pdf