Đối tượng áp dụng Luật Phá sản năm 2004 - Chủ thể có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản - Nguyên tắc và trình tự thanh toán Các giấy tờ mà Chủ nợ, đại diện người lao động, doanh

Luật phá sản 2004 mở rộng đối tượng có quyền yêu cầu tuyên bố phá sản hơn so với Luật phá sản 1993. Luật phá sản doanh nghiệp 1993 chỉ quy định cho ba chủ thể có quyền nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản là: chủ nợ không có bảo đảm, con nợ và người lao động. Như vậy, ngoài ba đối tượng này không có một tổ chức, cơ quan, cá nhân nào khác được quyền đưa vụ phá sản ra trước tòa. Quy định này phần nào đã hạn chế thành phần chủ thể có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, làm cho trên thực tế nhiều doanh nghiệp mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn nhưng không được đưa ra tòa án để giải quyết. Đây là một quy định ẩn chứa nhiều bất cập, không phù hợp với thực tế khách quan. Luật phá sản 2004 ra đời để khắc phục hạn chế của Luật phá sản doanh nghiệp 1993 bằng cách quy định: ngoài những đối tượng như doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản, chủ nợ, người lao động thì chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước (Điều 16), cổ đông của Công ty cổ phần (Điều 17) thành viên của công ty hợp danh (Điều 18) cũng có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Theo quy định mới tại Luật phá sản 2004 thì chủ nợ và người lao động khi nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản không phải nộp kèm theo giấy tờ mà chỉ cần nộp đơn với đầy đủ các nội dung yêu cầu ở Khoản 2 Điều 13 và khoản 2 Điều 14 Luật phá sản. Theo quy định tại Điều 7 Luật phá sản doanh nghiệp 1993 thì các chủ nợ gửi đơn yêu cầu tuyên bố phá sản kèm theo đơn phải có giấy tờ , tài liệu chứng minh doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Quy định này là một trở ngại lớn đối với chủ nợ nếu muốn nộp đơn yêu cầu giải quyết phá sản. Vì việc tiếp cận và có được các giấy tờ liên quan đến tình hình tài chính của doanh nghiệp mắc nợ là rất khó đối với các chủ nợ. Nhằm khắc phục hạn chế trên nên Luật phá sản 2004 đã đơn giản điều kiện nộp đơn yêu cầu mở thủ tực phá sản với chủ nợ và người lao động. Căn cứ theo khái niệm được quy định tại Điều 3 Luật phá sản 2004 thì: Doanh nghiệp khi rơi vào tình trạng phá sản tức là không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu. Như vậy, Luật phá sản 2004 cũng đã đưa ra những quy định trong vấn đề thanh toán các khoản nợ nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ.

doc15 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5914 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đối tượng áp dụng Luật Phá sản năm 2004 - Chủ thể có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản - Nguyên tắc và trình tự thanh toán Các giấy tờ mà Chủ nợ, đại diện người lao động, doanh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề bài: Tìm hiểu quy định của pháp luật phá sản về các vấn đề sau đây 1. Đối tượng áp dụng Luật Phá sản năm 2004. (Yêu cầu nói rõ có áp dụng Luật Phá sản đối với Hộ kinh doanh cá thể, Công ty Nhà nước hoạt động trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh quốc gia, Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài khi các chủ thể này lâm vào tình trạng phá sản) 2. Chủ thể có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. (Yêu cầu chỉ ra và đánh giá những quy định khác biệt về vấn đề này trong Luật Phá sản 2004 so với Luật Phá sản 1993) 3. Các giấy tờ mà Chủ nợ, đại diện người lao động, doanh nghiệp mắc nợ phải nộp kèm theo Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản và ý nghĩa của từng loại giấy tờ đó. 4. Nguyên tắc và trình tự thanh toán các khoản nợ của các chủ nợ (phân tích rõ cả việc thanh toán nợ mới phát sinh, nợ có đảm bảo...) 1. Đối tượng áp dụng của luật phá sản năm 2004. Đối tượng áp dụng của luật phá sản năm 2004 được quy định tại điều 2 cụ thể như sau: “Điều 2. Đối tượng áp dụng 1. Luật này áp dụng đối với doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã (hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã gọi chung là hợp tác xã) được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật. 2. Chính phủ quy định cụ thể danh mục và việc áp dụng Luật này đối với doanh nghiệp đặc biệt trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh; doanh nghiệp, hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo hiểm và trong các lĩnh vực khác thường xuyên, trực tiếp cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu.” Như vậy, luật phá sản được áp dụng đối với các loại hình doanh nghiệp, hợp tác xã và liên hiệp hợp tác xã được thành lập theo quy định của pháp luật. Các loại hình doanh nhiệp bao gồm các hình thức sở hữu Nhà nước, sở hữu chung hay sở hữu tư nhân: doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các loại hình công ty (công ty TNHH, công ty cổ phần, công ty hợp danh). Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài kể cả doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài vẫn thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật phá sản. Tuy nhiên, doanh nghiệp nước ngoài (hiểu là doanh nghiệp mang quốc tịch nước ngoài, chỉ hiện diện thương mại ở Việt Nam thông qua chi nhánh, văn phòng đại diện) thì không thể bị tuyên bố phá sản tại Việt Nam theo pháp luật Việt Nam; trường hợp này sẽ được giải quyết theo quy định của luật dân sự và luật tố tụng dân sự. Hộ kinh doanh cá thể không phải là doanh nghiệp nên không thuộc đối tượng áp dụng của luật phá sản, khi hộ kinh doanh cá thể lâm vào tình trạng phá sản được giải quyết theo quy định của luật dân sự và luật tố tụng dân sự. Công ti nhà nước, doanh nghiệp, hợp tác xã thường xuyên, trực tiếp cung ứng sản phẩm dịch vụ công ích thiết yếu và doanh nghiệp phục vụ quốc phòng, an ninh đều thuộc đối tượng điều chỉnh của luật phá sản; Chính phủ đã quy định cụ thể về việc áp dụng luật phá sản đối với các đối tượng này tại nghị định 67/2006 NĐ-CP ngày 11/7/2006 hướng dẫn áp dụng luật phá sản đối với doanh nghiệp đặc biệt và tổ chức, hoạt động của tổ quản lí, thanh lí tài sản. Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm, tài chính, ngân hàng là những lĩnh vực đặc thù, có ảnh hưởng sâu rộng đến nền kinh tế xã hội nhưng những chủ thể đó vẫn là những chủ thể kinh doanh hoạt động trên thị trường và bình đẳng với các chủ thể kinh doanh khác nên những chủ thể này vẫn thuộc sự điều chỉnh của luật phá sản. Chính phủ đã có quy định cụ thể về việc áp dụng luật phá sản đối với các chủ thể trên tại nghị định 114/2008/NĐ-CP và nghị định 05/2010 NĐ-CP. * Nhận xét: Nên mở rộng đối tượng áp dụng là các Hộ kinh doanh cá thể với những lý do sau: Trong nền kinh tế thị trường, mọi loại hình kinh doanh đều bình đẳng trong hoạt động và cạnh tranh. Do đó, khi hoạt động kinh doanh mất khả năng thanh toán đều phải được xử lý phá sản như nhau.Việc áp dụng Luật Phá sản cho Hộ kinh doanh cá thể là sự bổ sung phù hợp và giải quyết được sự mâu thuẫn trong hệ thống pháp luật kinh tế của nước ta. Vì Luật Thương mại đã quy định: Thương nhân (pháp nhân, cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác) đều có quyền tuyên bố phá sản. Việc áp dụng Luật Phá sản cho Hộ kinh doanh cá thể là phù hợp với xu hướng hội nhập nền kinh tế và luật pháp quốc tế. Không nên có quy định riêng về phá sản doanh nghiệp nhà nước.  Lý do: DNNN cũng phải được đối xử bình đẳng với các thành phần kinh tế khác ( Công ty cổ phần, Công ty TNHH...). Chỉ cần quy định cụ thể về phá sản các DNNN hoạt động phục vụ công cộng và trong lĩnh vực an ninh quốc phòng (giống như việc quy định những doanh nghiệp không được phép đình công).  2. Chủ thể có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản (Yêu cầu chỉ ra và đánh giá những quy định khác biệt về vấn đề này trong Luật phá sản 2004 so với Luật phá sản 1993) Luật phá sản 2004 mở rộng đối tượng có quyền yêu cầu tuyên bố phá sản hơn so với Luật phá sản 1993. Luật phá sản doanh nghiệp 1993 chỉ quy định cho ba chủ thể có quyền nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản là: chủ nợ không có bảo đảm, con nợ và người lao động. Như vậy, ngoài ba đối tượng này không có một tổ chức, cơ quan, cá nhân nào khác được quyền đưa vụ phá sản ra trước tòa. Quy định này phần nào đã hạn chế thành phần chủ thể có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, làm cho trên thực tế nhiều doanh nghiệp mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn nhưng không được đưa ra tòa án để giải quyết. Đây là một quy định ẩn chứa nhiều bất cập, không phù hợp với thực tế khách quan. Luật phá sản 2004 ra đời để khắc phục hạn chế của Luật phá sản doanh nghiệp 1993 bằng cách quy định: ngoài những đối tượng như doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản, chủ nợ, người lao động thì chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước (Điều 16), cổ đông của Công ty cổ phần (Điều 17) thành viên của công ty hợp danh (Điều 18) cũng có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Cụ thể: a. Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của chủ nợ: Xét về bản chất cơ chế phá sản trước tiên nhằm bảo vệ lợi ích của các chủ nợ. Vì vậy Luật phá sản của tất cả các nước đều coi chủ nợ là chủ thể số một có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với con nợ. Ở nước ta Luật phá sản 2004 chia chủ nợ làm 3 loại như sau: - Chủ nợ có bảo đảm - Chủ nợ không có bảo đảm - Chủ nợ có bảo đảm một phần Luật phá sản 2004 chỉ quy định cho chủ nợ không có bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm một phần có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã khi nhận thấy doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản. Quy định như vậy là hợp lý vì chủ nợ có bảo đảm một phần vẫn có quyền yêu cầu doanh nghiệp, HTX (con nợ) phải trả nốt phần nợ không có bảo đảm. Như vậy, Luật phá sản 2004 không cho phép chủ nợ có bảo đảm được quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản bởi lợi ích của họ đã được bảo đảm bằng tài sản thế chấp, cầm cố của doanh nghiệp hay của người thứ ba. Vì thế trong mọi trường hợp, lợi ích của chủ nợ có bảo đảm đều được bảo vệ và việc quy định cho họ có quyền nộp đơn là không cần thiết và nó gây bất lợi cho phía con nợ. Điểm mới của Luật phá sản 2004 khi quy định về quyền nộp đơn của các chủ nợ đó là luật này đã đơn giản hóa các điều kiện mà họ phải đáp ứng khi nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Luật phá sản doanh nghiệp 1993 quy định khi gửi đơn yêu cầu tuyên bố phá sản các chủ nợ phải cung cấp cho tòa án các giấy tờ, tài liệu để chứng minh doanh nghiệp đã mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Quy định này thực sự rất vô lý. Gây cản trở, khó khăn cho các chủ nợ vì họ chỉ biết mình đã gửi giấy đòi nợ cho doanh nghiệp nhưng không được thanh toán chứ họ làm sao có khả năng và thời gian để tập hợp đủ chứng cứ chứng minh. Vì thế, để tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ nợ Luật phá sản 2004 đã bỏ quy định này và tại Điều 13 quy định: khi nhận thấy doanh nghiệp, HTX lâm vào tình trạng phá sản chủ nợ không có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. b. Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của người lao động: Về thực chất đối với doanh nghiệp mắc nợ người lao động là một chủ nợ đặc biệt không có bảo đảm, hàng hóa duy nhất đem ra trao đổi là sức lao động và tiền lương là nguồn sống của bản thân họ, gia đình họ nên họ là những người bị thiệt hại nhiều nhất. So với quy định của Luật phá sản doanh nghiệp 1993. Điểm mới đầu tiên của Luật phá sản 2004 quy định về quyền nộp đơn của người lao động: điều kiện dễ dàng để người lao động nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Bỏ điều kiện là thời hạn nợ lương của doanh nghiệp, HTX với người lao động. Trong LPSDN 1993 quy định người lao động được quyền nộp đơn khi không được doanh nghiệp trả lương trong 3 tháng liên tiếp. Quy định này ẩn chứa nhiều bất cập vì thời hạn 3 tháng liên tiếp là quá dài rất dễ bị lợi dụng- trên thực tế có nhiều doanh nghiệp nợ lương đến 2 tháng, sau đó trả và lại tiếp tục nợ lương. Theo quy định mới của Luật phá sản 2004 dấu hiệu để người lao động được quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là khi doanh nghiệp, HTX không trả được lương cho người lao động. Bên cạnh đó khoản 1 Điều 14 LPS 2004 đưa thêm dấu hiệu mới là khi nhận doanh nghiệp, HTX lâm vào tình trạng phá sản. Đây là quy định mang tính định tính nhằm phù hợp tình trạng lao động ở các loại hình doanh nghiệp, HTX với quy mô lớn, nhỏ khác nhau. - Ngoài ra, LPS 2004 đã bổ sung quy định về việc cử đại diện của người lao động ở những doanh nghiệp không có công đoàn để thực hiện quyền yêu cầu mở thủ tục phá sản. Do LPSDN 1993 quy định về việc nộp đơn của đại diện người lao động mà trái với Điều 153 Bộ luật lao động hiện hành chỉ quy định công nhận tổ chức công đoàn cơ sở hoặc ban chấp hành công đoàn lâm thời là người đại diện duy nhất của người lao động. Luật phá sản 2004 khắc phục hạn chế này bằng việc không chỉ quy định quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của người lao động mà còn khẳng định quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là quyền của tập thể người lao động chứ không phải là quyền của cá nhân người lao động. Quy định như thế là rất hợp lý nhằm hạn chế việc bất kì người lao động nào cũng có thể làm đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản gây bất lợi cho doanh nghiệp, HTX. LPS 2004 quy định cụ thể về thủ tục cử đại diện cho người lao động để xác định rõ người có quyền đại diện cho tập thể lao động được nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là quá nửa số người lao động trong doanh nghiệp, HTX tán thành bằng cách bỏ phiếu kín hoặc lấy chữ kí (Điều 14). Như vậy, LPS 2004 bổ sung quy định cụ thể về người đại diện cho người lao động trong các doanh nghiệp chưa có tổ chức công đoàn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng trên thực tế và bảo vệ quyền lợi của người lao động. Nhưng xét ở một khía cạnh khác thì việc luật phá sản 2004 quy định người lao động không được tự nộp đơn mà phải cử người đại diện hoặc thông qua đại diện công đoàn để nộp đơn cũng là một hạn chế. Bởi thủ tục cử người đại diện cho người lao động được quy định trong luật phá sản rất phức tạp và khó thực thi. Do vậy, vô hình chung đã hạn chế và gân như vô hiệu hóa quyền nộp đơn của người lao động. c. Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của đại diện chủ sở hữu doanh nghiệp: + Quyền nộp đơn của chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước DNNN được tổ chức dưới hình thức: công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty TNHH Căn cứ vào Điều 16 LPS 2004 đã bổ sung thêm vào đối tượng Đại diện chủ sở hữu DNNN theo quy định ta nên hiểu là đại diện chủ sử hữu đối với công ty nhà nước chứ không được áp dụng với các công ty còn lại. Theo LPS đây là một loại quyền có điều kiện vì chủ sở hữu DNNN chỉ được thực hiện quyền này khi nhận thấy DNNN lâm vào tình trạng phá sản mà doanh nghiệp không thực hiện nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Đại diện chủ sở hữu công ty nhà nước là các tổ chức, cá nhân theo Điều 63 Luật doanh nghiệp Nhà nước 2003 là Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ thuộc Chính phủ, chủ tịch UBND cấp tỉnh và Hội đồng quản trị công ty Nhà nước. d. Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của các cổ đông công ty cổ phần. Luật phá sản 2004 quy định cổ đông, nhóm cổ đông CTCP có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản theo quy định của điều lệ công ty khi nhận thấy CTCP lâm vào tình trạng phá sản. để tránh việc nộp đơn tùy tiện của cổ đông có quy định về việc nôp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản theo quy định của điều lệ công ty trong trường hợp điều lệ công ty không quy định vấn đề này nhưng có thể tiến hành đại hội đồng đông thì nghị quyết của đại hội cổ đông phải được thông qua tại cuộc họp khi được số cổ đông còn lại đại diện cho ít nhất 51% tổng số phiếu biểu quyết của tất cả cổ đông dự họp chấp thuận. Tỷ lệ cụ thể do điều lệ quy định. e. Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của thành viên hợp danh. Để đảm bảo quyền lợi của thành viên hợp danh khi công ty hợp danh không còn có thể hoạt đông bình được nữa. luật phá sản 2004, điều 18 đã mở rộng thêm quyền nợp đơn mở thủ tục phá sản của thành viên hợp danh khi công ty hợp danh lâm vào tình trạng phá sản. Việc LPS 2004 mở động quyền nộp đơn yêu cầu mở thử tục PS cho các đối tượng là chủ SHDNNN, cổ đông CTCP và thành viên hợp danh nhằm mục đích thúc đẩy việc làm đơn yêu cầu giải quyết PS, góp phần chấm dứt tình trạng có DN thực chất đã không thể hoạt động trên thực tế nhưng vẫn tồn tại về mặt pháp lý. Ngoài ra, Nhằm phát hiện sớm tình trạng mất khả năng thanh toán của doanh nghiệp nhờ đó toà án có thể can thiệp sớm nhằm giúp doanh nghiệp phục hồi hoạt động, pháp luật của các nước đều quy định một số chủ thể như Toà án, Viện công tố, Thanh tra chuyên ngành, tổ chức kiểm toán ... trong khi thực hiện chức năng nhiệm vụ có liên quan đến doanh nghiệp, HTX mà nhận thấy doanh nghiệp, HTX đó đang lâm vào tình trạng phá sản thì có quyền mở thủ tục hoặc yêu cầu Toà án mở thủ tục phá sản doanh nghiệp, HTX. Tuy nhiên, Luật Phá sản năm 2004 đã không quy định cho các chủ thể này có quyền nộp đơn. Những quy định này đã làm giảm áp lực từ phía các cơ quan nhà nước lên doanh nghiệp, dẫn đến tình trạng nhiều doanh nghiệp thua lỗ kéo dài những vẫn ung dung tồn tại nếu chủ doanh nghiệp hoặc chủ nợ không nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản.  3. Các giấy tờ mà chủ nợ, đại diện người lao động, doanh nghiệp mắc nợ phải nộp kèm theo Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản và ý nghĩa của từng loại giấy tờ đó. Theo quy định mới tại Luật phá sản 2004 thì chủ nợ và người lao động khi nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản không phải nộp kèm theo giấy tờ mà chỉ cần nộp đơn với đầy đủ các nội dung yêu cầu ở Khoản 2 Điều 13 và khoản 2 Điều 14 Luật phá sản. Theo quy định tại Điều 7 Luật phá sản doanh nghiệp 1993 thì các chủ nợ gửi đơn yêu cầu tuyên bố phá sản kèm theo đơn phải có giấy tờ , tài liệu chứng minh doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Quy định này là một trở ngại lớn đối với chủ nợ nếu muốn nộp đơn yêu cầu giải quyết phá sản. Vì việc tiếp cận và có được các giấy tờ liên quan đến tình hình tài chính của doanh nghiệp mắc nợ là rất khó đối với các chủ nợ. Nhằm khắc phục hạn chế trên nên Luật phá sản 2004 đã đơn giản điều kiện nộp đơn yêu cầu mở thủ tực phá sản với chủ nợ và người lao động. Còn theo Khoản 4 Điều 15 Luật Doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản khi nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản phải nộp kèm theo các giấy tờ sau đây: + Báo cáo tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã, trong đó giải trình nguyên nhân và hoàn cảnh liên quan đến tình trạng mất khả năng thanh toán; nếu doanh nghiệp là công ty cổ phần mà pháp luật yêu cầu phải được kiểm toán thì báo cáo tài chính phải được tổ chức kiểm toán độc lập xác nhận: Ý nghĩa của bản báo cáo này là xác định tình hình thực tế của công ty tức việc mất khả năng thanh toán các khoản nợ chưa đến hạn là tạm thời hay không có khả năng phục hồi, tức là xác định bản chất của việc mất khả năng thanh toán nợ của doanh nghiệp, hợp tác xã. + Báo cáo về các biện pháp mà doanh nghiệp, hợp tác xã đã thực hiện, nhưng vẫn không khắc phục được tình trạng mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn: Nhằm chứng minh doanh nghiệp, hợp tác xã thực sự đã lâm vào tình trạng phá sản và việc mở thủ tục phá sản là cần thiết. + Bảng kê chi tiết tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã và địa điểm nơi có tài sản nhìn thấy được: Nhằm thống kê và thu hồi tài sản của doanh nghiệp, còn hoạt động kiểm kê tài sản, xác định tài sản nhìn thấy hiện có nhằm định giá và bán đấu giá tài sản. + Danh sách các chủ nợ của doanh nghiệp, hợp tác xã trong đó ghi rõ tên, địa chỉ của các chủ nợ; ngân hàng mà chủ nợ có tài khoản; các khoản nợ đến hạn có bảo đảm và không có bảo đảm; các khoản nợ chưa đến hạn có bảo đảm và không có bảo đảm: Xác định chủ nợ và địa điểm chuyển tài sản khi thanh toán nợ trong thủ tục thanh lí tài sản; xác định cá khoản nợ có bảo đảm và các khoản nợ không có bảo đảm từ đó xác định trình tự thanh lí tài sản. + Danh sách những người mắc nợ của doanh nghiệp, hợp tác xã trong đó ghi rõ tên, địa chỉ của họ; ngân hàng mà họ có tài khoản; các khoản nợ đến hạn có bảo đảm và không có bảo đảm; các khoản nợ chưa đến hạn có bảo đảm và không có bảo đảm: Kiểm kê toàn bộ tài sản thực có của doanh nghiệp, hợp tác xã để xác định xem doanh nghiệp, hợp tác xã có thực sự lâm vào tình trạng phá sản không, nếu có thì cần thống kê tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã. + Danh sách ghi rõ tên, địa chỉ của các thành viên, nếu doanh nghiệp mắc nợ là một công ty có các thành viên liên đới chịu trách nhiệm về những khoản nợ của doanh nghiệp: Khi công ty bị phá sản, để đảm bảo lợi ích của chủ nợ thì các chủ nợ có thể tìm tới các thành viên đó để đòi nợ. + Những tài liệu khác mà Tòa án yêu cầu doanh nghiệp, hợp tác xã phải cung cấp theo quy định của pháp luật: Có tính chất bổ sung, xác nhận, làm rõ những vấn đề liên quan đến doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ, chủ nợ và nghĩa vụ liên quan. 4. Nguyên tắc và trình tự thanh toán các khoản nợ của chủ nợ trong luật phá sản 2004. Căn cứ theo khái niệm được quy định tại Điều 3 Luật phá sản 2004 thì: Doanh nghiệp khi rơi vào tình trạng phá sản tức là không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu. Như vậy, Luật phá sản 2004 cũng đã đưa ra những quy định trong vấn đề thanh toán các khoản nợ nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ. Điều 6 của Luật phá sản cũng có các khái niệm về chủ nợ: Chủ nợ có bảo đảm là chủ nợ có khoản nợ được bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc của người thứ ba. Chủ nợ có bảo đảm một phần là chủ nợ có khoản nợ được bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc của người thứ ba mà giá trị tài sản bảo đảm ít hơn khoản nợ đó. Chủ nợ không có bảo đảm là chủ nợ có khoản nợ không được bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc của người thứ ba. Bên cạnh những đối tượng là chủ nợ được xác định trong Điều 6 như trên thì do quy định tại khoản 1 Điều 30 Luật phá sản: “Mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản vẫn được tiến hành bình thường, nhưng phải chịu sự giám sát, kiểm tra của Thẩm phán và Tổ quản lý, thanh lý tài sản” nên trong thời gian này, doanh nghiệp vẫn có thể giao kết hợp đồng mới, có nghĩa là xuất hiện những khoản nợ mới để từ đó, xuất hiện thêm một đối tượng nữa là chủ nợ mới phát sinh. Như vậy, đối với các khoản nợ thì doanh nghiệp có nghĩa vụ thanh toán các khoản nợ cho chủ nợ có đảm bảo trước theo quy định tại điều 35 Luật phá sản: Nghĩa là ưu tiên thanh toán khoản nợ bằng tài sản đã thế chấp hoặc cầm cố. Nếu giá trị tài sản thế chấp hoặc cầm cố nhỏ hơn giá trị khoản nợ thì phần nợ còn thiếu sẽ được thanh toán trong quá trình thanh lý tài sản của doanh nghiệp; còn nếu giá trị của tài sản đó lớn hơn khoản nợ thì phần còn thừa sẽ được nhập vào giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp. Sau khi thanh toán hết nợ cho các chủ nợ có đảm bảo thì thì doanh nghiệp sẽ bị áp dụng thủ tục thanh lý để thanh toán hết số nợ còn lại. Thứ tự phân chia tài sản hay chính là thứ tự ưu tiên thanh toán nợ được quy định cụ thể tại khoản 1 Điều 37 Luật phá sản: Trường hợp Thẩm phán ra quyết định mở thủ tục thanh lý đối với doanh nghiệp, hợp tác xã thì việc phân chia giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã theo thứ tự sau đây: a) Phí phá sản; b) Các khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật và các quyền lợi khác theo thoả ước lao động tập thể và hợp đồng lao động đã ký kết; c) Các khoản nợ không có bảo đảm phải trả cho các chủ nợ trong danh sách chủ nợ theo nguyên tắc nếu giá trị tài sản đủ để thanh toán các khoản nợ thì mỗi chủ nợ đều được thanh toán đủ số nợ của mình; nếu giá trị tài sản không đủ để thanh toán các khoản nợ thì mỗi chủ nợ chỉ được thanh toán một phần khoản nợ của mình theo tỷ lệ tương ứng. Theo đó, chủ nợ không được bảo đảm sẽ được thanh toán các khoản nợ sau khi doanh nghiệp đã thanh toán hết phí phá sản, các khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội và các quyền lợi khác của người lao động. Các khoản nợ chưa đến hạn vào thời điểm mở thủ tục thanh lý được xử lý như các khoản nợ đến hạn nhưng không được tính lãi đối với thời gian chưa đến hạn. Các khoản nợ mới phát sinh từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp theo quy định tại Điều 30 của chủ nợ mới có thể coi là những khoản nợ chưa đến hạn. Như vậy, đối với các khoản nợ chưa đến hạn thì vẫn tính như bình thường, còn đối với các khoản nợ chưa đến hạn thì được xử lý như các khoản nợ đến hạn nhưng không được tính lãi đối với thời gian chưa đến hạn (Điều 34 Luật phá sản 2004). Tuy nhiên, ngoài quy định tại điểm c khoản 2 Điều 31: Đó là sau khi nhận được quyết định mở thủ tục phá sản, việc doanh nghiệp muốn thanh toán mới phát sinh từ hoạt động kinh doanh thì phải có được sự đồng ý bằng văn bản của Thẩm phán, Luật phá sản 2004 vẫn chưa có quy định cụ thể nào trong việc thanh toán nợ cho các chủ nợ mới phát sinh . Đây cũng là một trong những bất cập của Luật, bởi về nguyên tắc thì dù chủ nợ là mới hay cũ cũng có quyền được ưu tiên trong mọi trường hợp. Thế nhưng, Luật quy định về vấn đề thanh toán nợ cho các chủ nợ mới phát sinh không chặt chẽ dẫn đến quy định tại điều 30 nhằm cố gắng khôi phục hoạt động của doanh nghiệp là gần như bất khả thi khi mà các chủ nợ đều thấy sự rủi ro nên không dám kí kết với doanh nghiệp sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản. Chúng ta có thể rõ ràng nhận ra rằng, tinh thần của Luật phá sản 2004 được dựa trên nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của các chủ nợ có đảm bảo triệt để hơn các chủ nợ không có đảm bảo. Tuy nhiên, một vài quy định của Luật ví dụ như tại khoản 3 Điều 27 đang làm hạn chế việc đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ có đảm bảo: “ Kể từ ngày Toà án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, việc giải quyết các yêu cầu sau đây đòi doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản thực hiện nghĩa vụ về tài sản phải tạm đình chỉ: 1. Thi hành án dân sự về tài sản mà doanh nghiệp, hợp tác xã là người phải thi hành án; 2. Giải quyết vụ án đòi doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện nghĩa vụ về tài sản; 3. Xử lý tài sản bảo đảm của doanh nghiệp, hợp tác xã đối với các chủ nợ có bảo đảm, trừ trường hợp được Toà án cho phép. » Danh mục tài liệu tham khảo -Luật phá sản 2004; - Luật phá sản doanh nghiệp 1993. - Nghị định của Chính phủ số 67/2006/NĐ-CP ngày 11 tháng 7 năm 2006. -Phan Thị Lê Hiếu. Tìm hiểu một số điểm mới của Luật phá sản 2004. Khóa luận tốt nghiệp. Hà Nội. 2006. -Phan Thị Thu Phương. Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp và phương hướng hoàn thiện. Khóa luận tốt nghiệp. Hà Nội. 2004

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docbamp224i nhamp243m th432417ng m7841i 2.doc
  • docbt ca nhan 2 thuong mai.doc
  • docbt camp225 nhan TM1.doc
  • docbt nhom TM1.doc
Luận văn liên quan