Đảm bảo xuất khẩu một mặt hàng thực hiện mục tiêu phát triển bền vững sẽ
có những đóng góp quan trọng trong việc phát triển kinh tế nhanh và bền vững của
cả nước. Xuất khẩu hàng da giầy Việt Nam theo hướng bền vững là một yêu cầu
bức thiết trong giai đoạn hiện nay khi mà năng lực xuất khẩu của ngành da giầy
Việt Nam trên thị trường thế giới vẫn chủ yếu dựa vào ưu thế về nhân công lao
động trong khi khả năng tự thiết kế mẫu mã, đảm bảo nguyên phụ liệu còn thiếu và
yếu, quy mô sản xuất chưa đủ lớn, cùng với các vấn đề ổn định xã hội và bảo vệ
môi trường đã được thực hiện song còn nhiều hạn chế.
Từ việc nghiên cứu đề tài, em xin đưa ra một số kết luận như sau:
Xuất khẩu bền vững là một trong những nội dung của phát triển bền vững.
Xuất khẩu bền vững phải là một quá trình lâu dài và là sự kết hợp hài hòa giữa mục
tiêu tăng trưởng xuất khẩu và các mục tiêu của phát triển bền vững: kinh tế, xã hội,
môi trường. Trong nhi ều trường hợp phải chấp nhận sự đánh đổi giữa các mục tiêu
tăng trưởng xuất khẩu, kinh tế, xã hội, môi trường. Tuy nhiên, vấn đề được đặt ra là
cần xây dựng một chiến lược phát triển để cân bằng các mục tiêu xuất khẩu bền
vững trong dài hạn.
106 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2763 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xuất khẩu hàng da giầy Việt Nam thực hiện mục tiêu phát triển bền vững, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hấp; công nghệ sản
xuất, mô hình tiêu dùng còn sử dụng nhiều năng lượng, nguyên liệu và thải ra nhiều
chất thải. Dân số tăng nhanh, tỷ lệ hộ nghèo còn cao; các dịch vụ cơ bản về giáo dục
và y tế hiện còn bất cập, các loại tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn triệt để... Nhiều
nguồn tài nguyên thiên nhiên bị khai thác cạn kiệt, sử dụng lãng phí và kém hiệu
quả. Môi trường thiên nhiên ở nhiều nơi bị phá hoại nghiêm trọng, ô nhiễm và suy
thoái đến mức báo động.
Để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững đất nước như Nghị quyết của Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã đề ra và thực hiện cam kết quốc tế, Chính phủ
Việt Nam ban hành "Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam"
71
(Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam). Định hướng Chiến lược phát triển bền
vững ở Việt Nam là một chiến lược khung, bao gồm những định hướng lớn làm cơ
sở pháp lý để các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức và cá nhân có liên quan triển
khai thực hiện và phối hợp hành động nhằm bảo đảm phát triển bền vững đất nước
trong thế kỷ 21.
3.1. Những mục tiêu cơ bản đối với phát triển bền vững ở Việt Nam
Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ IX đã khẳng định chiến lược:
"Đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng cao rõ rệt đời sống vật chất,
văn hoá, tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng để đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở
thành một nước công nghiệp. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công
nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị
thế của đất nước trên trường quốc tế được nâng cao" (Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Cộng sản Việt Nam 2003). Trong chiến lược đó, mục tiêu phát triển của Việt
Nam là: "Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực
hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường"; "Phát triển KT-XH gắn chặt
với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hoà giữa môi trường nhân tạo
với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học".
Trên cơ sở nền tảng là mục tiêu phát triển KT-XH tổng quát của Đảng, hội
đồng PTBV quốc gia đã đề ra những mục tiêu cơ bản cho PTBV của Việt Nam.
Mục tiêu tổng quát của PTBV: đạt được sự đầy đủ về vật chất, sự giàu có về
tinh thần và văn hóa, sự bình đẳng của các công dân và sự đồng thuận của xã hội, sự
hài hòa giữa con người và tự nhiên; phát triển phải kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài
hoà được ba mặt là phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường.
Mục tiêu phát triển bền vững về kinh tế: đạt được sự tăng trưởng ổn định với
cơ cấu kinh tế hợp lý, đáp ứng được yêu cầu nâng cao đời sống của nhân dân, tránh
được sự suy thoái hoặc đình trệ trong tương lai, tránh để lại gánh nặng nợ nần lớn
cho các thế hệ mai sau.
Mục tiêu phát triển bền vững về xã hội: đạt được kết quả cao trong việc thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm chế độ dinh dưỡng và chất lượng chăm
72
sóc sức khoẻ nhân dân ngày càng được nâng cao, mọi người đều có cơ hội được học
hành và có việc làm, giảm tình trạng đói nghèo và hạn chế khoảng cách giàu nghèo
giữa các tầng lớp và nhóm xã hội, giảm các tệ nạn xã hội, nâng cao mức độ công
bằng về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các thành viên và giữa các thế hệ trong một xã
hội, duy trì và phát huy được tính đa dạng và bản sắc văn hoá dân tộc, không ngừng
nâng cao trình độ văn minh về đời sống vật chất và tinh thần.
Mục tiêu của phát triển bền vững về môi trường: khai thác hợp lý, sử dụng
tiết kiệm và có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên; phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý và
kiểm soát có hiệu quả ô nhiễm môi trường, bảo vệ tốt môi trường sống; bảo vệ được
các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, khu dự trữ sinh quyển và bảo tồn đa
dạng sinh học; khắc phục suy thoái và cải thiện chất lượng môi trường (Bộ Kế
hoạch và Đầu tư 2004, tr.21).
3.2. Những nguyên tắc cơ bản đối với phát triển bền vững ở Việt Nam
Để đạt được mục tiêu nêu trên, trong quá trình phát triển cần thực hiện những
nguyên tắc chính sau đây:
Thứ nhất, con người là trung tâm của PTBV. PTBV phải đáp ứng ngày càng
đầy đủ hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân, xây dựng đất
nước giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Đây là nguyên tắc quán
triệt nhất quán trong mọi giai đoạn phát triển của đất nước.
Thứ hai, trong giai đoạn phát triển sắp tới phải luôn coi phát triển kinh tế là
nhiệm vụ trung tâm, bảo đảm an ninh lương thực, năng lượng để phát triển bền
vững, bảo đảm vệ sinh và an toàn thực phẩm cho nhân dân; kết hợp chặt chẽ, hợp lý
và hài hòa với phát triển xã hội; khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài
nguyên thiên nhiên trong giới hạn cho phép về mặt sinh thái và bảo vệ môi trường
lâu bền. Từng bước thực hiện nguyên tắc "mọi mặt: kinh tế, xã hội và môi trường
đều cùng có lợi".
Thứ ba, quá trình phát triển không thể tách rời bảo vệ và cải thiện chất lượng
môi trường. Tích cực và chủ động phòng ngừa, ngăn chặn những tác động xấu đối
với môi trường do hoạt động của con người gây ra. Cần áp dụng rộng rãi nguyên tắc
"Người gây thiệt hại đối với tài nguyên và môi trường thì phải bồi hoàn". Cần xây
73
dựng hệ thống pháp luật đồng bộ và có hiệu lực về công tác bảo vệ môi trường; chủ
động gắn kết và có chế tài bắt buộc lồng ghép yêu cầu bảo vệ môi trường trong việc
lập quy hoạch, kế hoạch, chương trình và dự án phát triển KT-XH, coi yêu cầu về
bảo vệ môi trường là một tiêu chí quan trọng trong đánh giá PTBV.
Thứ tư, quá trình phát triển phải bảo đảm đáp ứng một cách công bằng nhu
cầu của thế hệ hiện tại và không gây trở ngại tới cuộc sống của các thế hệ tương lai.
Tạo lập điều kiện để mọi người và mọi cộng đồng trong xã hội có cơ hội bình đẳng
để phát triển, được tiếp cận tới những nguồn lực chung và được phân phối công
bằng những lợi ích công cộng, tạo ra những nền tảng vật chất, tri thức và văn hoá
tốt đẹp cho những thế hệ mai sau, sử dụng tiết kiệm những tài nguyên không thể tái
tạo lại được, gìn giữ và cải thiện môi trường sống, phát triển hệ thống sản xuất sạch
và thân thiện với môi trường; xây dựng lối sống lành mạnh, hài hoà, gần gũi và yêu
quý thiên nhiên.
Thứ năm, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực cho công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, thúc đẩy phát triển nhanh, mạnh và bền vững đất nước. Công
nghệ hiện đại, sạch và thân thiện với môi trường cần được ưu tiên sử dụng rộng rãi
trong các ngành sản xuất, trước mắt cần được đẩy mạnh sử dụng ở những ngành và
lĩnh vực sản xuất có tác dụng lan truyền mạnh, có khả năng thúc đẩy sự phát triển
của nhiều ngành và lĩnh vực sản xuất khác.
Thứ sáu, PTBV là sự nghiệp của toàn Đảng, các cấp chính quyền, các bộ,
ngành và địa phương; của các cơ quan, doanh nghiệp, đoàn thể xã hội, các cộng
đồng dân cư và mọi người dân. Phải huy động tối đa sự tham gia của mọi người có
liên quan trong việc lựa chọn các quyết định về phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ
môi trường ở địa phương và trên quy mô cả nước. Bảo đảm cho nhân dân có khả
năng tiếp cận thông tin và nâng cao vai trò của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt của
phụ nữ, thanh niên, đồng bào các dân tộc ít người trong việc đóng góp vào quá trình
ra quyết định về các dự án đầu tư phát triển lớn, lâu dài của đất nước.
Thứ bảy, gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế để PTBV đất nước. Phát triển các quan hệ song phương và đa
phương, thực hiện các cam kết quốc tế và khu vực; tiếp thu có chọn lọc những tiến
74
bộ khoa học công nghệ, tăng cường hợp tác quốc tế để phát triển bền vững. Chú
trọng phát huy lợi thế, nâng cao chất lượng, hiệu quả, năng lực cạnh tranh. Chủ
động phòng ngừa, ngăn chặn những tác động xấu đối với môi trường do quá trình
toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế gây ra.
Thứ tám, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ
môi trường với bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội (Bộ Kế hoạch
và Đầu tư 2004, tr.23,24).
II. GIẢI PHÁP XUẤT KHẨU BỀN VỮNG MẶT HÀNG DA GIẦY
VIỆT NAM
1. Giải pháp đảm bảo tăng trƣởng xuất khẩu da giầy cao và ổn định
1.1. Đảm bảo đầy đủ, kịp thời nguyên, phụ liệu
Ðể khắc phục tình trạng hầu hết nguyên phụ liệu sản xuất phải nhập khẩu,
ngành cần phải chú trọng phát triển sản xuất nguyên liệu trong nước để chủ động
trong cân đối vật tư, đảm bảo tiến độ giao hàng và hiệu quả sản xuất qua đó tăng lợi
nhuận. Trước hết chỉ nên tập trung vào một vài loại nguyên liệu chủ yếu mà ngành
sử dụng như da và giả da, cao su thay vì đầu tư sản xuất tràn lan tất cả các nguyên
phụ liệu dẫn tới không khai thác hết năng lực sản xuất và bị lỗ.
Đối với nguyên liệu da: tập trung mở rộng các đàn trâu bò, đàn lợn, dê; dần
dần phát triển thêm các loài khác như cá sấu, trăn, đà điểu, vừa cung cấp thịt, vừa
cung cấp các loại da sang trọng và đắt tiền làm nguyên liệu cho ngành. Đặc biệt cần
khuyến khích mô hình chăn nuôi trang trại với quy mô lớn (như hỗ trợ tín dụng, kỹ
thuật giết mổ, phương thức bảo quản…), cải tạo giống đàn gia súc, tạo ra những con
giống lai to hơn để tăng diện tích bề mặt da. Tuyên truyền, khuyến khích người
chăn nuôi xác định được rằng lấy da là một trong hai mục tiêu chính của chăn nuôi
và giết mổ gia súc; đồng thời sắp xếp lại việc mổ gia súc vừa đảm bảo vệ sinh thực
phẩm, vệ sinh môi trường, vừa tận thu nguồn da.
Đối với nguyên liệu cao su: tăng cường đầu tư cho các cơ sở sản xuất cao su
trong hoặc ngoài nhà máy giầy, tạo điều kiện cho việc sản xuất các loại đế cao su tự
nhiên và cao su tổng hợp có chất lượng cao.
75
Đối với các nguyên phụ liệu khác: các nguyên liệu khác đặc biệt là nguyên
liệu mũ giầy (giả da PVC, giả da PU… ) đòi hỏi vốn đầu tư lớn, thu hồi vốn chậm,
rủi ro nhiều nên Chính phủ cần có những cơ chế hỗ trợ về lãi suất vốn vay, mặt
bằng, thuế ưu đãi để thu hút các nhà đầu tư. Không nên đồng nhất việc sản xuất
nguyên liệu trong nước với việc thực hiện toàn bộ các công đoạn xử lý nguyên liệu
thô cho tới sản phẩm hoàn chỉnh, có thể chúng ta chỉ tiến hành thực hiện một số
công đoạn trung gian nếu thấy có lợi hơn.
Ngoài ra, cần thiết lập các nhà xưởng kim khí nhỏ, độc lập hoặc các xưởng
tại các nhà máy cơ khí chuyên ngành, nhà máy nhựa nhiệt cứng, nhà máy nhựa
nhiệt dẻo để chế tạo các khuôn mẫu phụ tùng, phụ liệu kim loại và phi kim cho sản
xuất giầy dép. Nếu ngành cơ khí nước ta có khả năng sản xuất một số sản phẩm thử
nghiệm thì doanh nghiệp sẽ vừa tiết kiệm được chi phí đầu tư, vừa có khả năng thực
hiện được các sáng kiến cải tiến công nghệ sản xuất.
Trong thời gian tới, cần thiết để các doanh nghiệp đầu tư hình thành các khu
trung tâm giao dịch nguyên phụ liệu bảo thuế, phục vụ sản xuất da giầy tại Hà Nội,
Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh. Có thể cho các khu trung tâm này được miễn
thuế thu nhập trong thời gian 5 năm, hỗ trợ đơn giản hóa các thủ tục hải quan. Tuy
nhiên, trước mắt, trong năm 2010, ngành xác định vẫn phải nhập khẩu nguyên phụ
liệu từ nước ngoài về phục vụ cho sản xuất, nhằm đáp ứng kịp thời các nhu cầu tiêu
thụ, đảm bảo giao hàng đúng thời hạn.
1.2. Tăng cường đầu tư cho hoạt động thiết kế mẫu, đa dạng hóa sản
phẩm xuất khẩu
Hoạt động nghiên cứu, phát triển, thiết kế mẫu, đa dạng hóa sản phẩm đòi
hỏi khả năng tài chính, công nghệ và trình độ chuyên sâu rất cao nhưng lại tạo ra
được nhiều giá trị gia tăng. Từ trước đến nay, các khâu nói trên đều do các công ty
đa quốc gia và các nước công nghiệp da giầy phát triển thực hiện. Trong điều kiện
hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam còn hạn chế về tài chính, hoạt động nghiên
cứu khoa học và công nghệ, cán bộ chuyên nghiệp… Tuy nhiên, trước mắt các
doanh nghiệp cần có sự hỗ trợ của Nhà nước thông qua hình thức ưu đãi về vốn vay,
76
hay đầu tư nước ngoài… xâm nhập vào một số lĩnh vực gắn liền với đặc thù và Việt
Nam có thế mạnh như công nghệ thuộc da, làm đế giầy.
Hiện tại, do phần lớn các sản phẩm xuất khẩu là hàng gia công làm theo mẫu
đặt hàng nên các doanh nghiệp giầy dép Việt Nam chưa phải lo trực tiếp về vấn đề
tìm hiểu và thiết kế mẫu mốt. Về lâu dài, muốn tự chủ sản xuất và thiết lập thương
hiệu riêng cho sản phẩm thì cần hỗ trợ cho việc phát triển các trung tâm mẫu mốt.
Tiếp tục hỗ trợ Trung tâm Mẫu và Đào tạo - Viện nghiên cứu Da giầy và Viện mẫu
thời trang Việt Nam (FADIN) trong việc tổ chức khoá đào tạo nâng cao năng lực
thiết kế tạo dáng thời trang sản phẩm giầy dép cho các doanh nghiệp, các tổ chức
ngành da giầy, các làng nghề.
Các doanh nghiệp cần chủ động tham gia các hội chợ, triển lãm quốc tế để có
thêm nhiều cơ hội nắm bắt được những xu hướng thời trang trên thế giới, mặc dù
việc làm này có thể khá tốn kém và chưa đem lại lợi ích trực tiếp. Việc xây dựng
thương hiệu cho sản phẩm là cần thiết. Ðây là một công việc phải tiến hành liên tục
hàng chục năm, chi phí lớn, có nhiều rủi ro, đòi hỏi chúng ta phải cân nhắc kỹ lưỡng
theo nguồn lực của mình.
Hiện nay, giầy thể thao vẫn chiếm hơn 50% trong cơ cấu các sản phẩm da
giầy, ngành da giầy Việt Nam cần chú trọng sản xuất sản phẩm đa dạng, phù hợp
với thu nhập và điều kiện sống, làm việc của nhiều tầng lớp dân cư như các loại
giầy vải, giầy dép phụ nữ, trẻ em, dép đi trong nhà và các sản phẩm giầy dép bảo hộ.
Thông qua đó có thể mở rộng thị trường tiêu thụ, tận dụng công suất máy móc, góp
phần giảm giá thành sản phẩm và tăng thu nhập, tạo việc làm cho người lao động.
1.3. Đẩy mạnh công tác xúc tiến thị trường và quảng bá sản phẩm
Khi chuyển sang phương thức tự sản xuất tự lo tiêu thụ, công tác thị trường
là quan trọng nhất, bao gồm nhiều kỹ thuật phức tạp đòi hỏi nhiều chi phí.
Một vấn đề không thể xem nhẹ là phải xây dựng được một hệ thống thông tin
thị trường có khả năng cung cấp nhanh chóng và chính xác các thông tin cần thiết
cho doanh nghiệp như các thông tin về số lượng, chất lượng, dự báo nhu cầu, khí
hậu, chủ trương chính sách của Việt Nam và nước bạn hàng trong ngành da giầy…
Ngoài việc cung cấp các thông tin về thị trường thế giới cho các doanh nghiệp Việt
77
Nam cũng cần thiết phải giới thiệu, quảng bá khả năng sản xuất giầy dép của cả
nước, cả ngành, của từng trung tâm lớn để tạo nên một hình ảnh đồng bộ đủ lớn và
hấp dẫn với khách hàng.
Bên cạnh các nỗ lực của doanh nghiệp, cần chú trọng nhiều hơn đến công tác
xúc tiến thương mại ở cấp độ quốc gia, ngành sản xuất, vùng sản xuất. Chính phủ
cần có các quỹ khuyến khích công tác này trên các thị trường chủ yếu của ngành.
Nếu công tác này thực hiện tốt thì công tác tiếp thị của doanh nghiệp sẽ thuận lợi rất
nhiều.
Các cơ quan nghiên cứu của Chính phủ, các tổ chức xúc tiến thương mại, mà
cụ thể là Cục xúc tiến Thương mại, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
và Hiệp hội Da - Giầy cần phải cung cấp kịp thời các dự báo về xu hướng tiêu dùng,
tình hình thị trường để các doanh nghiệp có thể lập và điều chỉnh sản xuất, kinh
doanh linh hoạt theo các thay đổi của môi trường kinh doanh. Việc phổ biến, tư vấn
về các chính sách, tập quán thương mại, lộ trình hội nhập quốc tế của quốc gia cũng
là một đòi hỏi cấp thiết của doanh nghiệp hiện nay.
2. Giải pháp giải quyết hài hòa giữa tăng trƣởng xuất khẩu và giải
quyết các vấn đề xã hội
2.1. Nâng cao năng lực con người
Vấn đề đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý, văn phòng cũng như
đội ngũ công nhân lành nghề trong ngành da giầy cần được quan tâm một cách đúng
mức.
Đối với đội ngũ quản lý, các doanh nghiệp cần phối hợp với cơ quan Nhà
nước, hiệp hội, trường đại học để củng cố nội dung và hình thức đào tạo đội ngũ cán
bộ. Cụ thể, các doanh nghiệp tiến hành cử các chuyên gia, cán bộ tham gia giảng
dậy các chuyên đề thông qua các hình thức như: báo cáo chuyên đề, seminar, hội
thảo, tọa đàm… nhằm tạo điều kiện cho cán bộ hiện tại tiếp thu, cập nhật tình hình
mới. Kết hợp với hiệp hội tổ chức đào tạo theo định kỳ 6–12 tháng/1 lần cho đội
ngũ nhân viên kỹ thuật làm nhiệm vụ kiểm tra chất lượng hàng hóa xuất khẩu và
các cán bộ làm công tác xuất nhập khẩu để họ có cơ hội nâng cao nghiệp vụ và trình
độ ngoại ngữ, am hiểu luật pháp; tổ chức các chuyến tham qua trao đổi kinh nghiệm
78
và nắm bắt thị trường và công nghệ mới. Bên cạnh đó, chủ động kết hợp chặt chẽ
với các trường để tạo điều kiện cho sinh viên tiếp cận thực tế bằng cách tăng thời
lượng thực tập về các nghiệp vụ nghiên cứu thị trường, ký kết hợp đồng, thanh toán
quốc tế, thuế, hải quan, vận tải bảo hiểm, triển lãm quảng cáo… Khuyến khích sinh
viên ở lại làm việc sau khi thực tập bằng nhiều chế độ đãi ngộ như môi trường làm
việc, phương tiện đi lại, thu nhập và thưởng…
Đối với công nhân, các doanh nghiệp phải tiến hành các biện pháp tuyển
dụng và đào tạo một cách có hệ thống để thu hút và giữ chân lao động sau đào tạo.
Cụ thể, doanh nghiệp nên liên kết, đầu tư trang thiết bị cho các đơn vị đào tạo tại
các trường trung cấp kỹ thuật tại địa phương có nguồn lao động dồi dào để họ tự
tuyển, sau đó tài trợ kinh phí dạy nghề cho những lao động đã tuyển được. Các
doanh nghiệp da giầy Việt Nam hầu hết là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, vì thế có
thể tiến tới thành lập trường, trung tâm đào tạo tại hiệp hội để đảm bảo hiệu quả
kinh tế, đảm bảo tính sát thực, gần gũi với thực tế của hoạt động đào tạo.
2.2. Cải thiện điều kiện làm việc, vệ sinh an toàn lao động cùng các chế
độ hỗ trợ khác
Đầu tư mới hoặc cải tạo các hệ thống hút nóng trong các phân xưởng, hệ
thống hút bụi tại chỗ, thay thế máy móc thiết bị cũ bằng các thiết bị công nghệ hiện
đại có hệ số an toàn lao động cao hơn, ít gây ô nhiễm. Ví dụ, bằng cách tưởng như
rất đơn giản Công ty Giày Ngọc Hà đã tận dụng một chiếc máy bơm cũ sửa lại phục
vụ cho hệ thống làm mát phun nước từ trên mái nhà xuống. Toàn bộ hệ thống này
chỉ phải đầu tư 500.000 đồng mà đã giúp cho nhiệt độ trong xưởng giảm được 3 đến
4 độ (Nguyễn Đức Minh 2007).
Trong các doanh nghiệp cần có phòng ban an toàn vệ sinh lao động riêng
hoặc cán bộ chuyên trách, xây dựng đủ phòng y tế và bổ sung đủ số lượng, y sĩ, bác
sĩ, phương tiện sơ cứu. Việc cấp trang thiết bị bảo hộ lao động và các phương tiện
bảo hộ lao động khác cho nữ cần được chú ý để phù hợp với người sử dụng. Tuyên
truyền nâng cao ý thức sử dụng các phương tiện bảo hộ lao động trong khi làm việc,
tăng cường đội ngũ giám sát việc thực hiện vệ sinh an toàn lao động, có hình thức
phạt nếu người lao động vi phạm.
79
Các loại hoá chất của các doanh nghiệp cần được xếp thành kho riêng biệt,
bổ sung thêm giá đựng hàng, bục kê hàng theo quy định về bảo quản hoá chất, có
danh mục thống kê, hoá chất có dán nhãn bằng tiếng Việt.
Nghiên cứu ban hành các quy chế, chính sách với các doanh nghiệp sử dụng
lao động nữ, cho phép các doanh nghiệp có thể được để lại từ 20–25% thuế thu
nhập doanh nghiệp dùng làm quỹ chăm sóc sức khỏe, cải thiện môi trường làm việc,
khen thưởng hoặc để đào tạo nghề mới cho công nhân khi thay đổi công nghệ sản
xuất.
Ngoài việc thực hiện các chính sách đối với người lao động của Nhà nước,
các doanh nghiệp nên thực hiện những ưu đãi khác như hỗ trợ suất ăn trưa, hỗ trợ
công nhân đi làm xa bằng cách xây dựng các khu nhà có giá ưu đãi dành cho công
nhân, cung cấp phương tiện sinh hoạt cơ bản như quạt mát vào mùa hè, nước nóng
vào mùa đông…
Có chính sách hỗ trợ cho người lao động nghèo, có hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn, đối tượng con em thương binh liệt sỹ thông qua việc trao sổ tiết kiệm, đóng
góp xây dựng nhà tình nghĩa…
3. Giải pháp đảm bảo hài hòa giữa tăng trƣởng xuất khẩu và giải
quyết các vấn đề môi trƣờng
3.1. Nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm trong công tác bảo vệ môi
trường
Tiếp tục tổ chức các lớp huấn luyện, nâng cao nhận thức đối với doanh
nghiệp về trách nhiệm của họ đối với môi trường.
Khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp xây dựng và thực hiện chính sách
môi trường của mình, công bố các cam kết và tình hình thực hiện các cam kết về
bảo vệ môi trường của doanh nghiệp cho dân cư sống trên địa bàn biết. Phát hiện
những sáng kiến, mô hình điển hình trong việc thực hiện tốt các quy định pháp luật
về bảo vệ môi trường để phổ biến rộng rãi cho các doanh nghiệp khác áp dụng.
Tổ chức công khai các thông tin về ô nhiễm công nghiệp và tình hình tuân
thủ pháp luật về BVMT của doanh nghiệp trong nước đối với các đối tượng có liên
80
quan, bao gồm người dân, các tổ chức xã hội, người tiêu dùng, nhà đầu tư để gây
sức ép với doanh nghiệp nhằm thực hiện biện pháp BVMT.
Xây dựng cơ chế giám sát của người dân đối với doanh nghiệp trong việc
thực thi các cam kết môi trường và duy trì thường xuyên các biện pháp giảm thiểu ô
nhiễm; hình thành kênh thông tin giữa người dân và nhà chức trách địa phương để
kịp thời thông báo về các trường hợp vi phạm luật lệ về môi trường ví dụ như thông
qua các hòm thư, tổng đài điện thoại…
3.2. Nâng cao năng lực khoa học – công nghệ hiện đại
Phát triển chiều sâu phải được coi là hướng đi chủ đạo trong các doanh
nghiệp da giầy Việt Nam bởi khi ưu thế về giá nhân công rẻ đang mất dần thì việc
nâng cao trình độ công nghệ là một trong những yếu tố cơ bản để phát triển bền
vững ngành da giầy xuất khẩu ngoài việc nâng cao năng lực lao động như đã phân
tích ở phần 2.
Trên cơ sở phát huy tối đa nội lực, tranh thủ sự hợp tác của nước ngoài nhằm
tạo điều kiện đưa nhanh các dự án kỹ thuật khả thi vào hoạt động. Việc đầu tư đổi
mới công nghệ phải nhằm đồng bộ hóa dây chuyền sản xuất, nâng cao chất lượng và
năng suất lao động. Với năng lực thực tế của các doanh nghiệp trong ngành hiện
nay, việc đầu tư không nhất thiết phải lựa chọn thiết bị hiện đại nhất, mà tùy thuộc
vào khả năng tài chính, quy mô sản xuất… để lựa chọn công nghệ phù hợp, nhưng
phải chú trọng trang thiết bị tiến bộ nhất có thể có ở những khâu sản xuất then chốt
quyết định chất lượng sản phẩm ví dụ như khâu phun đúc tạo đế giầy, khâu đánh
mặt cho các loại da…
Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng cần ưu tiên đầu tư đổi mới công nghệ sản
xuất các mặt hàng giầy dép trọng điểm của mình, tránh đầu tư dàn trải, không mang
lại hiệu quả. Ưu tiên đầu tư ứng dụng các công nghệ giảm phát thải, tiết kiệm vật tư,
hạn chế gây ô nhiễm.
Công nghiệp thuộc da cần nhiều vốn để đầu tư chiều sâu, hơn nữa chi phí bắt
buộc cho việc xử lý môi trường lớn nên hầu như các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa
có đủ khả năng tài chính để đầu tư đồng bộ hệ thống xử lý chất thải vì vậy Nhà
81
nước cần khuyến khích, hỗ trợ các dự án đầu tư và chuyển giao công nghệ thuộc da
hiện đại của nước ngoài vào nước ta.
Để thực hiện có hiệu quả đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ, các doanh
nghiệp cần nâng cao chất lượng lập và thẩm định dự án đầu tư, đa dạng hóa nguồn
vốn, nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ.
3.3. Hỗ trợ doanh nghiệp áp dụng các quy trình và công nghệ sản xuất
thân thiện môi trường
Nhà nước, hiệp hội cần tăng cường hơn nữa hoạt động hỗ trợ đối với các
doanh nghiệp vừa và nhỏ, nơi đang gặp nhiều khó khăn trong công tác bảo vệ môi
trường.
Trước hết là hỗ trợ về thông tin, hỗ trợ kỹ thuật chẳng hạn như hỗ trợ xây
dựng sản phẩm, bao bì thân thiện với môi trường… Tăng cường sự hợp tác giữa các
doanh nghiệp vừa và nhỏ với các doanh nghiệp khác có kinh nghiệm trong việc áp
dụng các quy định và tiêu chuẩn môi trường.
Hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc từng bước chuyển sang sản xuất sạch,
tiến tới phổ cập tiêu chuẩn ISO 14000 ở tất cả các doanh nghiệp, có được các chứng
chỉ môi trường đối với hàng da giầy xuất khẩu như việc thành lập các trung tâm
kiểm định, tư vấn kỹ thuật, hỗ trợ tài chính để có được chứng nhận môi trường từ
các quỹ như quỹ môi trường, quỹ hỗ trợ xuất khẩu.
Áp dụng các phương pháp sản xuất sạch. Mục tiêu của sản xuất sạch hơn là
tránh ô nhiễm bằng cách sử dụng tài nguyên, nguyên vật liệu và năng lượng một
cách có hiệu quả nhất. Đặc biệt đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ việc đẩy mạnh
áp dụng công nghệ sạch hơn là hết sức cần thiết.
Các giải pháp về sản xuất sạch hơn có thể là:
- Tránh các rò rỉ, rơi vãi trong quá trình vận chuyển và sản xuất.
- Ðảm bảo các điều kiện sản xuất tối ưu từ quan điểm chất lượng sản phẩm,
sản lượng, tiêu thụ tài nguyên và lượng chất thải tạo ra.
- Hạn chế, tránh sử dụng các nguyên vật liệu độc hại mà thay bằng các
nguyên liệu thay thế khác.
82
- Cải tiến thiết bị để cải thiện quá trình sản xuất. Thay đổi công nghệ độc hại
gây ô nhiễm bằng các công nghệ sạch ít gây ô nhiễm hơn hoặc không gây ô nhiễm.
- Thu hồi và tái sử dụng một số chất thải rắn đặc thù trong các cơ sở sản xuất
như vải, da, cao su…
Sản xuất sạch được coi là công cụ chủ yếu trong chiến lược phát triển mà
vừa đảm bảo hiệu quả kinh tế vừa bảo vệ môi trường.
3.4. Tăng cường quản lý, kiểm soát và xử lý ô nhiễm
Trong ngành thuộc da, thông qua việc quản lý chặt chẽ các kế hoạch xây
dựng, quy hoạch các khu công nghiệp chuyên ngành, các cơ quan quản lý môi
trường cần kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ hệ thống xử lý nước thải và chất rắn, kiến
nghị di dời toàn bộ các doanh nghiệp, cơ sở thuộc da gây ô nhiễm môi trường ra
khỏi khu vực dân cư. Việc đầu tư hạ tầng cơ sở của các khu công nghiệp này có thể
được thực hiện bằng vốn vay trả chậm của Nhà nước.
Thông qua việc thẩm định, đánh giá các tác động môi trường của các doanh
nghiệp, cơ sở sản xuất để phân loại mức độ gây ô nhiễm của từng doanh nghiệp, cơ
sở từ đó có biện pháp xử lý thích hợp. Đối với những cơ sở gây ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng cần nghiêm khắc xử lý, phạt vi phạm, thậm chí buộc ngừng sản xuất.
Đối với những cơ sở gây ô nhiễm ở mức độ thấp hơn có thể tìm hướng khắc phục
bằng việc cải tiến công nghệ, xây dựng, lắp đặt hệ thống xử lý chất thải, thu lệ phí
với các hoạt động gây ô nhiễm.
III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM XUẤT KHẨU BỀN VỮNG MẶT
HÀNG DA GIẦY VIỆT NAM
1. Đối với Nhà nƣớc
1.1. Về định hướng phát triển
Để tăng trưởng xuất khẩu nhanh và bền vững, Chính phủ cần tiếp tục hoàn
thiện một số chính sách vĩ mô nhằm tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng, thúc
đẩy cạnh tranh và tạo lòng tin để các doanh nghiệp và nhân dân bỏ vốn đầu tư phát
triển sản xuất.
83
Chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế từ chiều rộng sang phát triển theo
chiều sâu trên cơ sở sử dụng có hiệu quả các thành tựu khoa học và công nghệ tiên
tiến để tăng năng suất lao động, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ và
bảo vệ môi trường.
Hình thành đồng bộ các loại thị trường, các công cụ điều tiết thị trường như
cơ chế giá, thuế, tiền lương, tỷ giá… để hạn chế được sự phân biệt đối xử trong
thương mại quốc tế, phát huy tốt hơn các nguồn lực cho phát triển xuất khẩu và đảm
bảo thu nhập cao, ổn định cho người lao động.
1.2. Về hệ thống chính sách, pháp luật
Nhà nước cần hoàn thiện hệ thống luật pháp, từ đó tạo môi trường pháp lý
đồng bộ làm căn cứ để các doanh nghiệp xây dựng chiến lược.
Cần triển khai có hiệu quả luật cạnh tranh, xử lý nghiêm các trường hợp liên
quan đến cạnh tranh, tạo dựng môi trường cạnh tranh bình đẳng cho mọi thành phần
kinh tế tham gia hoạt động.
Vì giầy dép là hàng thời trang nên nếu thời gian làm thủ tục hải quan quá lâu
đối với cả nguyên liệu nhập khẩu lẫn sản phẩm xuất khẩu thì có thể không giao kịp
hàng, hàng bị lỗi mốt dẫn đến khó tiêu thụ trên thị trường. Vì vậy, trong thời gian
tới, Nhà nước cần tiếp tục cải cách thủ tục hải quan, tạo điều kiện thông quan hàng
hóa nhanh chóng, tiết kiệm các chi phí bến bãi, chi phí bôi trơn…
Thực hiện triệt để công tác phòng chống buôn lậu qua biên giới, bảo vệ và
phát triển thị trường nội địa khi mà hàng nhập lậu chiếm lĩnh thị trường như hiện
nay làm ảnh hưởng tới tình hình tiêu thụ và sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
Nhà nước cần xây dựng tiêu chuẩn môi trường quốc gia phù hợp với tiêu
chuẩn quốc tế. Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn quốc gia có ý nghĩa hết sức quan
trọng trong việc thúc đẩy hoạt động của các doanh nghiệp đáp ứng các yêu cầu môi
trường trong nước cũng như nâng cao sức cạnh tranh, uy tín của doanh nghiệp khi
tham gia hội nhập quốc tế. Một hệ thống tiêu chuẩn môi trường được xây dựng trên
cơ sở khoa học, tuân thủ các chuẩn mực quốc tế, tính đến điều kiện đặc thù của các
doanh nghiệp trong nước sẽ là công cụ hữu hiệu để quản lý môi trường, khuyến
khích các doanh nghiệp áp dụng để hoạt động kinh doanh có hiệu quả và bảo vệ môi
84
trường. Có thể kể đến các tiêu chuẩn như: tiêu chuẩn về quy trình sản xuất thân
thiện môi trường, các quy định về bao bì, đóng gói, nhãn môi trường và nhãn sinh
thái…
1.3. Về kết cấu hạ tầng
Phát triển kết cấu hạ tầng là điều kiện tiên quyết để phát triển kinh tế bền
vững nói chung và xuất khẩu bền vững nói riêng. Cơ sở hạ tầng yếu kém thì khả
năng thu hút đầu tư sẽ bị hạn chế, làm tăng chi phí kinh doanh của doanh nghiệp,
kết quả là làm giảm năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Do đó, một trong những
ưu tiên trong giai đoạn tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững là Nhà nước cần có
chính sách thu hút đầu tư trong và ngoài nước để cải thiện hạ tầng cơ sở một cách
đồng bộ về giao thông, cảng, kho tàng, văn phòng…
1.4. Về vốn đầu tư
Để đạt được mục tiêu xuất khẩu đạt 16.5 tỷ USD vào năm 2020, ngành da
giầy Việt Nam cần được Nhà nước hỗ trợ một nguồn vốn lớn trong các lĩnh vực như.
Đối với các dự án phát triển nguyên phụ liệu: Chính phủ cần cho phép ngành
sử dụng vốn ưu đãi đầu tư cho các dự án này với lãi suất thấp. Riêng ngành thuộc da
là ngành cần đầu tư lớn, có chu kỳ sản xuất dài đòi hỏi vốn lưu động lớn để mua
nguyên liệu da, hóa chất phụ gia, Chính phủ cần hỗ trợ bằng cách cho vay trong thời
gian dài, thường xuyên với lãi suất thấp.
Đối với các dự án sản xuất giầy dép: Chính phủ cần hỗ trợ ngành các kinh
phí liên quan đến xây dựng hạ tầng cơ sở cho các cụm công nghiệp chuyên ngành;
đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp chuyển đổi từ phương thức gia công xuất
khẩu sang tự sản xuất và xuất khẩu trực tiếp.
Ngoài ra, cũng cần hỗ trợ ngành để thành lập một trung tâm nghiên cứu mẫu,
khuyến khích đầu tư nước ngoài vào các lĩnh vực sản xuất nguyên, phụ liệu thay thế
nhập khẩu, hoặc các sản phẩm có hàm lượng kỹ thuật cao, có khả năng đem lại lợi
nhuận lớn hơn.
85
2. Đối với Hiệp hội Da - Giầy Việt Nam
2.1. Về định hướng quy hoạch tổng thể phát triển ngành da giầy theo
hướng bền vững
Hiệp hội cần xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển ngành một cách bền
vững, hợp lý để tận dụng được lợi thế cho ngành nói chung và các doanh nghiệp nói
riêng. Việc đề ra chủ trương, chính sách, định hướng phát triển ngành phải chuyển
từ tư duy và nhận thức ngắn hạn, cục bộ, nhiệm kỳ sang tư duy và nhận thức một
cách tổng thể, dài hạn. Cách nhìn nhận này phải được quán triệt để đưa ra các chính
sách tăng trưởng, mở rộng xuất khẩu; giải quyết các vấn đề xã hội và quản lý môi
trường. Cụ thể:
Cần căn cứ vào phân vùng phát triển kinh tế của Nhà nước để xác định vùng
quy tụ thuộc da, sản xuất giầy. Từ đó lựa chọn địa điểm phù hợp với tính chất công
nghệ, điều kiện môi trường sinh thái, khả năng cung ứng nguyên vật liệu, đào tạo và
sử dụng tay nghề, thuận lợi cho lưu thông hàng hóa…
Quy hoạch tổng thể phát triển ngành còn phải tập trung vào những vấn đề
then chốt của phát triển, xuất khẩu bền vững như: tổng kết quá trình phát triển
ngành trong những năm qua về tất cả các mặt của một sự phát triển bền vững; đưa
ra mục tiêu, định hướng phát triển; các giải pháp tổ chức thực hiện…
2.2. Về việc tăng mối liên kết giữa các doanh nghiệp
Cần phát huy hơn nữa vai trò của hiệp hội trong việc liên kết giữa các doanh
nghiệp sản xuất và xuất khẩu da giầy. Cụ thể là, trong việc trao đổi kinh nghiệm
quản lý, nghiên cứu thị trường, sản xuất, bán hàng, thực hiện các chế độ xã hội, bảo
vệ môi trường… Hiệp hội Da - Giầy Việt Nam cần liên tục cung cấp thông tin
chuyên ngành, hữu ích và cụ thể tới các doanh nghiệp da giầy thông qua xuất bản
sách, báo, tạp chí, đài, truyền hình… Tiến tới tổ chức thành lập dịch vụ cung cấp
thông tin, coi thông tin là hàng hóa và phải trả tiền để có được hàng hóa đó để một
mặt nhằm giảm chi phí thu thập thông tin cho các doanh nghiệp, mặt khác nâng cao
chất lượng thông tin để có thể bán được thông tin đó.
86
Ngoài ra, hiệp hội kết hợp với các doanh nghiệp cũng cần chủ động kiến
nghị thành lập một trung tâm, tổ chức, công ty làm cầu nối gắn kết giữa các doanh
nghiệp da giầy với ngành sản xuất nguyên phụ liệu, vận chuyển, bao tiêu sản
phẩm… thực hiện liên kết dọc trong các doanh nghiệp da giầy để đảm bảo sản xuất,
xuất khẩu hiệu quả.
2.3. Về hoạt động xúc tiến thị trường, quảng bá sản phẩm
Hiện nay, các doanh nghiệp da giầy Việt Nam có rất ít các mối liên hệ trực
tiếp với các thị trường và bạn hàng lớn. Phần lớn các đơn hàng đều được tiếp nhận
thông qua các văn phòng đại diện, công ty thương mại Hồng Kông, Đài Loan, Hàn
Quốc đặt tại Việt Nam. Từng doanh nghiệp lại không thể có đủ khả năng tài chính
và nhân sự để mở chi nhánh hoặc văn phòng đại diện nước ngoài. Để nhanh chóng
thoát khỏi sự lệ thuộc này, Hiệp hội Da - Giầy Việt Nam cần liên kết các doanh
nghiệp sản xuất trong nước để thành lập các công ty thương mại hoặc văn phòng đại
diện chuyên kinh doanh giầy dép đặt trụ sở tại các thị trường lớn như EU, Mỹ, Nhật
Bản. Các công ty này sẽ thực hiện hai chức năng chủ yếu là: tìm kiếm khách hàng,
bán hàng, tham gia hội chợ, triển lãm, nghiên cứu phát triển mẫu mã. Từ đó, giúp
các doanh nghiệp có khả năng cung ứng được nhiều mặt hàng giầy dép khác nhau,
phong phú và đa dạng về kiểu dáng, chất lượng, đồng thời linh hoạt về khung giá,
thu hút khách hàng; và giải quyết được vấn đề bao lâu nay là phụ thuộc quá nhiều
vào khách hàng trung gian.
Hiệp hội Da - Giầy Việt Nam phải có vai trò thực sự trong việc giúp các
doanh nghiệp tăng cường công tác quảng cáo trên thị trường quốc tế thông qua các
mối quan hệ với các nước, các tổ chức quốc tế, đặc biệt là ngành da giầy Châu Á –
Thái Bình Dương. Để tạo điều kiện cho ngành giầy dép Việt Nam theo kịp các nước
trong khu vực và trên thế giới, tạo điều kiện thu hút sự hợp tác quốc tế liên ngành
thì nhất thiết phải chú trọng phát triển hơn nữa các mối quan hệ này. Hiệp hội cần
phải tăng cường quá trình hội nhập và hợp tác quốc tế thông qua các hoạt động phối
hợp tổ chức và tham gia các hội chợ triển lãm quốc tế chuyên ngành, tăng cường
trao đổi thông tin với các hiệp hội da giầy khác như Hiệp hội Da - Giầy Châu Á,
Hiệp hội Công nghiệp Giầy Mỹ, Hiệp hội Da - Giầy Lineappel Italia…
87
3. Đối với các doanh nghiệp trong ngành da giầy Việt Nam
3.1. Về đảm bảo tăng trưởng xuất khẩu da giầy cao và ổn định
Hiện tại, các doanh nghiệp trong ngành da giầy của Việt Nam phần lớn vẫn
là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chủ yếu làm gia công cho các doanh nghiệp nước
ngoài. Do đó, khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài với quy mô lớn
và kinh nghiệm vượt trội là rất khó khăn. Vì thế, để đảm bảo tăng trưởng xuất khẩu
cao và ổn định, các doanh nghiệp cần chú trọng:
Thứ nhất, cần đổi mới quản lý, nâng cao chất lượng sản phẩm. Để thực hiện
được điều này cần phải có sự thay đổi trong nhận thức từ lãnh đạo cho đến người
lao động, coi chất lượng là vấn đề quan trọng mang tính sống còn; tổ chức quản lý
chất lượng chặt chẽ, từ khâu nguyên vật liệu, sản xuất, đóng gói cho đến khi đưa
sản phẩm đến tay người tiêu dùng.
Thứ hai, cần xác định cơ cấu sản phẩm hợp lý phù hợp với nhu cầu thị
trường, thích ứng với điều kiện hiện có của bản thân doanh nghiệp.
Thứ ba, phát triển thị trường hiện tại, đồng thời đa dạng hóa thị trường xuất
khẩu trên cơ sở đảm bảo thị trường trong nước; ngoài ra có thể đẩy mạnh khai thác
thị trường nhỏ, lợi thế sâu (chấp nhận mức giá cao và ưu thích các sản phẩm đặc
thù) để tận dụng tối đa cơ hội của hội nhập kinh tế quốc tế.
3.2. Về đảm bảo các vấn đề xã hội
Ngoài vấn đề đào tạo, nâng cao chất lượng lao động như đã phân tích ở các
phần trên, các doanh nghiệp da giầy hiện nay còn phải đối mặt với nhiều vấn đề
trong công tác đảm bảo an toàn vệ sinh lao động. Vì thế:
Phải có sự cam kết của lãnh đạo nhà máy cải thiện điều kiện làm việc theo
tiêu chuẩn OSHAS 18001, ISO 14001; muốn vậy, trước hết ban lãnh đạo nhà máy
phải có nhận thức đúng đắn ATVSLĐ, về môi trường và tầm quan trọng của chúng
trong sự phát triển của doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp cần làm quen với phương thức quản lý mang tính hệ thống
để đạt được chính sách và mục tiêu của doanh nghiệp đề ra cho bất cứ hoạt động
nào. Làm quen với việc triển khai các hoạt động xây dựng và các hệ thống quản lý
theo các tiêu chuẩn quốc tế ISO 9000 và ISO14000 cũng như OHSAS 18000.
88
Triển khai các hệ thống trên dựa trên những kế hoạch vạch sẵn, thực hiện tốt
công tác trao đổi thông tin; phân định rõ trách nhiệm trong việc thực hiện, giám sát
và kiểm tra vấn đề ATVSLĐ.
Doanh nghiệp phải coi trọng hoạt động đào tạo, nhất là đào tạo chuyên môn
về ATVSLĐ cho từng cấp trong doanh nghiệp theo chu kỳ nhất định.
3.3. Về vấn đề bảo vệ môi trường
Các doanh nghiệp cần tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế về môi trường, trên cơ
sở đó làm tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, tạo thuận lợi cho doanh
nghiệp tiếp nhận các nguồn lực để phát triển và tạo ra uy tín đáng tin cậy đối với
người tiêu dùng bằng việc:
Xây dựng tổ chức quản lý môi trường trong doanh nghiệp. Việc xây dựng
một tổ chức (phòng, ban) quản lý môi trường trong một doanh nghiệp hoạt động
hiệu quả là công cụ cần thiết cho công tác bảo vệ môi trường, thực hiện luật bảo vệ
môi trường. Mục tiêu của phòng nhằm đảm bảo hoạt động của doanh nghiệp đáp
ứng luật, quy định môi trường của Nhà nước. Phòng ban có trách nhiệm định kỳ
thực hiện việc kiểm tra, giám sát chất lượng môi trường trong công ty để từ đó đánh
giá, tham mưu cho các cấp lãnh đạo về các vấn đề môi trường và đưa ra giải pháp
khắc phục.
Chuẩn bị nguồn nhân lực am hiểu về kỹ thuật cũng như các văn bản luật môi
trường, nắm rõ nguyên lý hoạt động của các hệ thống xử lý môi trường, có khả năng
đánh giá tác động môi trường trong suốt quy trình sản xuất để điều hành hoạt động
quản lý môi trường của doanh nghiệp.
Chủ động tiếp cận các thông tin về các quy định và tiêu chuẩn của sản phẩm
xuất khẩu liên quan đến vấn đề môi trường thông qua các phương tiện thông tin đại
chúng, hệ thống truyền thông quốc tế, các tổ chức trong nước và quốc tế, bạn hàng.
89
KẾT LUẬN
Đảm bảo xuất khẩu một mặt hàng thực hiện mục tiêu phát triển bền vững sẽ
có những đóng góp quan trọng trong việc phát triển kinh tế nhanh và bền vững của
cả nước. Xuất khẩu hàng da giầy Việt Nam theo hướng bền vững là một yêu cầu
bức thiết trong giai đoạn hiện nay khi mà năng lực xuất khẩu của ngành da giầy
Việt Nam trên thị trường thế giới vẫn chủ yếu dựa vào ưu thế về nhân công lao
động trong khi khả năng tự thiết kế mẫu mã, đảm bảo nguyên phụ liệu còn thiếu và
yếu, quy mô sản xuất chưa đủ lớn, cùng với các vấn đề ổn định xã hội và bảo vệ
môi trường đã được thực hiện song còn nhiều hạn chế.
Từ việc nghiên cứu đề tài, em xin đưa ra một số kết luận như sau:
Xuất khẩu bền vững là một trong những nội dung của phát triển bền vững.
Xuất khẩu bền vững phải là một quá trình lâu dài và là sự kết hợp hài hòa giữa mục
tiêu tăng trưởng xuất khẩu và các mục tiêu của phát triển bền vững: kinh tế, xã hội,
môi trường. Trong nhiều trường hợp phải chấp nhận sự đánh đổi giữa các mục tiêu
tăng trưởng xuất khẩu, kinh tế, xã hội, môi trường. Tuy nhiên, vấn đề được đặt ra là
cần xây dựng một chiến lược phát triển để cân bằng các mục tiêu xuất khẩu bền
vững trong dài hạn.
Tính bền vững của xuất khẩu da giầy Việt Nam trong giai đoạn 2001-2009
chưa thật rõ nét. Mặc dù xuất khẩu da giầy trong giai đoạn này đã có những đóng
góp đáng kể nhất là việc duy trì được tốc độ tăng trưởng cao, tương đối ổn định, tạo
công ăn việc làm và thu nhập cho người lao động. Tuy nhiên, chất lượng xuất khẩu
thể hiện qua cơ cấu sản phẩm, thị trường, thành phần doanh nghiệp chưa chuyển
dịch vững chắc, đảm bảo ổn định khi thị trường thế giới có nhiều biến động bất
thường; giá trị gia tăng và khả năng tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu còn thấp.
Phát triển xuất khẩu da giầy chưa thật sự tương xứng với việc đảm bảo việc làm và
thu nhập ổn định cho người lao động, vấn đề an toàn vệ sinh lao động và ô nhiễm
môi trường vẫn đang là vấn đề nhức nhối trong ngành.
90
Trên cơ sở phân tích, kết hợp với các thông tin dự báo thị trường thế giới,
định hướng phát triển ngành và các mục tiêu, nguyên tắc cơ bản về phát triển bền
vững của Việt Nam; đề tài đã đề xuất các nhóm giải pháp nhằm xuất khẩu bền vững
mặt hàng da giầy Việt Nam. Các giải pháp đã hướng tới các mặt của xuất khẩu và
phát triển bền vững. Ngoài ra, khóa luận mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị để thực
hiện tốt hơn các giải pháp này. Theo em, quy hoạch phát triển vùng nguyên phụ liệu,
tham gia vào khâu tiêu thụ, đảm bảo các tiêu chuẩn về trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp đối với người lao động, môi trường là những giải pháp quan trọng nhằm
hướng tới xuất khẩu mặt hàng da giầy một cách bền vững.
Trong khuôn khổ của một khóa luận, em đã cố gắng đánh giá xuất khẩu hàng
da giầy Việt Nam theo các tiêu chí của xuất khẩu bền vững và đưa ra một số giải
pháp. Tuy nhiên, một số vấn đề cần được nghiên cứu và phân tích sâu hơn như nội
dung bền vững về xã hội và nội dung bền vững về môi trường... Em rất hi vọng sẽ
có cơ hội để tiếp tục thực hiện những nghiên cứu này trong tương lai.
a
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Quốc Ân 2010, Ngành dệt may dẫn đầu cả nước về kim ngạch xuất
khẩu, Hiệp hội Dệt may Việt Nam, Hà Nội.
2. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam 2003, Văn kiện Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, truy cập
02/03/2010,
<
=222538#7rdai4XMOt79>.
3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư 2004, Định hướng chiến lược phát triển bền vững
ở Việt Nam (Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam), Hà Nội.
4. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc, Cơ quan
Phát triển quốc tế Đan Mạch, Cơ quan Hợp tác phát triển quốc tế Thụy Điển 2006,
Đại cương về phát triển bền vững, Dự án VIE/01/021, Viện nghiên cứu sư phạm,
Hà Nội.
5. Bộ Kế hoạch và Đầu tư 2009, Tác động hội nhập đối với nền kinh tế sau
hai năm Việt Nam gia nhập WTO, Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Chính
phủ, Hà Nội.
6. Bộ Thương mại 2002, Chiến lược xuất nhập khẩu Việt Nam giai đoạn
2001-2010, Website Bộ Công thương Việt Nam, truy cập 07/03/2010,
.
7. Hoàng Văn Châu và Tô Bình Minh 2005, Các điều kiện Thương mại quốc
tế (Incoterms 2000), xuất bản lần thứ 2, Nxb Khoa học và Kỹ Thuật, Thành phố Hồ
Chí Minh.
8. Nguyễn Thế Chinh 2003, Giáo trình Kinh tế và Quản lý môi trường, Nxb
Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
9. Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright 2008, Thay đổi cơ cấu: Giải
pháp kích thích có hiệu quả nhất, truy cập 13/03/2010,
b
<
>.
10. Mạnh Cường 2009, „Giày dép Việt Nam vẫn cặm cụi lấy công làm lãi‟,
Báo công thương điện tử, truy cập 19/02/2010,
<
cong-lam-lai/32/5/26512.star>.
11. David Dapice 2003, Lựa chọn thành công: Bài học từ Đông Á cho Việt
Nam, Chương trình giảng dạy Fulbright, truy cập 13/03/2010,
<
ess_V.pdf>.
12. Dự án hỗ trợ Thương mại đa biên Mutrap 2009, Dự án đổi mới và
thương hiệu: công cụ cạnh tranh thành công trên thị trường toàn cầu cho ngành da
giầy Việt Nam, truy cập 15/03/2010,
<
c903807cc7ea&ID=363>.
13. Hương Giang 2008, „Xuất khẩu da giầy vào EU suy giảm lợi thế giá‟,
Báo điện tử Vietnamnet, truy cập 22/02/2010,
.
14. Hồng Hạnh 2010, „An toàn vệ sinh lao động, quyền và lợi ích chính đáng
của lao động nữ‟, Báo Kinh tế hợp tác Việt Nam, truy cập 23/02/2010,
<
lao-dong-quyen-va-loi-ich-chinh-dang-cua-lao-dong-nu.htm>.
15. Hiệp hội Da - Giầy Việt Nam 2005, Ngành da giầy Việt Nam – Chặng
đường và phát triển, Hà Nội.
16. Hiệp hội Da - Giầy Việt Nam 2006, Xu hướng mậu dịch giầy dép thế giới,
truy cập 22/2/2010,
.
17. Hiệp hội Da - Giầy Việt Nam 2007, Ngành da giầy Việt Nam - kết quả
hoạt động giai đoạn 2002-2007, Hà Nội.
c
18. Hiệp hội Da - Giầy Việt Nam 2008a, Ngành da giầy Việt Nam: Cơ hội và
thách thức trong hội nhập kinh tế quốc tế, Hà Nội.
19. Hiệp hội Da - giầy Việt Nam 2008b, Số liệu nhập khẩu nguyên phụ liệu
da giầy Việt Nam năm 2008 phân theo nước, Hà Nội.
20. Hiệp hội Da - Giầy Việt Nam 2008c, Tổng quan ngành da giầy Việt Nam
năm 2008 và triển vọng năm 2009, Hà Nội.
21. Hiệp hội Da - Giầy Việt Nam 2009a, Năm 2010: ngành da giầy hướng
tới mục tiêu xuất khẩu 6,2 tỷ USD, Hà Nội.
22. Hiệp hội Da - Giầy Việt Nam 2009b, Tổng quan ngành da giầy Việt
Nam năm 2009 và triển vọng năm 2010, Hà Nội.
23. Hiệp hội Da - Giầy Việt Nam 2010, Tình hình xuất khẩu giầy của Trung
Quốc tháng 02/2010, Hà Nội.
24. Hiệp hội Dệt may Việt Nam 2009, Báo cáo ngành hàng dệt may năm
2009 và định hướng phát triển năm 2010, Hà Nội.
25. Thu Hoài 2009, ‘Sản xuất sạch hơn trong ngành thuộc da Việt Nam‟, Tạp
chí Công nghiệp Việt Nam, truy cập 09/03/2010,
<
09/10/22545.ttvn>.
26. Cao Hùng 2009, „Xuất khẩu da giầy Việt Nam, làm gì để tăng sức cạnh
tranh‟, Báo Lao động, truy cập 24/02/2010,
<
tranh/20099/154326.laodong.>.
27. Huệ Hương 2006, „Ngành da giầy Việt Nam làm sao thoát khỏi gia công‟,
Thời báo kinh tế Việt Nam, số 01/03/06, tr.4.
28. Nguyễn Hữu Khải và Bùi Xuân Lưu 2007, Giáo trình Kinh tế ngoại
thương, Nxb Lao động – Xã hội, Hà Nội.
29. Nguyễn Hữu Khải 2008, Năng lực tham gia chuỗi giá trị toàn cầu của
mặt hàng giày dép Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ - Bộ Công Thương,
Hà Nội.
d
30. Diệp Thành Kiệt 2009, „Hai kịch bản cho xuất khẩu da giầy‟, Báo Nhịp
cầu đầu tư, truy cập 14/03/2010,
.
31. Quý Lâm 2009, „Công ty thuộc da gây ô nhiễm nghiêm trọng khu dân
cư‟, Báo Sài Gòn giải phóng, truy cập 11/03/2010,
.
32. Đặng Thị Loan 2005, Giáo trình Kế toán tài chính trong các doanh
nghiệp, Nxb Thống kê, Hà Nội.
33. Nguyễn Đức Minh 2007, „Môi trường lao động ngành da giầy cần được
cải thiện‟, Báo Đầu tư, truy cập 28/02/2010,
.
34. Văn Nam 2008, „Công ty Hào Dương xả thải ra sông Đông Điền‟, Thời
báo Kinh tế Sài Gòn, truy cập 11/03/2010,
.
35. Vũ Thị Ngọc Phùng 2005, Giáo trình Kinh tế phát triển, Nxb Lao động –
Xã hội, Hà Nội.
36. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam 2007, Diễn đàn các chủ
doanh nghiệp quốc tế (IBLF) 2007, Chương trình hành động của ngành Công
nghiệp Da Giầy Việt Nam - Sáng kiến liên kết doanh nghiệp, Hà Nội.
37. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Diễn đàn các chủ doanh
nghiệp quốc tế (IBLF) 2007, Nghiên cứu an toàn vệ sinh lao động trong ngành Da
giầy Việt Nam, Hà Nội.
38. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam 2007, Diễn đàn các chủ
doanh nghiệp quốc tế (IBLF) 2007, Nghiên cứu khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn về
môi trường trong ngành Da giầy Việt Nam, Hà Nội.
39. Thạch Phùng 2007, „Tăng da cho sản xuất da giầy xuất khẩu‟, Thời báo
kinh tế Việt Nam, số 03/02/07.
40. Hồng Quân 2010, „Ngành da giầy: Gượng dậy sau cú đúp‟, Báo Lao
động, truy cập 29/02/2010,
e
<
dup/20101/171569.laodong.>.
41. Hồ Trung Thanh 2009, Xuất khẩu bền vững ở Việt Nam trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế, Khoa kinh tế chính trị - Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
42. Công Thắng 2009, „Sẽ sử dụng trên 1 triệu lao động cho ngành da –
giày’, Báo Lao động, truy cập 19/02/1010,
<
da--giay/20095/137113.laodong.>.
43. Trần Văn Thọ 2006, Biến động kinh tế Đông Á và con đường công
nghiệp hóa, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
44. Trang Thông tin thị trường hàng hóa Việt Nam - Bộ Công Thương 2010,
Quy hoạch phát triển ngành da giầy Việt Nam đến năm 2020, truy cập 06/03/2010,
<
nam.gplist.288.gpopen.176346.gpside.1.gpnewtitle.quy-hoach-phat-trien-nganh-da-
giay-viet-nam-den-nam-2020.asmx>.
45. Võ Thanh Thu 2005, Giáo trình quan hệ kinh tế quốc tế, Nxb Thống kê,
Hà Nội.
46. Tổng cụ Hải Quan Trung Quốc 2010, Thống kê xuất nhập khẩu tháng 2
năm 2010, truy cập 11/03/2010,
.
47. Tổng cục Thống kê Việt Nam 2008, Niên giám thống kê năm 2008, Nxb
Thống kê, Hà Nội.
48. Tổng cục Thống kê Việt Nam 2009, „Thông cáo báo chí về số liệu thống
kê Kinh tế - Xã hội năm 2009‟, website Tổng cục thống kê Việt Nam, truy cập
03/03/2010,
.
49. Trung tâm Thông tin hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ 2007, Những hàng
rào kỹ thuật trong quá trình hội nhập, truy cập 06/03/2010,
<
=7378>.
f
50. Trung tâm Thông tin phát triển nông nghiệp nông thôn (AGROINFO),
Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển nông nghiệp nông thôn 2008, Báo cáo
thường niên ngành hàng cao su Việt Nam 2008 và triển vọng 2009, Hà Nội.
51. Trung tâm Xúc tiến thương mại Đà Nẵng 2009, Ngành da giầy: bài toán
cân đối xuất khẩu và nội địa, truy cập 25/02/2010,
.
52. Thanh Tùng 2009, „Ngành da giầy Hải Phòng: Cần thêm ít nhất 63 ngàn
lao động‟, Báo Công an nhân dân, truy cập 05/03/2010,
.
53. Hà Tuấn 2008, „Xuất khẩu da giầy có thể vượt kế hoạch năm‟, Thời báo
kinh tế Việt Nam, số 04/10/08, tr.3.
54. Vũ Hữu Tửu 2007, Giáo trình Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
55. Viện nghiên cứu Da giầy 2008, dự thảo Chiến lược xuất khẩu ngành da
giầy cho giai đoạn 2010-2015, truy cập 04/02/2010,
.
56. Hạ Vinh 2009, „Ngành da giầy: bỏ 5 điểm yếu để bứt phá‟, Báo mới, truy
cập 10/03/2010,
<
pha/47/3786999.epi>.
57. Nguyễn Quang Vinh 2006, „Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp‟,
Trang Thông tin điện tử về An toàn vệ sinh lao động – Cục An toàn vệ sinh lao động,
truy cập 12/03/2010,
<
EB0243EE9B/View/Thong_tin_chuyen_de/Trach_nhiem_xa_hoi_cua_DN/?print=1
276804374>.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5034_8576.pdf