Đề tài Việt Nam - Cơ hội và thách thức trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế

Hội nhập và liên kết kinh tế là một xu hướng tất yếu mang tính thời đại; bản chất của hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình tham gia của các quốc gia vào các quan hệ kinh tế quốc tế Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình gắn bó một cách hữu cơ nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới góp phần khai thác các nguồn lực bên trong một cách có hiệu quả. Bất kì một quốc gia nào khi tham gia vào các tổ chức kinh tế trong khu vực cũng như trên thế giới đều phải tuân thủ theo những nguyên tắc của các tổ chức đó nói riêng và nguyên tắc của hội nhập kinh tế quốc tế nói chung. Sau đây là một số nguyên tắc cơ bản của hội nhập: - Không phân biệt đối xử giữa các quốc gia; tiếp cận thị trường các nước, cạnh tranh công bằng, áp dụng các hành động khẩn cấp trong trường hợp cần thiết, dành ưu đãi cho các nước đang và chậm phát triển. - Đối với từng tổ chức có nguyên tắc cụ thể riêng biệt. Nội dung của hội nhập: Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế là mở cửa thị trường cho nhau,thực hiện thuận lợi hoá, tự do hoá thương mại và đầu tư: - Về thương mại hàng hoá: các nước cam kết bãi bỏ hàng rào phi thuế quan như QUOTA, giấy phép xuất khẩu ., biểu thuế nhập khẩu được giữ hiện hành và giảm dần theo lịch trình thoả thuận . - Về thương mại dịch vụ, các nước mở cửa thị trường cho nhau với cả bốn phương thức: cung cấp qua biên giới, sử dụng dịch vụ ngoài lãnh thổ, thông qua liên doanh, hiện diện - Về thị trường đầu tư: không áp dụng đối với đầu tư nước ngoài yêu cầu về tỉ lệ nội địa hoá, cân bằng xuất nhập khẩu và hạn chế tiếp cận nguồn ngoại tệ, khuyến khích tự do hoá đầu tư .

doc33 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3316 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Việt Nam - Cơ hội và thách thức trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iao lưu, trao đổi, đối thoại với bên ngoài. Ngược lại, chúng ta, với bản lĩnh vốn có của dân tộc: “ hoà nhập chứ không hoà tan “, tiếp thu những yếu tố nhân bản, hợp lí, khoa học tiến bộ của văn hoá các nước để làm giàu bản sắc văn hoá dân tộc. Đây sẽ là nhân tố khơi dậy tiềm năng sáng tạo làm nên những giá trị vật chất và tinh thần mới trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên chúng ta cũng tỉnh táo phản đối những văn hoá ngoại lai không phân biệt tốt hay xấu dẫn đến mất gốc, lai căng về văn hoá gây hậu quả xấu về tư tưởng đạo đức của các tầng lớp dân cư. Như vậy chỉ có trên cơ sở giữ gìn và phát huy những giá trị ưu tú của văn hoá dân tộc đi đôi với tiếp thu tinh hoa văn hoá của nhân loại thì văn hoá Việt Nam ngày nay mới có thể đóng được vai trò vừa là mục tiêu, vừa là động lực và sẽ điều tiết sự phát triển của kinh tế xã hội. 3. Thực trạng nền kinh tế Việt Nam đã đạt được sau khi hội nhập kinh tế quốc tế Đến nay nước ta đã có quan hệ ngoại giao với gần 170 nước trên thế giới,trong đó có tất cả các nước lớn,trong đó có cả 5 nước là ủy viên thường trực hội đồng bảo an liên hiệp quốc,nhiều tổ chức quốc tế,khu vực và trung tâm chính trị-kinh tế quan trọng. Việc tổ chức thành công hội nghị cấp cao ASEM 5(2005) và hội nghị APEC 14(2006) tại Hà Nội và nhiều hội nghị quốc tế quan trọng khác năm 2007 tạo được ấn tượng sâu sắc đối với cộng đồng quốc tế.Không những thế chúng ta còn chủ động tham gia và có những đóng góp tích cực tại các diễn đàn quốc tế và khu vực như ASEM tại Lào,AIPO tại Campuchia,hội nghị cấp cao APEC tại Chile,hội nghị thượng đỉnh cộng đồng pháp ngữ tại Buốckinaphaxo, Canada…và được cộng đồng quốc tế đánh giá cao.Uy tín,vị thế của Việt Nam được tăng lên trong các chuyến đi thăm các nước của lãnh đạo Đảng và nhà nước ta,đặc biệt chuyến đi thăm mỹ và Canada của thủ tướng Phan Văn Khải vào cuối tháng 6-2005 và chuyến thăm Trung Quốc của chủ tịch Trần Đức Lương tháng 7-2005 thu được nhiều kết quả tích cực.Trong những năm 2006-2008,tình hình quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp,theo chiều hướng căng thẳng,hoạt động ngoại giao của chính phủ có nhiều chuyển biến tích cực,chủ động,triển khai trên nhiều hướng có trọng tâm,trọng điểm,đạt được nhiều thành tựu trên nhiều lĩnh vực,kinh tế ,chính trị,xã hội.Nổi bật là các hoạt động trên các diễn đàn quốc tế như APEC, ASEAN, ASEM…, gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO,được bầu là ủy viên không thường trực hội đồng bảo an liên hiệp quốc nhiệm kì 2008-2009 với số phiếu tuyệt đối.Những hoạt động về ngoại giao kinh tế có nhiều kết quả trong việc mở rộng đầu tư,hợp tác nước ngoài,khai thác thị trường mới giàu tiềm năng ở châu phi,trung đông…thu hút vốn đầu tư nước ngoài(FDI) đạt 20 tỷ năm 2007,tăng lên 60 tỷ năm 2008.Việc bảo vệ người sống ở nước ngoài và thu hút vốn đầu tư của kiều bào có nhiều tiến bộ.Sự khởi sắc của ngoại giao,văn hóa,thông tin,giáo dục,đối ngoại làm cho bạn bè quốc tế gần gũi gắn bó,giúp đỡ cho Việt Nam đồng thời củng cố bản sắc dân tộc và lòng tự hào dân tộc.Những hợp tác quốc tế khác về giáo dục,bảo vệ môi trường sống,đấu tranh chống diễn biến hoa bình trên nhiều trận địa đã có sự đóng góp của các công tác đối ngoại. Chúng ta có quan hệ buôn bán với trên 100 nước và lãnh thổ,quan hệ đầu tư phát triển với trên 40 nước,thị trương ngày càng mở rộng,đối tác ngày càng nhiều,quan hệ tài chính tiền tệ với các nước được khai thông,tranh thủ được nguồn viện trợ đáng kể,tuy nhiên vẫn còn phải giải quyết nhiều vấn đê đáng kể như vấn đề nhân quyền,lãnh thổ,tôn giáo…tình hình quốc tế cũng nảy sinh nhiều vấn đề mới,chính vì thế Đảng và nhà nước ta 2004-2005 đã đạt được những thành tựu đối ngoại đáng kể:tiếp tục duy trì môi trường hòa bình ổn định để phats triển đất nước,thiết lập các khuôn khổ quan hệ vững chắc với nhiều nước láng giềng qua đó tăng cường đan xen về lợi ích,sự rang buộc về các quan hệ pháp lý,tạo chuyển biến về chất trong quan hệ với các đối tác quan trọng này.Công tác hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực được đẩy mạnh,nhất là hợp tác về kinh tế,thương mại,đầu tư và du lịch… Một thành tựu nổi bật trong hai năm 2007-2008 là những hoạt động của Việt Nam với tư cách là thành viên của WTO,đây vừa là thuận lợi,vừa là thách thức.Trong gần hai năm qua nhìn chung VN đã thực thi đầy đủ và nghiêm túc các cam kết gia nhập,bao gồm cam kết về mở cửa thị trường hàng hóa và dịch vụ,các cam kết đa phương về tuân thủ các quy định chung trong vWTO.Về thương mại hàng hóa,ta cắt giảm trên 3000 dòng thuế liên quan đến hàng dệt may,xi măng,nông thổ sản,rau quả tươi,hàng tiêu dungf,thiết bị xây dưng,ô tô….Về thương mại dịch vụ,ta thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ mở cửa thị trường,nhất là với dịch vụ tài chính ngân hàng…Ta đã xây dựng và hoàn chỉnh nhiều văn bản quy phạm quan trọng như luật thuế tiêu thụ đặc biệt sửa đổi,pháp lệnh của ủy ban thường vụ quốc hội hướng dẫn thực thi các cam kết gia nhập WTO liên quan tới đầu tư …nhằm đưa hệ thống pháp luật,chính sách kinh tế-thương mại của ta phù hợp hơn với các quy định của vWTO,qua đó cải thiện và tăng cường tính hấp dẫn của môi trường kinh doanh và đầu tư tại VN. Trong những năm qua VN có nỗ lực lớn trong tăng trưởng kinh tế, GDP thời kỳ 1991-2000 đã tăng bình quân hàng năm là 7,4%, thời kỳ 2001-2003 tăng 7,1%, năm 2002 – 7%, có tốc độ tăng trưởng cao đứng thứ 2 sau Trung Quốc. Nông nghiệp đạt tốc độ tăng trưởng khá, từ 1986 đến nay, tăng trưởng trung bình 5,5%. So với một số nước Indonesia 2,3%, Philippines 2,6%, Thái Lan 1,9%, Malaysia 3,2%. Từ 2001-2003, nông nghiệp VN tăng bình quân 5%. Công nghiệp tăng bình quân trong 10 năm qua 12,8-13%, 2001-2003 tăng 14,6%. Tham gia hội nhập kinh tế thế giới mở ra những cơ hội tăng trưởng kinh tế cho nước ta. Việc trở thành thành viên WTO sẽ tạo ra các công cụ để nâng cao lợi ích kinh tế của các nước thành viên thông qua việc tham gia vào các cuộc đàm phán thương mại đa biên. Tuy nhiên không ít thách thức đối với tăng trưởng kinh tế khi VN hội nhập kinh tế thế giới. Những thách thức đó đe dọa sự phát triển cao và bền vững nền kinh tế. Sau đây là một số thách thức cụ thể mà Việt Nam đang gặp phải khi hội nhập kinh tế quốc tế: Thu hút đầu tư nước ngoài ngày càng giảm: Hội nhập kinh tế quốc tế mở ra nhiều cơ hội cho thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài đang diễn ra quyết liệt giữa nước ta với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, nhất là các nước khu vực Đông Nam Á có một số mặt lợi thế hơn ta. Thực vậy với số dân tương đồng với VN, tỉnh Quảng Đông thu hút đầu tư từ Nhật nhiều hơn gấp đôi, khoảng 20 tỷ yên. Năm 2001 VN thu hút số vốn đầu tư từ Nhật chỉ bằng 1/33 của Trung Quốc, 1/12 của Thái Lan, bằng 1/5 cuả Malaysia hoặc Indonesia. Trong những năm qua đầu tư trực tiếp nước ngoài vào VN giảm, giai đoạn 1991-1995 vốn đầu tư nước ngoài chiếm trên 25% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, giai đoạn 1996-2000 chiếm 24%, hai năm 2001-2002 chỉ chiếm hơn 18,5% và có hiện tượng công ty đầu tư nước ngoài chuyển sang Trung Quốc. Theo dự báo làn sóng đầu tư của Mỹ vào khu vực Đông Nam Á sẽ tăng mạnh trong những năm sau 2004 do ổn định chính trị và cam kết cải cách rõ ràng. Song dòng vốn đầu tư của Mỹ không chảy đều vào các quốc gia ĐNA mà đích nhắm tới là những nước như Singapore, Malaysia, Indonesia, Thái Lan và Philippines. Khi hàng rào quan thuế của các nước ASEAN bị bãi bỏ, các công ty đa quốc gia sẽ tập trung sản xuất tại những nước có phí tổn thấp nhất trong khu vực AFTA. Thách thức của VN là làm sao “giữ chân” các cơ sở hiện có của các công ty đa quốc gia và tạo cơ hội để các công ty đa quốc gia đầu tư vào nước ta. Theo đại sứ Nhật tại nước ta, trên thế giới đang có một cuộc cạnh tranh rất khốc liệt và Việt Nam cần phải nhìn nhận rằng môi trường đầu tư của ta chưa hấp dẫn.  Đã đến lúc chúng ta cần xây dựng môi trường đầu tư thực sự thông thoáng, phải tăng thu hút FDI về mặt chất lượng, ưu đãi đối với những lĩnh vực công nghệ kỹ thuật cao, những lĩnh vực sản xuất tư liệu sản xuất, các ngành hỗ trợ và liên quan để đảm bảo sản xuất hiệu quả, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm trong hội nhập kinh tế quốc tế. VN trở thành thị trường tiêu thụ hàng nước ngoài Nhiều công trình khoa học cho thấy việc mở cửa thương mại nhiều hơn đã dẫn đến tốc độ tăng trưởng dài hạn cao hơn, loại bỏ sự mất cân đối, nhờ đó mà nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, của sản phẩm và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Những nước mất cân đối thương mại cao có mức tăng năng suất thấp hơn so với những nước mất cân đối thương mại ít hơn. Hội nhập kinh tế thế giới cho phép mở rộng thị trường, trong khi khả năng mở rộng thị trường hàng hóa của nước ta ra khu vực và thế giới còn hạn chế và phải đối đầu, cạnh tranh gay gắt với các nước có trình độ phát triển cao hơn ở khu vực Đông Nam Á, đặc biệt là với các nước ASEAN và Trung Quốc. Hơn nữa, những sản phẩm hàng hóa của ta phần lớn đồng dạng với các quốc gia này. Phải nói rằng trong hội nhập, hàng hoá của VN rất khó mở rộng chiếm lĩnh được thị trường mà ngược lại chúng ta trở thành thị trường tiêu thụ hàng hóa của các nước. Năm 2002 cả nước nhập siêu trên 5 tỷ USD.  Công nghiệp chủ yếu là gia công, phần lớn sản phẩm các ngành được sản xuất ra trên cơ sở tiêu thụ các nguyên phụ liệu, linh kiện, chi tiết, bán sản phẩm của các nước. Do thiếu các ngành công nghiệp phụ trợ nên đa số các công ty làm hàng xuất khẩu đều phải nhập khẩu nguyên liệu. Vì vậy hàm lượng nội địa VN trong hàng xuất khẩu rất thấp. Có thể nói chính sách nội địa hóa của ta chưa thỏa đáng. Chính sách đó ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển các ngành liên quan và hỗ trợ, các ngành này phát triển rất ít và rất chậm trong thời gian qua và phải nhập phụ tùng linh kiện từ bên ngoài, do đó làm tăng giá thành sản phẩm, làm cho sản phẩm của VN đắt hơn Thái Lan và các nước trong khu vực, giảm khả năng cạnh tranh.  Điển hình là ngành dệt may da giầy của ta, ngành dệt may được đánh giá là xuất khẩu lớn nhưng nguyên phụ liệu gồm hóa chất, thuốc nhuộm, bông, xơ, sợi phải nhập do đó tuy kim ngạch xuất khẩu cao song giá trị gia tăng lại thấp, chỉ chiếm khoảng 25-30%. Ngành công nghiệp điện tử VN cũng tương tự như vậy. Sản phẩm chủ yếu của ngành điện tử VN là nhóm sản phẩm nghe nhìn, chiếm tỷ lệ rất thấp 10% trong doanh số của ngành điện tử, trong nhóm này VN chỉ tự túc được màn hình TV, còn lại là nhập, là thị trường tiêu thụ. Sản phẩm điện tử của VN chủ yếu là sản phẩm lắp ráp, mà chi phí lắp ráp của VN lại cao, 6-7 USD/TV, 8-9 USD/TV.  Ngành ô tô xe máy nước ta cũng là thị trường tiêu thụ chi tiết, phụ tùng ô tô xe máy của các nước. Chính sách nội địa hóa của VN chưa được coi trọng. Chẳng hạn chính sách nội địa hóa của Thái Lan đòi hỏi 60% vào năm thứ 5 trong ngành ô tô xe máy, trong khi VN đòi hỏi có 5%. Trong ngành công nghiệp ô tô sau 10 năm nước ta có nhiều hãng ô tô nổi tiếng thế giới đầu tư, đến nay tỷ lệ nội địa hóa của các doanh nghiệp ô tô nước ta mới đạt 2-10% đưa đến giá thành của ô tô sản xuất trong nước cao hơn khu vực khá lớn là do tỷ lệ nội địa hóa quá thấp. Bài học Thái Lan cho thấy họ rất coi trọng tỷ lệ nội địa hóa, chỉ có 15 nhà máy lắp ráp nhưng có đến 1.800 nhà máy cung ứng, riêng trong lĩnh vực ô tô từ chỗ từng bước nội địa hóa phụ tùng, nay Thái Lan đã xuất khẩu cả ô tô với linh kiện phụ tùng được sản xuất tại chỗ. Có thể nói chính sách nội địa hóa của ta chưa thỏa đáng. Chính sách đó ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển các ngành liên quan và hỗ trợ, các ngành này phát triển rất ít và rất chậm trong thời gian qua và phải nhập phụ tùng linh kiện từ bên ngoài, do đó làm tăng giá thành sản phẩm, làm cho sản phẩm của VN đắt hơn Thái Lan và các nước trong khu vực, giảm khả năng cạnh tranh.  Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế quốc tế trong hầu hết mọi lĩnh vực kinh tế của VN, chi phí sản xuất đều rất cao. Giá cả sản phẩm công nghiệp “đầu vào” nguyên liệu, vật tư, điện, nước, chất đốt, xăng dầu cho sản xuất còn cao, chi phí cơ sơ hạ tầng, dịch vụ của VN cao đưa đến giá thành nhiều sản phẩm VN cao hơn giá thị trường quốc tế, cao hơn các đối thủ cạnh tranh, dẫn tới không xuất khẩu được hoặc phải chịu lỗ. Đánh giá mới nhất của Diễn đàn kinh tế thế giới, năng lực cạnh tranh của VN đã tụt xuống đến 17 hạng. Năng lực cạnh tranh của VN từ vị trí 60/102 nền kinh tế năm 2003 tụt xuống hàng 77/104 năm 2004. Sự tụt hạng của VN diễn ra trong cả 3 lĩnh vực chính dùng làm tiêu chí xếp hạng là chất lượng môi trường kinh tế vĩ mô, tình trạng của các định chế quốc gia và sự sẵn sàng tiếp cận công nghệ cao. Một trong 2 tiêu chí dẫn đến tụt hạng là chỉ số xếp hạng công nghệ, sau chỉ số xếp hạng về tham nhũng và bộ máy hành chính kém hiệu quả.  Để tồn tại trong cạnh tranh hàng hóa nhằm tránh đưa nước ta trở thành thị trường tiêu thụ hàng hoá nước ngoài, Nhà nước cần phải có những biện pháp tích cực, trước hết cần phải tăng tỷ lệ nội địa hóa, nâng cao công nghệ sản xuất, tiếp đến chống tham nhũng, chống độc quyền nâng giá các sản phẩm đầu vào (xăng dầu, điện, nước, bưu điện, hàng không, vận chuyển, sắt thép …) của các tổng công ty nhà nước độc quyền và các công ty xuyên quốc gia độc quyền, đưa ra luật chống độc quyền và chống bán phá giá nhằm đảm bảo giá hàng hóa của nước ta ngang với gía các nước trong khu vực. Bảo hộ của các nước nhập khẩu Lương thực, gạo VN là những sản phẩm xuất khẩu chủ lực còn phải đương đầu với sự bảo hộ của các nước nhập khẩu sản phẩm. Đứng trước sự hội nhập kinh tế thế giới, Nhà nước có can thiệp vào quá trình không. Lý thuyết về hội nhập cho rằng trong môi trường thương mại toàn cầu, sự phồn vinh của một quốc gia sẽ tối đa hóa nhờ tối thiểu hóa sự bảo hộ đối với thị trường trong nước. Hội nhập phá bỏ hàng rào thuế quan. Song chính phủ các nước bảo vệ lợi ích các công ty tập đoàn của mình bằng cách dùng hàng rào phi thuế quan như các rào cản kỹ thuật, rào cản trách nhiệm xã hội SA 8000 (bảo vệ môi trường, cấm sử dụng lao động trẻ em…) chống bán phá giá, ngăn cản hàng hóa bên ngoài. Có thể thấy răng áp dụng rào cản phi thuế quan và những tranh cãi xung quanh nó sẽ là vấn đề xảy ra thường xuyên trong thương mại toàn cầu. WB cũng khuyến cáo về việc gia tăng các hàng rào thương mại phi thuế quan tại các nước công nghiệp khi VN trở thành đối thủ quan trọng. Phó tổng giám đốc WTO có nói cần thấy rằng cho dù WTO đã có những quy định chặt chẽ song vẫn có một số nước vi phạm. Như vậy có thể đi đến kết luận chính phủ đưa ra những bàn tay hữu hình cũng như vô hình để bảo hộ.  Trong thời đại ngày nay sản phẩm ở những nước đang phát triển tiêu thụ có nhiều khó khăn còn là do các nước phát triển tạo ra một sân chơi không công bằng nhất là trong nông nghiệp. Ngành nông nghiệp của Mỹ, châu Âu và Nhật Bản vẫn được bảo hộ chặt chẽ. Chương trình phát triển sản phẩm nông nghiệp và nông thôn luôn gặp phải sự cản trở lớn từ chính sách bảo hộ nông nghiệp, của chính phủ nước giàu . Các nước công nghiệp phát triển hiện dành 350 tỷ USD để trợ cấp cho nông dân nước mình, lớn gấp 7 lần số tiền dành cho viện trợ quốc tế. Tổng số tiền trợ cấp cho nông nghiệp chiếm gần ½ ngân sách hàng năm của EU. Ngoài ra các nước như Indonesia, Malaysia, Hàn Quốc.. đều có trợ giá bán với giá thấp phân bón và thuốc trừ sâu. Ở VN Mỹ kiện VN bán phá giá cá Basa và con tôm vào thị trường Mỹ là sự bảo hộ của chính phủ đối với ngành nông nghiệp Mỹ.  Việc bảo hộ nông sản của các nước tác động quan trọng đến xóa đói giảm nghèo ở VN, vì nông nghiệp có trách nhiệm nặng nề tạo việc làm và nguồn sống cho phần lớn người nghèo chủ yếu là nông dân cả nước.  Cần có chính sách bảo hộ hỗ trợ các nhà sản xuất trong nước khi hội nhập WTO, không thể để cho người sản xuất kinh doanh tự bơi trước sự bảo hộ của chính phủ các nước. Cần dành một phần ngân sách đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng, đảm bảo chi phí đầu vào thấp và có lãi cho nguời sản xuất, hỗ trợ các cơ sở sản xuất doanh nghiệp tiếp cận với nguồn vốn vay tín dụng, hỗ trợ tiếp cận thị trường (cung cấp thông tin về thị trường, giá cả, nhu cầu khách hàng cho người sản xuất), hỗ trợ giảm các chi phí hạ tầng như dịch vụ cảng, bưu điện, miễn giảm thuế và chống bán phá để bảo vệ hàng sản xuất trong nước VN trở thành bãi thải công nghệ  Xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa theo chiều hướng là các nước công nghiệp phát triển sẽ chiếm giữ quyền độc tôn sản xuất và làm chủ các sản phẩm công nghệ kỹ thuật cao, các nước đang phát triển sẽ chịu lép vế, sản xuất các mặt hàng chiếm nhiều lao động, giá trị thấp, tốn nhiều nguyên liệu hơn. Các nước công nghiệp phát triển sẽ tìm cách chuyển giao toàn bộ những công nghệ cũ, lạc hậu, gây ô nhiễm sang các nước đang phát triển, những công nghệ này phù hợp với tiềm năng kinh tế và nhân lực của các nước đang phát triển. Mặt khác, do giá trị tiền công cao và ô nhiễm nên một số sản phẩm và công nghệ không cần giữ bí mật, tốn nhiều lao động và ô nhiễm môi trường.. được chuyển giao cho các nước có giá lao động rẻ hơn, đó là việc mà Hàn Quốc, Nhật, Mỹ, Đức… đang làm với các nước Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Thực tiễn trong khu vực thu hút đầu tư FDI của nhiều nước trên thế giới cho thấy các nhà đầu tư nước ngoài chỉ chuyển sang nước nhận đầu tư các máy móc thiết bị và công nghệ thế hệ thứ hai và thứ ba. Việt Nam cũng như nhiều nước đang phát triển, đang lo ngại bị biến thành bãi thải công nghệ cho các nước phát triển, đặc biệt là những thiết bị đã qua sử dụng.  Một nghiên cứu mới đây về chất lượng công nghệ chuyển giao vào VN cho thấy, trên 727 thiết bị và 3 dây chuyền sản xuất nhập khẩu trong 42 xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì có 76% thiết bị được sản xuất từ những năm 1950-1960, 50% là các máy móc đã qua sử dụng. Những con số đó cho thấy chất lượng thấp của công nghệ nhập khẩu. Mặt bằng chung về trình độ công nghệ và trang thiết bị của VN lạc hậu từ 2-3 thế hệ so với các nước công nghiệp phát triển, tỷ lệ trang thiết bị kỹ thuật cũ, công nghệ lạc hậu và trung bình chiếm 60-70%.  Lợi ích của khoa học công nghệ ngày càng nổi lên là một trong những yếu tố có tính chất quan trọng nhất ảnh hưởng đên khả năng cạnh tranh của sản phẩm, tác động đến triển vọng tăng trưởng. Đầu tư cho nghiên cứu khoa học công nghiệp và nông nghiệp đem lại hiệu quả rất lớn. Ở VN đầu tư cho khoa học công nghệ đã tác động đến tăng trưởng kinh tế. Thực vậy nghiên cứu triển khai nông nghiệp đã đem lại lãi gấp chục lần từ phát triển nông nghiệp (chẳng hạn trong nông nghiệp từ 20-40% tăng trưởng nông nghiệp ở các nước châu Á.). Trong giai đoạn 1985-1989 dựa vào công nghệ có sẵn từ trước chưa được khai thác đã đóng góp lớn cho phát triển nông nghiệp, chiếm đến 55,5% phần tăng sản lượng nông nghiệp. Trong giai đoạn 1990-1999, công nghệ không thêm gì nhiều nên công nghệ chỉ góp thêm 5,4% phần tăng sản lượng nông nghiệp. Theo Viện chính sách lương thực quốc tế, trong giai đoạn 1985-1990 tác động của khoa học công nghệ đóng góp gần 63% mức tăng sản lượng lúa của VN. Giai đoạn 1991-1995 phần đóng góp của khoa học công nghệ trong mức tăng sản lượng lúa giảm xuống 29,2%, trong giai đoạn 1996-2000 chỉ còn 22,8%. Tuy nhiên đầu tư cho nghiên cứu khoa học nông nghiệp ở nước ta ngày càng ít ỏi. Trong ngành công nghiệp, theo đánh giá của Quỹ phát triển tự động hóa quốc gia Bộ công nghiệp, đổi mới công nghệ đã đóng góp khoảng 30-40% tăng trưởng GDP toàn ngành. Tuy vậy việc đầu tư đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp hiện còn rất chậm. Mức đóng góp của khoa học công nghệ ngày càng giảm thể hiện rõ sự đầu tư yếu kém cho khoa học công nghệ nước ta. Đầu tư cho khoa học công nghệ và đầu tư đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp VN rất thấp, chi phí đổi mới công nghệ chỉ khoảng 0,2-0,3% doanh thu, trong khi ở An Độ là 5%, Hàn Quốc là 10%. Ngân sách nhà nước dành cho KH-CN năm 2002 khoảng 3.000 tỷ đồng, chiếm 2% tổng ngân sách nhà nước, tỷ lệ khá nhỏ. Cần phải tập trung cho khoa học công nghệ, coi khoa học công nghệ là một mũi đột phá trong phát triển kinh tế, đầu tư cho khoa học là hướng rút ngắn cho giai đoạn phát triển theo chiều sâu. Xã hội hóa hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ, xóa bỏ bao cấp trong lĩnh vực khoa học công nghệ không có nghĩa là nhà nước không đầu tư vào khoa học công nghệ, nhà nước cần tăng đầu tư vào những lĩnh vực, những hướng ưu tiên, đừng để cho cơ chế thị trường chi phối 100% hoạt động khoa học công nghệ. Trước mắt cần tăng ngân sách đầu tư cho khoa học công nghệ, nâng tỷ lệ chi ngân sách cho khoa học công nghệ lên trên 5-10% tổng chi ngân sách, đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ Chảy máu chất xám: VN thiếu trầm trọng nguồn lao động chuyên môn kỹ thuật, tỷ lệ người có chuyên môn kỹ thuật trong tổng dân số từ 15 tuổi trở lên đạt 8,1% năm 2000 là rất thấp (ở các nước trong khu vực là 49-50%), 9,5% số người trong độ tuổi lao động và 11,7% LLLĐ. Năm 2001 lao động không có chuyên môn kỹ thuật chiếm đến 26,7% lao động. Đây là một tồn tại và thách thức lớn đối với nước ta.  Song chúng ta có một tiềm năng lớn nguồn chất xám. Lực lượng cán bộ khoa học kỹ thuật từ đại học trở lên của VN đến cuối năm 2002 là 1.300.000 người, trong đó tiến sĩ chiếm 10%, tập trung nhiều nhất ở Hà Nội 19,2%, TP.HCM 14%. VN có khoảng 300.000 Việt kiều có trình độ đại học trở lên, trong đó có rất nhiều nhà khoa học hàng đầu trong nhiều lĩnh vực là người gốc Việt đang làm việc trong những tập đoàn kinh tế lớn của thế giới. Hiện có khoảng 10.000 học sinh VN học ở nước ngoài, hàng năm chi tiêu cho sinh hoạt và học tập mất khoảng 200 triệu USD. VN dã không khai thác được nguồn chất xám đó do cơ chế chính sách còn nhiều điều bất cập (lương, điều kiện làm việc, đòi hỏi khoa học đáp ứng ngay yêu cầu của thực tiễn, nhà khoa học bị cơ chế hành chính trói buộc, thủ tục thanh quyết toán…). Các công ty nước ngoài tại VN đã đa dạng hóa phương thức thu hút nhân tài: trao học bổng hỗ trợ sinh viên năm cuối, đào tạo nghề miễn phí, tuyển chọn các sinh viên giỏi gửi đi đào tạo thêm ở nước ngoài. Cán bộ khoa học kỹ thuật chạy từ cơ quan nhà nước sang các cơ quan nước ngoài, các sinh viên tốt nghiệp giỏi là nguồn tuyển dụng của các công ty nước ngoài, trí thức Việt kiều không về nước làm việc, học sinh đi học nước ngoài học xong ở lại nước sở tại làm việc không về nước. Hiện tượng chảy máu chất xám là rõ ràng. Nhà nước cần điều chỉnh chính sách theo hướng tạo những điều kiện làm việc thuận lợi cho các nhà khoa học, tạo chỗ ở cho gia đình, học tập cho con cái và chăm sóc y tế, phương tiện đi lại làm việc nghĩa là cần có một chính sách xã hội tiến bộ ( như một số nước châu Au và Bắc Au) và có chế độ lương tương xứng, bên cạnh đó cần có những biện pháp chống tham nhũng, chống làm giàu từ đất đai và buôn lậu. Tỷ lệ đói nghèo cao, chênh lệch thu nhập tăng  Tỷ lệ hộ nghèo tại VN đã giảm từ trên 70% vào giữa thập niên 1980, còn 37% năm 2000 xuống còn 29% năm 2002. LHQ xếp các nước có GDP đầu người trước đây thấp hơn 500 USD/người/năm và hiện nay thấp hơn 750 USD/người /năm là nước nghèo (VN chưa đến 500 USD/người). So với chuẩn nghèo LHQ quy định, thì tỷ lệ đói nghèo của ta còn cao và việc xóa nghèo còn phải tiếp tục. UNDP lưu ý về một số lĩnh vực mà VN phải phấn đấu hơn nữa, đó là tỷ lệ người suy dinh dưỡng 18%, trung bình của khu vực là 10%, tỷ lệ đói nghèo ở các vùng nông thôn vẫn còn cao, chiếm tới 90% người nghèo của cả nước .  Tốc độ giảm nghèo đang chững lại: Trong giai đoạn 1993-1998 VN đã giảm được 20% tỷ lệ nghèo từ 57% xuống còn 37%, giai đoạn 1998-2002 mức giảm chỉ đạt được 8,1%. Thu nhập và mức sống thời kỳ 1999-2002 tăng không bằng thời kỳ 1993-1998. Đáng lo ngại là nguy cơ tái nghèo còn ở mức cao, sự phân hóa giàu nghèo đang tăng rất nhanh.  Chỉ số nghèo khổ tổng hợp HPI-1 là một thước đo đa chiều về tình trạng nghèo khổ của các nước đang phát triển. Chỉ số này tính đến sự tước đoạt về sự sống và kiến thức, xã hội bỏ rơi và thiếu các phương tiện kinh tế. Giá trị HPI-1 của VN là 19,9% xếp thứ 39 trong 94 nước đang phát triển. Khoảng cách giàu nghèo đang có xu hướng gia tăng. Thu nhập của nhóm giàu năm 2001-2002 lớn gấp 8,1 lần so với nhóm nghèo, năm 1999 là 7,6 lần .  Để nhận biết sự bất bình đẳng giữa người giàu và người nghèo còn dùng hệ số GINI có giá trị từ 0 đến 1. Hệ số bằng 0 là không có sự bất bình đẳng, hệ số càng tiến đến 1 thì sự bất bình đẳng càng cao. Hệ số bất bình đẳng của VN năm 1994 là 0,35, năm 2001-2002 là 0,42. Bất bình đẳng về thu nhập ở VN có xu hướng tăng. Chỉ số GINI của VN là 36,2% cao hơn hẳn những nước giàu nhất hiện nay như Na Uy 25,8%, Thụy Điển 25%, Nhật 24,9%. Thách thức hiện nay nằm trong quá trình phân phối lợi ích của sự tăng trưởng cho tất cả các vùng và tất cả các nhóm dân cư, tích cực thực hiện chính sách an sinh xã hội và công bằng xã hội ở VN Nợ nước ngoài ngày càng tăng Việc các nước phát triển cho vay đã làm cho gánh nặng nợ nần của nước ta ngày càng tăng. Riêng các khoản nợ ngoại tệ mạnh đã vượt quá 35% GDP năm 1996 và tiếp tục tăng, trong năm 2001 số nợ đến hạn phải trả bằng 7% GDP và 11% giá trị xuất khẩu năm 2001. Theo dự báo của WB về công nợ cho thấy nước ta có mức tăng đáng kể tỷ lệ nợ trong GDP, từ khoảng 36% GDP năm 2002 lên đến 51% GDP năm 2007. Tài liệu “Định hướng chiến lược để tiến tới phát triển bền vững-tháng 4 năm 2002” tính bình quân mỗi đầu người VN hiện nợ 180 USD, bằng gần ½ số GDP/người/năm (484 USD). Các chuyên gia kinh tế quốc tế có nhiều lời khuyên VN không vì được vay với lãi suất thấp mà vay tràn lan không tính hiệu quả sẽ trở thành nước nợ nần khó có khả năng thanh toán. Kinh nghiệm phát triển trong 50 năm qua của các nước cho thấy rõ, những nước tiến hành sự nghiệp phát triển dựa trên việc tăng cường và sử dụng nguồn tiết kiệm trong nước là chủ yếu, đồng thời hạn chế đến mức tối thiểu mức độ lệ thuộc vào vay nợ nước ngoài đã đạt được những kết quả phát triển tốt đẹp và bền vững. Tỷ lệ tiết kiệm nội bộ nền kinh tế từ GDP năm 1998 Hàn Quốc đạt 43%, Malaysia đạt 45%, Thái Lan đạt 40,0%, năm 2001 Trung Quốc 39%, Hàn Quốc 34,2%, Singapore 49,9%, Malaysia 47%, Thái Lan 32,8%. Trái lại, một số lớn các nước đang phát triển trông cậy vào viện trợ tài chính vốn nước ngoài, đặc biệt là các khoản vay nợ vẫn nằm trong số những nước kém phát triển nhất với tình trạng mất cân đối về tài chính và cơ cấu, cũng như bị lệ thuộc khá nhiều vào nợ nước ngoài. Ở Việt Nam, chính sách tài chính tiền tệ chưa đủ mạnh, tiết kiệm nội bộ của nền kinh tế chưa cao, vẫn phải tăng cường vay nợ của IMF, WB…tỷ lệ tiết kiệm trong nước còn là một vấn đề nhức nhối. Trước đây, nền kinh tế nước ta không có tích lũy, nhờ có những biện pháp quan trọng trong quá trình đổi mới, tỷ lệ tiết kiệm trong nước đã tăng lên tới khoảng 17% GDP năm 1997, khoảng 27% GDP năm 2000, 24,6% GDP năm 2001  Dự kiến tích lũy nội bộ nền kinh tế đạt trên 30% GDP năm 2010 là con số còn khiêm tốn. Để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững cần phải tăng cường tiết kiệm, tăng tỷ lệ tích lũy nội bộ từ GDP, phát huy năng lực nội sinh.  Môi trường ngày càng bị ô nhiễm  Môi trường đang ngày càng xấu đi như thoái hóa môi trường đất, do lạm dụng phân bón, thuốc trừ sâu, phát triển giống lúa cao sản làm cho đất bạc mầu nhanh, xói mòn tài nguyên đất, làm giảm độ phì đất, môi trường nước bị ô nhiễm do công nghiệp và sử dụng phân bón hóa chất trong nông nghiệp gây ra, sự tàn phá rừng tự nhiên, xuống cấp chất lượng rừng, trong đó do sử dụng phát triển thủy sản, bão, lụt, lũ, hạn hán, cháy rừng xẩy ra nghiêm trọng. Sâu bệnh ngày càng phát triển theo chiều hướng khó kiểm soát. Sự phát triển lương thực thực phẩm còn thiếu bền vững. Để phát triển nông nghiệp bền vững không phải chỉ có bền vững về môi trường mà phải đảm bảo cả bền vững về kinh tế, bền vững về xã hội. Vì mưu sinh người ta phải khai thác tài nguyên một cách bừa bãi, gây ô nhiễm môi trường Ngoài ra một số doanh nghiệp VN lấy danh nghĩa nhập phế liệu để về tận dụng tái chế, thực chất nhập rác do phế liệu có lẫn tạp chất khó có thể loại bỏ trong quá trình xử lý từ các nước phát triển, chủ yếu từ Mỹ với giá rẻ. Điều đó biến môi trường sống VN thành bãi rác của các nước phát triển. Cơ cấu kinh tế không hợp lý Các công ty xuyên quốc gia phát triển mạnh định ra chiến lược phát triển kinh tế toàn cầu, hình thành hệ thống phân công lao động kiểu mới theo chiều hướng là các nước công nghiệp phát triển sẽ chiếm giữ quyền độc tôn sản xuất và làm chủ các sản phẩm công nghệ kỹ thuật cao, các nước đang phát triển sẽ chịu “lép vế”, sản xuất các mặt hàng sử dụng nhiều lao động, giá trị thấp, tốn nhiều nguyên liệu hơn, khai thác tài nguyên.  Trong những năm qua cơ cấu kinh tế nước ta đã chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp , tăng tỷ trọng công nghiệp, năm 2002 tỷ trọng nông lâm thủy chiếm 23%,công nghiệp và xây dựng chiếm 38,55%; dịch vụ chiếm 38,46%. Sự chuyển dịch này khá chậm chạp. Tỷ trọng dịch vụ trong GDP đã giảm trong 8 năm liên tục ngược với quy luật chung, các ngành dịch vụ có tính chất động lực như giáo dục, khoa học công nghệ, tài chính tín dụng tỷ trọng rất thấp. Chính sách nhà nước còn chú trọng nhiều về phát triển công nghiệp, song mới là công nghiệp gia công, thiếu sự phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ và liên quan, các ngành sản xuất tư liệu sản xuất. Hơn một nửa nhóm hàng xuất khẩu, chủ yếu là xuất nguyên liệu thô, hàm lượng chất xám ít và những mặt hàng công nghiệp tỷ lệ nội địa hóa thấp như dầu thô, gạo, than, cao su, hạt điều, may mặc. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế đó làm cho nền kinh tế nước ta tăng trưởng không hiệu quả, kém bền vững, chất lượng tăng trưởng thấp, khoảng cách giữa nước ta và các nước ngày càng doãng ra. Bài học quan trọng nhất không những của các nước công nghiệp mà cả của VN là phải xây dựng được một cơ cấu kinh tế hợp lý, một cơ cấu kinh tế phải tự sản xuất các tư liệu sản xuất cung cấp cho toàn bộ nền kinh tế.  Cơ cấu kinh tế nước ta phải là một cơ cấu kinh tế của một nước gần 100 triệu dân, bao gồm cả những ngành kinh tế trí thức và những ngành kinh tế có hàm lượng lao động cao, ngành công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ, ngành sản xuất tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng.  Khoảng cách phát triển dãn ra  Trong những năm qua VN có nỗ lực lớn trong tăng trưởng kinh tế, GDP năm 2002 – 7%, có tốc độ tăng trưởng cao đứng thứ 2 sau Trung Quốc. Việc chạy theo tốc độ bằng mọi giá làm cho chất lượng tăng trưởng chưa cao biểu hiện hiệu quả kinh tế thấp, cạnh tranh yếu, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, tốc độ giảm nghèo chững lại, chênh lệch thu nhập tăng và tài nguyên cạn kiệt, môi trường bị ô nhiễm. Tình trạng chạy theo tốc độ tăng trưởng cao làm cho hiệu quả phát triển kinh tế suy giảm đang diễn ra ở Trung Quốc cũng như VN.  Các ngành, địa phương chỉ quan tâm đến số lượng, tốc độ tăng trưởng cao, mới có thể rút ngắn được khoảng cách giữa nước ta và các nước trong khu vực. Thực tế tốc độ tăng cao hơn các nước trong khu vực nhưng khoảng cách giữa VN và các nước ngày càng doãng ra. Nguy cơ tụt hậu ngày càng xa so với trình độ của nhiều nước trong khu vực.  Thực vậy Trung Quốc trong hơn 20 năm liên tiếp với quy mô một đất nước có dân số đông gấp 15 lần nước ta mà có tốc độ tăng trưởng bình quân năm ở thập kỷ 1980-1990 là 10,3% và thập niên 1990-2000 là 10%. Thái Lan sau những năm khó khăn do khủng hoảng tài chính năm 1997 nhờ quyết tâm cải cách năm 2003 đã đạt tốc độ 6,4%, dự kiến năm 2004 tăng 8%, năm 2005 tăng 10%. Qua đó hệ số so sánh có xu hướng tăng lên, cũng có nghĩa là mức tụt hậu của nền kinh tế VN so với Thái Lan càng ngày càng lớn, VN không những không rút ngắn được mà ngày càng doãng ra. Cần phải phấn đấu tăng trưởng với tốc độ cao nhưng phải bền vững. Cần tái cấu trúc nền kinh tế, ngành công nghiệp, tập trung phát triển một số ngành nhóm sản phẩm chủ lực mang hàm lượng khoa học cao. Chấm dứt tình trạng đầu tư mù quáng vào một số ngành công nghiệp và dịch vụ và loại bỏ tệ nạn xây dựng trùng lắp kém chất lượng, thất thoát lớn và hiệu quả thấp của các địa phương. III. GIỚI THIỆU CÁC TỔ CHỨC VÀ DIỄN ĐÀN KINH TẾ QUỐC TẾ VIỆT NAM THAM GIA Tổ chức thương mại thế giới (WTO) Giới thiệu chung về WTO Tổ chức Thương mại Thế giới (tiếng Anh: World Trade Organization, viết tắt WTO; tiếng Pháp: Organisation mondiale du commerce; tiếng Tây Ban Nha: Organización Mundial del Comercio; tiếng Đức: Welthandelsorganisation) là một tổ chức quốc tế đặt trụ sở ở Genève, Thụy Sĩ, có chức năng giám sát các hiệp định thương mại giữa các nước thành viên với nhau theo các quy tắc thương mại. Hoạt động của WTO nhằm mục đích loại bỏ hay giảm thiểu các rào cản thương mại để tiến tới tự do thương mại. Tính đến ngày 23 tháng 7 năm 2008, WTO có 153 thành viên. Mọi thành viên của WTO được yêu cầu phải cấp cho những thành viên khác những ưu đãi nhất định trong thương mại, ví dụ (với một số ngoại lệ) những sự nhượng bộ về thương mại được cấp bởi một thành viên của WTO cho một quốc gia khác thì cũng phải cấp cho mọi thành viên của WTO. WTO có các chức năng sau: Quản lý việc thực hiện các hiệp định của WTO Diễn đàn đàm phán về thương mại Giải quyết các tranh chấp về thương mại Giám sát các chính sách thương mại của các quốc gia Trợ giúp kỹ thuật và huấn luyện cho các nước đang phát triển Hợp tác với các tổ chức quốc tế khác Phần lớn các quyết định của WTO đếu dựa trên cơ sở đàm phán và đồng thuận. Mỗi thành viên của WTO có một phiếu bầu có giá trị ngang nhau. Nguyên tắc đồng thuận có ưu điểm là nó khuyến khích nỗ lực tìm ra một quyết định khả dĩ nhất được tất cả các thành viên chấp nhận. Nhược điểm của nó là tiêu tốn nhiều thời gian và nguồn lực để có được một quyết định đồng thuận. Đồng thời, nó dẫn đến xu hướng sử dụng những cách diễn đạt chung chung trong hiệp định đối với những vấn đề có nhiều tranh cãi, khiến cho việc diễn giải các hiệp định gặp nhiều khó khăn. Ngoài việc là diễn đàn đàm phán các quy định thương mại, WTO còn hoạt động như một trọng tài giải quyết các tranh chấp giữa các nước thành viên liên quan đến việc áp dụng quy định của WTO. Không giống như các tổ chức quốc tế khác, WTO có quyền lực đáng kể trong việc thực thi các quyết định của mình thông qua việc cho phép áp dụng trừng phạt thương mại đối với thành viên không tuân thủ theo phán quyết của WTO. Một nước thành viên có thể kiện lên Cơ quan Giải quyết Tranh chấp của WTO nếu như họ tin rằng một nước thành viên khác đã vi phạm quy định của WTO. Quan hệ Việt Nam với WTO Quá trình gia nhập WTO của Việt Nam đã bắt đầu từ năm 1995 khi Việt Nam gửi đơn gia nhập. Trong quá trình 11 năm, Việt Nam đã vượt qua các đàm phán với WTO cũng như đàm phán song phương với tất cả các thành viên của tổ chức này. Đến cuối tháng 11/2006 thì toàn bộ các văn kiện thỏa thuận được thống nhất. Lễ ký kết văn kiện thỏa thuận đã được tổ chức ngày 7/11 tại Geneva. Ngày 29/11, Quốc hội Việt Nam đã phê chuẩn kết quả thỏa thuận, và đã ủy quyền cho Chính phủ gửi đến WTO bản Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập WTO của Việt Nam. Ngày 6/12/2006, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã ký Lệnh công bố Nghị quyết phê chuẩn Nghị định thư. Ngày 11/12/2006, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Gia Khiêm đã gửi Ban thư ký WTO thư thông báo Việt Nam hoàn thành thủ tục phê chuẩn Nghị định thư nêu trên. Căn cứ theo qui định của WTO, một tháng sau khi nhận được văn bản này, Việt Nam sẽ chính thức trở thành một thành viên WTO, và đây cũng là thời điểm các nội dung trong thỏa thuận gia nhập bắt đầu có hiệu lực. Cho đến trước thời điểm gia nhập, Việt Nam là nước đông dân thứ hai trên thế giới (sau Nga) còn đứng ngoài WTO. Trở thành thành viên chính thức của WTO, Việt Nam có thêm nhiều cơ hội mới trên đường phát triển nhưng cũng phải đối mặt với không ít thách thức. Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) Giới thiệu chung về ASEAN Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (tiếng Anh: Association of Southeast Asia Nations, viết tắt là ASEAN) là một liên minh chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội của các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á. Tổ chức này được thành lập ngày 8 tháng 8 năm 1967 với các thành viên đầu tiên là Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Singapore, và Philippines, để tỏ rõ tình đoàn kết giữa các nước trong cùng khu vực với nhau, đồng thời hợp tác chống tình trạng bạo động và bất ổn tại những nước thành viên. Sau Hội nghị Bali năm 1976, tổ chức này bắt đầu chương trình cộng tác kinh tế, nhưng các hợp tác bị thất bại vào giữa thập niên 1980. Hợp tác kinh tế chỉ thành công lại khi Thái Lan đề nghị khu vực thương mại tự do năm 1991. Hàng năm, các nước thành viên đều luân phiên tổ chức các cuộc hội họp chính thức để trao đổi hợp tác. Năm 2006, ASEAN được trao vị thế quan sát viên của Đại hội đồng Liên hiệp quốc. Đổi lại, tổ chức này trao vị thế "đối tác đối thoại" cho Liên hiệp quốc. Hơn nữa, ngày 23 tháng 7 năm đó, José Ramos-Horta, khi ấy là Thủ tướng Đông Timor, đã ký một yêu cầu chính thức về vị thế thành viên và hy vọng quá trình gia nhập sẽ kết thúc ít nhất năm năm trước khi nước này khi ấy đang là một quan sát viên trở thành một thành viên chính thức. Năm 2007, ASEAN kỷ niệm lần thứ 40 ngày khởi đầu, và 30 năm quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ. Ngày 26 tháng 8 năm 2007, ASEAN nói rằng các mục tiêu của họ là hoàn thành mọi thoả thuận tự do thương mại của Tổ chức này với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Australia và New Zealand vào năm 2013, vùng với việc thành lập Cộng đồng Kinh tế ASEAN vào năm 2015. Tháng 11 năm 2007 các thành viên ASEAN đã ký Hiến chương ASEAN, một điều luật quản lý mọi quan hệ bên trong các thành viên ASEAN và biến ASEAN thành một thực thể luật pháp quốc tế. Cùng trong năm ấy, Tuyên bố Cebu về An ninh Năng lượng Đông Á tại Cebu ngày 15 tháng 1 năm 2007, của ASEAN và các thành viên khác của EAS (Australia, Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, New Zealand, Hàn Quốc), khuyến khích an ninh năng lượng bằng cách tài trợ vốn cho các nghiên cứu về năng lượng thay thế cho các loại nhiên liệu quy ước. Ngày 27 tháng 2 năm 2009 một Thoả thuận Tự do Thương mại giữa 10 quốc gia thành viên khối ASEAN và New Zealand cùng đối tác thân cận của họ là Australia đã được ký kết, ước tính rằng Thoả thuận Tự do Thương mại này sẽ làm tăng GDP của 12 quốc gia lên thêm hơn US$48 tỷ trong giai đoạn 2000-2020. Quan hệ Việt Nam với ASEAN Ngày 28/7/1995, tại Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần thứ 28 ở Brunei, đã diễn ra buổi lễ trọng thể kết nạp Việt Nam làm thành viên thứ 7 của hiệp hội. Ngay sau khi trở thành thành viên ASEAN, Việt Nam chủ động, tích cực tham gia hoạt động hợp tác trên mọi lĩnh vực. Việc Việt Nam gia nhập ASEAN đã đánh dấu bước đi đầu tiên trong tiến trình hội nhập khu vực và thế giới. Một trong những đóng góp đầu tiên của Việt Nam là thúc đẩy việc kết nạp Lào, Myanmar, Campuchia, hình thành một ASEAN-10. Việt Nam đã tổ chức thành công Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 6 tại Hà Nội (12/1998). Chương trình Hành động Hà Nội đã đề ra nhiều biện pháp cụ thể để thực hiện Tầm nhìn 2020. Đặc biệt, Tuyên bố Hà Nội về thu hẹp khoảng cách phát triển được thông qua tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 34 (AMM-34) tại Hà Nội năm 2001 mang đậm dấu ấn Việt Nam. Việt Nam còn có sáng kiến trong việc xây dựng cộng đồng ASEAN trên ba trụ cột, trong đó Cộng đồng Văn hóa-Xã hội do Việt Nam đề xuất. Việt Nam còn là một trong những thành viên sáng lập Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF), góp phần xây dựng ARF trở thành diễn đàn quan trọng, đối thoại về an ninh khu vực. Theo sự phân công của ASEAN, Việt Nam đã đảm nhiệm tốt vai trò là nước điều phối viên trong quan hệ đối thoại giữa ASEAN với các cường quốc như Nhật Bản, Nga, Mỹ và hiện nay là Australia. ASEAN là tổ chức duy nhất trên thế giới có mối quan hệ đối thoại thành cơ chế với nhiều nước lớn và tổ chức quốc tế quan trọng nên việc gia nhập ASEAN đã hỗ trợ đắc lực cho Việt Nam thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa, chủ động hội nhập khu vực và quốc tế. ASEAN cũng giúp Việt Nam nâng cao vị thế và tiếng nói trên trường quốc tế. Trên lĩnh vực kinh tế, thương mại, dù xuất phát điểm thấp hơn các nước ASEAN cũ rất nhiều, nhưng sự tham gia của Việt Nam vào các chương trình liên kết kinh tế đã tạo thế chủ động hội nhập của nước ta vào nền kinh tế khu vực, phù hợp với các ưu tiên phát triển trong nước. Kim ngạch thương mại Việt Nam – ASEAN tăng trưởng trung bình hàng năm trên 20%. Năm 2010 được coi là năm bản lề cho ASEAN chuyển sang giai đoạn mới, hướng tới mục tiêu hình thành Cộng đồng ASEAN. Với tư cách là Chủ tịch ASEAN 2010, VN đề ra chủ đề xuyên suốt: “Hướng tới Cộng đồng ASEAN: Từ tầm nhìn tới hành động”. Với tư cách là Chủ tịch ASEAN 2010, VN sẽ tổ chức 2 hội nghị cấp cao, 8 hội nghị của các hội đồng cộng đồng cấp bộ trưởng và nhiều hội nghị cấp bộ trưởng, các cuộc họp của các quan chức cấp cao trong khuôn khổ ASEAN; chủ trì một số diễn đàn khác do ASEAN khởi xướng, như diễn đàn ASEAN +3, diễn đàn cấp cao Đông Á, diễn đàn khu vực ARF…. Ngoài ra, VN chủ trì đưa ra những sáng kiến, ý tưởng đồng thời chủ trì soạn thảo các văn kiện làm việc của ASEAN trong nhiệm kỳ của mình; điều phối các hoạt động của ASEAN năm 2010; tham vấn và điều phối lập trường các nước trong việc xử lý những vấn đề khu vực và quốc tế nảy sinh; đại diện ASEAN tham dự một số diễn đàn, hội nghị quan trọng của khu vực và quốc tế. Chủ đề của ASEAN 2010 là: “Hướng tới Cộng đồng ASEAN: Từ tầm nhìn tới hành động”. Từ chủ đề này, trọng tâm ưu tiên của VN với tư cách là chủ tịch ASEAN là tăng cường đoàn kết, hợp tác nội khối; triển khai thực hiện hiệu quả hiến chương và lộ trình xây dựng Cộng đồng ASEAN; mở rộng, làm sâu sắc thêm mối quan hệ hợp tác giữa ASEA với các nước đối tác đối thoại của ASEAN; tăng cường, củng cố vị trí của ASEAN trong khu vực cũng như quốc tế. Để chuẩn bị cho việc đảm nhận vị trí chủ tịch ASEAN, VN đã thành lập Ủy ban Quốc gia ASEAN 2010, với 5 tiểu ban chuyên môn và ban thư ký thường trực điều phối các hoạt động của 5 tiểu ban này. Hiện các tiểu ban đã hoạt động tích cực, sẵn sàng đảm nhận chức chủ tịch ASEAN. Hội nghị cấp cao ASEAN 16 vừa kết thúc tốt đẹp tại Hà Nội, đánh dấu một bước thành công quan trọng trong năm Việt Nam làm Chủ tịch ASEAN 2010. Trên cương vị Chủ nhà, Việt Nam đã nỗ lực hết mình trong mọi mặt tổ chức từ nội dung, chương trình, lễ tân, hậu cần, đón tiếp… đảm bảo Hội nghị diễn ra suôn sẻ, theo đúng nghi lễ và thông lệ ASEAN và tuyệt đối an toàn. Sự chu đáo, nhiệt tình của các cán bộ Việt Nam tham gia tổ chức và phục vụ Hội nghị, tình cảm thân thiện, mến khách của người dân Thủ đô Hà Nội cùng với những tiết mục văn nghệ đặc sắc trong Lễ khai mạc có lẽ sẽ còn lưu lại trong tâm trí các vị Lãnh đạo và đại biểu các nước ASEAN. Qua Hội nghị Cấp cao đầu tiên trong năm Việt Nam làm Chủ tịch ASEAN này, nhiều bạn bè trong ASEAN đã chia sẻ những ấn tượng tốt đẹp về một nước Việt Nam đổi mới, một thành viên chủ động, tích cực đã gắn bó và trưởng thành qua 15 năm hội nhập ASEAN, một Chủ tịch ASEAN năng động và có trách nhiệm cùng Hiệp hội đẩy mạnh hành động đưa con thuyền ASEAN đến đích xây dựng Cộng đồng ASEAN ngày một thịnh vượng, lớn mạnh. APEC Giới thiệu chung về APEC Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (tiếng Anh: Asia-Pacific Economic Cooperation, viết tắt là APEC) là tổ chức quốc tế của các quốc gia nằm trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương với mục tiêu tăng cường mối quan hệ về kinh tế và chính trị.Diễn đàn tổ chức các kỳ họp thường niên lần lượt tại mỗi quốc gia thành viên, cũng có những uỷ ban thường trực chuyên trách nhiều lãnh vực khác nhau từ truyền thông đến ngư nghiệp.Cho đến nay, hầu hết các nước nằm bên bờ Thái Bình Dương đều gia nhập tổ chức này. APEC được thành lập vào tháng 11 năm 1989 với 12 thành viên sáng lập: Úc, Nhật Bản, Malaysia, Hàn Quốc, Thái Lan, Philippines, Singapore, Brunei, Indonesia, New Zealand, Canada và Hoa Kỳ. Hiện nay, APEC gồm 21 thành viên, ngoài 12 thành viên sáng lập, các thành viên khác bao gồm: Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Hồng Kông, Đài Loan, Mexico, Papua New Guinea, Chile, Peru, Nga và Việt Nam. Quan hệ Việt Nam với APEC Tháng 11/1998, các thành viên APEC đã thông qua việc kết nạp Việt Nam làm thành viên chính thức của APEC, đánh dấu bước đi quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.  Tham gia APEC, Việt Nam đã tích cực chủ động tham gia các chương trình hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư và quá trình tự do hóa thương mại của APEC. VN đã tham gia mạnh mẽ vào một số kế hoạch hành động tập thể, đưa ra nhiều sáng kiến và đề xuất nhiều dự án được chấp thuận. Đặc biệt, năm 2006, VN đã đăng cai Hội nghị cấp cao APEC lần thứ 16, xây dựng kế hoạch hành động Hà Nội nhằm xác định các hoạt động cụ thể, phương hướng hợp tác để thực hiện lộ trình Busan hướng tới mục tiêu Bô-go. Việc tổ chức thành công rực rỡ Hội nghị cấp cao APEC 16 là bằng chứng cho thấy những đóng góp to lớn của VN đối với khu vực châu Á Thái Bình Dương,  khẳng định năng lực và nâng cao vị thế của VN trên trường quốc tế APEC đã trở thành diễn đàn góp phần quan trọng vào việc nâng cao vị thế của ta trên trường quốc tế. Việc tổ chức thành công APEC năm 2006 là đỉnh cao, làm cho VN được nhìn nhận không chỉ ở tầm khu vực, mà đã chủ trì những sự kiện, giải quyết những vấn đề ở tầm liên khu vực với quy mô và tính chất phức tạp hơn nhiều. Cùng với việc trở thành thành viên của WTO, được bầu làm ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc, vị thế và tiếng nói của VN trong khu vực và trên trường quốc tế được đẩy lên tầm cao mới. APEC cũng là nơi để ta đạt được nhiều thỏa thuận quan trọng trong quan hệ song phương, đặc biệt với các cường quốc thế giới như Trung Quốc, Nga, Mỹ, Nhật. Và cuối cùng, APEC cũng góp phần đem lại những lợi ích thiết thực cho đất nước khi các thành viên của APEC chiếm 75% vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI), 50% nguồn viện trợ phát triển (ODA), 73 % xuất khẩu và 79% nhập khẩu của ta. Nhìn nhận APEC chính là cơ hội để phát triển kinh tế và hợp tác kinh tế quốc tế của Việt Nam, PGS. TS Phạm Tất Thắng- Viện nghiên cứu Thương mại- Bộ Công thương đã đánh giá: Mặc dù đi trên những con đường hội nhập kinh tế quốc tế khác nhau nhưng với xu thế đan xen, đa chiều của hội nhập kinh tế quốc tế thời đại ngày nay, các mối quan hệ kinh tế quốc tế thương mại của VN luôn hướng tới những thị trường truyền thống, thị trường lớn, thị trường mới của các thành viên APEC. Điều đó một lần nữa khẳng định sự quan trọng của diễn đàn APEC và những vấn đề mà APEC đưa ra bàn thảo đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam. Là một nước đang phát triển, hơn ai hết Việt Nam ý thức rất rõ cơ hội này do APEC đem lại và đang làm hết sức mình để tận dụng cơ hội trong khuôn khổ hợp tác của APEC. Hội nghị thượng đỉnh Á- Âu (ASEM) Giới thiệu chung về ASEM Diễn đàn hợp tác Á–Âu (tiếng Anh: The Asia-Europe Meeting, viết tắt ASEM) được chính thức thành lập vào năm 1996 trong hội nghị cấp cao đầu tiên tại Bangkok. ASEM là một diễn đàn liên khu vực bao gồm Ủy ban châu Âu và 27 nước thành viên của Liên minh châu Âu (EU) và 14 thành viên của nhóm ASEAN cộng 3. Thực chất hiện nay ASEM là một diễn đàn hợp tác, cơ chế phối hợp thông qua các nước điều phối viên và chưa có Ban thư ký điều hành. Các nước vẫn đang tiếp tục nghiên cứu thảo luận hướng phát triển của ASEM trong thời gian tới và có nhiều khả năng ASEM sẽ được nâng lên thành một tổ chức kinh tế khu vực giải quyết vấn đề tự do hoá thương mại, đầu tư giữa châu Á và châu Âu. Trong bối cảnh toàn cầu hoá và khu vực hoá nền kinh tế thế giới hiện nay, hợp tác Á-Âu có ý nghĩa hết sức to lớn. Các nước châu Âu thành viên ASEM đã trở thành một trung tâm kinh tế quan trọng với việc hình thành Liên minh tiền tệ châu Âu (EMU) và việc sử dụng đồng tiền chung EURO vào tháng 1-1999. Liên minh châu Âu cũng đang đẩy nhanh quá trình nhất thể hóa cả về chiều rộng và chiều sâu. Song song với EU, vai trò của châu Á ngày càng được củng cố trong hệ thống kinh tế  và chính trị quốc tế với tiềm năng to lớn về cơ hội thương mại và đầu tư. Sự liên kết giữa hai khối kinh tế lớn này thông qua ASEM sẽ tạo ra một động lực mới thúc đẩy trao đổi thương mại và đầu tư giữa hai châu lục phát triển, tạo nên một sức mạnh tổng hợp của 3 khối kinh tế lớn là EU, Nhật Bản và các nước châu Á đang phát triển. Ngoài ra, trong bối cảnh Mỹ và các nước Bắc Mỹ đã xây dựng và đang phát triển mạnh mẽ mối quan hệ kinh tế với các nước châu Á trong khuôn khổ Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), châu Âu đã có liên hệ chặt chẽ với Bắc Mỹ qua quá trình lịch sử và mạng lưới dày đặc của những thể chế xuyên Đại Tây Dương, hợp tác ASEM còn có một ý nghĩa mang tính chất chiến lược, đó là cái cầu nối thắt chặt hơn châu Âu với Châu á, tạo đối trọng trong quan hệ giữa các trung tâm kinh tế lớn là EU - Mỹ- Nhật Bản và các nước châu Á đang phát triển. Quan hệ Việt Nam với ASEM Việt Nam đã có đóng góp to lớn vào quá trình hình thành ASEM và là một trong 26 bên sáng lập ASEM (3/1996). Từ đó đến nay, Việt Nam có nhiều nỗ lực cùng các đối tác trong ASEM đưa tiến trình ASEM phát triển theo đúng các mục tiêu ban đầu và đưa quan hệ đối tác Á- Âu lên một tầm cao mới, ngày càng hiệu quả và thiết thực hơn cho sự phát triển của cả hai châu lục. Không chỉ giới hạn trong việc tích cực triển khai các thỏa thuận của 4 Hội nghị Cấp cao trên cả 3 lĩnh vực: đối thoại chính trị, hợp tác kinh tế và hợp tác trong các lĩnh vực khác, Việt Nam còn chủ động nêu ra nhiều sáng kiến, góp phần làm phong phú và đa dạng thêm các hoạt động hợp tác trong ASEM. Các đại diện của Việt Nam tại Hội đồng Thống đốc Quỹ Á - Âu (ASEF), Nhóm Viễn cảnh Á - Âu, Nhóm Đặc trách Kinh tế ASEM, Nhóm Chuyên gia về Đầu tư đã có những đóng góp tích cực và thiết thực cho hợp tác chung. Ngoài ra, từ tháng 10 năm 2000 đến hết tháng 10 năm 2004, Việt Nam đã đảm nhiệm cương vị điều phối viên châu Á trong bốn điều phối viên của ASEM. Với trọng trách này, Việt Nam đã điều hành tốt các hoạt động của ASEM, có những đóng góp cụ thể vào những vấn đề quan trọng của tiến trình hợp tác ASEM và được các thành viên ASEM đánh giá cao. Đóng góp tích cực nhất của Việt Nam đối với ASEM là việc tổ chức thành công Hội nghị Cấp cao Á - Âu lần thứ 5 (ASEM 5) tại Hà Nội từ ngày 8-9/10/2004 và đưa tiến trình hợp tác Á-Âu lên một tầm cao mới, sống động hơn, thực chất hơn. Các nguồn tham khảo: www.customs.gov.vn vndgforcus.vietnamgateway.org www.nciec.gov.vn vovnews.vn www.asean2010.vn tailieu.vn vi.wikipedia.org tạp chí pháp luật

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docViệt Nam - cơ hội và thách thức trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế.DOC
Luận văn liên quan