Quy tắc thương mại và định chế toàn cầu" là bộ môn không thể thiếu trong kinh doanh quốc tế. Việc tìm hiểu các định chế quốc tế bằng cách thông qua tìm hiểu về : Diễn đàn, tổ chức, liên minh . của một khu vực, của một cộng đồng . là rất quan trọng đối với các nhà kinh doanh quốc tế. Chính vì thế thông qua việc nghiên cứu về:" Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương - APEC" sẽ giúp chúng ta có cái nhìn sâu rộng hơn về diễn đàn lớn bậc nhất ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương này. Vai trò, đóng góp của APEC đối với khu vực Châu Á và toàn thế giời, cũng như tìm hiểu mối quan hệ giữa Việt Nam và APEC. Sau đây xin được trích dẫn mục lục của bài tiểu luận:MỤC LỤCLời mở đầu .
I- Tổng quan về diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương .
1- Giới thiệu: .
1.1- Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương là gì ?
1.2- Sứ mệnh
2- Lịch sử hình thành và phát triển
2.1- Bối cảnh và sự ra đời của APEC .
2.1.1- Sáng kiến của Ô-xtrây-lia về việc thành lập APEC .
2.1.2- Những nhân tố dẫn đến sự ra đời của APEC .
2.2- Quá trình phát triển
2.3- Điều kiện kết nạp thành viên
II- Cách thức hoạt động của APEC.
1- Mục tiêu và nguyên tắc hoạt động của APEC
1.1- Mục tiêu .
1.2- Nguyên tắc hoạt động .
1.3- Phạm vi hoạt động
2- Cơ cấu tổ chức
2.1- Cấp chính sách
2.2- Cấp làm việc
2.3- Ban thư kí .
2.4- Các quan sát viên tham gia
2.5- Tài chính .
2.6- Sơ lược về các kì hội nghị APEC .
III- APEC và thế giới .
1- Vị thế của APEC trên thế giới .
2- Vai trò của APEC đối với thế giới
IV- Mối quan hệ giữa Việt Nam và APEC .
1- Quá trình Việt Nam gia nhập APEC
1.1- Tiền đề để Việt Nam gia nhập APEC .
1.2- Quá trình Việt Nam gia nhập APEC .
1.3- Nhiệm vụ Việt Nam cần thực hiện khi gia nhập APEC .
2- Thuận lợi và khó khăn của Việt Nam khi là thành viên của APEC
3- Vai trò của APEC đối với Việt Nam
4- Đóng góp của Việt Nam vào sự phát triển chung của APEC .
Kết luận
Mọi góp ý xin gửi về mail: DOTHANHQUANG1691@gmail.com . Xin chân thành cảm ơn ^^
45 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3019 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương - APEC, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ành viên phải đồng loạt tiến hành triển khai, thực hiện liên tục và hoàn thành tiến trình tự do hoá, thuận lợi hoá thương mại và đầu tư theo thời gian biểu thích hợp.- Nguyên tắc hợp tác:
APEC chủ trương đẩy mạnh hợp tác kinh tế và kỹ thuật để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cân đối, ổn định, bền vững của các quốc gia trong Diễn đàn.
1.3- Phạm vi hoạt động của APEC
Các hoạt động của APEC dựa trên ba trụ cột chính là:- Tự do hoá thương mại và đầu tư:
Tự do hoá thương mại và đầu tư tập trung vào việc mở cửa thị trường, cắt
giảm và dần dần dẫn đến loại bỏ hoàn toàn các rào cản thuế và phi thuế đối với thương mại và đầu tư. Các biện pháp tự do hoá đã dẫn tới việc cắt giảm khá lớn các loại thuế suất. Mức thuế suất trung bình của các nền kinh tế thành viên APEC đã giảm đáng kể, từ 16,6% năm 1988 xuống còn 6,4% năm 2004. Tất cả các nền kinh tế phát triển của APEC hiện tại đều có mức thuế suất trung bình thấp hơn 5%.
- Thuận lợi hoá kinh doanh:
Tạo thuận lợi cho doanh nghiệp tập trung vào việc giảm chi phí giao dịch.APEC phấn đấu mục tiêu cắt giảm 5% chi phí giao dịch vào năm 2006 (dựa trên các số liệu của năm 2001). Tạo thuận lợi cho doanh nghiệp cũng tập trung vào việc cải thiện việc tiếp cận với các thông tin thương mại, tối đa hoá lợi ích thông tin và công nghệ thông tin đồng thời hài hoà các chiến lược và chính sách doanh nghiệp nhằm tạo điều kiện tăng trưởng. Tạo thuận lợi cho doanh nghiệp giúp các nhà xuất nhập khẩu ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương tiến hành kinh doanh một cách hiệu quả hơn. Chi phí sản xuất giảm, dẫn tới tăng trao đổi thương mại, hàng hoá và dịch vụ rẻ hơn và cơ hội việc làm ngày càng nhiều.
- Hợp tác kinh tế và kỹ thuật (ECOTECH):
Hợp tác kinh tế và kỹ thuật (ECOTECH) bao gồm việc đào tạo và các hoạt động hợp tác khác nhằm xây dựng năng lực cho các nền kinh tế thành viên APEC ở các mức độ khác nhau, tạo điều kiện để các thành viên tận dụng thương mại toàn cầu và nền kinh tế mới.
- Song song với ba trụ cột đó là các chương trình hành động tập thể (CAP) và chương trình hành động quốc gia (IAP) của từng thành viên.
Kết quả hoạt động trên ba lĩnh vực này giúp các nền kinh tế thành viên APEC củng cố nền kinh tế của mình thông qua việc chia sẻ ý kiến và thúc đẩy hợp tác trong khu vực nhằm đạt được hiệu quả và tăng trưởng.
Từ sau sự kiện 11/9/2001, các vấn đề an ninh và chống khủng bố đã được đưa vào chương trình nghị sự APEC, hình thành một mảng hoạt động tương đều phong phú và đều đặn
2- Cơ cấu tổ chức.
Sơ đồ tổ chức của APEC
Dựa vào sơ đồ tổ chức của APEC ta có thể khái quát được bộ máy tổ chức như sau:
2.1- Cấp chính sách
Chính sách phát triển:
Định hướng chính sách của APEC được đưa ra bởi 21 lãnh đạo kinh tế thành viên. Chiến lược này được đề xuất bởi các Hội đồng tư vấn kinh tế APEC và được xem xét bởi các lãnh đạo kinh tế của APEC. Những hội nghị này được tổ chức thường niên nhằm hoàn thiện cơ cấu chính sách và pháp luật của APEC.
• Hội nghị nhà Lãnh đạo các nền kinh tế APEC:
Hội nghị là nơi gặp nhau giữa các nhà Lãnh đạo của mỗi nền kinh tế thành viên và được tổ chức hàng năm do mỗi thành viên của APEC luân phiên đăng cai tổ chức. Các tuyên bố từ những hội nghị này sẽ góp phần hoàn thiện kế hoạch chính sách cho APEC.
• Hội nghị Bộ trưởng APEC:
Được tổ chức hàng năm trước Hội nghị nhà lãnh đạo các nền kinh tế. Các Bộ trưởng kinh tế -thương mại xem xét những hoạt động trong năm và đưa ra những đề nghị cho các lãnh đạo kinh tế xem xét.
• Hội nghị Bộ trưởng ngành:
Được tổ chức hàng năm tập trung vào nhiều lĩnh vực như: giáo dục, năng lượng, môi trường và sự phát triển bền vững, tài chính, hợp tác khoa học kỹ thuật khu vực, phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, công nghiệp truyền thông và công nghệ thông tin, du lịch, thương mại, vận tải và vấn đề bình đẳng giới. Những đề xuất từ những Hội nghị này đều được các lãnh đạo kinh tế APEC xem xét.
• Hội đồng tư vấn kinh tế APEC ( ABAC ):
Hội nghị đề xuất cho các Lãnh đạo kinh tế APEC những vấn đề của APEC và những dự đoán về tình hình kinh tế thế giới qua một bản báo cáo chính thức. Ngoài ra, trong các báo cáo này còn có những đề xuất để cải thiện tình hình thương mại và đầu tư khu vực. Hội đồng tư vấn họp 4 năm một lần và sẽ cử đại diện để tham gia Hội nghị Bộ trưởng.
2.2- Cấp làm việc.
• Hội nghị các quan chức cao cấp (SOM) .
Hội nghị này được tổ chức thường kỳ giữa hai Hội nghị Bộ trưởng hàng năm, chuẩn bị và đưa ra các khuyến nghị trình Hội nghị Bộ trưởng về các vấn đề tổ chức chương trình hoạt động của APEC, chương trình hành động tiến tới tự do hóa thương mại và đầu tư, kế hoạch hành động của các nền kinh tế thành viên và các chương trình hợp tác kinh tế khoa học – công nghệ của APEC, xem xét và điều phối ngân sách và chương trình công tác của các Ủy ban, các nhóm công tác và Nhóm đặc trách.Trước Hội nghị quan chức cao cấp sẽ có các cuộc họp của các Nhóm công tác liên quan gồm đại diện cho các thành viên APEC để chuẩn bị những nội dung cần thiết báo cáo lên Hội nghị các quan chức cao cấp. Hội nghị các quan chức cao cấp có trách nhiệm thúc đẩy tiến trình APEC phù hợp với các quyết định của Hội nghị các nhà lãnh đạo kinh tế, Hội nghị Bộ trưởng và các chương trình hành động thông qua các hội nghị này.
• Ủy ban thương mại và đầu tư.(CTI)
Ủy ban thương mại và đầu tư (CTI) được thành lập năm 1993 trên cơ sở tuyên bố về “ Khuôn khổ về hợp tác và đầu tư ” của Hội nghị Bộ trưởng. Ủy ban thương mại và đầu tư có nhiệm vụ thúc đẩy hợp tác kinh tế về tự do hóa thương mại và tạo môi trường đầu tư cởi mở hơn giữa các nền kinh tế thành viên. Ủy ban thương mại và đầu tư soạn thảo báo cáo hàng năm trình Hội nghị Bộ trưởng về các vấn đề có liên quan đến thương mại và đầu tư trong khu vực đồng thời chỉ đạo các tiểu ban kỹ thuật và nhóm có chuyên gia trong việc giải quyết các vấn đề cụ thể. Uỷ ban thương mại đầu tư là một trong số những cơ quan chủ chốt của APEC giúp thực hiện kế hoạch hành động Osaka và kế hoạch hành động Manila (MAPA) trong một số lĩnh vực như thuế quan và các biện pháp phi thuế quan, dịch vụ, giảm bớt các qy định, hòa giải tranh chấp, thực hiện có kết quả vòng đàm phán Uruquay, Đầu tư, Thủ tục Hải quan, Tiêu chuẩn và Hợp chuẩn, Đi lại của doanh nhân, Sở hữu trí tuệ, chính sách cạnh tranh, Chi tiêu Chính phủ, Quy định nguồn gốc xuất xứ. Để có thể thực hiện tốt vai trò của mình trong 15 lĩnh vực hợp tác quan trọng trên của APEC, hàng năm Uỷ ban thương mại và đầu tư nhóm họp 3 lần và đây thực sự đã trở thành Diễn đàn kinh tế hiệu quả đối với các nước thành viên để trao đổi các vấn đề về thương mại và chính sách.•Ủy ban Kinh tế (EC)
Các Ủy ban Kinh tế (EC) có một nhiệm vụ để thúc đẩy cải cách cơ cấu trong APEC bằng cách thực hiện phân tích chính sách và định hướng công việc hành động. EC Các tiến bộ này nhiệm vụ phối hợp chặt chẽ với các diễn đàn APEC liên quan khác.
• Ủy ban SOM về hợp tác kinh tế - kỹ thuật (ESC)
Được thành lập năm 1998 nhằm hỗ trợ Hội nghị quan chức cao cấp (SOM) trong các hoạt động hỗ trợ hợp tác kinh tế và kỹ thuật (ECOTECH) và triển khai các sáng kiến hợp tác trong lĩnh vực này của các nền kinh tế thành viên APEC. Mới đầu đây chi là tiểu ban về ECOTECH, năm 2002 đổi thành Ủy ban SOM về hợp tác kinh tế và kỹ thuật ESC. Bằng việc hợp tác và xác định những lĩnh vực ưu tiên trong khuôn khổ hợp tác ECOTECH, ủy ban SOM về hợp tác kinh tế kỹ thuật cùng với các Diễn đàn khác trong APEC giữ vai trò quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu tăng trưởng và phát triển bền vững APEC.
• Ủy ban ngân sách và quản lý (BMC)
Được thành lập năm 1993 , có chức năng tư vấn cho các quan chức cao cấp về những vấn đề ngân quỹ, quản lý và điều hành. Ủy ban này được trao quyền đánh giá cơ cấu chung của ngân sách hàng năm và xem xét các ngân sách hoạt động do các nhóm công tác , các Ủy ban đưa ra, và ngân sách hành chính do Ban thư ký đưa ra. Ủy ban có quyền đánh giá về hoạt động của các nhóm công tác và khuyến nghị với các quan chức cao cấp APEC về các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả, xem xét các khoản chi tiêu của nhóm công tác và dự án của các nhóm đặc trách. Uỷ ban quản lý họp mỗi năm hai lần vào cuối tháng ba và tháng bảy. Ủy ban Ngân Sách và quản lý có chức năng giải quyết các vấn đề liên quan đến ngân sách chung của APEC hay phí đóng góp của mỗi nền kinh tế thành viên.
• Các nhóm công tác :
Các nhóm công tác có chức năng thực hiện nhiệm vụ do các Nhà lãnh đạo, Bộ trưởng và quan chức cao nhất giao cho. Cho tới nay, APEC đã lập ra 11 nhóm công tác phụ trách các lĩnh vực sau: Hợp tác kĩ thuật nông nghiệp, Năng lượng, Nghề cá, Phát triển nguồn nhân lực, khoa học và công nghệ, Bảo vệ tài nguyên biển, Doanh nghiệp vừa và nhỏ, Thông tin và viễn thông, Du lịch, Xúc tiến thương mại,Vận tải. Phần lớn hoạt động của Nhóm là khảo sát tiềm năng phát triển và thúc đẩy sự tăng trưởng trong các lĩnh vực do từng nhóm phụ trách. Thông qua các hoạt động này, các thành viên APEC xây dựng những mối liên hệ thực sự giữa các đại diện chính giới, giới doanh nghiệp và học giả.
Hoạt động của các Ủy ban chuyên đề, các Nhóm đặc trách của SOM và các nhóm công tác là nền tảng chủ yếu của diễn đàn APEC. Thực tế, đây là những diễn đàn nhỏ để các thành viên thảo luận, tư vấn chính sách và hợp tác trên các lĩnh vực cụ thể. Những nghiên cứu của các Nhóm đặc trách, các chương trình hợp tác do các Nhóm công tác soạn thảo là cơ sở chủ yếu để Hội nghị Bộ trưởng đưa ra các quyết định liên quan đến phương hướng hoạt động của APEC.
• Các Nhóm đặc trách của SOM
Bên cạnh các Nhóm công tác, Hội nghị Quan chức Cao cấp (SOM) đã lập ra 3 Nhóm đặc trách nhằm xác định các vấn đề và đưa ra các khuyến nghị về những lĩnh vực quan trọng cần xem xét trong khuôn khổ hợp tác của APEC. Hiện đang có 3 Nhóm đặc trách của SOM là Nhóm đặc trách về Mạng các điểm liên hệ về giới (Gender Focal-points Network), Nhóm chỉ đạo về Thương mại điện tử (Electronic Commerce Steering Group) và Nhóm đặc trách về chống khủng bố (Counter-Terrosim Task Force)
*Nhóm đặc trách về Mạng các điểm liên hệ về giới được thành lập từ năm 2003 nhằm tiếp tục các chương trình về hội nhập thế giới và thúc đẩy sự tham gia của nữ giới vào các hoạt động Thương mại trong khu vực APEC. Tiền thân của Nhóm đặc trách này là Nhóm tư vấn Ad Hoc của SOM về Hội nhập thế giới (the SOM Ad Hoc Advisory Group on Gender Integration-AGGI) tồn tại từ năm 1999 đến năm 2002.
_ Nhóm đặc trách về thương mại điện tử được thành lập từ tháng 2 năm 1999 với vai trò phối hợp và thúc đẩy các hoạt động hợp tác thương mại của APEC thông qua hệ thống các quy định, luật lệ, chính sách minh bạch và nhất quán. Những nỗ lực của Nhóm đặc trách về thương mại điện tử trong thời gian qua đã góp phần nâng cao lòng tin của các nền kinh tế thành viên vào lĩnh vực thương mại điện tử và qua đó khuyến khích việc sử dụng công nghệ thông tin và thương mại điện tử như Internet để tiến hành trao đổi thương mại, làm đơn giản hóa cách thức trao đổi giữa các nền kinh tế._Nhóm đặc trách về Chống khủng bố được thành lập tại Hội nghị các Quan chức cao cấp tháng 2 năm 2003, nhằm triển khai Tuyên bố của các nhà lãnh đạo về Chống khủng bố và Thúc đẩy tăng trưởng được thông qua tháng 10 năm 2002 tại Mexico. Nhóm đặc trách về Chống khủng bố có chức năng giúp đỡ nền kinh tế các nước thành viên trong việc xác định và đánh giá những biện pháp cần thiết để chống khủng bố, phối hợp các chương trình hỗ trợ về kĩ thuật và năng lực và thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa APEC với các tổ chức quốc tế và khu vực trong các vấn đề liên quan đến chống khủng bố. Các lĩnh vực ưu tiên trong chương trình hoạt động của nhóm đặc trách về chống khủng bố là: Sáng kiến về bảo đảm an ninh Thương mại trong khu vực APEC (the Secure Trade in the APEC Region-STAR); ngăn cấm việc hỗ trợ tài chính cho các hoạt động khủng bố, tăng cường an ninh mạng, sáng kiến an ninh năng lượng và bảo vệ sức khỏe cộng đồng.
2.3- Ban thư kí
Hội nghị Bộ trưởng APEC lần thứ tư ở Bangkok năm 1992 nhận thấy cần phải có một cơ chế giúp việc hịêu quả để hỗ trợ và phối hợp các hoạt động trong APEC nhằm tăng cường vai trò và hiệu quả của APEC trong xúc tiến hợp tác kinh tế khu vực, đã nhất trí thành lập Ban thư kí APEC, đặt trụ sở tại Singapore và lập một quỹ chung của APEC.
Ban thư kí APEC đứng đầu là một Giám đốc điều hành, do nước giữ ghế Chủ tịch APEC cử với thời hạn một năm. Một phó giám đốc điều hành do nước sẽ giữ chức Chủ tịch vào năm tiếp theo cử. Đây là các quan chức của Chính phủ mang hàm Đại sứ. Ngoài ra, Ban thư kí APEC hiện có khoảng 20 Giám đốc chương trình do các nền kinh tế thành viên tiến cử, 25 nhân viên chuyên nghiệp (cũng được biệt phái từ các nước thành viên) và các nhân viên phục vụ.
Ban thư kí làm việc dưới sự chỉ đạo của Hội nghị Quan chức cao cấp và có quan hệ thông tin trực tiếp thường xuyên với các thành viên, các Ủy ban, các Nhóm công tác và các nhóm đặc trách của APEC. Mới đây, Ban thư kí APEC quyết định nâng cấp trang Mạng (website) của mình nhằm giới thiệu về APEC, giúp cho việc tiếp cận các thông tin về hoạt động của APEC được dễ dàng hơn.
Ban thư kí APEC giữ vai trò quan trọng trong tiến trình phát triển của APEC, có chức năng tư vấn, hỗ trợ kĩ thuật, phối hợp các hoạt động của APEC, cũng như quản lí thông tin và các dịch vụ thông tin tuyên truyền. Từ năm 1993, do vấn đề tài chính và ngân sách trở nên phức tạp, chức năng điều hành tài chính được chuyển giao cho Ủy ban Ngân sách và Quản lý. Ban thư kí APEC đồng thời là cơ quan chủ chốt trong việc quản lý các dự án của APEC. Hiện Ban thư kí APEC đang hỗ trợ các nền kinh tế thành viên và các diễn đàn trong khuôn khổ APEC quản lý hơn 230 dự án lấy kinh phí từ quỹ của APEC.
2.4- Các quan sát viên.
Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương (APEC) có ba quan sát viên chính thức: Ban Thư ký ASEAN , Hội đồng Hợp tác Kinh tế Thái Bình Dương (PECC) và Diễn đàn Đảo Thái Bình Dương (PIF), và không có quy chế quan sát viên cho một nước hay vùng lãnh thổ riêng biệt. Quan sát viên có thể tham dự các cuộc họp từ cấp Bộ trưởng trở xuống và tham gia vào các hoạt động của APEC. Các nhóm quan sát cung cấp các quan hệ đối tác, chuyên môn và hiểu biết mà hỗ trợ APEC để đạt được mục tiêu của mình và thực hiện các sáng kiến của mình. Các nước không phải thành viên APEC có thể được tham gia các hoạt động với tư cách khách mời tại các Nhóm công tác của APEC.
2.5- Tài chính.
Hội nghị Bộ trưởng APEC lần thứ tư năm 1992 quyết định thành lập Ban Thư Kí APEC và quỹ tài chính chung do các thành viên đóng góp. Mức đóng góp căn cứ trên GNP của từng nền kinh tế thành viên và bình quân GNP/người trong 3 năm gần nhất. Hiện trong Apec có 4 mức phí đóng góp: đứng đầu là Mỹ và Nhật Bản, đóng góp tới 18% tổng ngân quỹ, tiếp đến là Singapore, Hongkong, New Zealand đóng 2.75%, xếp hàng thứ 3 là Trung Quốc, Australia, Canada, Mexico, Hàn Quốc, Đài Loan, Liên bang Nga, đóng góp mức thấp nhất là Chile, Malaysia, Thái Lan, Philippin, Brunei, Indonesia, Pa-pua Niu-ghinê, Peru, Việt Nam, mỗi thành viên đóng góp 1.5% ngân quỹ. Cho đến nay, quỹ chung của APEC gồm 3 khoản chính: *Chi phí hành chính cho hoạt động của APEC, cụ thể là chi phí cho hoạt động của Ban thư kí.
*Chi phí cho các dự án của APEC
*Quỹ đặc biệt để thúc đẩy Tự do hóa và Thuận lợi hoá Thương mại và đầu tư trong APEC, quỹ này do Nhật Bản đóng góp (năm 1995), Nhật Bản cam kết sẽ đóng góp 10 tỷ yên để hỗ trợ cho việc thúc đẩy Tự do hóa và Thuận lợi hoá Thương mại và Đầu tư.
2.6- Sơ lược về các kì hội nghị.
Hàng năm một trong 21 thành viên APEC sẽ đăng cai các hội nghị lớn của APEC và làm Chủ tịch APEC theo qui tắc 1 thành viên ASEAN rồi đến 2 thành viên ngoài ASEAN. Thành viên đăng cai APEC sẽ chịu trách nhiệm làm Chủ tịch Hội nghị các nhà Lãnh đạo Kinh tế (Economic Leaders’ Meeting-AELM), Hội nghị liên Bộ trưởng Ngoại giao – Kinh tế (AMM), và một số Hội nghị Bộ trưởng chuyên ngành, các Hội nghị Quan chức Cấp cao (SOM), Hội nghị của các Uỷ ban và một số nhóm công tác, đồng thời đảm nhận vị trí Giám đốc điều hành Ban Thư ký APEC.
III- APEC và thế giới:
1-Vị thế của APEC trên thế giới:
Từ khi được thành lập vào năm 1989, khu vực APEC luôn là khu vực phát triển kinh tế năng động nhất trên thế giới. Trong 10 năm đầu tiên, nền kinh tế APEC đã chiếm gần 70% tỷ lệ tăng trưởng toàn thế giới và luôn đi trước phần còn lại của thế giới bất chấp cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính Châu Á năm 1997.So với toàn thế giới, APEC có vị trí rất quan trọng, với 21 nền kinh tế thành viên có khoảng 2,5 tỷ dân; diện tích chiếm 52%, dân số chiếm 41,2%, mật độ dân số bằng 89,8%, GDP chiếm 57,7%, GDP bình quân đầu người bằng 140,1%, xuất khẩu chiếm 50,1%, xuất khẩu bình quân đầu người bằng 121,7%. Đóng góp khoảng 19.000 tỷ USD GDP mỗi năm, chiếm hơn 50% thương mại thế giới, APEC bao gồm cả hai khu vực kinh tế mạnh và năng động nhất thế giới: khu vực Bắc Mỹ (Mỹ, Canada và Mêhicô) và khu vực Đông Á.
Trong số 14 nền kinh tế lớn nhất thế giới có GDP lớn hơn 500 tỷ USD (Mỹ, Nhật Bản, Đức, Anh, Pháp, Trung Quốc, Italia, Canada, Tây Ban Nha, Mexico, Hàn Quốc, Ấn Độ, Australia, Hà Lan), thì có 7 là thành viên của APEC, trong đó có 2 nền kinh tế lớn nhất thế giới là Mỹ, Nhật Bản. Đặc biệt, Trung Quốc với tốc độ tăng cao, tăng liên tục, tăng trong thời gian dài kỷ lục chẳng mấy năm sẽ vượt Pháp, Anh, Đức và theo nhiều dự đoán đến năm 2020 sẽ vượt qua Nhật Bản và đến năm 2040 sẽ vượt cả Mỹ để đứng đầu thế giới.
Vị trí của 6 nước đứng đầu thế giới
Trong 6 nước đứng đầu thế giới thì Apec đã có tới 3 nước giữ vị trí đầu tiên. Đặc biệt sự vươn lên mạnh mẽ của Trung Quốc, hiện đang giữ vị trí thứ 2 sau Mỹ.
APEC là một tổ chức hợp tác kinh tế liên châu lục có thành phần đa dạng, bao gồm các nước phát triển như Mỹ, Nhật Bản, Canađa, New Zealand, Australia; các nền kinh tế công nghiệp hoá mới như Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore, các nền kinh tế đang phát triển với các tiềm năng lớn như các nưóc ASEAN, Trung Quốc... Về thực lực kinh tế, APEC có 2 trong số 3 trung tâm kinh tế hùng mạnh của thế giới là Mỹ và Nhật Bản; có các nền kinh tế ở Đông Á và Đông Nam Á phát triển năng động nhất thế giới.
"Với tổng sản phẩm quốc dân (GNP) chiếm khoảng 1/2 tổng sản phẩm toàn thế giới, tổng kim ngạch mậu dịch hàng hoá chiếm tới 46% tổng kim ngạch mậu dịch toàn cầu... APEC là một đối tác quan trọng trong hệ thống kinh tế - thương mại thế giới"
Một số nước thành viên của APEC giữ vai trò trụ cột trong các tổ chức quốc tế như Liên hợp quốc, Quỹ tiền tệ quốc tế - IMF. Bốn trong số tám thành viên của tổ chức các nước công nghiệp phát triển G8 thuộc APEC. Thực tế cho thấy, APEC có vị trí và vai trò rất quan trọng trong đời sống kinh tế, chính trị và an ninh thế giới.
2- Vai trò của APEC đối với nền kinh tế thế giới:
APEC là một diễn đàn kinh tế mở, nhằm xúc tiến các biện pháp kinh tế, thúc đẩy thương mại và đầu tư giữa các nến kinh tế thành viên trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện trong khi thực sự mở cửa đối với tất cả các nước và khu vực khác. APEC đóng vai trò là diễn đàn đối thoại, trao đổi, hợp tác, hỗ trợ trên cơ sở tự nguyện. Các cam kết không mang tính ràng buộc, do đó không gây sức ép mà mang tích khuyến khích, thúc đẩy. Các diễn đàn trong APEC cũng là cơ hội để các nước đang phát triển kêu gọi sự trợ giúp và linh hoạt trong quá trình đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới. Đồng thời, quá trình hợp tác APEC cũng góp phần đáng kể nâng cao năng lực của nền kinh tế và đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế năng động của khu vực.
Hợp tác APEC, với ba trụ cột là tự do hóa, thuận lợi hóa thương mại - đầu tư và hợp tác kinh tế kỹ thuật (ECOTEC), đã giành được nhiều thành tựu to lớn. Ngày nay APEC đã trở thành một diễn đàn liên khu vực quan trọng, kết nối nhiều nền kinh tế năng động và đóng góp cho sự phồn vinh và phát triển bền vững trong khu vực cũng như trên thế giới. Mặc dù phải ứng phó với những tác động sâu sắc của toàn cầu hóa, phải đối mặt với hai cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997-1998 và cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính 2008, APEC vẫn đứng vững và thể hiện rõ sức sống của một khu vực phát triển năng động nhất trên thế giới. Hơn 60% GDP, 50% thương mại và 70% tăng trưởng toàn cầu là có sự đóng góp của hai mươi mốt thành viên APEC. Không những thế, APEC tiếp tục được đánh giá là nơi có nhiều nền kinh tế năng động nhất trên thế giới, có khả năng phục hồi mạnh mẽ nhất sau khủng hoảng, và được kỳ vọng sẽ là động lực của kinh tế toàn cầu trong thời gian tới.
Trong bối cảnh chủ nghĩa khủng bố và sự gia tăng của các mối đe dọa an ninh phi truyền thống đặt ra những thách thức mới cho khu vực, sự quan tâm của APEC không chỉ giới hạn trong hợp tác kinh tế mà đã mở rộng sang các vấn đề an ninh và chính trị của khu vực. Lãnh đạo APEC đã ra hai tuyên bố riêng về chống khủng bố năm 2001, 2002 và một tuyên bố về biến đổi khí hậu năm 2007. Cho tới nay APEC đã thông qua hàng loạt sáng kiến trong các lĩnh vực an ninh hàng không, đường sắt, hàng hải, an toàn thực phẩm, phòng chống dịch bệnh, thiên tai…Là một cơ chế đối thoại mở dựa trên các nguyên tắc đồng thuận, tự nguyện, không ràng buộc và linh hoạt, APEC đã chứng tỏ mình là một cơ chế hợp tác quan trọng ở Châu Á – Thái Bình Dương, bổ sung một cách hiệu quả cho các cơ chế hợp tác khu vực khác như ASEAN, ASEAN+3 (10 nước ASEAN và ba nước đối tác là Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc), và Cấp cao Đông Á (EAS). Các nước ASEAN đóng vai trò quan trọng trong hợp tác APEC, đồng thời tìm thấy ở APEC một diễn đàn hiệu quả để khẳng định vị thế của mình và tích cực đóng góp cho sự phát triển chung của Châu Á – Thái Bình Dương.
Không chỉ dừng lại ở những thành tựu khu vực, APEC hơn hai mươi năm qua còn có nhiều đóng góp mang ý nghĩa toàn cầu. Ngay từ Hội nghị Bộ trưởng đầu tiên tại Canbera, APEC đã kêu gọi hoàn thành Vòng đàm phán Uruguay về thương mại đa phương; và đã góp phần tích cực vào việc kết thúc thành công vòng đàm phán này, đặt nền móng cho sự ra đời của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Việc APEC đạt được thỏa thuận về xóa bỏ thuế quan đối với các sản phẩm công nghệ thông tin chính là cơ sở để WTO đạt được Thỏa thuận về Công nghệ Thông tin (ITA).
Trong nhiều năm qua, APEC đã góp tiếng nói quan trọng vào quá trình củng cố hệ thống thương mại đa phương trong khuôn khổ WTO và kiên trì thúc đẩy Vòng đàm phán Doha. Các nhà lãnh đạo APEC đã hơn một lần tuyên bố khẳng định sự nhất trí của APEC trong việc ủng hộ Vòng đàm phán Doha, trong đó có tuyên bố riêng về Nghị trình Phát triển Doha được thông qua ở Hội nghị Cấp cao APEC 2006 tại Hà Nội.
Ngoài ra APEC còn đóng vai trò duy trì sự tăng trưởng và phát triển của khu vực, phát huy ảnh hưởng tích cực đối với khu vực và thế giới, khuyến khích các luồng hàng hóa, dịch vụ, công nghệ và vốn, tăng cường hệ thống thương mại đa phương, hạn chế dần những hàng rào cản trở việc trao đổi hàng hóa, dịch vụ và đầu tư.
III- Quan hệ giữa Việt Nam và APEC.
1- Quá trình Việt Nam gia nhập APEC.
1.1- Những tiền đề để Việt Nam gia nhập APEC.
Qua 10 năm thực hiện đường lối đổi mới (1986 - 1995), nước ta đã đạt được những kết quả to lớn về nhiều mặt, đã đẩy nhanh được nhịp độ phát triển kinh tế. Những năm 1991 - 1995, tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng bình quân hàng năm hơn 7%. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Đời sống vật chất của phần lớn nhân dân đã được cải thiện một cách đáng kể. Lòng lin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước được củng cố. Giữ vững được ổn định chính trị, củng cố quốc phòng, an ninh. Thực hiện có kết quả một số đổi mới quan trọng về hệ thống chính trị.
_Về đối ngoại: "Tính đến tháng 11-1996, nước ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 163 nước lớn nhỏ. Lần đầu tiên nước ta có quan hệ chính thức với tất cả các nước lớn, kể cả 5 nước Uỷ viên Thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc... Hàng trăm điều ước được ký kết tạo hành lang pháp lý cho việc mở rộng quan hệ hợp tác trên nhiều lĩnh vực khác nhau". Từ chỗ thị trường bị thu hẹp, ta đã chủ động tạo dựng được quan hệ kinh tế thương mại với hơn 170 quốc gia và vùng lãnh thổ. Nếu năm 1986 kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt 789 triệu USD, thì năm 1998 đạt 9.361 triệu USD. Về đầu tư nước ngoài, từ chỗ hầu như số không đến năm 1998 số dự án cấp giấy phép lên tới 2.588, với tổng số vốn đăng ký 35.302 triệu USD. Đại hội VIII đánh giá: "Thành tựu trên lĩnh vực đối ngoại là một nhân tố quan trọng góp phần giữ vững hoà bình, phá thế bị bao vây, cấm vận, cải thiện và nâng cao vị thế nước ta trên thế giới…
Thành tựu sự nghiệp đổi mới đã tạo nên thế và lực mới cho đất nước trong quan hệ khu vực và quốc tế. Hoạt động đối ngoại của Việt Nam với các nước châu Á - Thái Bình Dương đã đạt được nhiều thành công lớn: tháng 11-1991, quan hệ Việt - Trung chính thức được bình thường hoá; ngày 17- 1995 bình thường hoá quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ; ngày 28-7-1995 Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN. Đến giữa thập kỷ 90, Việt Nam đã bình thường hoá quan hệ với tất cả các nước châu Á - Thái Bình Dương, khép lại quá khứ nặng nề, thù địch, thế bị biệt lập với khu vực.
1.2- Quá trình Việt Nam gia nhập APEC.
Đến năm 1996, quan hệ song phương giữa Việt Nam với các thành viên APEC đã được thiết lập và mở rộng. Đây là một trong những cơ sở quan trọng trực tiếp dẫn đến việc ngày 14-6-1996 Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam quyết định việc nước ta chính thức xin gia nhập APEC.
Ngày 15/06/1996, Việt Nam đã chính thức gửi đơn xin gia nhập APEC do Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm ký. Tiếp theo đó Việt Nam đã xây dựng và gửi bản ghi nhớ về chế độ kinh tế VIệt Nam (Aide – Memorie) cho ban thư ký APEC để tạo điều kiện thuận lợi cho các nước APEC trong quá trình nghiên cứu và xét duyệt việc gia nhập của Việt Nam, động thời cũng tiến hành chuẩn bị những yếu tố cần thiết để có thể tham gia đầy đủ vào các chương trình hợp tác của APEC sau khi là thành viên.
Ngày 30/11/1996 Hội nghị các nguyên thủ quốc gia APEC họp tại Manila quyết định chấm dứt giai đoạn đóng cửa và đã đưa ra bàn bạc việc kết nạp thành viên mới.
Ngày 25/04/1997 Việt Nam đã nộp đơn xin gia nhập vào 3 nhóm công tác của APEC là nhóm công tác về xúc tiến thương mại, nhóm công tác về KH-CN trong công nghiệp và nhóm chuyên gia về hợp tác kĩ thuật nông nghiệp. Tại hội nghị thượng đỉnh và hội nghị cấp Bộ trưởng APEC vào ngày 24-25/11/1997 tại Van courver (Canada), APEC đã tuyên bố chấp nhận kết nạp Việt Nam, Peru và Nga vào tháng 11/1998.
Với sự nỗ lực phấn đấu của Việt Nam và được sự đồng tình ủng hộ của các nước trong khu vực, tại Hội nghị Ngoại trưởng APEC ngày 14, 15-11-1998 (Kualalumpur, Malaysia) Việt Nam được kết nạp làm thành viên chính thức của APEC.
1.3- Nhiệm vụ của Việt Nam cần thực hiện khi gia nhập APEC.
• Tham gia chương trình tự do hoá và thuận lợi hoá thương mại, đầu tư của APEC với mốc hoàn thành là năm 2020.
• Tham gia các hoạt động hợp tác trong khuôn khổ chương trình hợp tác kinh tế kỹ thuật.
• Xây dựng kế hoạch hành động riêng về tự do hoá, thuận lợi hoá thưong mại và đầu tư cho 15 lĩnh vực để đạt mục tiêu tự do hoá vào năm 2020.
• Đưa ra một số cam kết tự nguyện khác.Những công việc mà Việt Nam cần thực hiện để tham gia có hiệu quả vào tổ chức APEC.
• Hệ thống pháp luật về thuế quan: Thực hiện cải cách hệ thống thuế đặc biệt là thuế xuất , nhập khẩu; hoàn thiện danh mục biểu thuế phù hợp với danh mục hài hoà HS sáu chữ số; thực hiện Hiệp Định xác định trị giá Hải Quan theo WTO; quy định về việc tiếp tục cắt giảm thuế quan nhằm đạt được mục tiêu tự do hoá thương mại của APEC vào 2020.
• Thủ tục hải quan: Việt Nam là thành viên của tổ chức Hải Quan thế giới ( World Customs Organisation- WCO), trong những năm tới cần: Nhanh chóng ban hành luật hải quan, thực hiện nghiêm chỉnh các cam kết thực hiện phương pháp xác định trị giá hải quan của WTO khi Việt Nam trở thành viên của WTO.
• Chính sách và pháp luật về cạnh tranh, chống độc quyền: Tranh thủ sự giúp đỡ về khoa học kỹ thuật của các thành viên APEC trong việc thực thi chính sách và pháp luật về cạnh tranh; ban hành các văn bản dưới luật về để thực hiện Luật Cạnh Tranh có hiệu lực và hiệu quả hơn. Pháp luật về giải quyết tranh chấp trong kinh doanh và thương mại: Ban hành mới các văn bản pháp luật liên quan đến giải quyết tranh chấp thương mại và đầu tư như Pháp lệnh trọng tài thương mại…; tích cực tham gia các cơ chế giải quyết tranh chấp của các liên kết kinh tế thương mại quốc tế và khu vực; từng bước tham gia vào các công ước quốc tế trong các lĩnh vực giải quyết tranh chấp thương mại, đầu tư, sở hữu trí tuệ.
2- Thuận lợi và khó khăn của Việt Nam khi gia nhập APEC.
2.1- Thuận lợi.
Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết về Hội nhập Kinh tế quốc tế, trong đó xác định rõ mục tiêu, quan điểm chỉ đạo và một số nhiệm vụ cụ thể trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Đây là tài liệu cơ bản thể hiện đường lối của Đảng, là kim chỉ nam cho các hoạt động trong tiến trình hội nhập, trong đó có các hoạt động hợp tác trong APEC. Chính phủ hiện nay cũng đang thúc đẩy công cuộc cải cách hành chính làm nền tảng cho việc đưa ra các khuyến nghị xây dựng cơ chế quản lý kinh tế phù hợp với luật pháp và tập quán quốc tế. Điều đó hứa hẹn Việt Nam sẽ có những bước tiến đáng kể về cơ chế chính sách trong những năm tới, tạo ra tiền đề tích cực cho hợp tác trong APEC.
Cũng như tham gia các tổ chức kinh tế và thương mại khác, khi tham gia APEC, Việt Nam sẽ có những lợi ích cơ bản sau:
- Thứ nhất, mở thêm một diễn đàn phục vụ mục đích đối ngoại đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ; khắc phục được tình trạng bị các cường quốc lớn phân biệt đối xử, nâng cao vị thế của ta trên trường quốc tế. APEC là tập hợp có thế và lực lớn với nhiều thành viên có vai trò quan trọng kinh tế, chính trị (Mỹ, Trung Quốc, Nhật và Nga) mà ta sẽ có vị trí thành viên bình đẳng đóng góp vào luật chơi chung của cả khu vực. Quan hệ với các thành viên APEC quan trọng với ta cả về kinh tế lẫn chính trị. Tham gia APEC là tham gia cơ chế tiếp xúc đối thoại thường xuyên, không chính thức, đặc biệt ở cấp cao với tất cả các nước lớn ở Châu Á - Thái Bình Dương, sẽ mở ra nhiều cơ hội để ta có thể trao đổi và giải quyết mọi vấn đề, bao gồm cả vấn đề chính trị, an ninh để thúc đẩy quan hệ song phương, trong đó có quan hệ với Mỹ, Trung Quốc.
- Thứ hai, nắm bắt thông tin, cập nhật đầy đủ chiều hướng phát triển của thế giới để định hướng và điều chỉnh chính sách trong nước. APEC là kho thông tin và cũng là trung tâm trao đổi thông tin. Việc thu thập thông tin qua các hoạt động của APEC cũng như việc thiết lập các mạng thông tin giữa các thành viên của APEC có lợi cho ta.
- Thứ ba, tận dụng các chương trình hợp tác kinh tế-kỹ thuật. Chương trình này bao trùm nhiều lĩnh vực hợp tác với trên 250 dự án đang triển khai, tập trung vào một số vấn đề liên quan tới hợp tác, trao đổi kinh nghiệm về phát triển nguồn nhân lực, chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm quản lý, phát triển hạ tầng, tiếp nhận thông tin, phát triển thị trường... mà ta cần và rất có lợi cho các nước đang phát triển, được các nước này đề cao. Những chương trình này đã tạo điều kiện cho ta tham gia phát triển bồi dưỡng nguồn nhân lực và tiếp cận với công nghệ mới trong các lĩnh vực sản xuất, nhằm nâng cao hiệu quả cạnh tranh của nền kinh tế.
- Thứ tư, nâng cao khả năng quản lý, kinh doanh, mở rộng quan hệ thương mại, và đầu tư, thâm nhập thị trường: Các đối tác kinh tế của ta chủ yếu là trong APEC và là thị trường nhiều tiềm năng chưa được khai thác hoặc khai thông. Tham gia APEC, ta có cơ hội đối thoại chính sách với các nước phát triển hơn, hoặc phối hợp quan điểm với các nước khác trên các diễn đàn quốc tế nhằm giải toả các rào cản thương mại, đấu tranh đòi đối xử công bằng trong thương mại và trong quan hệ kinh tế với các nước.
- Thứ năm, trao đổi kinh nghiệm, tạo thêm động lực thúc đẩy phát triển nội lực của các doanh nghiệp và điều chỉnh cơ cấu kinh tế trong nước, tăng tính cạnh tranh khu vực. Thông qua hợp tác APEC, Việt Nam có cơ hội nâng cao năng lực quản lý và sản xuất trong nước, đẩy mạnh công cuộc cải cách cơ chế chính sách trong nước theo hướng minh bạch hơn, bình đẳng và thuận lợi hơn cho các hoạt động kinh doanh, đồng thời ta cũng khai thác được kinh nghiệm và các nguồn lực quốc tế nhằm xây dựng các khung khổ pháp lý theo định hướng nền kinh tế thị trường. Trong thời gian hợp tác vừa qua, ta đã huy động được sự hỗ trợ của APEC vào rất nhiều chương trình xây dựng và cải cách pháp luật như: Luật Cạnh tranh và Chống độc quyền, Luật Thương mại, Pháp lệnh Thương mại Điện tử…
- Thứ sáu, cơ chế hợp tác tự nguyện trong APEC là tiền đề tốt chuẩn bị cho việc hội nhập sâu hơn và rộng hơn vào nền kinh tế khu vực và quốc tế. APEC đóng vai trò là diễn đàn đối thoại, trao đổi, hợp tác, hỗ trợ trên cơ sở tự nguyện. Các cam kết không mang tính ràng buộc, do đó không gây sức ép mà mang tích khuyến khích, thúc đẩy. Các diễn đàn trong APEC cũng là cơ hội để các nước đang phát triển như Việt Nam kêu gọi sự trợ giúp và linh hoạt của các nước thành.
2.2- Khó khăn.
Mặc dù có nhiều thuận lợi và cơ hội nhưng tham gia vào quá trình hợp tác APEC cũng có nhiều khó khăn thách thức chính, trong đó có cả những thách thức chủ quan và khách quan.
- Thứ nhất, nhận thức về APEC trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của cán bộ, giới doanh nghiệp, quần chúng nhân dân chưa nhiều. Vấn đề này một phần là do công tác tuyên truyền, phổ biến về APEC mới chỉ được thực hiện ở mức độ hạn chế cả về nội dung và đối tượng. Mặt khác, một bộ phận lớn các doanh nghiệp còn tỏ ra thờ ơ, chưa nhận thức đầy đủ về vai trò và lợi ích mà APEC mang lại cho chính bản thân họ.
- Thứ hai, hệ thống pháp luật về thương mại con nhiều bất cập, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Cho tới nay, hệ thống chính sách thương mại và các chính sách vĩ mô có liên quan khác của ta vẫn còn nhiều bất cập và không đồng bộ, chưa thực sự khuyến khích được việc mở rộng quan hệ buôn bán, đầu tư, hợp tác kinh tế kỹ thuật của Việt Nam trong APEC: nhiều biện pháp chính sách tạo lợi thế cho kinh tế thương mại mà các tổ chức quốc tế thừa nhận, thì ta lại chưa có (thí dụ chế độ hạn ngạch thuế quan, biện pháp cân bằng thanh toán, quyền tự vệ, qui chế xuất xứ, chống bán phá giá, chính sách cạnh tranh...). Trong khi đó, ta lại áp dụng một số biện pháp, chính sách không phù hợp với thông lệ kinh doanh quốc tế và nguyên tắc của các tổ chức quốc tế.
- Thứ ba, hạn chế về nguồn nhân lực. Hiện ta đang thiếu đội ngũ cán bộ giỏi có chuyên môn và kinh nghiệm trong hợp tác kinh tế quốc tế. Trình độ cán bộ tham gia trực tiếp vào công tác hội nhập cũng như thực hiện các cam kết quốc tế nhìn chung còn yếu kém. Một trong số những nguyên nhân là từ trước tới nay ta chưa có một chính sách quy hoạch đồng bộ và ưu tiên thích đáng. Vấn đề thực thi chính sách còn nhiều bất cập cũng có một phần nguyên nhân là sự hạn chế về trình độ chuyên môn và năng lực thực thi pháp luật. Cụ thể hơn, sự hạn chế hiểu biết về cơ chế thị trường và sự vận hành của nó, các học thuyết, các quy định của thương mại quốc tế, các vấn đề nổi cộm trong thương mại quốc tế đang gây trở ngại cho việc tham gia một cách xây dựng và chủ động trong hợp tác APEC.
- Thứ tư, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhìn chung còn yếu kém, mặt khác ta chưa khai thác triệt để các cơ hội trong APEC để phục vụ cho các doanh nghiệp. Những nỗ lực ban đầu là đáng kể nhưng chưa thể so sánh với tiềm năng cơ hội của quá trình hợp tác này. Có thể nêu một vài hoạt động còn chưa được khai thác như sau:
Doanh nghiệp Việt Nam chưa thông qua hợp tác APEC để khai thác thông tin về thị trường, về chính sách thương mại và chính sách đầu tư của các Thành viên APEC. Nguyên nhân chủ yếu là do hầu hết các doanh nghiệp chưa quan tâm tới tiến trình này, hoặc chỉ coi đây là công việc của chính phủ mà chưa nghĩ tới việc khai thác nó để phục vụ cho mục đích kinh doanh của mình;
Các hoạt động tham gia của doanh nghiệp rất hạn chế do điều kiện khó khăn về tài chính. Chính vì vậy số lượng doanh nghiệp tham gia các hội chợ đầu tư, diễn đàn doanh nghiệp trẻ, hoặc các hoạt động giao lưu khác còn hạn chế.
- Thứ năm, khó khăn mang tính khách quan trong hợp tác APEC là tính bị động và lệ thuộc của các nền kinh tế nhỏ và đang phát triển. Những nền kinh tế này, chủ yếu là do hạn chế về tiềm lực kinh tế, có lợi ích hạn chế hơn và có xu hướng bị lệ thuộc vào quan điểm của các nước lớn. Ví dụ, các nước lớn có thể đưa vào chương trình nghị sự những nội dung có lợi nhiều hơn cho mình (ví dụ như chống khủng bố) và thường có sự chuẩn bị rất tốt để phát huy cơ hội đó, trong khi đó, các nước nhỏ hơn vẫn có cơ hội tương tự, nhưng thường không có đủ năng lực để phát huy. Vấn đề chính ở đây là trong bối cảnh nền kinh tế thế giới có nhiều biến động thì sự bị động và lệ thuộc sẽ hạn chế rất nhiều cơ hội và lợi ích của các nước nhỏ đang phát triển như Việt Nam.
3. Vai trò của APEC đối với Việt Nam.
Việt Nam đã sớm nhận ra APEC có vị trí địa - kinh tế và địa - chính trị rất quan trọng đối với thế giới và đối với Việt Nam khi mở cửa hội nhập nói chung cũng như khi tham gia APEC nói riêng.
Đầu tư: APEC hiện là khu vực đầu tư trực tiếp lớn nhất vào Việt Nam, với 65,6% tổng số vốn đầu tư. Trong 14 nước và lãnh thổ đầu tư lớn nhất (trên 1 tỷ USD) vào Việt Nam thì APEC đã có 10, trong đó 5 nước và vùng lãnh thổ đứng đầu. Chỉ 10 nước và vùng lãnh thổ trên đã có 39,5 tỷ USD, chiếm 95,6% tổng số vốn đầu tư trực tiếp của APEC và chiếm 62,7% tổng số vốn đầu tư trực tiếp của tất cả các nước vào Việt Nam.
APEC cũng là khu vực có lượng vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) lớn nhất cho Việt Nam, trong đó Nhật Bản là nước có số vốn lớn nhất trong tất cả các nước và các tổ chức trên thế giới. Hạ tầng cơ sở của Việt Nam đã được cải thiện đáng kể một phần quan trọng là nhờ vào nguồn vốn này.
Xuất khẩu của Việt Nam vào các nước thành viên APEC chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các khu vực trên thế giới. Trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam thì xuất khẩu vào các thành viên APEC đã chiếm trên 58%, có năm chiếm tới 72,8% như năm 2003. APEC trở thành thị trường tiêu thụ chủ yếu các sản phẩm xuất khẩu: khoảng 98% kim ngạch xuất khẩu thiếc, 93% cao su, 55,3% than, 54% gạo, 61% cà phê, 70,4% hạt tiêu, 72,5% tôm đông lạnh và 32,7% chè xuất khẩu. Về nhập khẩu, những mặt hàng như sắt thép, phân bón, hàng công nghiệp nặng... trước đây nhập từ Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu, nay chủ yếu nhập từ các nước thuộc APEC: 97,8% xăng dầu, 80% thép, 70,3% phân hoá học, 58% bông, 84,5% động cơ, 65% săm lốp, 20,5% thuốc chữa bệnh... các nền kinh tế thành viên APEC trở thành đối tác chủ yếu của Việt Nam về kinh tế, thương mại và đầu tư, chiếm tới 80% kim ngạch ngoại thương của Việt Nam, 75% tổng số vốn đầu tư nước ngoài và là nguồn cung cấp ODA lớn nhất cho Việt Nam.
Nhập khẩu: Trong 7 nước và vùng lãnh thổ nhập khẩu lớn nhất (trên 1 tỷ USD) của Việt Nam thì APEC có tới 5 và đây cũng là 5 "đại gia" đứng đầu từ thứ nhất đến thứ năm. Đó là: Mỹ: 4.992,3 triệu USD; Nhật Bản: 3.502,4 triệu USD; Trung Quốc: 2.735,5 triệu USD; Australia: 1.821,7 triệu USD; Singapore: 1.370,0 triệu USD. Chỉ với 5 nước này kim ngạch nhập khẩu từ Việt Nam đã lên tới 9.429,6 triệu USD, chiếm 35,6% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
Hàng nhập khẩu của Việt Nam từ APEC chiếm tỷ trọng lớn nhất so với các khu vực: năm 1995 là 6.493,6 triệu USD, chiếm 79,6%; năm 2000 là 12.998 triệu USD, chiếm 83,1%; năm 2001 là 13.185,9 triệu USD, chiếm 81,3%; năm 2002 là 15.792,7 triệu USD, chiếm 80%; năm 2003 là 20.057,1 triệu USD, chiếm 79,4%; năm 2004 ước 25,3 tỷ USD, chiếm 79,2%.
Cả 9 đại gia mà Việt Nam nhập khẩu trên 1 tỷ USD đều là thành viên APEC, đó là: Trung Quốc: 4.456,5 triệu USD; Đài Loan 3.698,0 triệu USD; Singapore: 3.618,5 triệu USD; Nhật Bản: 3.552,6 triệu USD; Hàn Quốc: 3.328,4 triệu USD; Thái Lan: 1.858,1 triệu USD; Malaysia: 1.214,7 triệu USD; Mỹ 1.127,4: triệu USD; Hồng Kông: 1.074,7 triệu USD. Chỉ 9 thị trường này đã xuất khẩu sang Việt Nam 23.928,9 triệu USD, chiếm 90,3% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam.
Du lịch: Trong 2.927,9 nghìn lượt khách quốc tế đến Việt Nam trong năm 2004 thì APEC đã có trên 2,2 triệu lượt khách, chiếm 75,7%. Trong 14 nước và vùng lãnh thổ có số khách đông (trên 50 nghìn lượt người) của thế giới thì APEC đã có 10, đó là: Trung Quốc: 778,4 nghìn; Mỹ: 272,5 nghìn; Nhật Bản: 267,2 nghìn; Đài Loan: 256,9 nghìn; Hàn Quốc: 233,0 nghìn; Australia: 128,7 nghìn; Malaysia: 55,7 nghìn; Canada: 53,8 nghìn; Thái Lan: 53,7 nghìn; Singapore: 50,9 nghìn.
Với sự phát triển năng động và có quy mô lớn, APEC sẽ là khu vực mà Việt Nam cần nâng tầm quan hệ lên mức cao hơn nữa.Trong số 10 bạn hàng lớn nhất của Việt Nam thời kỳ 1991-1995 có 8 nước hiện là thành viên của APEC, và là những nước chiếm tỷ trọng xuất nhập khẩu lớn nhất trong danh sách các bạn hàng của Việt Nam; 8 nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất vào Việt Nam cũng đều là các nước thành viên APEC.
Nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) của các nước thành viên APEC có vai trò quan trọng về vốn cũng như việc chuyển giao công nghệ đối với sự nghiệp CNH, HĐH của Việt Nam.
Khu vực châu Á - Thái Bình Dương không những có vị trí quan trọng về địa - kinh tế mà còn có ý nghĩa lớn về địa - chính trị và an ninh đối với nước ta. Đây là khu vực nhạy cảm cả về chính trị và an ninh, là nơi tập trung quyền lợi của các nước lớn, nơi tiềm ẩn nguy cơ tranh chấp lãnh thổ và lãnh hải. Vì vậy, việc thiết lập và mở rộng quan hệ với APEC sẽ góp phần xây dựng môi trường hoà bình, ổn định và hữu nghị ở châu Á - Thái Bình Dương, tạo điều kiện tập trung phát triển đất nước, đồng thời nâng cao được vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
4. Đóng góp của Việt Nam vào APEC.
Kể từ khi trở thành thành viên của APEC vào năm 1998, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực tích cực tham gia vào các hoạt động của diễn đàn này và cũng đạt được những kết quả đáng kể.Với tinh thần chủ động hội nhập, sự tham gia của Việt Nam vào APEC là sự tham gia có chọn lọc, trên cơ sở cân đối các nghĩa vụ quốc tế, lợi ích quốc gia và khả năng, trình độ phát triển của nền kinh tế. Các hoạt động chủ yếu của Việt Nam trong APEC bao gồm: tham gia Kế hoạch hành động quốc gia, một số chương trình trong Kế hoạch hành động tập thể, các chương trình hợp tác kỹ thuật, và các hoạt động hợp tác khác.
_Tham gia Kế hoạch hành động quốc gia.
IAP không những là văn bản thể hiện các bước đi của Việt Nam tiến tới thực hiện mục tiêu Bô-go của APEC về tự do hóa thương mại và đầu tư mà còn là công cụ quan trọng để phổ biến các thông tin về chính sách kinh tế - thương mại cho các doanh nghiệp ở các nước thành viên APEC nhằm góp phần thúc đẩy quan hệ thương mại, thu hút đầu tư. Xác định tầm quan trọng của IAP, hàng năm, Chính phủ giao Bộ Thương mại chủ trì phối hợp với các Bộ, các ngành hữu quan rà soát và bổ sung IAP trên 15 lĩnh vực bao gồm: Thuế, phi thuế, dịch vụ, đầu tư, thủ tục hải quan, tiêu chuẩn hợp chuẩn, sở hữu trí tuệ, chính sách cạnh tranh, mua sắm của chính phủ, cải cách chính sách, qui chế xuất xứ, giải quyết tranh chấp, đi lại của doanh nhân, thu thập và xử lý thông tin.
Tham gia vào việc xây dựng và triển khai các hoạt động IAP của Việt Nam bao gồm các Bộ Thương mại, Bộ Ngoại giao, Bộ Tài chính (bao gồm cả Tổng Cục Hải quan), Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Công nghiệp, Bộ Tư pháp, Bộ Xây dựng, Bộ Khoa học Công nghệ (bao gồm cả Tổng cục Tiêu chuẩn đo lường và chất lượng, Cục Sở hữu Công nghiệp), Ngân hàng Nhà nước, Tổng cục Bưu điện, Tổng Cục Thống kê, Tổng cục du lịch và Cục Hàng không Dân dụng. Bộ Thương mại được phân công chủ trì việc xây dựng IAP.
Việt Nam tham gia đóng góp tích cực trong việc xây dựng mẫu IAP mới (e-IAP) của APEC nhằm làm cho IAP của các thành viên rõ ràng, minh bạch hơn với mục tiêu mang lại lợi ích tối đa cho các doanh nghiệp. Bộ Thương mại đã chủ động mời chuyên gia APEC vào Việt Nam và phối hợp với các Bộ/Ngành hữu quan tổ chức các lớp tập huấn hướng dẫn cho các cán bộ Việt Nam xây dựng IAP theo mẫu mới. Các Bộ, các ngành của Việt Nam đã có những đóng góp ý kiến quan trọng cho chuyên gia APEC nhằm xây dựng mẫu IAP mới rõ ràng, minh bạch hơn, đồng thời làm rõ những vướng mắc sẽ gặp phải. Những ý kiến này được các chuyên gia APEC đánh giá cao. Việt Nam cũng đã áp dụng mẫu IAP mới kể từ khi xây dựng IAP năm 2001.
_Tham gia Kế hoạch hành động tập thể
Do các lĩnh vực hợp tác thuộc CAP rất rộng, bao trùm từ thương mại, đầu tư, đi lại của doanh nhân, sở hữu trí tuệ.... nên việc tham gia sâu vào tất cả các lĩnh vực hợp tác này của APEC là rất khó khăn. Vì vậy, theo chỉ đạo của Chính phủ, những năm vừa qua, đặc biệt là năm 2003, Việt Nam đã tham gia mạnh mẽ vào 2 lĩnh vực hợp tác chính là Tiêu chuẩn và hợp chuẩn (SCSC) và Thủ tục Hải quan (SCCP). Trong thời gian tới, Việt Nam cũng sẽ tham gia sâu hơn vào các lĩnh vực mới như: sở hữu trí tuệ và đi lại của doanh nhân.
_Hợp tác về Tiêu chuẩn Hợp chuẩn: Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng đã tham gia tích cực vào lĩnh vực này. Các hoạt động tham gia chủ yếu trong lĩnh vực này bao gồm:
Hài hoà các tiêu chuẩn của Việt Nam với tiêu chuẩn quốc tế theo danh mục ưu tiên hài hoà trong APEC. Đến nay, Việt Nam đã hài hoà được trên 1200 tiêu chuẩn quốc gia với các tiêu chuẩn quốc tế (trong tổng số khoảng 5100 tiêu chuẩn quốc gia)
_Hợp tác trong lĩnh vực Thủ tục Hải quan
Đây là một lĩnh vực Việt Nam tham gia tích cực và cũng thu được những kết quả đáng kể, đặc biệt là việc đơn giản hóa các thủ tục hải quan, góp phần tạo thuận lợi cho các hoạt động kinh doanh của giới doanh nghiệp. Các lĩnh vực hoạt động chủ yếu về thủ tục hải quan mà Việt Nam tham gia bao gồm:
_Tham gia Công ước Kyoto sửa đổi (năm 2001)
Thực hiện phân loại hàng hóa theo công ước HS. Công ước HS có hiệu lực đối với Việt nam từ 1/1/2000. Việt Nam đã xây dựng Danh mục hàng hóa xuất nhập khẩu, danh mục biểu thuế và danh mục thống kê dựa trên văn bản HS 96. Tuy nhiên, qua thực tế áp dụng Danh mục và Biểu thuế hiện hành của Việt Nam vẫn còn một số bất cập. Hiện nay, ngành Hải quan đang nghiên cứu áp dụng hệ thống danh mục biểu thuế mới (Danh mục biểu thuế hài hóa ASEAN);
Thực hiện mục tiêu liêm chính hải quan: Rà soát và chấn chỉnh công tác cán bộ theo hướng chống tham nhũng, chống các biểu hiện tham ô, hối lộ. Nghiên cứu xây dựng cuốn qui tắc ứng xử của cán bộ hải quan. Tham dự các cuộc họp, hội thảo của APEC về liêm chính hải quan. Điều chỉnh và cải tiến qui trình nghiệp vụ hải quan nhằm giảm thiểu sự phiền hà sách nhiễu khách hàng. Công khai hóa các qui định, qui trình nghiệp vụ để khách hàng được biết và giám sát công việc của hải quan;Xúc tiến tham gia Công ước tạm nhập (ATA) nhằm tạo thuận lợi cho hàng hóa tạm nhập, tái xuất;
_Tham gia lĩnh vực khác của CAPs
Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ: Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường đã xây dựng và thông qua kế hoạch hành động tập thể APEC về sở hữu trí tuệ, phối hợp với Australia tổ chức hội thảo về Bảo vệ công nghệ sinh học và tham gia các dự án, hội nghị, hội thảo liên quan của khu vực.
Đi lại của doanh nhân: Việt Nam tích cực tham gia các hoạt động tạo thuận lợi cho việc đi lại của doanh nhân trong APEC, cụ thể là thông qua các hoạt động: trao đổi thông tin và văn bản pháp lý về xuất nhập cảnh, cư trú của doanh nhân nước ngoài với một số thành viên APEC, thoả thuận miễn thị thực xuất nhập cảnh hoặc hợp tác về chính sách thị thực với một số nước. Hiện nay, Việt Nam đang chuẩn bị tham gia chương trình Thẻ đi lại của doanh nhân APEC.
Chính sách cạnh tranh: Chính phủ đã cử nhiều đoàn cán bộ tham dự các hội thảo, các khóa tập huấn về cạnh tranh, qua đó góp phần nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng và thực thi chính sách cạnh tranh ở Việt Nam.
Về thương mại điện tử: Bộ Thương mại đã thành lập Ban Thương mại Điện tử nhằm nghiên cứu và xây dựng đề án cho việc triển khai thương mại điện tử ở Việt Nam. Ban Thương mại điện tử của Bộ Thương mại đã tham gia một số cuộc họp của APEC về TMĐT và tham gia đóng góp ý kiến đối với một số chương trình hoạt động của APEC. Hiện nay, Việt Nam đang xúc tiến xây dựng Pháp lệnh Thương mại điện tử để tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động thương mại điện tử trong tương lai.
Tham gia các chương trình hợp tác khác trong APEC
Ngoài các chương trình hợp tác về kinh tế, APEC cũng có nhiều hoạt động mang tính chất xã hội như phụ nữ, thanh niên, người khuyết tật,...
Theo cam kết của các nhà Lãnh đạo APEC thì vấn đề giới, cụ thể là vấn đề phụ nữ, là một chủ đề xuyên xuốt trong mọi chương trình hoạt động của APEC. Việt Nam đã tham gia tích cực các hoạt động liên quan tới vấn đề này thông qua các ví dụ cụ thể như: xây dựng và thực hiện kế hoạch khu về hội nhập của phụ nữ, phổ biến và tuyên truyền về vấn đề giới trong các cấp, các ngành. Với sự trợ giúp của Canada, Việt Nam đã nâng cao đáng kể trình độ hiểu biết về vấn đề này, góp phần thực hiện tốt cam kết về giới trong APEC.
Ngoài ra, Việt Nam cũng tích cực tổ chức đoàn tham gia các diễn đàn thanh niên, doanh nghiệp trẻ, người tàn tật...
KẾT LUẬN
Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương ra đời như một xu hướng tất yếu của thời đại.Nhìn bao quát toàn bộ quá trình hình thành và phát triển của APEC từ 1989 đến nay có thể thấy nó đã đạt được những thành tựu đáng kể cả về quy mô, hình thức lẫn nội dung hoạt động, và đang lôi cuốn sự tham gia của các nước trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Đây là một diễn đàn năng động nhất ở trong khu vực, nơi mà các nước lớn, nhỏ đều có tiếng nói nhất định và chia sẻ mục tiêu tự do hoá trong thương mại và đầu tư cùng với nhiều chương trình hợp tác phát triển vì sự thịnh vượng của từng nước và của toàn khu vực. Tiến trình APEC sẽ có tác động không nhỏ đến vị trí và vai trò của khu vực Châu Á – Thái Bình Dương trong nền kinh tế- chính trị thế giới ở thế kỷ 21. tiếp tục hoàn thiện và vượt qua những thách thức thì chúng ta có thể vững tin vào diễn đàn APEC trong tương lai ở một tầm cao mới. Là thành viên của diễn đàn, Việt Nam cũng như các nước thành viên khác đã có nhiều cơ hội thuận lợi và nhất là những bài học kinh nghiệm về hội nhập quốc tế, nhưng cũng phải đối diện với không khó khăn, thách thức Do vậy, việc duy trì môi trường hoà bình ổn định và tăng cường hợp tác cùng có lợi với các nước trong khu vực có tầm quan trọng đặc biệt, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện thành công mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương- APEC.doc