Ngoại thương Việt Nam đã bước đi trên chặng đường đổi mới được gần 20
năm. Từ đó đến nay, thế giới thực sự đã đổi khác. Các quốc gia ngày càng liên kết
chặt chẽ với nhau hơn bởi sự vận động của những luồng hàng hóa, dịch vụ không
thể nào kìm hãm nổi. Cùng với sự di chuyển các luồng hàng hóa dưới tốc độ chóng
mặt, tỷ giá hối đoái các đồng tiền chủ chốt trên thế giới như USD, JPY, EUR cũng
liên tục biến động, phản ánh chính xác tương quan sức mua giữa các nước trên thế
giới. Là một quốc gia đang bước những bước đầu tiên trong quá trình hội nhập, đã
đến lúc Việt Nam chúng ta phải có những nhìn nhận đúng đắn hơn về công cụ tỷ
giá, đặc biệt là tác động tích cực của tỷ giá hối đoái lên ngoại thương Việt Nam.
133 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3754 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tỷ giá hối đoái và tác động của tỷ giá đến ngoại thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
àn rỗi từ dân cư rồi phân bổ
cho các dự án đi vay từ phía các tổ chức, cá nhân, chủ yếu là các doanh nghiệp. Mặc
dù đã có thị trường chứng khoán , song đa số các doanh ngiệp Việt Nam đều tìm
đến các NHTM khi có vướng mắc về vốn. Điều này càng làm tăng thêm ý nghĩa của
sự tồn tại hệ thống NHTM bởi NHTM chi phối hầu như toàn bộ lượng vốn vận
động của nền kinh tế nên mọi sự sai sót tác động tiêu cực đến NHTM sẽ rất dễ gây
tổn thương cho hệ thống tiền tệ nói riêng cũng như toàn bộ hoạt động ngoại thương
nói chung. Có rất nhiều giải pháp để nâng cao hoạt động của NHTM, song trong
khuôn khổ của bài viết, người viết sẽ đề cập đến một số giải pháp xuất phát từ
những bất cập trong thực tế và đã ảnh hưởng không nhỏ đến tỷ giá hối đoái cũng
như ngoại thương Việt Nam.
*Xóa bỏ dần tình trạng nợ xấu trong hệ thống các NHTM: Nợ xấu luôn là
vấn đề nan giải của các NHTM, đối với hệ thống NHTM Việt Nam. Ngay tại thời
điểm này, nợ xấu đang ăn mòn dần khả năng cho vay của NHTM. Tình trạng vốn
cho vay không quay vòng lại ngân hàng sau một thời gian quy định như lúc này nếu
kéo dài sẽ khiến các ngân hàng buộc phải thu hẹp phạm vi cho vay, hiệu quả kinh
doanh giảm dần, lợi nhuận dự tính chuyển thành chi phí dự tính và kết quả là nếu
không được sự trợ giúp từ phía NHNN, các NHTM này sẽ phá sản, thị trường tiền
tệ bị tê liệt, hoạt động xuất nhập khẩu cũng sẽ bị đông cứng.
Tuy nhiên thực tế thật trớ chêu khi 90% khoản nợ xấu của hệ thống NHTM
hiện nay có sự góp mặt của các “con nợ” là các doanh nghiệp nhà nước, nợ trung và
dài hạn chiếm đến 30% trong đó nhiều nhất là nợ xấu trong đầu tư xây dựng cơ bản
96
(28). Sở dĩ xuất hiện tình trạng như vậy là do đa số các doanh nghiệp nhà nước vay
vốn với lượng lớn nhưng làm ăn không hiệu quả. Thái độ “cả nể” và phân biệt đối
xử giữa doanh nghiệp tư nhân với doanh nghiệp nhà nước vẫn còn đeo bám hoạt
động của các NHTM hay chính xác hơn là những nhân viên hoạt động trong hệ
thống ngân hàng này. Họ cho rằng nếu các doanh nghiệp nhà nước không trả nợ
được cho họ thì bản thân nhà nước sẽ đứng ra bù đắp thiệt hại cho ngân hàng. Đây
là một quan điểm hết sức sai lầm mà Nhật Bản đã từng vấp phải trong cuộc khủng
hoảng 97-98. Các NHTM tại Nhật Bản theo chủ trương khuyến khích đầu tư của
nhà nước đã ra sức cho các doanh nghiệp vay, thậm chí NHNN Nhật Bản còn ủng
hộ cho quan điểm này bằng cách giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc xuống còn 0%, hậu quả
là nợ xấu liên tiếp xuất hiện. Khi các NHTM Nhật Bản tìm đến giải pháp hạn chế
cho vay, NHNN tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì tình trạng tăng giá đồng Yên, xuất
khẩu sụt giảm, nhập siêu leo thang đã vượt ngoài tầm kiểm soát của quốc gia này.
Cộng thêm với nạn đầu cơ ồ ạt trên thị trường chứng khoán, kinh tế Nhật Bản lâm
vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng, hệ thống ngân hàng gần như đổ vỡ hoàn
toàn và phải mất 5 năm các NHTM của Nhật Bản mới vượt qua sóng gió. Với bài
học từ Nhật Bản, các NHTM nên giảm tỷ lệ nợ xấu bằng cách kiên quyết không cho
các dự án không khả thi, những dự án không có thế chấp hoặc thế chấp ở mức thấp
vay; công bằng hơn khi xem xét các dự án đi vay thuộc khu vực tư nhân. Tránh tình
trạng móc ngoặc tự ý cho vay bừa bãi của các nhân viên bằng cách tăng cường công
tác kiểm tra giám sát hoạt động các nhân viên và có chế độ thưởng, phạt nghiêm
khắc. Làm được điều này chính là đã tạo ra một môi trường thuận lợi cho tỷ giá phát
huy vai trò thúc đẩy ngoại thương của mình.
*Chủ động tìm kiếm thị trường vay và cho vay, đa dạng hóa các loại hình
dịch vụ kinh doanh: Do NHTM là một tổ chức hoạt động vì mục đích lợi nhuận, nếu
coi NHTM như một doanh nghiệp kinh doanh thì NHTM cũng cần phải quảng bá
cho dịch vụ của nó. Điều đó đồng nghĩa với việc để tồn tại, các NHTM phải chủ
động hơn trong việc tìm kiếm khách hàng, lối hoạt động xưa cũ ngồi chờ khách
hàng sẽ bị thay thế bởi các chiến lược thu hút tiền gửi, tạo tiền vay. Bên cạnh đó, để
đảm bảo an toàn toàn bộ hệ thống ngân hàng, kiểm soát được những vận động của
97
tỷ giá, các NHTM nên thực hiện đa dạng hóa thị trường kinh doanh, có nghĩa là
không chỉ tiến hành quan hệ vay và cho vay với những người cư trú mà việc vay và
cho vay này còn được mở rộng, xúc tiến đối với các cá nhân, tổ chức nước ngoài
không cư trú tại Việt Nam. Nếu giải pháp này được thực thi thì tài khoản tiền gửi
ngoại tệ của các NHTM sẽ được đa dạng hóa, giảm bớt sự phụ thuộc vào một số
đồng tiền chủ chốt. Mặt khác, các tài khoản tiền gửi ngoại quốc có thể sẽ là cứu
cánh cho NHTM trong nước khi gặp khó khăn về vốn hoặc chịu sức ép rút vốn hàng
loạt từ những người cư trú.
Đa dạng hóa các loại hình dịch vụ kinh doanh cũng được xem là một công cụ
hữu hiệu trong việc nâng cao khả năng cạng tranh của các NHTM, tạo điều kiện
thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu khi tham gia vay vốn hoặc kinh
doanh, chuyển đổi ngoại tệ. Hơn nửa năm trở lại đây, cạnh tranh giữa các NHTM
đặc biệt là các NHTM cổ phần diễn ra rất gay gắt, lãi suất nhận tiền gửi liên tiếp
tăng lên trong khi đó lại suất cho vay lại liên tiếp được giảm xuống để thu hút các
khoản cho vay. Việc làm này đã khiến lợi nhuận kinh doanh các NHTM sụt giảm do
chênh lệch giữa lãi suất vay và cho vay bị thu hẹp, gây nguy cơ phá sản một số ngân
hàng. Song nếu các NHTM tiến hành đa dạng hóa các loại hình kinh doanh, có dịch
vụ chăm sóc khách hàng truyền thống, biếu-tặng quà nhân dịp lễ tết... thì chắc chắn
số khách hàng tìm đến sẽ càng đông, cuộc chạy đua về lãi suất khi ấy sẽ không còn
là bài toán không lời giải.
*Tăng cường triển khai an ninh tài khoản tiền gửi và bảo vệ toàn bộ hệ
thống mạng của NHTM: Các NHTM Việt Nam hiện nay dường như quá chú trọng
vào việc làm thế nào để có thật nhiều lợi nhuận, tăng được số lượng các tài khoản
tiền gửi mà quên đi mất công việc giữ an toàn cho các tài khoản tiền gửi ấy. Trong
khi đó, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu lại luôn tâm niệm tiền chính là sinh mệnh.
Để kinh doanh có hiệu quả, các doanh nghiệp cần phải có tiền, điều gì sẽ xảy ra nếu
một ngày kia tiền trong tài khoản ngân hàng các doanh nghiệp này đột nhiên biến
mất ? Hậu quả thật khó có thể lường trước song chắc chắn hệ thống tiền tệ sẽ bị tổn
thương, tỷ giá sẽ biến động bất ổn, kéo theo sự tê liệt toàn bộ hoạt động ngoại
thương.
98
Năm 2003 là năm chứng kiến sự kiện hàng loạt NHTM tiến hành áp dụng
phương thức thanh toán điện tử song vấn đề an ninh ngân hàng vẫn bị coi nhẹ. Và
thế là nạn nhân đầu tiên của những vụ tấn công trên mạng xuất hiện: Ngân hàng
thương mại cổ phần Á Châu (ACB). Tin tặc đã sử dụng công cụ giải mã mật khẩu
để đột nhập vào hệ thống danh sách khách hàng, lấy thông tin về một số cá nhân có
tài khoản tại ngân hàng và sau đó là hành động tung tin thất thiệt được lập tức triển
khai đến các khách hàng này. Sóng gió nổi lên, sự đồn thổi đã khiến rất nhiều
người dân đến ACB rút tiền, ACB đã phải cầu cứu đến sự trợ giúp của NHNN để
giải quyết tình huống khó khăn này. Một cách khách quan, tên hacker tấn công vào
hệ thống mạng ACB vẫn còn rất nhân đạo. Ở một số nước, tin tặc tấn công còn làm
đảo lộn toàn bộ tài khoản tiền gửi và tiền vay, các giữ liệu quan trọng bị đánh cắp
thậm chí còn bị xóa sạch. Trong tình cảnh các NHTM VN hiện nay chỉ mới tìm đến
công cụ bảo mật bằng các loại khóa mật khẩu hay mật khẩu gồm 8 ký tự thì việc bị
tấn công tất yếu xảy ra. Tin tặc sẽ sử dụng công cụ lấy cắp mật khẩu cũng như bẻ
khóa mật khẩu tải miễn phí từ các trang web như
hoặc sau
đó giải mã mật khẩu và đột nhập (9). Vì vậy các NHTM nên sử dụng hệ thống phát
hiện đột nhập IDS (Instruction detection system) và thay thế mật khẩu 8 ký tự giản
đơn bằng mã vân tay hoặc mã từ.
Nếu việc triển khai an ninh mạng trong hệ thống NHTM được thực hiện như
trên thì chắc chắn các doanh nghiệp sẽ an tâm hơn, phấn khích hơn khi tham gia
hoạt động ngoại thương.
*Đảm bảo tính công bằng trong việc hỗ trợ tín dụng xuất- nhập khẩu đối với
các doanh nghiệp ngoại quốc doanh: Hiện nay, các doanh nghiệp xuất-nhập khẩu
ngoại quốc doanh vẫn đang trong tình cảnh bị phân biệt đối xử. Hầu hết các khoản
vay để mở rộng hoạt động sản xuất thúc đẩy xuất khẩu của các doanh nghiệp này
đều được huy động từ bạn bè, người thân, bởi các khoản cho vay từ phía NHTM rất
khó tiếp cận, đa số các NHTM đều có đôi chút phân biệt giữa doanh nghiệp nhà
nước và doanh nghiệp tư nhân. Vì thế nên đôi khi các doanh nghiệp ngoại quốc
doanh phải trả cho các chủ nợ phi chính thức khoản lãi suất cao hơn lãi suất ngân
99
hàng từ 3 đến 6 lần. Điều này vừa tác động xấu đến các doanh nghiệp xuất nhập
khẩu vừa gây thiệt hại lớn cho toàn bộ nền kinh tế.
* Tất cả các giải pháp trên sẽ không thể thực hiện được nếu không có một đội
ngũ nhân viên giàu kinh nghiêm, có trình độ cao. Do đó NHTM một mặt phải
thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo, nâng cao trình độ cán bộ công nhân viên
mặt khác lại phải có những chế độ đãi ngộ hợp lý để mọi hoạt động của nhân viên
sẽ không thể gây tổn hại đến lợi ích của bản thân NHTM nói riêng cũng như lợi ích
của hoạt động thương mại quốc tế nói chung.
3.2.1.3. Một số giải pháp vĩ mô khác:
* Xây dựng hệ thống ngân hàng thông tin hỗ trợ hoạt động tỷ giá và xuất
nhập khẩu:
Thông tin là yếu tố vô cùng quan trọng, đối với hoạt động ngoại thương Việt
Nam, thông tin chính là thứ bảo bối giúp các doanh nghiệp cạnh tranh và cạnh tranh
được trên trường quốc tế. Thế nhưng thông tin về hoạt động xuất-nhập khẩu cũng
như tỷ giá hiện nay lại rất manh mún, chủ yếu được quy tụ từ báo chí. Các trung
tâm thông tin hỗ trợ việc quản lý tỷ giá và xuất nhập khẩu còn thiếu, dẫn đến tình
trạng tìm hiểu các thông tin chi tiết về thị trường các quốc gia khác như thông tin về
luật pháp, biến động tiền tệ, tâm lý người tiêu dùng...vẫn còn rất khó khăn. Bên
cạnh đó, hệ thống thương vụ của Việt Nam tại các quốc gia trong công tác cung cấp
thông tin thị trường và định chế thương mại chính tại thị trường các quốc gia ấy lại
hoạt động chưa mấy hiệu quả. Điều này đã khiến hoạt động ngoại thương Việt Nam,
đặc biệt là hoạt động xuất nhập khẩu phải trả giá khá đắt. Điển hình là tháng 5 năm
2003, một lô hàng gốm sứ từ Việt Nam xuất khẩu sang Ả rập Xê – út đã bị trả về
với lý do lô hàng không thích hợp tiêu thụ trên thị trường này. Số là nhà sản xuất
Việt Nam đã in hình đức Phật Di Lặc lên trên hàng hóa của mình, hình ảnh “thoải
mái” của đức Phật trên những chiếc lọ nếu ở thị trường Việt Nam là biểu tượng của
sự vui vẻ thì trên thị trường xứ đạo Hồi này, đó lại là một điều “sỉ nhục”. Doanh
nghiệp xuất khẩu lô hàng này đã mất thị trường Ả rập Xê-út và tai hại hơn nếu
chúng ta không thiết lập ngay ngân hàng thông tin như đã đề cập thì sẽ còn rất nhiều
doanh nghiệp nữa lâm vào tình cảnh này.
100
Các ngân hàng thông tin có thể được xây dựng bởi các chính các doanh
nghiệp xuất nhập khẩu với sự hỗ trợ tài chính của nhà nước, nhưng tốt hơn cả là nhà
nước nên đứng ra thành lập ngân hàng thông tin, sau đó sẽ thu lệ phí từ các doanh
nghiệp sử dụng nó.
* Hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận thị trường thế giới:
Bản thân các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiếm khi
có thể tự quảng bá trên thị trường thế giới do đó sự hỗ trợ của nhà nước trong việc
giúp đỡ các doanh nghiệp này tham gia hội chợ, triển lãm nước ngoài là một điều
hết sức cần thiết. Đến nay, Nhà nước cũng đã hỗ trợ một phần tài chính cho một số
doanh nghiệp trong việc tham gia triển lãm và hội trợ quốc tế, song biện pháp này
cần được mở rộng về cả phạm vi và hình thức hỗ trợ như khấu trừ một phần thuế
thu nhập doanh nghiệp theo một tỷ lệ nhất định với chi phí tham dự hội chợ, triển
lãm nước ngoài hoặc hỗ trợ thêm một phần tài chính nếu doanh nghiệp ký kết được
hợp đồng cho sản phẩm mới, thị trường mới.
*Ngăn chặn, đẩy lùi hoàn toàn hoạt động buôn lậu và gian lận thương mại:
Buôn lậu, gian lận thương mại là những hành vi gây tổn hại nghiêm trọng đến
hoạt động ngoại thương Việt Nam. Chúng làm xáo trộn thị trường trong nước, kìm
hãm phát triển xuất khẩu, hủy hoại năng lực cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam và
cuối cùng, gây sụt giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế. Thế nhưng ngay tại thời điểm
này, hoạt động buôn lậu vẫn liên tiếp diễn ra, hàng lậu vẫn tiếp tục trôi nổi tại thị
trường trong nước, gian lận thương mại không giảm, điển hình là một số doanh
nghiệp sản xuất thép đã nhập khẩu dây thép song lại khai báo là lõi que hàn khiến
thuế nhập khẩu giảm từ 40% xuống còn 5%, gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế. Do
đó để từng bước đẩy lùi buôn lậu, gian lận thương mại, chúng ta có thể tiến hành
biện pháp chủ yếu sau:
Tăng cường thêm lực lượng kiểm soát sự ra vào các luồng hàng hóa
trên lãnh thổ Việt Nam.
Trang bị thêm hệ thống tia chiếu phát hiện hàng lậu, thường xuyên đào
tạo nâng cao nghiệp vụ và thanh lọc đội ngũ chống buôn lậu, gian lận
thương mại.
101
Đảm bảo sự phối hợp đồng giữa các cơ quan trong việc quản lý, triển
khai kế hoạch thực hiện nhằm hạn chế tình trạng buôn lậu, gian lận
hiện nay.
* Tiếp tục cải cách thủ tục hải quan, thực hiện chiến lược trong sạch hóa đội
ngũ cán bộ hải quan:
Mặc dù đã có những nỗ lực lớn trong thời gian qua song thủ tục hải quan vẫn
còn gây nhiều phiền phức cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Do đó một số giải
pháp sau cần được cân nhắc:
Đơn giản hóa trong việc thủ tục mở tờ khai hải quan, ví dụ giám đốc
hoặc phó giám đốc có thể ủy quyền cho cán bộ ký tờ khai
Nghiên cứu hình thành việc mở tờ khai một lần đối với lô hàng lớn
xuất, nhập nhiều lần.
Tiến hành thống nhất hệ thống mã số hàng hóa quốc tế với hệ thống mã
số thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam, nhằm làm giảm bớt tình trạng xử
lý tương đối tùy tiện của một số cán bộ hải quan. Ví dụ một mặt hàng
hóa chất khi được coi là một loại nguyên liệu sẽ chịu mức thuế nhập
khẩu thấp hơn hẳn so với thuế nhập khẩu nếu coi mặt hàng này là một
loại hàng tiêu dùng.
Bên cạnh đó, Tổng cục hải quan cũng nên tăng cường giám sát các hoạt động
nhân viên mình do trong đội ngũ hải quan đã xuất hiện một số “con sâu làm rầu nồi
canh”. Hơn 70% các vụ buôn lậu và gian lận thương mại lớn đều có sự góp mặt của
các cán bộ, nhân viên hải quan. Rất nhiều cán bộ hải quan đã tiếp tay cho các doanh
nghiệp làm ăn phi pháp, nhập khẩu hàng hóa trốn thuế khiến chiến lược ngoại
thương về thay thế nhập khẩu của nhà nước hoạt động không mấy hiệu quả. Trong
khi đó, hàng hóa Việt Nam xuất sang thị trường các nước tư bản lại thường xuyên
phải chịu sự giám sát kỹ lưỡng thậm chí khe khắt từ phía hải quan nước họ. Vì vậy,
trong sạch hóa đội ngũ cán bộ hải quan cũng chính là làm lành mạnh hóa môi
trường kinh doanh, giúp sự vận động giữa hàng xuất khẩu với hàng nhập khẩu trở
nên công bằng hơn.
102
* Công khai thông tin đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu: Việc công
khai thông tin hiện đang là điểm yếu của giới điều hành, quản lý hoạt động xuât
nhập khẩu. Các thông tin quan trọng như hạn ngạch xuất nhập khẩu hàng năm
thường không được phổ biến đến các doanh nghiệp. Do đó đã xuất hiện tình trạng
mua, bán hạn ngạch, ưu tiên cấp riêng hạn ngạch cho một số doanh nghiệp mà năng
lực thực tế còn hạn chế. Chính điều này đã giảm tính cạnh tranh của hàng hóa Việt
Nam cũng như thủ tiêu sự đoàn kết giữa các doanh nghiệp trong việc cùng nhau
vươn ra thị trường quốc tế. Và có thể nói, việc cạnh tranh gay gắt giữa các doanh
nghiệp trong cùng một ngành nghề kinh doanh phục vụ xuất khẩu nếu không được
xoa dịu bằng việc công khai thông tin thì về mặt dài hạn động lực phát triển của
hoạt động ngoại thương Việt Nam cũng sẽ bị ăn mòn.
*Mở thêm một số điểm cấp giấy chứng nhận xuất xứ C/O và tiến hành cấp
C/O vào thứ bẩy cho doanh nghiệp các tỉnh, địa phương: Hiện nay, Phòng thương
mại và công nghiệp Việt Nam -VCCI có 8 điểm cấp giấy chứng nhận C/O, đó là Hà
Nội, TP HCM, Hải Phòng, Thanh Hóa, Vinh, Đà Nẵng, Bà Rịa Vũng Tàu và Cần
Thơ. Tuy nhiên, các địa điểm cấp C/O chưa được đặt một cách hợp lý, khoảng cách
giữa các văn phòng này còn khá xa nhau nên đối với một số doanh nghiệp, riêng
việc đi lại xin giấy chứng nhận cũng đã mất nửa ngày. Chẳng hạn như văn phòng
Khánh Hòa và Đà Nẵng cách nhau tới 600 km. Đến được nơi xin cấp giấy phép nếu
hồ sơ không đạt yêu cầu, họ lại phải quay trở về văn phòng công ty để làm thủ tục
lại từ đầu. Việc này vừa tốn kém, vừa làm mất thời gian của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, việc VCCI... không làm việc trong ngày cuối tuần cũng gây
thiệt hại không nhỏ cho các doanh nghiệp. “Có những hôm chúng tôi cần có giấy
xác nhận ngay trong ngày thứ bảy, nhưng đáng tiếc là văn phòng của VCCI lại
không làm việc vào ngày này. Như vậy, chúng tôi lại phải chờ đợi đến thứ hai tuần
sau” - giám đốc một công ty thủy sản ở TP HCM phản ánh. Với việc chờ đợi này,
các doanh nghiệp có thể sẽ phải gánh chịu một khoản chi phí lớn do xuất hàng chậm
ngày. Trong một cuộc gặp với Thủ tướng Chính phủ, ông Lê Văn Quang, Giám đốc
Công ty Minh Phú (Cà Mau) cũng đã cho biết, C/O nộp trước 10h sáng mới nhận
trong ngày, nộp sau thời gian này, ngày hôm sau mới được nhận. Theo tính toán từ
103
Viện nghiên cứu và quản lý kinh tế trung ương, cách làm việc này có thể gây cho
doanh nghiệp xuất khẩu thiệt hại khoảng 850.000 đồng cho một lô hàng trị giá
250.000 USD nếu xuất hàng chậm mất 1 ngày (53).
* Hoàn thiện và thống nhất các chính sách điều hành quản lý hoạt động
ngoại thương, tránh tình trạng chồng chéo giữa các văn bản ban hành từ nhiều cơ
quan quản lý, gây khó dễ cho công tác triển khai thực hiện. Đây là biện pháp luôn
được các cấp, bộ ngành nhắc tới với mục tiêu làm định hướng chỉ đạo cho hoạt
động của mình, thế nhưng việc thực hiện lại chẳng mấy hiệu quả. Việc quản lý
chồng chéo vẫn diễn ra, ví như đối với vụ việc nhập khẩu thép phế liệu hồi tháng
5/2003 của công ty Gang Thép Thái Nguyên trên con tàu Century Luck và Global
mặc dù được BTM cũng như một số cơ quan khác ủng hộ song đã bị “gác ở cửa môi
trường ” và một điều lạ là ở phía nam, doanh nghiệp cũng nhập loại hàng tương tự
mà không thấy bị ách tắc gì. Nguyên nhân chính chính là sự khó hiểu của quyết
định 65/2001/QĐ- BKHCNMT, điều 2 khoản 2 có quy định tỷ lệ tạp chất lẫn trong
thép phế liệu được phép nhập khẩu phải là “một lượng không đáng kể” khiến các
cơ quan quản lý mỗi nơi hiểu một kiểu và các doanh nghiệp xuất-nhập khẩu rốt
cuộc vẫn là các tổ chức duy nhất gánh chịu mọi thiệt hại.
* Cải cách thủ tục mua hóa đơn thuế giá trị gia tăng đối với các doanh
nghiệp xuất nhập khẩu: Các thủ tục mua hóa đơn, các yêu cầu về giấy tờ cần có để
mua hóa đơn thuế tại Việt Nam hiện nay đã tiêu tốn rất nhiều sinh lực của các
doanh nghiệp. Quy định đặt ra chỉ có lợi cho vấn đề quản lý mà không hề nghĩ đến
những tình trạng nhiêu khê mà các doanh nghiệp sẽ gặp phải. Thông tư của Bộ Tài
Chính 120/2002/TT-BTC (ban hành tháng 12/2002) quy định về việc để mua và sử
dụng hóa đơn, doanh nghiệp cần có sơ đồ trụ sở, hợp đồng thuê nhà có xác nhận của
UBND phường sở tại... và nhất là phải đích thân giám đốc mang theo chứng minh
thư mới được mua hóa đơn. Điều này đã khiến một số giám đốc trong chuyến đi
công tác nước ngoài phải vội vàng quay về chỉ để “mua hóa đơn”, chưa hết, để đổi
được hóa đơn cũ đã hết hạn, ông Nguyễn Khắc Phụng, giám đốc công ty tư vấn
kinh doanh Hà Nội phải chuẩn bị tới 12 loại giấy tờ khác nhau, đồng thời cán bộ
thuế yêu cầu đích thân ông phải đi đổi... Chính những sự phiền nhiễu không đáng có
104
này đã khiến một số doanh nghiệp rơi vào tình trạng bế tắc, ở cơ quan quản lý nào,
doanh nghiệp cũng bị gây khó rễ. Do đó, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu sẽ không
thể nâng cao hiệu quả kinh doanh, tập trung vào sản xuất chừng nào mà sức lực của
họ vẫn bị chi phối bởi các thủ tục nhũng nhiễu như trong việc mua hóa đơn kể trên.
3.2.2. Giải pháp vi mô:
3.2.2.1. Giải pháp đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu:
Hạt nhân quan trọng nhất thúc đẩy hoạt động ngoại thương chính là các
doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Mọi giải pháp phát triển ngoại thương sẽ trở nên vô
nghĩa nếu hoạt động của bản thân các doanh nghiệp bề trễ. Vì vậy, những giải pháp
sau cần được xem xét:
* Tìm hiểu kỹ lưỡng đối tác trước khi ký kết hợp đồng xuất-nhập khẩu: Thực
tế chứng minh đã có rất nhiều doanh nghiệp chỉ chú trọng đến việc ký kết hợp đồng
xuất-nhập khẩu mà quên đi vấn đề cần kiểm tra độ tin cậy của đối tác. Các doanh
nghiệp sau khi mất hàng, mất tiền mới chợt bừng tỉnh. Kỳ quặc thay còn có một số
trường hợp ký kết hợp đồng qua email trong khi không hề xác minh trụ sở thực khai
báo trên email có chính xác hay không. Đó là sự vụ của một doanh nghiệp tại Hà
Nội, ký kết hợp đồng qua email mua 300 tấn nhôm thành phẩm từ một doanh
nghiệp Hồng Kông dưới cái tên Leettee Ptc. Ltd năm 2002. Người mua nhanh
chóng mở L/C thanh toán 80% tiền hàng, số còn lại thanh toán khi nhận hàng. Khi
lô hàng đến cảng, người mua phát hiện đó là phân bón chứ không phải nhôm và lập
tức gửi email, fax, phản ánh cho phía Hồng Kông song được thông báo là số fax ghi
trong hợp đồng không có ở Hồng Kông. Đây là bài học đau lòng cho những doanh
nghiệp quá cả tin vào bạn hàng dẫn đến thiệt hại lớn về mặt vật chất. Vấn đề này
không chỉ gây thiệt hại riêng cho doanh nghiệp mà còn làm méo mó sự vận động
của tỷ giá, gây thiệt hại đến hoạt động thương mại. Bởi thế các doanh nghiệp cần
tìm hiểu kỹ lưỡng đối tác trước khi ký kết hợp đồng, có thể tìm hiểu thông qua ngân
hàng nơi đối tác có tài khoản, thông qua những bạn hàng đã từng buôn bán với đối
tác...Có như vậy, ngoại thương Việt Nam mới có thể thực sự phát triển.
105
*Cân nhắc kỹ lưỡng trong việc lựa chọn đồng tiền, tỷ giá thanh toán:
Việc lựa chọn đồng tiền thanh toán cũng là một trong những nhân tố quan
trọng bởi nó quyết định trực tiếp doanh thu của doanh nghiệp. Lời khuyên truyền
thống đối với các doanh nghiệp tham gia hoạt động ngoại thương chính là nếu nhập
khẩu, nên thanh toán bằng đồng tiền có xu hướng xuống giá còn nếu xuất khẩu, nên
thanh toán bằng đồng tiền có xu hướng lên giá, tuyệt đối tránh những đồng tiền biến
động thất thường trong khoảng thời gian cực ngắn, không theo chu kỳ, khó dự đoán
hoặc đồng tiền của các quốc gia đang trong tình trạng bất ổn về chính trị.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp nên cân nhắc xem mình sẽ áp dụng mức tỷ
giá như thế nào khi thanh toán, tỷ giá giao ngay hay tỷ giá kỳ hạn, tỷ giá SWAP. Để
làm được điều này, doanh nghiệp cần có một đội ngũ am hiểu về những biến động
tiền tệ, biết triển khai công tác dự báo từ đó áp dụng lựa chọn loại tỷ giá nhất định
cho mỗi hợp đồng xuất-nhập khẩu nhằm thu lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro cho
doanh nghiệp. Một số doanh nghiệp khi mới bước chân vào kinh doanh thường ấn
định một mức tỷ giá nhất định trong thanh toán đối hợp đồng của họ, và vì vậy họ
đã bỏ qua khoản lợi nhuận đáng lẽ ra có thể thu được nhờ biết cách kinh doanh dựa
trên biến động tỷ giá. Tuy nhiên, trong tình hình thực tiễn hiện nay, do việc áp dụng
tỷ giá kỳ hạn và tỷ giá SWAP còn có những hạn chế nên các doanh nghiệp thường
không chú trọng đến vấn đề này. Song để có thể hội nhập tốt và đững vững lâu dài
trong kinh doanh, các doanh nghiệp nên xem xét vấn đề này một cách đúng đắn
hơn.
* Tiến hành đa dạng hóa ngoại tệ trên tài khoản tiền gửi: Các doanh nghiệp
xuất nhập khẩu nên tiến hành đa dạng hóa tài khoản tiền gửi của mình nhất là trong
xu thế vận động khôn lường của hệ thống tiền tệ thế giới, việc phụ thuộc quá nhiều
vào một đồng tiền duy nhất sẽ gây nên những rủi ro lớn. Hãy thử tưởng tượng xem
nếu trong tài khoản của doanh nghiệp A sẽ chỉ có toàn USD, cái gì sẽ xảy ra nếu
chính phủ Mỹ quyết định đổi tiền 10USD cũ = 1 USD mới ? Số ngoại tệ trong tài
khoản doanh nghiệp A khi ấy sẽ chỉ còn bằng 1/10 so với trước kia. Giới kinh
doanh có câu “không bỏ trứng vào một giỏ”, trong trường hợp này điều đó có nghĩa
là đa dạng hóa ngoại tệ cũng chính là biện pháp giảm rủi ro trong thanh toán. Ngoài
106
ra, đa dạng hóa ngoại tệ sẽ giúp các doanh nghiệp không phải bỏ tiền ra mua ngoại
tệ nhập khẩu, thay vào đó là sử dụng ngoại loại ngoại tệ cần thiết vốn đã có sẵn trên
tài khoản, chi phí mua ngoại tệ sẽ giảm bớt, doanh nghiệp có điều kiện mở rộng sản
xuất hơn.
* Tham gia bảo hiểm rủi ro tỷ giá: Bảo hiểm rủi ro tỷ giá đã được cho phép
tiến hành ở EXIMBANK và mới đây là Ngân hàng Đầu tư – Phát triển bằng việc
thực hiện nghiệp vụ Option. Thông qua đó, các doanh nghiệp có thể yên tâm không
sợ rủi ro trong thanh toán bất kỳ ngoại tệ nào. Đặc biệt, EXIMBANK đã tái bảo
hiểm cho các ngân hàng đối tác ở nước ngoài với đúng mức phí bằng mức phí bảo
hiểm tại ngân hàng mình, điều này có nghĩa là EXIMBANK không được hưởng lợi
từ bất kỳ một khoản phí bảo hiểm nào. Do thời điềm này chi phí bảo hiểm rủi ro tỷ
giá không cao cộng với việc ngân hàng đang ra sức thu hút khách hàng thông qua
việc giảm phí nên có thể xem đây là cơ hội tốt đối với các doanh nghiệp xuất-nhập
khẩu khi áp dụng dịch vụ này.
* Tăng cường hợp tác giữa các doanh nghiệp trên cơ sở thành lập các liên
hiệp doanh nghiệp: Để thành công trên thị trường quốc tế, các doanh nghiệp cần có
một sức mạnh tổng hợp, đó là sự kết hợp của sức mạnh về khả năng sản xuất hàng
hóa, sức mạnh trong tìm kiếm, giữ vững thị trường, sức mạnh tự cứu mình thoát
khỏi những chiếc bẫy vô hình được nhào nặn bởi các quốc gia vốn lọc lõi trên
thương trường. Thế nhưng thật đáng buồn là cho đến nay, sức mạnh ấy của ta vẫn
còn ở dạng tiềm ẩn. Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong việc giành được đơn
đặt hàng xuất khẩu hiện nay diễn ra khá gay gắt. Thậm chí có một số doanh nghiệp
không có khả năng thực hiện được đơn đặt hàng vẫn nhất quyết không trông cậy
vào sự hỗ trợ từ phía các doanh nghiệp khác. Đáng lẽ ra, các doanh nghiệp của
chúng ta phải cùng nhau hợp sức trên trường quốc tế thì nay, lợi nhuận trước mắt đã
che mờ lòng nhân ái, tinh thần đoàn kết của các doanh nghiệp. Và thế là sức mạnh
của ta bị xé lẻ, xuất khẩu Việt Nam đành ngậm ngùi chứng kiến cảnh ra đi lần lượt
của những đơn đặt hàng lớn. Thiết nghĩ để có thể tồn tại trong bối cảnh phức tạp
hiện nay, các doanh nghiệp cần liên kết với nhau, tạo nên sức mạnh tổng hợp nhằm
cạnh tranh và cạnh tranh được trên thị trường thế giới.
107
*Thực hiện đa dạng hóa thị trường xuất khẩu: Đa dạng hóa thị trường xuất
khẩu cũng là một trong số những nhân tố được sử dụng nhằm giảm bớt rủi ro cho
doanh nghiệp. Song hiện nay vẫn có rất nhiều doanh nghiệp chỉ tập trung vào một
số thị trường lớn, đặc biệt là thị trường Mỹ đối với các doanh nghiệp xuất khẩu thủy
sản, dẫn đến tình trạng “được ăn cả, ngã về không”. Người ta hẳn còn nhớ như in
những khó khăn mà các công ty xuất nhập khẩu thủy sản gặp phải khi CFA đưa cá
tra, cá basa của chúng ta ra trước tòa án Mỹ. Ấy thế mà mức độ đa dạng hóa thị
trường của các công ty vẫn diễn ra rất chậm, dường như các công ty này chỉ chú
trọng đến vấn đề tìm kiếm sao cho thật nhiều lợi nhuận mà quên đi việc làm gì để
có thể giữ gìn lợi nhuận ấy. Thế là việc phụ thuộc vào một số ít thị trường vẫn diễn
ra đối với những công ty kinh doanh lâu năm. Công ty cổ phần xuất-nhập khẩu mây
tre đan Babonimex (Hải Phòng) hiện vẫn có đến 60% sản phẩm được xuất sang thị
trường Mỹ. Và một khi thị trường Mỹ quay lưng với sản phẩm mây tre đan của Việt
Nam thì 60% doanh thu của công ty sẽ biến mất. Do đó, các công ty Việt Nam cần
thực hiện đa dạng hóa thị trường xuất khẩu trên cơ sở củng cố thị trường nội địa
nhằm tạo hậu phương vững chắc để doanh nghiệp có thể yên tâm chiến đấu nơi tiền
tuyến nóng bỏng.
* Liên kết chặt chẽ với người sản xuất hàng xuất khẩu nhằm đảm bảo có
được nguồn hàng xuất khẩu trong thời gian cần thiết: Quan hệ trực tiếp giữa những
nhà xuất khẩu và nông dân sản xuất ra nguyên vật liệu, nông sản xuất khẩu hiện nay
còn khá lỏng lẻo. Vì thế mà đã dẫn đến tình trạng ép giá từ phía các tiểu thương.
Doanh nghiệp chế biến hàng xuất khẩu phải mua nguyên vật liệu, nông sản đầu vào
với giá cao trong khi những người nông dân lại bị ép bán với giá thấp. Cũng có một
số doanh nghiệp tiến hành liên hệ trực tiếp với nông dân, song lại chưa đưa ra được
những ràng buộc cụ thể để xảy ra tình trạng người dân tự ý phá vỡ hợp đồng nếu có
lợi cho họ. Những người nông dân đơn giản thấy được giá thì bán, họ đâu có bận
tâm đến việc các doanh nghiệp xuất nhập khẩu chịu thiệt hại thế nào khi vi phạm
hợp đồng đã kí kết với các đối tác nước ngoài. Do đó các doanh nghiệp cần tạo
dựng mối quan hệ chặt chẽ giữa bản thân doanh nghiệp với người dân bằng cách:
108
Kí kết hợp đồng với những chế tài cụ thể, đảm bảo bù đắp cho nông dân nếu
có những biến động về giá.
Thường xuyên tổ chức những cuộc gặp gỡ giữa doanh nghiệp và nông dân
nhằm phát hiện sớm được những khó khăn, từ đó kịp thời đưa ra được các
phương hướng giải quyết.
* Tăng cường công tác xúc tiến thương mại, tự quảng bá, giới thiệu thương
hiệu sản phẩm: Muốn đứng vững trên thị trường thế giới, các sản phẩm của Việt
Nam cần có thương hiệu riêng của mình cũng như phải giữ vững được thương hiệu
ấy. Thế nhưng sản phẩm các doanh nghiệp Việt Nam khi xuất sang thị trường thế
giới thường lại thường phải ngậm ngùi dưới thương hiệu của các nước khác. Có thể
thấy rõ vấn đề này trong xuất khẩu dệt may, da giầy. Kết quả là người tiêu dùng
nước ngoài sẽ chẳng bao giờ biết đến sản phẩm của chúng ta, việc nâng cao chất
lượng sản phẩm trở nên vô nghĩa bởi nó sẽ chỉ khuyếch trương những thương hiệu
không phải của Việt Nam mà thôi. Ấy là chưa kể đến việc mấy năm gần đây, các
thương hiệu nổi tiếng của chúng ta lần lượt bị giành mất trên thị trường thế giới (Ví
như thương hiệu thuốc lá Vinataba đã bị Malayxia đăng kí bảo hộ trên 15 thị trường
trong đó có thị trường Singapore). Do đó để bảo vệ chính mình, doanh nghiệp cần
tự lập thương hiệu riêng, đăng ký bảo hộ thương hiệu trên một số thị trường chủ yếu
thực hiện các chiến lược quảng bá thương hiệu thông qua hội chợ, triển lãm, các
phương tiện truyền thông như Truyền hình, Internet...và tăng cường các dịch vụ sau
bán.
Tất cả các giải pháp trên sẽ không có tác dụng nếu chất lượng sản phẩm yếu
kém, trong bối cảnh người tiêu dùng thế giới ngày càng trở nên khó tính thì việc
nâng cao chất lượng của sản phẩm thông qua đổi mới công nghệ, thực hiện kiểm
tra, kiểm soát chất lượng toàn diện tất cả các khâu từ tìm hiểu nhu cầu thị trường
đến dịch vụ sau bán trở nên bức thiết hơn bao giờ hết. Bản thân Phó Thủ tướng Vũ
Khoan cũng nhận định “ hàng hóa của Việt Nam còn kém về chất lượng, giá thành
không cạnh tranh, nếu cứ giữ như thế này thì chúng ta sẽ ngày càng tụt hậu so với
thế giới...”. Tất nhiên, để có thể làm được điều này, các doanh nghiệp cần tạo lập
109
cho mình một đội ngũ nhân viên có trình độ bằng cách thường xuyên đào tạo cán bộ
và đặc biệt là có những chế độ thực sự ưu đãi nhằm thu hút người tài.
3.2.2.2. Giải pháp đối với người sản xuất hàng xuất khẩu:
Từ khi hoạt động ngoại thương phát triển, cuộc sống của người sản xuất hàng
xuất khẩu, đặc biệt là những người nông dân trở nên khấm khá hơn. Tuy nhiên, do
sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là nông sản, thô sơ chế nên việc sản xuất thường phụ
thuộc rất nhiều vào các yếu tố khách quan bên ngoài đặc biệt là điều kiện về môi
trường, thời tiết. Số phận người nông dân do đó trở nên bấp bênh hơn. Để bảo vệ
chính mình và cũng để bảo vệ nguồn lợi xuất khẩu, nông dân cần thực hiện một số
giải pháp chủ yếu sau:
* Tham gia tích cực các lớp huấn luyện nuôi trồng sản phẩm xuất khẩu:
Thực tế cho thấy có rất nhiều hộ nông dân tiến hành sản xuất hàng xuất khẩu theo
kiểu trào lưu, hầu hết đều chưa qua bất kỳ một lớp đào tạo nào mà chỉ học hỏi kinh
nghiệm theo kiểu truyền miệng. Vì thế mà hiệu quả sản xuất không cao, việc áp
dụng một số giống mới vào sản xuất do không được áp dụng đúng kỹ thuật đã gây
tổn thất không nhỏ. Tháng 10/2003, hàng loạt nông dân áp dụng giống lúa cao sản
do viện nông nghiệp tiến hành nghiên cứu đã lâm vào tình cảnh bi thảm khi toàn bộ
số lúa họ trồng đều lép hạt. Số là giống lúa này chỉ thích hợp trồng vào mùa xuân,
song do chưa được phổ biến kỹ, họ đã tiến hành trồng vào thời điểm hè-thu. Ấy là
chưa kể đã có rất nhiều gia đình nhổ lúa, trồng tôm sú và đã gặp cảnh tôm chết hàng
loạt vì chưa có kiến thức thực sự về phòng và chữa bệnh cho tôm. Bởi thế, các hộ
gia đình cần tích cực tham gia các lớp huấn luyện nuôi trồng, ở đó họ sẽ vừa được
học hỏi những kiến thức đúng đắn về nuôi trồng, lại vừa được giải đáp mọi thắc
mắc giúp cho việc sản xuất có hiệu quả hơn.
* Tham gia bảo hiểm cây trồng, vật nuôi: Thực tế cho thấy việc tham gia bảo
hiểm sẽ giảm bớt những thiệt hại do những rủi ro không lường trước gây ra cho cây
trồng, vật nuôi, giúp người dân có được một lượng vốn duy trì sản xuất, kịp thời đáp
ứng nhu cầu xuất khẩu. Ví như đối với công ty TNHH Bảo hiểm tổng hợp
Groupama Việt Nam, trong vụ tôm 2002, công ty đã bán bảo hiểm tôm sú cho 15
khách hàng với tổng hợp đồng 30 triệu. Trong thời gian bảo hiểm có 6 khách hàng
110
bị rủi ro và công ty đã trả bảo hiểm 400 triệu đồng. Song vấn đề bảo hiểm cây trồng,
vật nuôi hiện nay vẫn còn là một khái niệm mới mẻ đối với những người dân. Họ
không tin tưởng lắm vào các loại hình bảo hiểm và chỉ tiến hành bảo hiểm đối với
những vật nuôi, cây trồng gặp nhiều rủi ro. Vì thế mà đã có rất nhiều người nông
dân mất trắng đành phải bỏ ruộng vườn, nhà cửa đi làm mướn. Để bảo vệ quyền lợi
của chính mình cũng như quyền lợi sản phẩm xuất khẩu, thiết nghĩ ngay tại thời
điểm hiện nay, người nông dân nên xem xét vấn đề mua bảo hiểm một cách nghiêm
túc.
* Phối hợp thành lập hiệp hội nông dân sản xuất sản phẩm phục vụ xuất
khẩu: Hoạt động sản xuất của nông dân Việt Nam chủ yếu vẫn còn phân tán, có tính
chất manh mún, nhỏ lẻ, vì thế những người dân rất khó có thể tự bảo vệ mình trước
những biến động về giá cũng như trước những thủ đoạn của một số tiểu thương.
Việc thành lập hiệp hội sẽ giúp những người nông dân có thêm tiếng nói, họ nhất
thiết sẽ phải đoàn kết với nhau để có thể chống lại sự cạnh tranh từ phía hàng nhập
khẩu cũng như đòi hỏi những quyền lợi họ đáng lẽ được hưởng. Ở các quốc gia phát
triển, hình thức này đã được thực hiện từ lâu và các hiệp hội này đã hoạt động rất
tích cực trong việc chống lại sự xâm lấn của hàng nhập khẩu. Điển hình là Hiệp hội
các chủ trại cá nheo Mỹ đã thành công trong việc gây sức ép làm tăng giá bán cá tra,
cá basa của ta trên thị trường họ. Các hiệp hội của Việt Nam ra đời sẽ liên hệ trực
tiếp với các doanh nghiệp xuất khẩu, từ đó có thể giúp giảm phí trung gian, tăng lợi
nhuận và doanh thu cho các hộ gia đình. Với lợi nhuận tăng lên như vậy, chắc chắn
những hộ nông dân sẽ trung thành hơn trong việc thực hiện các cam kết với các
doanh nghiệp xuất khẩu.
Ngoài một số giải pháp đối với những người dân sản xuất đầu vào xuất khẩu
nói trên, lực lượng lao động trong bản thân các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cũng
cần nỗ lực hết mình để có thể đưa hoạt động ngoại thương Việt Nam đạt được mục
tiêu làm đòn bẩy, đưa đất nước trở thành quốc gia bán công nghiệp vào năm 2010.
Tuy nhiên, những nỗ lực ấy chỉ đạt được khi lực lượng lao động của chúng ta luôn
tự nâng cao trình độ, không ngừng học hỏi và đặc biệt là tạo được cho mình tác
phong lao động công nghiệp, có tính kỷ luật cao. Người ta hẳn vẫn chưa quên sự
111
kiện đau lòng khi một giám đốc Đài Loan đánh ba công nhân Việt Nam hồi năm
1998. Đành rằng hành vi này là không thể chấp nhận được song khách quan nhìn
nhận, tính kỷ luật của các công nhân Việt Nam còn chưa cao, tính “tự do” vẫn hiện
hữu. Ấy là chưa kể đến việc ở một số doanh nghiệp, hễ có bất bình là công nhân lại
kéo nhau biểu tình mà không hề thương lượng trước với giám đốc. Điều này đã
khiến năm 2002, trên báo Lao động ngày 13/8, Chính phủ đã phải tuyên bố cấm
biểu tình ở các doanh nghiệp dệt may, thủy sản.
Lộ trình hội nhập ngày một đến gần, hơn bao giờ hết, để ngoại thương Việt
Nam phát triển, để chính sách tỷ giá phát huy vai trò đòn bẩy của nó, các giải pháp
trên rất cần được thực sự xem xét.
112
Kết luận
Ngoại thương Việt Nam đã bước đi trên chặng đường đổi mới được gần 20
năm. Từ đó đến nay, thế giới thực sự đã đổi khác. Các quốc gia ngày càng liên kết
chặt chẽ với nhau hơn bởi sự vận động của những luồng hàng hóa, dịch vụ không
thể nào kìm hãm nổi. Cùng với sự di chuyển các luồng hàng hóa dưới tốc độ chóng
mặt, tỷ giá hối đoái các đồng tiền chủ chốt trên thế giới như USD, JPY, EUR cũng
liên tục biến động, phản ánh chính xác tương quan sức mua giữa các nước trên thế
giới. Là một quốc gia đang bước những bước đầu tiên trong quá trình hội nhập, đã
đến lúc Việt Nam chúng ta phải có những nhìn nhận đúng đắn hơn về công cụ tỷ
giá, đặc biệt là tác động tích cực của tỷ giá hối đoái lên ngoại thương Việt Nam.
Có ý kiến cho rằng tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam hiện nay sẽ
chủ yếu được gây dựng nhờ việc đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm, xúc tiến
thương mại..., rằng với cơ cấu xuất-nhập khẩu ở thời điểm hiện tại thì tỷ giá hối
đoái sẽ không có tác động mấy đến hoạt động ngoại thương Việt Nam..Xin thưa
nếu sản phẩm của chúng ta có cải tiến đến đâu, mẫu mã có phong phú đến cỡ nào,
khi vận động dưới một chế độ tỷ giá bị áp đặt cao hơn nhiều lần so với giá trị thực
của nó như tại thời điểm này thì cánh cửa hội nhập chắc chắn sẽ dần khép lại. Ấy là
chưa kể đến việc hàng hóa của Việt Nam vốn kém tính cạnh tranh trên trường quốc
tế, chất lượng thấp, giá thành cao... Các doanh nghiệp nhà nước với thói quen làm
ăn kiểu cũ dù được đầu tư khá nhiều song đóng góp cho kim ngạch xuất khẩu không
được là bao. Tăng trưởng xuất khẩu chủ yếu dựa vào khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài, trong khi đó mấy năm trở lại đây, đầu tư nước ngoài lại không ngừng suy
giảm.
Lúc Việt Nam bước chân lên thương trường quốc tế cũng chính là lúc hàng
hóa Việt Nam liên tiếp gặp phải sự cạnh tranh gay gắt từ nhiều phía. Đằng sau
những thái độ cởi mở, giảm dần mức thuế quan hay cho hưởng đãi ngộ tối huệ quốc
là những rào cản vô hình do các quốc gia trên thế giới ngấm ngầm tạo ra nhằm bảo
vệ sản xuất nước họ. Chiêu bài mà các nước phát triển thường sử dụng để ngăn cản
sự xâm lấn của hàng hóa các nước đang phát triển trên thị trường nước họ chính là
113
bán phá giá hàng hóa. Điều này cho thấy việc cạnh tranh dựa trên giảm giá thành
sản xuất tiến đến giảm giá bán hàng xuất khẩu không còn là biện pháp tối ưu. Bài
học đau lòng về vụ kiện cá tra, cá basa còn đó và tôm của chúng ta cũng rất có thể
sẽ lâm vào tình cảnh tương tự, khi ấy liệu các nhà hoạch định của chúng ta có còn
quay lưng với tỷ giá ? Thiết nghĩ đây chính là thời điểm thích hợp nhất để tỷ giá hối
đoái được trả về vận động theo đúng xu thế tự nhiên của nó.
114
Tài liệu tham khảo
Tiếng Việt
(1) Augustine Arize - Dùng đồng Peso là yêu nước - Tạp chí Dân chủ Argentina –
3/2002.
(2) Nguyễn Ngọc Bích, T.S. Nguyễn Đức Dị, T.S.Nguyễn Khắc Minh, Nguyễn
Mạnh Tuấn -Từ điển kinh tế kinh doanh Anh-Việt- Nhà xuất bản khoa học và kỹ
thuật, 2000.
(3) Hải Bình, Thúy Ngà - Thị trường tiền tệ và chứng khoán thế giới nửa đầu năm
2003 - Thông tin tài chính, 7/2003.
(4) T.S. Võ Văn Đức, Đỗ Quang Hưng -Những vấn đề đặt ra với doanh nghiệp
xuất-nhập khẩu Việt Nam hiện nay – Tài Chính, 8/2002.
(5) Mc. Grawhill - Quản trị tài chính quốc tế- Nhà xuất bản quốc tế , 2002.
(6) Nguyễn Thanh Hà - Nhìn nhận về những biến động về tỷ giá USD tại Việt Nam
trong thời gian qua – Tài Chính, 9/2001.
(7) Nguyễn Thanh Hà - Vì sao đồng đô la sụt giá ?- www.econet.com (15/10/2003),
(8) Quang Hải - Cung cầu ngoại tệ mất cân bằng có phải do điều tiết ?– Báo Đầu
tư, 3/2003.
(9) Thanh Hải - Rủi ro trong thanh toán điện tử– Tạp chí Tin học và đời sống,
12/2002.
(10) Lê Xuân Hiếu - Một số vấn đề về tỷ giá hối đoái và phá giá đồng nội tệ – Tài
Chính, tháng 7/2001
(11) T.S. Nguyễn Xuân Hiếu, T.S.Nguyễn Hồng Sơn -Chế độ tỷ giá và hiệu quả
kinh tế ở các nước đang phát triển – Tài Chính, 4/2003.
(12) Trọng Hồ - Hiểu thế nào về nhập siêu cho đúng hiện nay - Thương mại, số
26/2003.
(13) Nguyễn Thị Thanh Hoài - Giải pháp khi hàng Việt Nam bị nước ngoài điều tra
bán phá giá – Thương mại, số 36/2003.
(14) T.S. Nguyễn Đắc Hưng - Hoàn thiện chính sách quản lý ngoại hối và công cụ
điều hành tỷ giá – Tài Chính, 12/2001.
115
(15) Th.s Nguyễn Văn Khách -Dự báo tỷ giá USD/VND năm 2003-2004 – Tạp chí
Ngân Hàng, số 6/2003.
(16) Nguyễn Văn Lộc -Tỷ giá VND/USD hiện nay và các giải pháp điều chỉnh – Tài
Chính, 11/2001.
(17) Võ Đại Lược - Kinh tế Việt Nam 10 tháng đầu năm - Viện nghiên cứu Quản lý
kinh tế trung ương, 10/2003.
(18) Hồng Minh - Đồng Euro chiếm gần 10% dự trữ ngoại hối của Việt Nam – Báo
Thanh niên, số 12/2003.
(19) Thành Nam - Tỷ phú Soros và quỹ đầu cơ tiền tệ – Báo Tuổi trẻ, số ra ngày
28/10/1999.
(20) Trần Nguyên Nam - Đánh giá về hoạt động thị trường ngoại tệ liên ngân hàng
– Tài chính, 2/2002.
(21) PGS.TS. Nguyễn Công Nghiệp, Lê Hải Mơ -Tỷ giá hối đoái và nghệ thuật điều
chỉnh- Nhà xuất bản tài chính, 1998.
(22) Vũ Ngọc Nhung - Những vấn đề tiền tệ- ngân hàng- Nhà xuất bản thành phố
Hồ Chí Minh, 1999.
(23) Paul A.Samuelson & William D. Norhaus - Kinh tế học vĩ mô - Nhà xuất bản
chính trị quốc gia, 2001.
(24) Lan Phương -USD giảm giá, lợi hay hại ?– www.vcb.com.vn, 12/2003
(25) HQ -Thất thoát trong đầu tư xây dựng cơ bản đang chất lên các ngân hàng-
Thời báo ngân hàng, số 92(871), 14/11/2003.
(26) T.S Nguyễn Hồng Sơn -Tài chính tiền tệ thế giới năm 2001-Tạp chí Ngân hàng
số 1+2/2002.
(27) TS. Nguyễn Đình Tài -Cán cân thanh toán quốc tế, tỷ giá hối đoái và vấn đề
kinh tế đối ngoại - Nhà xuất bản giáo dục, 1995.
(28) Lê Hồng Tâm -Rủi ro vay vốn ngoại tệ và sự lựa chọn nghiệp vụ bảo lãnh ngân
hàng của doanh nghiệp– Tạp chí thương mại, số 29/2003.
(29) Lê Hồng Tâm -Vận dụng nghiệp vụ Option-ngân hàng giúp doanh nghiệp bảo
hiểm rủi ro về tỷ giá– Thương mại, số 30/2003.
116
(30) Trọng Tâm -Nửa đầu năm 2003 nhìn lại thị trường ngoại hối, những điều đúng
và không đúng với dự đoán– Thị trường tài chính tiền tệ, 1/8/2003.
(31) Nguyễn Ngọc Thanh -Lịch sử tỷ giá Việt Nam- Tạp chí Phát triển kinh tế tháng
3/2003.
(32) PGS. TS. Đỗ Văn Thành, T.S Vũ Đình Ánh, Th.s Nguyễn Văn Tạo -Một số
giải pháp kinh tế tài chính phục vụ chiến lược hướng về xuất khẩu– Bộ Tài Chính,
2001.
(33) Thanh Thảo -Bao giờ tỷ giá đồng NDT thay đổi ?– Thông tin tài chính, 8/2003.
(34) Trần Thị Ngọc Trang -Mối quan hệ giữa tỷ giá và lãi suất– Tạp chí Phát triển
kinh tế, 8/2001
(35) PGS.Đinh Xuân Trình -Giáo trình thanh toán quốc tế trong ngoại thương- Nhà
xuất bản giáo dục, 2001.
(36) T.S. Nguyễn Công Trực -Phân tích tỷ giá và cơ chế hình thành tỷ giá tại Việt
Nam- Viện nghiên cứu Tài Chính, 2000.
(37) Lê Xuân -Khi đồng Việt Nam tăng giá- Thời báo Kinh tế Sài Gòn- Số 12/2003.
(38) Bình Yên -C/O: bài toán khó tìm lời giải- Báo diễn đàn doanh nghiệp điện tử,
12/9/2003.
(39) TTQ -Thông tin kinh tế, 12/10/2003.
(40) Niên giám thống kê 2002; Nhà xuất bản thống kê.
(41) Thống kê tháng 10/2003; Vụ chính sách tiền tệ, NHNN.
(42) Việt Nam – Cải cách theo hướng rồng bay- Viện phát triển Havard, 1999
Tiếng Anh
(43) Aktuelle Analysen –Getting inflation in Russia down: A tricky task-
Bundesinsitut fur ostwissenschaftliche und internationale Studien, 8/11/2000.
(44) Bob Stallman –Exchange rate regimes and management tactics- Ngân hàng thế
giới, 2000.
(45) Dragi Tasevski – Exchange rate influence over inflation and development –
Ministry of Finance, Russia 2003.
117
(46) Eduardo Fernández-Arias, Ugo Panizza, Ernesto Stein –Trade Agreements and
Exchange rate disagreements- Fortaleza_Brazil, 3/2002.
(47) Emil-Maria Claassen – Exchange rate policies in developing and post-socialist
countries –An International Center for Economic Growth Publication ICS Press,
San Francisco- California, 12/2002.
(48) Harald A.Euler –Exchange rate control under fixed E.R system- WB, 2002.
(49) Johnathan Mc.Carthy –Monetary inflation, real danger for economies- Center
for economic development, Berlin, 1998.
(50) Temir Burzhubaev, Tatyana Fukalova –Foreign trade and exchange rate
problem in Kyrgyzstan– IMF, 1999.
(51) Weinmar Guiner –Interest rates and the exchange rate control- Institute of
strategic economic development of Germany, 2000.
(52) Yokiko Ama –Japan 20 years before- University of Tokyo, 8/1998.
(53) Yu Yongding –The Yuan depreciation and its impacts on Chinese economy-
Institute of the Asia economics and politics development, 11/2002.
(54) Vietnam: Preparing for Take-off ? – WB 2003
(55) Yen Vu -Banking system in Vietnam- www.thebanker.com, 22/12/2001
(56) Economic Times, 17/10/2003.
118
Phụ lục
119
Phụ lục 1
1.1.Cơ cấu nhập khẩu giai đoạn 1995-2003
Đơn vị: %
Nhóm
Năm
Máy móc thiết bị Nguyên vật liệu Hàng tiêu dùng
1995 27.5 57.8 16.5
1996 33.2 56 10.8
1997 28 63 9
1998 27.6 55.7 6.7
1999 28.4 66.4 5.2
2000 30.9 63.8 5.3
2001 30.5 61.6 7.9
2002 32 62.9 5.1
2003 (ước) 28 67.2 6.8
Nguồn: Báo cáo ước tính của Bộ Thương Mại, 8/2003.
120
1.2.Cơ cấu thị trường xuất khẩu phân theo châu lục giai đoạn 1999-2002
1999 2000 2001 2002
(%)
2000/2001
(%)
2002/2001
Tổng kim ngạch
(triệu USD) 11541,0 14455,0 15027,0 16796,0 104,0
Châu Á
Kim ngạch
(triệu USD) 6656,6 8716,4 9086,0 8711,0 104,2 95,9
Tỷ trọng (%) 57,7 60,3 60,5 52,1
Châu Âu
Kim ngạch
(triệu USD) 3078,0 3363,6 3795,0 3981,0 113,2 103,2
Tỷ trọng (%) 26,7 23,2 25,3 23,5
Châu Mỹ
Kim ngạch
(triệu USD) 714,0 954,0 1398,0 2730,0 146,5 195,3
Tỷ trọng (%) 6,2 6,6 9,3 16,3
Châu Phi
Kim ngạch
(triệu USD) 137,7 144,5 171,0 129,0 118,3 75,4
Tỷ trọng (%) 1,2 1,0 1,1 0,8
Châu Đại Dương
Kim ngạch
(triệu USD) 836,5 1286,5 1027,0 1355,0 79,8 131,9
Tỷ trọng (%) 7,2 8,9 6,9 8,1
Nguồn: Tổng cục thống kê
121
1.3. Cơ cấu thị trường nhập khẩu theo châu lục giai đoạn 1999-2002
Năm
Thị trường
1999
2000
2001
2002
(%)
2001/2000
(%)
2002/2001
1. Châu Á
*Kim ngạch
(tỷ USD)
*Tỷ trọng
9,438
80,4%
12,852
82,2%
12,768
79%
19,733
80,2%
99,3
124,0
2. Châu Âu
*Kim ngạch
(tỷ USD)
*Tỷ trọng
1,544
14,2%
1,861
13,1%
2,181
13,5%
2,803
11,9%
117,3
128,5
3. Châu Mỹ
*Kim ngạch
(tỷ USD)
*Tỷ trọng
0,424
3,6%
0,516
3,3%
0,411
2,5%
0,682
3,5%
79,7
165,9
4. Châu Phi
*Kim ngạch
(tỷ USD)
*Tỷ trọng
0,039
0,3%
0,047
0,3%
0,051
0,3%
0,067
0,3%
108,7
131,4
5.Châu Đại
Dương
*Kim ngạch
(tỷ USD)
*Tỷ trọng
0,272
1,5%
0,360
1,1%
0,588
4,7%
0,353
4,1%
163,5
60
Nguồn: Bộ Thương Mại
122
1.4.Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực phân theo khu vực thị trường
giai đoạn 1997-2002
Đơn vị: triệu USD
1997 1998 1999 2000 2001 2002
Gạo 819,20 984,20 798,90 512,31 478,15 650,7
Châu Âu 326,40 182,60 131,70 52,65 60,85 58,30
Châu Á 345,00 653,10 635,70 288,70 264,00 320,40
Châu Phi 1,61 7,67 24,58 - 29,82 -
Trung Đông 81,21 96,70 1,96 160,30 116,30 -
Châu Mỹ 64,98 44,34 4,96 10,83 7,18 -
Cà phê 478,88 587,52 620,16 482,11 387,85 -
Châu Âu 225,70 329,80 375,20 311,40 253,20 -
Châu Á 179,90 170,40 178,80 95,80 54,90 -
Châu Phi - 0,16 0,42 - 0,81 -
Trung Đông - - 3,81 0,10 0,46 -
Châu Mỹ 73,28 87,16 61,93 74,81 65,44 -
Cao su 179,8 118,90 145,94 162,24 159,02 -
Châu Âu 26,40 22,54 29,42 43,25 43,97 -
Châu Á 151,70 93,87 113,50 116,90 108,00 -
Châu Phi - - 0,01 - 0,01 -
Trung Đông - 0,04 0,02 - 4,57 -
Châu Mỹ 0,84 1,59 2,99 2,09 2,47 -
Thủy hải
sản 754,83 804,60 958,52 1459,00 1727,90 2024,20
Châu Âu 77,15 100,00 95,13 110,84 127,60 -
Châu Á 631,70 616,10 728,60 1024,00 1097,00 -
Châu Phi - 0,10 0,09 - 0,21 -
Trung Đông - 0,07 1,30 0,23 0,97 -
Châu Mỹ 45,98 88,33 133,40 324,00 502,10 -
Dệt may 1231,40 1367,70 1603,8 1846,90 1974,10 2710,10
Châu Âu 473,30 628,30 686,10 712,20 737,40 -
Châu Á 715,90 649,40 856,30 1046,00 1143,00 -
Châu Phi - 0,28 0,23 - 1,34 -
Trung Đông - 0,86 0,85 0,31 5,25 -
Châu Mỹ 42,21 52,90 60,31 79,45 87,13 -
Da giầy - 839,20 1109,70 1395,80 1426,80 1828,00
Châu Âu - 508,10 774,10 1084,00 1106,00 -
123
Châu Á - 191,30 184,60 191,10 156,20 -
Châu Phi - 3,25 3,05 - 6,77 -
Trung Đông - 0,04 7,05 2,87 3,69 -
Châu Mỹ - 136,50 140,09 117,80 154,20 -
Nguồn: Báo cáo tổng hợp của Tổng cục Hải quan.
124
Phụ lục 2
Tác động của biến động tỷ giá hối đoái lên nhóm hàng xuất khẩu và nhóm thị
trường xuất khẩu của Việt Nam.
Nhóm đối chứng Hệ quả Tích cực (+)/ tiêu cực (-)
Nhóm đầu tư xuất khẩu
Dựa vào vốn vay USD Tăng gánh nặng nợ, hạn
chế đầu tư
-
Dựa vào vốn vay trong
nước
Giảm gánh nặng nợ, tạo
điều kiện tăng đầu tư, thúc
đẩy xuất khẩu
+
Nhóm nguyên nhiên liệu Kích thích xuất khẩu do
tăng thu nếu tính bằng nội
tệ và có khả năng giảm giá
+
Nhóm gia công, chế biến
Tỷ lệ xuất khẩu cao Khả năng cạnh tranh cao
hơn do giá gia công tính
bằng ngoại tệ hạ
+
Tỷ lệ tiêu thụ nội địa cao Giá nhập khẩu tăng, giá
bán không tăng tương ứng
nên dễ bị lỗ
_
Nhóm nước thanh toán
bằng USD
Qui định không nghiêm về
bán phá giá
Tăng sức cạnh tranh do
giảm giá bán
+
Qui định nghiêm ngặt về
chống bán phá giá
Ít có khả năng giảm giá
bán song lợi nhuận tính
bằng nội tệ tăng
+
125
Nhóm nước thanh toán
bằng bản tệ
Tỷ giá ngoại tệ tăng nhanh
hơn tỷ giá VND
Tạo điều kiện cho Việt
Nam xuất khẩu
+
Tỷ giá ngoại tệ tăng chậm
hơn tỷ giá VND
Việt Nam khó xuất khẩu
sang thị trường này
_
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 19123_6525.pdf