Rõ ràng, chúng ta không thể phủ nhận những tác động tích cực trong việc 
ban hành các cơ chế quản lý giá chuyển giao trong thời gian qua tại Việt 
Nam. Đặc biệt, sự ra đời của Thông tƣ 117/TT/TT-BTC là tiếng nói có giá tr ị
mạnh mẽ, có hiệu lực pháp lý nhằm đƣa hoạt động định giá của các TNC vào 
khuôn khổ và tuân thủ đúng pháp luật của Việt Nam. Tuy nhiên, mặc dù chất 
lƣợng của các quy tắc xác định giá thị trƣờng mà Việt Nam đƣa ra là hoà n 
toàn phù hợp với chuẩn mực và thông lệ quốc tế thì việc thực hiện chúng vẫ n 
còn là một vấn đề nhức nhối.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 102 trang
102 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2331 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xây dựng cơ chế quản lý hoạt động định giá chuyển giao của các công ty xuyên quốc gia tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tăng lên. Ngƣợc lại nếu giá trị đầu ra đƣợc 
xác định là cao hơn giá thị trƣờng và không cần điều chỉnh, thì nhƣ đã phân 
tích ở trên, nếu xét một cách cục bộ, nghĩa vụ thuế thu nhập doanh nghiệp ở 
bên liên kết này có thể tăng lên nhƣng nghĩa vụ thuế của bên cùng giao dịch 
sẽ giảm đi đáng kể. Đó là chƣa kể đến những ảnh hƣởng khác nhƣ vấn đề 
quản lý về chuyển tiền khi thanh toán, chuyển vốn, chia lãi qua chuyển giá. 
 (iii) Cơ chế bảo mật thông tin chưa được quy định rõ ràng: 
 Nhƣ đã phân tích, một trong những mặt tích cực của cơ chế quản lý hiện 
nay là đảm bảo bí mật thông tin mà doanh nghiệp cung cấp trong việc giải 
trình phƣơng pháp xác định giá. Tuy vậy, cơ chế bảo mật thông tin trong 
trƣờng hợp này chƣa đƣợc nhà nƣớc quan tâm điều chỉnh cụ thể, vì thế, sẽ 
không thể biết rằng một khi thông tin nội bộ của doanh nghiệp (nhƣ bí mật 
công nghệ, giải pháp kỹ thuât,...) bị rò rỉ, gây thiệt hại cho đối tƣợng nộp thuế 
thì trách nhiệm của cơ quan quản lý sẽ ra sao, mức bồi thƣờng nhƣ thế nào? 
Câu hỏi này vẫn chƣa thể đƣợc trả lời một cách rõ ràng. 
 (iv) Những hạn chế trong từng phương pháp: 
63 
 Bản thân mỗi phƣơng pháp xác định giá thị trƣờng vẫn còn nhiều điều 
chƣa thỏa đáng, hay nói đúng hơn là chƣa phù hợp với điều kiện của nền kinh 
tế Việt Nam hiện tại. Ví dụ: 
- Đối với phƣơng pháp so sánh giá giao dịch độc lập. Khi sử dụng phƣơng 
pháp này, điều cần thiết là doanh nghiệp phải tìm ra một giao dịch tƣơng 
đƣơng với giao dịch nội bộ tập đoàn của mình. Nếu đó là giao dịch của 
chính công ty đó với một bên độc lập thứ 3 thì điều này hoàn toàn khả thi. 
Nhƣng nếu doanh nghiệp không thực hiện giao dịch này với một bên thứ 3 
độc lập bên ngoài thì việc tìm kiếm đƣợc một giao dịch của các chủ thể 
khác bên ngoài tập đoàn có tính chất tƣơng đƣơng là điều hết sức khó khăn. 
- Hay đối với phƣơng pháp giá bán lại, điều cần thiết là phải xác định đƣợc 
tỷ lệ lãi gộp bình quân của ngành thƣơng mại. Trong thực tế, tỷ lệ lãi gộp 
bình quân của ngành thƣơng mại Việt Nam rất thấp. Do đó, nếu đem áp 
dụng cho doanh nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nƣớc 
ngoài sẽ vô tình làm cho việc định giá mua cao lên, làm giảm lợi nhuận khi 
tính thuế. Mặt khác, khi áp dụng phƣơng pháp này, cán bộ thuế phải đánh 
giá xem uy tín thƣơng mại của công ty trên thị trƣờng thế nào rồi mới áp 
dụng, Điều này có thể gây trở ngại cho cán bộ thuế một khi thiếu những 
quy định cụ thể trong việc xếp loại nhãn hiệu thƣơng mại của doanh 
nghiệp. 
2.2.2. Hạn chế trong việc thực thi các cơ chế quản lý hoạt động định giá 
chuyển giao 
 Thực tế thực hiện quản lý hoạt động định giá chuyển giao của doanh 
nghiệp, bên cạnh đó, cũng xuất hiện rất nhiều khó khăn, xuất phát từ nguyên 
nhân khách quan lẫn chủ quan: 
64 
 (i) Những chính sách định giá chuyển giao tinh vi và kinh nghiệm của các TNC
 Các doanh nghiệp FDI Việt Nam thực chất hiện nay là liên doanh với các 
công ty xuyên quốc gia nƣớc ngoài, vốn có một bề dày kinh nghiệm phát triển 
ở các nƣớc khác. Trong khi phía Việt Nam chỉ góp vốn trong liên doanh dƣới 
dạng đất đai là chủ yếu thì phía đối tác nƣớc ngoài liên doanh góp vốn về mặt 
công nghệ, bí quyết, quản lý,.. Có thể nói không ngoa rằng, mọi chính sách 
phát triển kinh doanh đều tập trung vào tay của công ty mẹ hoạt động ở nƣớc 
ngoài và dĩ nhiên trong đó có chính sách về thuế, chính sách chuyển lợi 
nhuận,... Với những kinh nghiệm chuyển giá tinh vi và phức tạp, các TNC dễ 
dàng “lách luật” trong những trƣờng hợp nhất định mà phía Việt Nam không 
biết, hoặc nếu biết thì cũng chỉ có thể chấp nhận nó, bất chấp nhận thức rằng 
có thể gây thiệt hại cho ngân sách quốc gia. Thêm vào đó, để có thể kết luận 
đƣợc một giao dịch có hiện tƣợng chuyển giá là một điều không dễ dàng. Nếu 
chỉ căn cứ vào các con số công bố về mức thu nhập có chiều hƣớng giảm và 
thậm chí là âm hoặc nhìn vào ngân sách thu từ khu vực có vốn đầu tƣ nƣớc 
ngoài giảm mà kết luận rằng các TNC đã thực hiện chính sách định giá 
chuyển giao là điều hoàn toàn không logic. Có hằng trăm lý do khiến cho 
doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả (chi phí quản lý quá cao, tình hình lạm 
phát và giá cả đang ngày càng theo lang, đối tác liên doanh phía Việt Nam 
không điều hành hoạt động kinh doanh hiệu quả,...) cũng nhƣ có nhiều trƣờng 
hợp doanh nghiệp đƣợc hƣởng ƣu đã về thuế,... Điều này khẳng định mối 
quan hệ phức tạp, nhiều ngõ ngách trong nội bộ các TNC mà cơ chế quản lý 
của nhà nƣớc nhiều khi không thể “chạm vào” đƣợc. Có lẽ vì thể mà khi đƣợc 
Đại biểu Quốc hội chất vấn về vấn hiện tƣợng chuyển giá trong Kỳ họp thứ 3, 
Quốc hội khóa XII tháng 5/2008, Bộ trƣởng Bộ tài chính Vũ Văn Ninh đã trả 
lời một cách “thành thật” và “chua xót” rằng: “Chắc chắn là có chuyển gia. 
Để kiểm soát, chúng tôi đã làm hết sức. Nhƣng có cái kiểm soát đƣợc, có 
65 
cái,... nói thật với Quốc hội..., là không kiểm soát đƣợc vì các công ty chuyển 
giá từ nƣớc ngoài.” 
 (ii) Trình độ của cán bộ thuế còn yếu kém để kiểm tra và phát hiện ra các 
hành vi chuyển giá 
 Đối mặt với những chính sách khôn ngoan và đầy kinh nghiệm trong định 
giá chuyển giao của các TNC là một đội ngũ cán bộ thuế với trình độ còn yếu 
kém, làm cho vấn đề quản lý định giá chuyển giao đã khó lại càng khó thêm. 
Có một thực tế không thể phủ nhận rằng bộ máy quản lý, thanh tra, kiểm tra 
thì non kém về trình độ nhƣng lại vẫn mang tƣ tƣởng, tác phong, lề thói làm 
việc cũ. Tồn tại một nghịch lý là đoàn kiểm tra thì nhiều nhƣng chất lƣợng 
kiểm tra thì không đạt yêu cầu. Nhiều đoàn kiểm tra không có cán bộ có năng 
lực chuyên môn nên không phát hiện đƣợc vi phạm của cac doanh nghiệp. 
 Điều đáng phải quan tâm là năng lực thẩm định giá, khả năng theo dõi 
định giá nội bộ, kiểm soát giá quốc tế và những điều luật liên quan đến thuế 
thu nhập doanh nghiệp của đội ngũ cán bộ còn rất yếu kém và thiếu chặt chẽ. 
Chính tình trạng buông lỏng quản lý, trong đó bao gồm việc kiểm tra của các 
cơ quan thuế của Việt Nam đối với các doanh nghiệp liên doanh đã dẫn đến 
hiện tƣợng khi doanh nghiệp lỗ hàng trăm tỷ đồng, các cơ quan quản lý nhà 
nƣớc mới biết và con số này là một thiệt hại quá lớn cho nguồn ngân sách của 
nhà nƣớc. Hay nhức nhối hơn, theo một dự đoán của một chuyên gia nghiên 
cứu trong lĩnh vực này thì “phải mất ít nhất... 5 năm Việt Nam mới có thể 
điều tra nổi một công ty đa quốc gia có gian lận chuyển giá hay không”. 
2.2.3. Những hạn chế trong hoạt động thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài và hệ 
thống tài chính liên quan đến định giá chuyển giao 
Bên cạnh các biện pháp xác định giá thị trƣờng có tính chất điều chỉnh 
trực tiếp hoạt động định giá chuyển giao của các công ty con của các TNC thì 
66 
công tác quản lý trong chính sách thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài cũng nhƣ các 
giám sát tài chính cũng đóng vai trò quan trọng. Đây là những yếu tố thuộc 
môi trƣờng bên ngoài, vốn có những tác động đến „thái độ‟ của các TNC 
trong khi thực hiện chính sách định giá của mình. Tuy nhiên, thực tế tại Việt 
Nam, những yếu tố thuộc môi trƣờng này lại rất lỏng lẻo, điển hình nhƣ: 
 (i) Công tác giám định kém hiệu quả tạo kẽ hở cho các TNC thực hiện 
chính sách định giá chuyển giao tại Việt Nam 
 Vấn đề quan trọng nhất hiện nay và đang trở thành “tác nhân” khiến các TNC 
tha sức dùng thủ đoạn để trốn thuế đó là công tác giám định ở Việt Nam còn yếu 
kém, đƣợc coi là khâu yếu nhất trong quản lý doanh nghiệp FDI. 
 Giám định là việc xác định giá của các tài sản hữu hình, tài sản vô hình 
mà các TNC đem vào góp vốn tại Việt Nam. Vì vậy, việc giám định có ý 
nghĩa rất quan trọng, bởi nó quyết định lƣợng góp vốn, hay nói cách khác là 
tổng chí phí trong quá trình sản xuất kinh doanh của các TNC trong thời gian 
hoạt động tại Việt Nam. 
 Tuy nhiên, do trình độ, năng lực còn hạn chế, không có đội ngũ giám định 
viên quốc tế nên số công ty giám định Việt Nam đang hoạt động chỉ tính trên 
đầu ngón tay và chƣa hiệu quả. Chính vì trình độ yếu kém đó mà công tác 
quản lý Nhà nƣớc trong việc định giá, giám định giá và chất lƣợng tài sản cố 
định hữu hình gần nhƣ bị buông lỏng. Việt Nam còn thiếu nhiều văn bản pháp 
quy. Bộ Khoa học - Công nghệ, Ban vật giá chính phủ (nay là Cục thẩm định 
giá - Bộ tài chính) chƣa chủ trì phối hợp với cơ quan liên quan trình chính 
phủ, hoặc ban hành trong thẩm quyền những phƣơng pháp và chuẩn mực làm 
căn cứ định giá, chính vì vậy mà xảy ra tình trạng khi cơ quan Chính phủ 
trung cầu giám định hoặc tái giám định thì dẫn đến nhiều kết quả khác nhau. 
67 
 Thực tế, cũng là nảy sinh một câu hỏi, tại sao Việt Nam không liên doanh 
với công ty giám định nƣớc ngoài không? Nhƣng, do đặc thù của loại hoạt 
động tƣ vấn, đòi hỏi trình độ hơn là vốn góp nên bên Việt Nam không đáp 
ứng đƣợc và cho đến nay vẫn không có công ty liên doanh nào về giám định. 
Vì vậy thị trƣờng hiện nay vẫn bỏ ngỏ cho các công ty giám định nƣớc ngoài. 
 (ii) Chế độ kế toán, kiểm toán chưa hoàn chỉnh và không đạt chuẩn quốc tế 
 Đối với công tác quản lýhoạt động định giá chuyển giao, chế độ kế toán 
kiểm toán, thuộc sự quản lý của Bộ tài chính đƣợc coi là ý nghĩa quan trọng. 
Đây là công tác ảnh hƣởng trực tiếp đến quá trình xác định giá chuyển giao. 
Vì hành vi chuyển giá diễn ra trên phạm vi quốc tế nên yêu cầu đối với chế độ 
ké toán, kiểm toán lúc này không chỉ là tính hoàn thiện mà còn phải hợp 
chuẩn quốc tế. Sự khác biệt giữa chế độ kiểm toán trong nƣớc và chế độ kế 
toán thông dụng quốc tế sẽ cản trở việc điều tra chuyển giá vì sự không thống 
nhất giữa các số liệu giƣuã công ty con và công ty mẹ. Nhƣ vậy, chế độ kiểm 
toán, kế toán rất quan trọng và ảnh hƣởng lớn đến quá trình điều tra chuyển 
giá. Song, theo ý kiến nhiều nhà đầu tƣ nƣớc ngoài thì chế độ kế toán doanh 
nghiệp Việt Nam còn nhiều điểm chƣa phù hợp và thống nhất với chế độ kế 
toán thông dụng quốc tế. Đây là một thực tế xuất phát từ trình độ và năng lực 
của các cán bộ ở nƣớc ta còn hạn chế. Đây cũng chính là nguyên nhân khiến 
chế độ kế otán ở các công ty con cũng nhƣ doanh nghiệp liên doanh nếu áp 
dụng theo chế độ kế toán ở Việt Nam thì sẽ không tránh khỏi những điểm 
không thống nhất với chế độ kế toán ở công ty mẹ. Ngay cả ban thân các cơ 
quan quản lý của Việt Nam nếu không nắm vững chế độ kế toán mà bên nƣớc 
ngoài áp dụng thì cũng khó đánh giá đƣợc sự chính sác của những con số mà 
họ báo cáo trên sổ sách. 
 Bên cạnh đó, hiện nay, chƣa có sự nhất quán về chuẩn mực kiểm toán 
giữa kiểm toán Việt Nam và kiểm toán độc lập nƣớc ngoài. Hiệu lực pháp lý 
68 
của báo cáo tài chính đã đƣợc kiểm toán chƣa đƣợc khẳng định, dẫn đến tình 
trạng chồng chéo giữa các cơ quan quản lý nhà nƣớc. 
 (iii) Cơ chế kiểm tra và giám sát tài chính đối với hoạt động của các 
doanh nghiệp FDI còn nhiều lỏng lẻo 
 Cho tới nay, mặc dù hầy hết hệ thống pháp luật về quản lý doanh nghiệp, 
luật pháp về thuế đều áp dụng cho các loại hình doanh nghiệp, song về chi tiết 
đối với từng đối tƣợng doanh nghiệp vẫn còn những quy định đặc thù, vẫn 
còn những khoảng trống khác biệt, chƣa có những quy định chặt chẽ để kiểm 
tra và giám sát. Ví dụ, đối với các doanh nghiệp có vốn FDI, thông thƣờng chi 
phí quản lý đƣợc nâng cao thông qua việc chi trả lƣơng cao cho các giám đốc, 
bộ máy điều hành và nhân viên ngƣời nƣớc ngoài, các khoản chi về tiếp thị 
quảng cáo chiếm một tỷ trọng lớn trong toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh 
của các doanh nghiệp. Bên đối tác nƣớc ngoài, dƣới sự chi phối của công ty 
mẹ, sẵn sàng chi những khoản khổng lồ cho tiếp thị và quảng cáo để tạo nên 
một thế đứng vững chắc cho nhãn hiệu sản phẩm của mình, bất chấp lợi 
nhuận liên doanh tại Việt Nam. Điều này một mặt gây thất thu thuế cho chính 
phủ Việt Nam và ảnh hƣớng đến các đối tác Việt Nam, mặt khác đẩy các 
doanh nghiệp Việt Nam sản xuất, kinh doanh cùng một loại sản phẩm rơi vào 
tình trạng bị chèn ép trên thị trƣờng, dẫn đến phá sản trong cạnh tranh. 
 Trong thời gian qua, công cụ kiểm tra và giám sát tài chính chủ yếu đối 
với các doanh nghiệp FDI là thông qua chính sách thuế. Tuy nhiên, có thể 
nhận thấy chính sách thuế đối với doanh nghiệp FDI trong một số trƣờng hợp 
đã trở nên bất cập, không thể kiểm tra giám sát chặt chẽ đƣợc. 
 Kết luận: 
 Có thể nói, thông tƣ 117 của Bộ tài chính nói riêng và cơ chế quản lý định 
giá chuyển giao của Việt Nam nói chung đã dần dần đi theo chuẩn mực của 
69 
quốc tế khi đƣa ra một cách tiếp cận rất khách quan về giá chuyển nhƣợng của 
các doanh nghiệp liên doanh liên kết trong tập đoàn đa quốc gia tại Việt Nam. 
Thế nhƣng, đây mới chỉ có thể là những viên gạch đầu tiên vỡ vạc một cơ sở 
pháp lý điều chỉnh về một quan hệ xã hội - ở đó có sự “giằng xé” về mặt lợi 
ích giữa nhà nƣớc và đối tƣợng nộ thuế, xa hơn là lợi ích của cả một cộng 
đồng. Thật đơn giản để thấy rằng lồng ghép trong những quan kệ kinh tế 
chằng chịt ấy cũng là vấn đề lợi ích, nhƣng bóc gỡ nó ra để tìm thấy sự bình 
đẳng về quyền lợi thì lại không đơn giản chút nào. Dĩ nhiên, trong bối cảnh 
mởi mẻ hiện nay (sau 3 năm ban hành), nội dung của các quy định này không 
thể tránh khỏi sự phức tạp, khó hiểu, các vấn đề pháp lý đƣợc dặt ra còn nhiều 
điều phải bàn cãi - nhƣ tính cƣỡng chế chƣa cao, căn cứ để cơ quan thuế áp 
giá chƣa rõ ràng,.. Các chủ thể nằm trong đối tƣợng bị điều chỉnh của văn bản 
này, cũng nhƣ bộ phận chuyên quản thuế sẽ không dễ để thực hiện đúng 
quyền và nghĩa vụ của mình. Điều này tất yếu đòi hỏi một sự hoàn thiện 
không ngừng, để hoạt động định giá chuyển giao của các doanh nghiệp đƣợc 
thực hiện một cách lành mạnh, công bằng và đem lại lợi ích cho cả nhà nƣớc 
và doanh nghiệp. 
70 
CHƢƠNG 3 
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CƠ CHẾ QUẢN 
LÝ HOẠT ĐỘNG ĐỊNH GIÁ CHUYỂN GIAO CỦA CÁC 
TNC TẠI VIỆT NAM 
I. Triển vọng hoạt động FDI của các TNC và nguy cơ gia tăng hiện tƣợng 
chuyển giá tại Việt Nam 
 FDI là một trong những nguồn vốn quan trọng đối với đầu tƣ và phát triển 
không chỉ đối với các nƣớc nghèo mà kể cá các nƣớc công nghiệp phát triển. 
Hiện nay trên thế giới, nguồn vốn đầu tƣu này có khoảng 800 tỷ USD, trong 
đó hơn 40% đầu tƣ vào khu vực các nƣớc đang phát triển. Kinh nghiệm phát 
triển hiện đại của một số nƣớc Đông Á cho thấy, FDI đóng vai trò quan trọng 
trong quá trình phát triển quốc gia. Vấn đề hiệu quả sử dụng FDI tùy thuộc 
vào cách thức huy động, quản lý và sử dụng tại nƣớc tiếp nhận đầu tƣ. 
 Hiện nay, Việt Nam đang đứng trƣớc làn sóng đầu tƣ nƣớc ngoài lần thứ 2 
(lần thứ nhất là vào giai đoạn 1991-1997). Làn sóng đầu tƣ này hứa hẹn 
những bức phá không chỉ về số lƣợng các dự án, giá trị của các dự án mà còn 
về chất lƣợng của chúng. Nhận thức nhƣ vậy nên Bộ kế hoạch đầu tƣ đã vạch 
ra một viễn cảnh thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài trong giai đoạn 2006 - 2010 nhƣ 
sau: 
1. Mục tiêu thu hút FDI giai đoạn 2006 - 2010
8
- Vốn ĐTNN thực hiện: đạt khoảng 24 - 25 tỷ USD (tăng 70-75% so với 
giai đoạn 2001-2005) chiếm khoảng 17,8% tổng vốn đầu tƣ toàn xã hội. 
8 Số liệu đƣợc trích trong báo cáo của Cục đầu tƣ nƣớc ngoài, Bộ Kế hoạch đầu tƣ “Đầu tƣ nƣớc ngoài - 20 
năm nhìn lại” 
71 
- Vốn đăng ký bao gồm cả vốn FDI đăng ký cấp mới và tăng vốn đạt 
khoảng 55 tỷ USD (tăng hơn 2 lần so với giai đoạn 2001-2005), trong đó vốn 
cấp mới đạt 41 tỷ USD và vốn bổ sung đạt khoảng 14 tỷ USD. Bình quân mỗi 
năm đạt khoảng 11 tỷ USD. Doanh thu: khoảng 163,4 tỷ USD. 
- Xuất - nhập khẩu: xuất khẩu đạt khoảng 93,3 tỷ USD (không kể dầu 
thô); nhập khẩu đạt 103,tỷ USD. 
- Nộp ngân sách nhà nƣớc: đạt khoảng 8,4 tỷ USD. 
- Cơ cấu vốn thực hiện theo ngành: vốn FDI thực hiện trong ngành công 
nghiệp chiếm khoảng 60%, nông-lâm-ngƣ nghiệp khoảng 5% và dịch vụ 
khoảng 35%. 
- Chú trọng thu hút đầu tƣ từ các nƣớc G7 có công nghệ cao, đảm bảo 
phát triển bền vững. 
2. Định hƣớng thu hút FDI trong một số ngành 
Trong lĩnh vực Công nghiệp - xây dựng, chính phủ đặc biệt khuyến 
khích các ngành công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, điện tử, vi điện 
tử,… chú trọng công nghệ nguồn từ các nƣớc công nghiệp phát triển nhƣ Hoa 
Kỳ, EU, Nhật Bản, hết sức coi trọng thu hút đầu tƣ gắn với nghiên cứu và 
phát triển, chuyển giao công nghệ. Các ngành công nghiệp phụ trợ cũng đƣợc 
khuyến khích để giảm chi phí đầu vào về nguyên phụ liệu cho các ngành công 
nghiệp. 
Trong lĩnh vực dịch vụ, chính phủ cũng cam kết mở cửa theo đúng lộ 
trình, cho phép các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài tham gia sớm hơn và sâu hơn vào 
các lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng nhƣ xây dựng cảng biển, cảng hàng 
không, đƣờng cao tốc, cấp thoát nƣớc,… hoặc các ngành nhạy cảm nhƣ ngân 
hàng, tài chính, vận tải, viễn thông, bán buôn, bán lẻ và văn hóa. 
72 
Lĩnh vực nông - lâm - nghiệp tiếp tục đƣợc chính phủ tạo điều kiện với 
những ƣu đãi nhất định trong việc xây dựng các vùng trồng và chế biến nông 
sản xuất khẩu, dự án sản xuất gia cầm có chất lƣợng,… 
 Nhƣ vậy, với triển vọng thu hút FDI trên thì cơ hội cho các TNC tìm 
đến Việt Nam luôn rộng mở. Mặc dầu kinh tế Việt Nam nói riêng và kinh tế 
thế giới đang có những biến động theo chiều hƣớng xấu, nhƣng qua các dự 
báo kinh tế của các tập đoàn lớn nhƣ Goldman Sachs của Mỹ, AT Kearney, 
HSBC,.. thì những nền kinh tế chỉ trong giai đoạn khó khăn tạm thời, tín hiệu 
lạc quan vẫn hiện hữu. 
3. Nguy cơ hiện tƣợng chuyển giá gia tăng 
 Tuy nhiên, cũng dễ nhận thấy, khi cơ hội cho các TNC càng đƣợc mở 
rộng thì đồng thời chính phủ cũng phải đối mặt trƣớc một hiện tƣợng đang trở 
nên phổ biến: thất thu thuế do chính sách định giá chuyển giao của các TNC. 
Trong bối cảnh mới thì nguy cơ ngày càng gia tăng với những nhân tố tác 
động: 
- Làn sóng đầu tƣ FDI ồ ạt. Những TNC có tầm vóc lớn, kinh nghiệm lâu 
năm đang quan sát và tìm thời cơ thích hợp thâm nhập vào Việt Nam. 
- Tình hình lạm phát tại Việt Nam đang có xu hƣớng trầm trọng. 
- Những hạn chế về công tác quản lý hoạt động định giá chuyển giao đã 
nêu trong nghiên cứu thực trạng ở chƣơng 2. 
Vì thế, tích cực đƣa ra các giải pháp để ngăn chặn hiện tƣợng chuyển giá 
và nguy cơ phổ biến hiện tƣợng này trong bối cảnh hiện nay là điều thực sự 
cần thiết. 
II. Giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý hoạt động định giá chuyển 
giao của các TNC tại Việt Nam 
1. Hoàn thiện các phƣơng pháp xác định giá thị trƣờng 
73 
1.1. Điều chỉnh những hạn chế còn tồn tại trong các phƣơng pháp xác định 
giá thị trƣờng 
 Nhƣ đã nêu trong thực trạng nghiên cứu về các cơ chế quản lý định giá 
chuyển giao mà Việt Nam áp dụng, thực tế thông tƣ 117/2005/TT-BTC vẫn 
còn bộc lộ những hạn chế nhất định. Một khi không điều chỉnh một cách 
thống nhất và đồng bộ thì các TNC có thể lợi dụng để điều khiển chính sách 
giá một cách có lợi nhất cho bản thân họ. 
1.1.1. Thống nhất trƣờng hợp mức giá cần đƣợc điều chỉnh 
 Theo quy định tại đoạn 1.1, điểm 2, Mục 2, phần B, Thông tƣ 
117/2005/TT-BTC, trƣờng hợp giá sản phẩm trong giao dịch liên kết không 
thấp hơn giá trị phù hợp nhất thì chủ thể kinh doanh không cần điều chỉnh. 
Điều này đồng nghĩa với việc cho ra kết quả giá của giao dịch liên kết nằm ở 
đầu vào hay đầu ra trong quá trình kinh doanh của bên kiên kết có nghĩa vụ 
thuế nếu đã đƣợc định cao hơn giá trị phù hợp là đƣợc chấp nhận. Nhƣ thế 
quản lý hoạt động định giá chuyển giao sẽ không còn ý nghĩa nếu xác định giá 
đầu vào cao hơn so với giá thị trƣờng, bởi thu nhập chịu thuế sẽ bị giảm do 
chi phí đầu vào định giá tăng lên. Ngƣợc lại nếu giá trị đầu ra đƣợc xác định 
là cao hơn giá thị trƣờng và không cần điều chỉnh, thì nhƣ đã phân tích ở trên, 
nếu xét một cách cục bộ, nghĩa vụ thuế thu nhập doanh nghiệp ở bên liên kết 
này có thể tăng lên nhƣng nghĩa vụ thuế của bên cùng giao dịch sẽ giảm đi 
đáng kể. Đó là chƣa kể đến những ảnh hƣởng khác nhƣ vấn đề quản lý về 
chuyển tiền khi thanh toán, chuyển vốn, chia lãi qua chuyển giá. 
 Vậy nên chăng, một khi chúng ta đã thực hiện biện pháp điều chỉnh 
chuyển giao thì mọi giao dịch liên kết có giá cao hay thấp hơn giá thị trƣờng 
đều đƣợc đƣa về mức chuẩn là giá thị trƣờng phù hợp đã đƣợc định ra trong 
quá trình sử dụng phƣơng pháp so sánh. 
74 
1.1.2. Cụ thể hóa các quy định mang tính cƣỡng chế 
 Các biện pháp cƣỡng chế đƣợc áp dụng nhằm đảm bảo tuân thủ kê khai 
đúng đắn các giao dịch liên kết. Trƣớc hết, đó là quy định về quyền của cơ 
quan thuế đƣợc ấn định mức giá sử dụng để kê khai tính thuế hoặc ấn định thu 
nhập chịu thuế hay số thuế thu nhập phải nộp. Việc ấn định dựa trên cơ sở dữ 
liệu của cơ quan thuế phù hợp quy định về ấn định thuế hoặc theo giá trị 
không thấp hơn giá trung bình của biên độ giá thị trƣờng chuẩn đƣợc cơ quan 
thuế ấn định. Cơ chế ấn định giá trong trƣờng hợp này chƣa đƣợc quy định rõ 
vì tiêu chuẩn lựa chọn để định giá nào sẽ đƣợc xem là phù hợp một khi những 
thông tin mà đối tƣợng nộp thuế cung cấp đƣợc xem là giả mạo, hoặc không 
có giao dịch độc lập tƣơng tự để so sánh. Từ đây có thể xảy ra việc cơ quan 
quản lý có thể tùy nghi vận dụng. Chẳng hạn quy định tại đoạn 2.2 điểm 2, 
Mục 2, Phần C, TT117/2005/TT-BTC đề cập về sự “nghi ngờ” của cơ quan 
thuế liên quan đến tính trung thực của đối tƣợng nộp thuế dẫn đến việc chủ 
thể này phải có nghĩa vụ chứng minh. Nhƣng cơ sở của sự nghi ngờ này là gì 
thì không rõ. Vì thế đối tƣợng nộp thuế sẽ rất khó chứng minh nghĩa vụ của 
mình, nhƣng lại rất dễ để cơ quan quản lý làm khó đối tƣợng nộp thuế vì tự 
thân sự nghi ngờ hoàn toàn có thể xuất phát từ cảm tính của chủ thể quản lý. 
Ngoài điều này ra, pháp luật còn cho phép áp dụng các trách nhiệm pháp lý 
khác để xử lý vi phạm đối với hoạt động xác định giá thị trƣờng. 
 Những hành vi vi phạm này sẽ phù hợp nhất nếu đƣợc xem là vi phạm 
pháp luật thuế vì mục đích cuối cùng là thay đổi nghĩa vụ thuế, nhƣng cũng sẽ 
không đơn giản để phân tách thời điểm vi phạm để xếp hành vi vi phạm 
chuyển giá vào nhóm vi phạm nào. 
1.1.3. Quy định mức xử phạt đối với các sai phạm trong việc định giá 
chuyển giao 
75 
 Hầu hết các quốc gia, trong khi ban hành các quy tắc quản lý giá chuyển 
giao trong nội bộ giữa các công ty thì đồng thời cũng đƣa ra các quy tắc xử 
phạt đối với trƣờng hợp sai phạm. Đây là biện pháp tăng cƣờng sự răn đe, tính 
cƣỡng chế và buộc các công ty TNC tuân thủ đúng luật pháp. Tuy nhiên, tại 
Việt Nam, thông tƣ 117/2005/TT-BTC thì chƣa nêu ra vấn đề này. Các quốc 
gia nhƣ Đài Loan, Singapore, Mỹ, Australia,… có những quy định rất nghiêm 
ngặt về vấn đề này, theo đó đối với quy định của Mỹ thì một mức phạt tƣơng 
đƣơng 50% khoảng chênh lệch thuế (giữa số thuế phải nộp và số thuế thực tế 
nộp) sẽ đƣợc áp cho các TNC nếu bị điều tra có hành vi chuyển giá. Hay nhƣ 
trƣờng hợp của Đài Loan, thì mức phạt này lên đến 200% khoảng chênh lệch 
thuế, đối với những hành vi đƣợc coi là có ý đồ thôn tính (dominant) hoặc độc 
quyền. 
 Bên cạnh đó, các đối tƣợng bị điều tra có thể đƣợc giảm mức phạt nếu 
cung cấp đƣợc những tài liệu chứng minh (có thể không đầy đủ) và đảm bảo 
rằng các tài liệu này tuân thủ đúng quy định. Ở điểm này thì thông tƣ 117 của 
Bộ tài chính cũng có nêu quy định và coi việc cung cấp tài liệu chứng minh là 
yếu tố để xem xét giảm phạt. 
 Nhƣ vậy, để việc quản lý định giá chuyển giao thực sự hiệu quả thì việc 
quy định mức phạt là cần thiết. Vẫn biết rằng, mức phạt cho mỗi trƣờng hợp 
vi phạm khác nhau là khác nhau và không thể đƣa ra một chuẩn chung cho 
các hình phạt nhƣng Bộ tài chính và Tổng cục thuế cũng nên xem xét để đề ra 
một mức phạt trần, thứ nhất làm cơ sở xác định những hình thức phạt khác 
nhau và thứ hai, có tác dụng về mặt cảnh báo và răn đe cho các TNC. 
1.2. Đề xuất áp dụng phƣơng pháp thỏa thuận định giá trƣớc (Advance 
Pricing Arrangement - APA) 
76 
 Theo định nghĩa của Cơ quan thuế Úc (Australian Taxation Office) – 
APA là sự thỏa thuận giữa hai cơ quan - cơ quan thuế và một vài cơ quan 
chức năng khác nhằm hạn chế hiện tƣợng đánh thuế hai lần. 
 Đây là hình thức ngày càng đƣợc ƣa chuộng trên toàn thế giới và Việt 
Nam nên phát triển các quy định về APA vì các lợi ích mà APA mang lại cho 
cả cơ quan thuế lẫn các TNC: 
- Đảm bảo sự nhất quán và ổn định về phƣơng pháp định giá chuyển giao 
đối với các TNC. Việc thƣơng lƣợng đƣợc các cơ quan thuế để đạt 
đƣợc một APA đồng nghĩa với việc tránh đƣợc rủi ro bị mất tiền phạt 
và thời gian hao phí khi phải điều trần về việc định giá chuyển giao 
khác với nguyên tắc thị tƣờng nếu cơ quan thuế phát hiện ra, hoặc chi 
phí tổn thất về tiền bạc và thời gian để giải quyết trong trƣờng hợp xảy 
ra tranh chấp. 
- Làm giảm đáng kể hoặc loại trừ khả năng đánh thuế trùng với APA 
song phƣơng hoặc đa phƣơng. 
- APA làm cho các TNC chủ động trong việc lập kế hoạch trang trải cho 
những giao dịch với các doanh nghiệp có quan hệ liên kết và số tiền 
thuế phải nộp. 
- APA giúp các TNC biết cần phải lƣu giữ những tài liệu gì để chứng 
minh về phƣơng pháp định giá chuyển giao đã đƣợc thỏa thuận. 
- Xét trong bối cảnh của Việt Nam, phƣơng pháp này đặc biệt có thể áp 
dụng trong các giao dịch mà hàng hóa, sản phẩm hay dịch vụ mang tính 
đặc thù và không có sản phẩm tƣơng đƣơng cùng loại trên thị trƣờng, 
do APA đối với sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ này có tác dụng hạn chế 
việc kê khai giá tiêu thụ sản phẩm cho công ty thấp hơn giá thị trƣờng 
77 
làm cho việc xác định doanh thu của các công ty con đƣợc chính xác 
hơn. 
2. Biện pháp quản lý hoạt động định giá chuyển giao thông qua cơ chế 
quản lý việc góp vốn và nhập khẩu thiết bị trong hoạt động FDI 
 Chúng ta không phủ nhận việc nỗ lực tạo những điều kiện thuận lợi nhất 
nhằm thu hút các nhà đầu tƣ. Nhƣng, thu hút không đồng nghĩa với việc đầu 
tƣ dàn trải, ồ ạt và kém hiệu quả, mặc sức cho các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài 
“khai thác” những lợi ích mà Việt Nam ƣu đãi trong khi những dự án lại 
không khuyến khích phát triển trong nƣớc, gây thất thu thuế và có những tác 
động tiêu cực. Điều chúng ta cần quan tâm trong giai đoạn tiếp nhận một làn 
sóng đầu tƣ mới hiện nay đó là hƣớng đến thu hút những dự án chất lƣợng 
cao, mà ở đó đối tác trong nƣớc và đối tác nƣớc ngoài đều có quyền hƣởng lợi 
ích từ nó. Để làm đƣợc điều này, Việt Nam cần nhanh chóng tăng cƣờng công 
tác giám sát và quản lý hoạt động thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài. 
2.1. Hạn chế cơ chế chỉ góp vốn bằng quyền sử dụng đất và bất động sản 
của phía Việt Nam 
 Thông thƣờng, khi các TNC lựa chọn đầu tƣ xây dựng liên doanh với một 
đối tác trong nƣớc thì hình thức góp vốn phổ biến của bên Việt Nam là góp 
bằng bất động sản hoặc quyền sử dụng đất, còn phó mặc cho đối tác nƣớc 
ngoài trong việc quản lý và kinh doanh. Điều này sẽ dẫn đến tình trạng phía 
đối tác nƣớc ngoài kiểm soát hoàn toàn quá trình hoạt động, trong thời gian 
đầu có thể để liên doanh hoạt động có lãi nhƣng dần dần thôn tính bằng cách 
điều chỉnh các báo cáo tài chính theo hƣớng lỗ nặng và từ từ loại bỏ đối tác ra 
khỏi liên doanh. Nhƣ vậy, có thể nói góp vốn theo hình thức này không có ý 
78 
nghĩa khi mà bên phía Việt Nam (với tƣ cách là bên góp vốn) không có trình 
độ quản lý kinh doanh. 
 Để giải quyết vấn đề này, đối với những liên doanh mà phía đối tác là các 
doanh nghiệp nhà nƣớc thì chúng ta cần giáo dục, nâng cao trình độ quản lý 
kinh doanh của những ngƣời có chức trách của phía Việt Nam trong liên 
doanh, mà còn phải gắn trách nhiệm quản lý vốn của nhà nƣớc tại doanh 
nghiệp cho từng cá nhân một cách rõ ràng, nâng cao ý thức của họ đấu tranh 
bảo vệ lợi ích của doanh nghiệp mình. Tuy nhiên, điều này dƣờng nhƣ rất khó 
thực hiện bởi không phải cá nhân, doanh nghiệp nào cũng đặt lợi ích chung 
lên hàng đầu. 
 Nhƣng một khi chúng ta có một đội ngũ nhân viên có trình độ quản lý và 
tham gia tích cực vào việc điều hành kinh doanh thì một giải pháp hữu hiệu 
cần đƣợc song song thực hiện từ phía chính phủ, trong trƣờng hợp này là Bộ 
kế hoạch đầu tƣ, đó là nên hạn chế những cơ chế góp vốn bằng quyền sử dụng 
đất và bất động sản. Dần dần mô hình hóa các liên doanh mà trong đó tiếng 
nói của phía Việt Nam cần đƣợc khẳng định, lúc đó tất yếu lợi ích của quốc 
gia sẽ đƣợc đặt lên hàng đầu trƣớc những âm mƣu và thủ đoạn của phía đối 
tác nƣớc ngoài (nếu có) làm tổn lại đến lợi ích đó. 
2.2. Tăng cƣờng công tác giám định, quản lý việc nhập khẩu các máy móc 
trang thiết bị trong quá trình đầu tƣ của các TNC 
 Thực tế cho thấy công tác giám định ở Việt Nam còn ít về số lƣợng và 
kém về chuyên môn. Nếu tình trạng này không đƣợc cải thiện thì chúng ta sẽ 
phải đối đầu với hai nguy cơ, đó là nguy cơ bị các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài qua 
mặt khi tiến hành kê khai giá của các thiết bị máy móc này cao hơn so với giá 
79 
trị thực của nó. Và quan trọng hơn nữa là nguy cơ Việt Nam có thể sẽ trở 
thành một bãi rác công nghệ. 
 Làm tốt công tác giám định sẽ làm tăng hiệu quả sản xuất do tiết kiệm 
nhiên liệu, giảm khấu hao vô lý vì sử dụng thiết bị quá cũ. Đã đến lúc chúng 
ta không thể để mặc các công ty giám định hoạt động mà không có sự kiểm 
soát chặt chẽ của nhà nƣớc. Điều cần thiết hiện nay là phải nghiên cứu, xây 
dựng và sớm ban hành những văn bản pháp quy về chuẩn mực, phƣơng pháp 
cho công tác giám định. Các công ty, tổ chức giám định phải đảm bảo có thể 
đƣợc hạch toán vào chi phí nhằm khuyến khích và tăng cƣờng vai trò giám 
định của doanh nghiệp. 
 Cùng với việc tăng cƣờng hiệu quả công tác giám định, cần phải có biện 
pháp nhằm nâng cao vai trò của các tổ chức này. Các loại tài sản nào không 
có loại tƣơng tự trên thị trƣờng hoặc những thiết bị đã qua sử dụng thì nhất 
thiết phải có ý kiến của cơ quan giám định khi xác định giá trị liên doanh hoặc 
giá trị tài sản ban đầu. Việc kiểm định cũng cần thiết thực hiện đối với những 
loại sản phẩm bán cho các doanh nghiệp liên kết mà không có sản phẩm so 
sánh trên thị trƣờng. 
3. Xây dựng một cơ chế kiểm tra và giám sát tài chính đối với hoạt động 
của các TNC tại Việt Nam 
3.1. Kiểm tra giám sát tài chính đầu vào 
3.1.1. Kiểm tra giám sát việc đánh giá tài sản 
 Việc đánh giá tài sản cần đƣợc xem xét ở cả hai trƣờng hợp: doanh nghiệp 
liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nƣớc ngoài, trên cả hai giác độ tài sản 
cố định và tài sản lƣu động. 
 Khi tính khấu hao tài sản cố định, cần lƣu ý hai vấn đề: 
80 
- Giá trị TSCĐ tính khấu hao phải đƣợc xây dựng trên giá trị thực của 
TSCĐ và giá trị này phải đƣợc xác định một cách chính xác. 
- Không nên cho phép các doanh nghiệp FDI áp dụng quá rộng rãi 
phƣơng pháp khấu hao nhanh vì trƣớc mắt và lâu dài, các doanh nghiệp 
này thông qua con đƣờng liên tục hiện đại hóa thiết bị sẽ làm gia tăng 
khoản chi phí khấu hao, giảm thiểu khoản thuế lợi tức phải nộp, tạo ra 
lợi thế cạnh tranh so với các doanh nghiệp trong nƣớc. 
 Do đó, nên chăng chỉ cho áp dụng khấu hao nhanh đối với một số ngành 
nghề mà mức độ hao mòn vô hình khá lớn nhƣ: công nghệ thông tin, vật liệu 
kỹ thuật cao,… 
 Đối với tài sản lƣu động, cụ thể là những nguyên, vật liệu, việc xác định 
giá trị cần phân biệt giữa hai nguồn cung ứng: 
- Những nguyên vật liệu mua trong nƣớc: căn cứ xác định giá trị là 
những hóa đơn mua hàng cộng thêm các khoản chi phí vận chuyển, bảo 
quản, hao hụt trong định mức (xác định theo tỷ lệ % nhất định trên giá 
gốc tùy theo loại vật liệu) 
- Những nguyên vật liệu nhập khẩu từ quốc gia của công ty mẹ (hoặc 
mua ngoài nƣớc): căn cứ xác định giá trị ngoài hóa đơn mua hàng còn 
phải kiểm tra lại giá gốc hàng mua có so sánh với giá trị vật tƣ tƣơng 
ứng trong nƣớc. Nếu có trƣờng hợp loại vật tƣ đó chƣa có mặt hàng 
tƣơng tự trong nƣớc thì phải có ý kiến của cơ quan giám định. 
3.1.2. Kiểm tra và giám sát việc quản lý chi phí sản xuất và tính giá thành 
 Bên cạnh các chi phí về nguyên vật liệu, khấu hao TSCĐ, các chi phí 
quản lý chung cần thiết phải đƣợc giám sát chặt chẽ. 
 Đối với các khoản chi phí trả lƣơng cho nhân viên quản lý, khoản thu thuế 
thu nhập cũng góp phần điều tiết bớt các khoản nâng giá bằng biện pháp tăng 
81 
lƣơng cho nhân viên ngƣời nƣớc ngoài. Đối với các khoản chi phí quảng cáo, 
tiếp thị, Bộ tài chính đã quy định cụ thể các khoản chi phí này không đƣợc 
vƣợt quá 10% tổng chi phí hợp lệ để xác định thu nhập chịu thuế. Tuy nhiên, 
các doanh nghiệp FDI lại cho rằng vấn đề này gây nên những cản trở không 
nhỏ đối với hoạt động đầu tƣ của các nhà đầu tƣ và đi ngƣợc với thông lệ 
quốc tế. Trƣớc mắt, Bộ tài chính và cơ quan thuế cần giữ vững tỷ lệ này và 
kiên quyết không cho phép đƣa vào các khoản chi phí quá lớn và bất hợp lý 
vào chi phí sản xuất. Trong những năm tiếp theo, Bộ tài chính cần quy định 
một tỷ lệ khống chế riêng biệt và hợp lý đối với các doanh nghiệp FDI. Tỷ lệ 
này không thể xây dựng trên cơ sở các doanh nghiệp nội địa Việt Nam mà 
phải xem xét tại các công ty mẹ ở các quốc gia khác, căn cứ vào tỷ trọng của 
chi phí tiếp thị và quảng cáo thống kê cho nhiều ngành tính bình quân trong 
một giai đoạn nhất định. 
3.2. Kiểm tra giám sát tài chính đầu ra 
 Kiểm tra việc xác định doanh thu chủ yếu căn cứ vào việc xác định tính 
hợp lý của giá cả hàng hóa tiêu thụ. 
 Việc kê khai giá hàng bán ra cho công tỵ mẹ hoặc một chi nhánh khác 
trong cùng một TNC thấp hơn giá trị thực của hàng hóa phổ biến nhất ở các 
doanh nghiệp 100% vốn FDI. Việc kiểm soát đầu ra có thể thực hiện thông 
qua một số biện pháp: 
 - Áp dụng phƣơng pháp so sánh về giá thị trƣờng của những sản phẩm 
hàng hóa tƣơng đƣơng trên thị trƣờng thế giới. Phƣơng pháp này đòi hỏi phải 
nắm đƣợc những thông tin về sản phẩm và giá cả trên thị trƣờng quốc tế. 
 - Ký kết những Thỏa thuận định giá trƣớc (APA) giữa các Công ty với 
chính phủ. 
 Tóm lại, xây dựng một cơ chế kiểm tra giám sát tài chính đối với hoạt 
động của các doanh nghiệp FDI là một quy trình khá phức tạp. Những yếu tố 
82 
thuộc quy trình này, nếu đƣợc giám sát chặt chẽ sẽ hạn chế đƣợc việc nâng 
giá sản phẩm đầu vào hạ giảm giá sản phẩm đầu ra, phản ánh không đúng tình 
hình kinh doanh của các TNC tại Việt Nam. 
4. Tăng cƣờng công tác điều tra ở các doanh nghiệp có nghi vấn về 
chuyển giá 
 Theo thừa nhận của Bộ tài chính và Cơ quan thuế của Việt Nam, đã có 
nhiều doanh nghiệp FDI có những hành vi trốn lậu thuế thông qua chuyển giá. 
Nhƣng cho đến nay thì các cơ quan chức năng vẫn chƣa thể nào phát hiện và 
tiến hành điều tra một vụ việc nào cụ thể. Việc ban hành các phƣơng pháp xác 
định giá thị trƣờng, cho đến nay vẫn là câu chuyện hƣớng đến tƣơng lai, tức là 
đƣa hoạt động của các doanh nghiệp FDI vào khuôn khổ và đƣơng nhiên, đó 
là việc làm hoàn toàn đúng đắn. Tuy nhiên, thực tế mức độ mà các TNC áp 
dụng thông tƣ nhƣ thế nào trong thời gian vừa qua thì dƣờng nhƣ cơ chế quản 
lý, giám sát của Bộ tài chính vẫn chƣa phát huy hiệu quả. Liệu chúng ta có 
phải cần đến một thời gian là 5 năm để kết luận một vụ điều tra một công ty 
có thực hiện hành vi định giá chuyển giao sai nguyên tắc ở Việt Nam hay 
không? Rõ ràng, trong một bối cảnh mới khi đã có những quy định khung về 
định giá chuyển giao, thì công tác thực hiện những quy định đó cần phải đƣợc 
đẩy mạnh và phát huy tối đa hiệu quả. 
4.1. Ban hành quy định về dấu hiệu doanh nghiệp trong diện nghi vấn có 
hành vi chuyển giá 
 Thực tế đây là một công tác vô cùng khó khăn và phức tạp nhƣng có ý 
nghĩa quan trọng. Theo đó, một khi những dấu hiệu này đƣợc nêu ra thì các 
doanh nghiệp FDI, nếu rơi vào danh sách này sẽ tự điều chỉnh, nếu không sẽ 
bị cơ quan thuế điều tra về hoạt động của mình. 
 Một số dấu hiệu cho thấy có thể tồn tại hiện tƣợng chuyển giá trong một 
doanh nghiệp FDI cần phải điều chỉnh theo giá thị trƣờng là: 
83 
- Các doanh nghiệp bị lỗ trong hai năm liên tiếp trở lên, sau giai đoạn 
mới thành lập. 
- Có các nghiệp vụ chuyển nhƣợng từ các doanh nghiệp liên kết ở quốc 
gia có thuế suất thấp. 
- Các doanh nghiệp có tình hình lãi và lỗ luân phiên hoặc tình hình lãi và 
lỗ phát sinh không bình thƣờng. 
- Các doanh nghiệp mà tỷ suất lợi nhuận nhỏ hơn nhiều (chênh lệch khá 
lớn) so với các doanh nghiệp khác trong cùng ngành. 
- Các doanh nghiệp mà tỷ suất lợi nhuận nhỏ hơn nhiều so với tỷ suất lợi 
nhuận của các doanh nghiệp trong tập đoàn. 
 Tuy nhiên, khi một trong những dấu hiệu trên xuất hiện tại một doanh 
nghiệp kèm theo các trƣờng hợp sau: 
- Thiết bị sản xuất của doanh nghiệp đó đƣợc mua từ công ty mẹ hoặc 
những doanh nghiệp liên kết trong cùng một tập đoàn. 
- Sản phẩm của doanh nghiệp đƣợc bán cho công ty mẹ hoặc những 
doanh nghiệp liên kết khác. 
 Nếu có những dấu hiệu trên thì khả năng xảy ra tình trạng các TNC đang 
cố tình thực hiện chính sách định giá chuyển giao sai nguyên tắc là rất cao. Vì 
vậy, cơ quan thuế cần nắm danh sách những doanh nghiệp nằm trong diện 
nghi vấn này và tiến hành điều tra để truy thu thuế. 
4.2. Thu thập và kiểm soát thông tin để chứng minh những hành vi nghi 
vấn về chuyển giá 
4.2.1. Thực hiện phỏng vấn và thu thập thông tin 
 Để chứng minh đƣợc một TNC có thực hiện chính sách định giá chuyển 
giao trái quy định hay không thì việc tập hợp đƣợc những thông tin xác thực 
từ những nguồn khác nhau là rất cần thiết. Muốn vậy, cơ quan thuế phải thực 
hiện những cuộc phỏng vấn đối với chính những nhân viên trong các công ty 
84 
để có đƣợc những thông tin liên quan đến nghiệp vụ chuyển giao. Phỏng vấn 
ngay tại chỗ có ƣu điểm hơn những hình thức phiếu câu hỏi hay qua điện 
thoại. Trong quá trình phỏng vấn, thông thƣờng phải bao quát các vấn đề liên 
quan đến hoạt động sản xuất và phân phối nhƣ: các chức năng sản xuất (chức 
năng sản xuất, quy trình sản xuất, mua sắm nguyên vật liệu, sự thỏa thuận của 
ngƣời cung cấp,..); chức năng marketing, chức năng phân phối, dịch vụ sau 
bán hàng,... Cùng với việc phỏng vấn, cơ quan thuế cần thiết phải kiểm tra các 
tài liệu và thông tin khác nhƣ: sơ đồ tổ chức, các báo cáo về chính sách định 
giá trong nội bộ công ty hiện có, các thỏa thuận trong nội bộ công ty về lĩnh 
vực phân phối, nghiên cứu và triển khai, phân bổ chi phí,.. và các thông tin về 
sản phẩm và công tác marketing, chẳng hạn nhƣ danh mục sản phẩm, báo cáo 
về phân tích tồn kho,... Các thông tin này có ích để thấu hiểu thông tin tập hợp 
đƣợc từ quá trình phỏng vấn. 
4.2.2. Yêu cầu lƣu trữ tài liệu chứng minh 
 Để kiểm tra chính sách định giá chuyển giao trong nội bộ TNC, cơ quan 
thuế nhất thiết phải yêu cầu các công ty có liên quan đƣa ra các tài liệu chứng 
minh để giải trình về tính hợp lý của việc định giá vƣợt biên giới này. Do đó, 
các TNC cần thiết phải biết đƣợc yêu cầu hiện đang đƣợc áp dụng tại các 
quốc gia về việc lƣu trữ và trình bày các tài liệu chứng minh về hoạt động 
chuyển giao của họ. 
 Ngoài ra, cơ quan thuế cũng cần phải quan tâm đến những vấn đề sau: 
 (i) Thu thập thông tin liên quan đến các công ty có quan hệ giao dịch với 
TNC đang xem xét 
 Tuy nhiên, vấn đề này liên quan đến luật pháp quốc tế về những công ty 
đó, mà điều này lại phụ thuộc vào sự kiểm soát của một cơ quan pháp chế 
85 
nƣớc ngoài nên những thông tin về những công ty có quan hệ liên kết đó sẽ bị 
giới hạn trong một phạm vi hợp pháp nhất định. 
 Việt Nam hiện nay đã ký hiệp định tránh đánh thuế 2 lần với 35 quốc gia, 
điều này góp phần thuận lợi cho cơ quan thuế Việt Nam trao đổi và thu thập 
thông tin từ các cơ quan thuế ở nƣớc ngoài để phục vụ công tác đấu tranh 
chống chuyển giá trong nƣớc. 
 (ii) Thu thập thông tin từ những đối thủ cạnh tranh 
 Các thông tin về việc định giá và khả năng sinh lợi của các đối thủ cạnh 
tranh có thể quyết định việc nhận biết các yếu tố so sánh liên quan đến việc 
chuyển giá. Chính vì vậy, cơ quan thuế cần yêu cầu các TNC đang xem xét 
xuất trình thêm các tài liệu về các đối thủ cạnh tranh để có thêm thông tin hỗ 
trợ trong việc kiểm soát chính sách định giá mà doanh nghiệp đang áp dụng. 
 (iii) Cần phải bảo mật thông tin để bảo vệ quyền lợi các doanh nghiệp 
 Mối quan tâm chính của nhiều TNC đối với những yêu cầu về việc xuất 
trình tài liệu và cung cấp thông tin cho cơ quan thuế là việc bảo mật thông tin. 
Vì vậy, để các công ty có thể tin cậy khi đƣa ra các tài liệu chứng minh thì cơ 
quan thuế Việt Nam cần phải có những quy định đảm bảo về việc bảo mật 
thông tin do ngƣời chịu thuế cung cấp. Có thể quy định cụ thể những khoản 
phạt khi cơ quan thuế công bố trái phép những thông tin cần bảo mật. 
 (iv) Kiên quyết áp dụng các khoản phạt do không cung cấp đủ chứng từ 
chứng minh 
 Nếu các công ty không tuân thủ chặt chẽ các yêu cầu về lƣu trữ và cung 
cấp các tài liệu chứng minh thích hợp cho từng nghiệp vụ chuyển giao của 
mình thì cơ quan thuế phải kiên quyết áp dụng các hình phạt tƣơng xứng cho 
từng trƣờng hợp nhƣ: khoản phạt phát sinh do không đáp ứng các yêu cầu của 
cơ quan thuế, do không cung cấp đủ tài liệu,... Tóm lại, tính cƣỡng chế phải 
đƣợc đề cao hơn nữa. 
86 
4.3. Nâng cao trình độ quản lý đối với đội ngũ cán bộ thuế 
 Yếu tố con ngƣời luôn mang tính quyết định trong lĩnh vực quản lý thuế 
nói chung và công tác quản lý hoạt động định giá chuyển giao nói riêng. Đối 
với một vấn đề mang tính phức tạp nhƣ định giá chuyển giao thì kiến thức của 
cán bộ thuế lúc nào không chỉ bó hẹp trong phạm vi kiến thức truyền thống 
chuyên môn bao gồm thuế, tài chính, kế toán,.. mà còn phải am hiểu về các 
lĩnh vực kinh doanh và mối quan hệ phức tạp cũng nhƣ những thủ thuật của 
các TNC. Có nhƣ vậy thì họ mới đủ tỉnh táo để phát hiện ra vấn đề và nhƣ vậy 
việc điều tra các vụ việc mới đem lại kết quả. 
5. Các biện pháp khác 
5.1. Tuyên truyền, vận động, khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện 
kiểm soát các chính sách định giá chuyển giao và các chính sách về thuế 
 Lâu nay, chúng ta vẫn không coi trọng hoạt động tuyên truyền, giáo dục 
cho doanh nghiệp để họ hiểu hơn về những quy định, chế độ, chính sách thuế. 
Nếu đƣợc tuyên truyền đầy đủ về những quy định của pháp luật cũng nhƣ 
những chính sách thuế liên quan, doanh nghiệp sẽ tránh đƣợc những sai sót 
trong quá trình kê khai thuế, mà quan trọng hơn, doanh nghiệp sẽ có những 
phản hồi xác đáng có tính xây dựng đối với công tác lập chính sách thuế của 
chính phủ. Nhờ đó, những chính sách này trở nên thực sự hiệu quả và phù hợp 
với điều kiện kinh tế, xã hội, thúc đẩy sự phát triển của từng chủ thể riêng lẻ 
và cả toàn bộ nền sản xuất. 
 Trong những năm gần đây, một hình thức khá tích cực mà Việt Nam đã 
thực hiện trong công tác tuyên truyền, khuyến khích các doanh nghiệp FDI 
thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nƣớc đó là Giải thƣởng Rồng vàng tôn vinh 
các doanh nghiệp FDI có đóng góp cho ngân sách nhiều nhất. Thiết nghĩ, 
những hoạt động nhƣ vậy cần phải đƣợc triển khai rộng rãi, vì nó thực sự có 
87 
tác động mạnh mẽ về mặt uy tín của những doanh nghiệp của các tập đoàn 
xuyên quốc gia đang hoạt động tại Việt Nam. 
5.2. Kết hợp với cơ quan kiểm toán tƣ vấn trong việc kiểm tra giám sát tài 
chính của doanh nghiệp 
 Trong điều kiện Việt Nam đang mở rộng cánh cửa hội nhập kinh tế quốc 
tế, phải đối mặt với nhiều vấn đề tiêu cực phát sinh trong lĩnh vực kêu gọi đầu 
tƣ nƣớc ngoài, chẳng hạn nhƣ hiện tƣợng chuyển giá, thì các công ty tƣ vấn, 
kiểm toán có vai trò vô cùng quan trọng trong việc hạn chế những tiêu cực 
này. Thông qua hoạt động kiểm toán của các công ty kiểm toán mà có quan 
thuế sẽ có những báo cáo tài chính trung thực và chính xác về kết quả kinh 
doanh của các doanh nghiệp, về các vấn đề có liên quan đến chuyển giao nội 
bộ của TNC. Những thông tin này giúp cho cơ quan thuế có thể phát hiện và 
ngăn chặn các hành vi gian lận, trốn thuế và đặc biệt là hiện tƣợng chuyển 
giá. Vì vậy, một trong những giải pháp đồng bộ nhằm đấu tranh chống chuyển 
giá là cơ quan thuế phải có sự phối hợp nhịp nhàng với các công ty kiểm toán 
và tƣ vấn. 
 Để sự kết hợp này đạt hiệu quả, cần nâng cao hơn nữa vai trò và chất 
lƣợng của hoạt động kiểm toán và tƣ vấn. Muốn vậy, trƣớc hết phải nâng cao 
đạo đức nghề nghiệp của các kiểm toán viên. Đạo đức nghề nghiệp chính là 
quy tắc hƣớng dẫn cho các kiểm toán viên ứng xử và hành động một cách 
trung thực, phục vụ cho lợi ích chung của nghề nghiệp và xã hội. Kiểm toán 
viên phải thực hiện công việc với một tinh thân thẳng thắn, không vụ lợi, 
không đƣợc phán quyết vấn đề một cách vội vàng hoặc áp đặt để đám bảo 
tính chính xác của các báo cáo tài chính. Ngoài ra, đội ngũ kiểm toán viên 
phải không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, đặc biệt trong lĩnh vực đầu 
tƣ trực tiếp nƣớc ngoài, phải nắm vững các chuẩn mực kế toán quốc tế, am 
88 
hiểu sâu rộng hệ thống kế toán quốc tế đƣợc sử dụng trong các doanh nghiệp 
FDI. 
5.3. Kết hợp với ngân hàng trong việc kiểm tra giám sát tài chính của 
doanh nghiệp 
 Cơ quan thuế cần thiết phải thiết lập chặt chẽ với ngân hàng để nhanh 
chóng phát hiện và ngăn chặn những hoạt động nhằm mục đích chuyển giá tại 
các doanh nghiệp FDI. Bởi vì, thông qua việc thu chi quan ngân hàng một 
cách minh bạch, ngân hàng có thể kiểm soát đƣợc tất cả các hoạt động thu chi 
có liên quan đến nghiệp vụ chuyển giao của các doanh nghiệp FDI. Ngoài ra, 
với chức năng tín dụng của mình, ngân hàng cung cấp cho các công ty vay 
vốn tại ngân hàng, đảm bảo rằng các công ty này sử dụng vốn đúng mục đích 
và trong giới hạn phạm vi cho phép, nhất là nguồn vốn sử dụng cho nhu cầu 
nhập khẩu máy móc thiết bị, vật tƣ,.. ngân hàng phải tham gia thẩm định tính 
năng, chất lƣợng và định giá lại nhằm tránh tình trạng nâng giá quá mức mà 
một số công ty lớn đã thực hiện trong thời gian qua. Chính những điều này 
cho thấy ngân hàng có vai trò rất quan trọng trong việc góp phần hạn chế 
chuyển giá của các TNC. 
5.4. Tăng cƣờng hợp tác quốc tế 
 Trong bối cảnh toàn cầu hóa nền kinh tế nhƣ hiện nay, sự hợp tác quốc tế 
là cần thiết trong hầu hết các lĩnh vực. Đặc biệt, công tác quản lý hoạt động 
định giá chuyển giao có đối tƣợng quản lý là các công ty xuyên quốc gia, hoạt 
động kinh doanh với một mạng lƣới liên kết ở nhiều quốc gia trên thế giới. 
Việc điều tra hoạt động định giá chuyển giao của các công ty này đòi hỏi Cơ 
quan thuế phải có đƣợc thông tin của các bên liên kết nƣớc ngoài. Nếu có 
đƣợc sự giúp đỡ của cơ quan quản lý thuế nƣớc ngoài thì chúng ta sẽ có đƣợc 
những thông tin giá trị, cung cấp một cái nhìn toàn diện hơn về đối tƣợng. Từ 
đó, có những biện pháp xử lý hợp lý. 
89 
 Bên cạnh đó, sự hợp tác của các quốc gia sẽ hạn chế những kẽ hở để các 
TNC có thể lợi dụng và thực hiện chính sách định giá chuyển giao có lợi cho 
mình. Mặt khác, hợp tác quốc tế cũng cho chúng ta những bài học kinh 
nghiệm trong công tác quản lý hoạt động định giá chuyển giao của các nƣớc 
trên thế giới. 
 Tóm lại, có thể nói, công tác quản lý định giá chuyển giao đòi hỏi nhiều 
sự hợp tác, đặc biệt trong hai lĩnh vực: sự trao đổi thông tin và sự quản lý 
thống nhất đối với hoạt động của các TNC. Thứ nhất, các đánh giá về hoạt 
động của công ty con bởi chính cơ quan thuế của chính nƣớc sở tại sẽ không 
thể chính xác vì công ty con này không hoạt động độc lập mà chịu ảnh hƣởng 
bởi nhiều chinh nhánh khác. Vì thế, cơ quan tài chính của các nƣớc khác nhau 
cần có sự trao đổi thông tin để có cái nhìn tổng quát hơn. Thứ hai, các quốc 
giá cần có sự thông tin trong hệ thống các quyết định của mình đối với một 
TNC vì một quyết định của nƣớc này có tác động tới nƣớc khác. Trong hoạt 
động định giá chuyển giao, các nƣớc nên tránh tình trạng một TNC phải chịu 
thuế hai lần. Muốn nhƣ vậy, các nƣớc phát triển và đang phát triển phải có 
nhiều hiệp ƣớc đƣợc ký kết hơn. Điều này sẽ cho phép giảm các “nơi ẩn trú 
thuế” cũng nhƣ giảm đƣợc hiện tƣợng đánh thuế hai lần. 
90 
KẾT LUẬN 
Rõ ràng, chúng ta không thể phủ nhận những tác động tích cực trong việc 
ban hành các cơ chế quản lý giá chuyển giao trong thời gian qua tại Việt 
Nam. Đặc biệt, sự ra đời của Thông tƣ 117/TT/TT-BTC là tiếng nói có giá trị 
mạnh mẽ, có hiệu lực pháp lý nhằm đƣa hoạt động định giá của các TNC vào 
khuôn khổ và tuân thủ đúng pháp luật của Việt Nam. Tuy nhiên, mặc dù chất 
lƣợng của các quy tắc xác định giá thị trƣờng mà Việt Nam đƣa ra là hoàn 
toàn phù hợp với chuẩn mực và thông lệ quốc tế thì việc thực hiện chúng vẫn 
còn là một vấn đề nhức nhối. 
Vì vậy, công tác thực hiện và giám sát thực hiện đòi hỏi phải chú trọng hơn 
nữa. Để làm đƣợc điều này, chúng ta khắc phục những yếu kém hiện tại, nhất là 
trong vấn đề chất lƣợng nguồn nhân lực của các nhân viên, cán bộ có trách 
nhiệm thực hiện cơ chế. Đồng thời, cần sự phối hợp chặt chẽ giữa các Ban, 
ngành từ Bộ kế hoạch đầu tƣ đến Bộ tài chính và Cơ quan quản lý thuế là cần 
thiết bởi quản lý định giá chuyển giao yêu cầu nhiều cơ quan chức năng cùng 
tham gia để thống nhất một chính sách hợp lý cho nhà đầu tƣ nƣớc ngoài. Nhƣng 
quan trọng hơn cả là tuyên truyền ý thức chấp hành quy định của các TNC khi 
kinh doanh tại Việt Nam nhằm đảo bảo một môi trƣờng kinh doanh lành mạnh 
và công bằng, đảm bảo lợi ích cho mọi thành phần kinh tế. 
91 
Danh mục tài liệu tham khảo 
1. Thông tƣ 117 – Bộ tài chính, ban hành ngày 19 tháng 12 năm 2005. 
2. Phan Hiển Minh – Luận án tiến sĩ “Hoàn thiện phƣơng pháp định giá 
chuyển giao trong chính sách thuế ở Việt Nam – 2003”. 
3. Nguyễn Ngọc Thanh – Nguyễn Hoàng Dũng - Định giá chuyển giao và thủ 
thuật chuyển giá của các TNC tại Việt Nam – Nhà xuất bản Tài chính. 
4. Phan Thị Thành Dƣơng – Chống chuyển giá ở Việt Nam – Tạp chí Khoa 
học Pháp luật số 2/2006. 
5. Đoàn Ngọc Phi Anh (ĐH Đà Nẵng) - Định giá chuyển nhƣợng trong kinh 
doanh quốc tế – Tạp chí Tài chính doanh nghiệp tháng 3/2005. 
6. Đoàn Văn Trƣờng – Chống chuyển giá - Kinh nghiệm của một số nƣớc – 
Tạp chí Kinh tế và dự báo số 9/2007. 
7. Nguyễn Thiết Sơn – Giáo trình các công ty xuyên quốc gia – NXB Đại học 
Quốc gia TP Hồ Chí Minh. 
8. Báo cáo Đầu tƣ nƣớc ngoài – 20 năm nhìn lại – Cục Đầu tƣ nƣớc ngoài, Bộ 
kế hoạch và Đầu tƣ. 
9. Báo cáo đầu tƣ thế giới 2007. 
10. Hƣớng dẫn của OECD về định giá chuyển giao đối với các cơ quan thuế. 
11. Báo cáo toàn cầu của Ernst&Young về Định giá chuyển giao 2008. 
12. Các Website của Bộ Tài chính, Bộ kế hoạch đầu tƣ, Tổng cục thuế 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 4271_4091.pdf 4271_4091.pdf