Dựa vào các lý thuyết kinh tế về đầu tư giải thích vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế

LỜI MỞ ĐẦU Tăng trưởng và phát triển kinh tế luôn là mục tiêu hướng tới của nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Từ khi giành được độc lập năm 1975 và đặc biệt là từ sau năm 1986, khi Việt Nam thực hiện chính sách đổi mới, Đảng và Nhà nước ta luôn đặt mục tiêu phát triển kinh tế lên hàng đầu với định hướng đến năm 2020 Việt Nam sẽ cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Để đạt được mục tiêu trên thì đầu tư là một yếu tố cực kỳ quan trọng vì đầu tư, nói rõ hơn là đầu tư phát triển, không những làm gia tăng tài sản của cá nhân nhà đầu tư, mà còn trực tiếp làm gia tăng tài sản vật chất cho nền kinh tế, có tác động rất mạnh mẽ đến phát triển kinh tế. Đã có nhiều lý thuyết về đầu tư được nêu ra nhằm phân tích tác động của đầu tư đến tăng trưởng và phát triển dưới nhiều khía cạnh khác nhau như lý thuyết số nhân đầu tư, lý thuyết gia tốc đầu tư, mô hình Harrod – Domar . Chính phủ Việt Nam với vai trò của mình đã luôn nỗ lực tạo điều kiện tốt nhất cho mục tiêu phát triển kinh tế bền vững và kết quả là Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức kinh tế thế giới WTO từ ngày 1/1/2007. Đây vừa là cơ hội vừa là thách thức lớn đặt ra đối với Việt Nam khi nền kinh tế còn non trẻ, khả năng kiểm soát các luồng vốn đầu tư ( trong nước và từ bên ngoài vào) còn hạn chế. Nếu không có một cái nhìn đúng đắn về đầu tư thì nền kinh tế Việt Nam sẽ rất khó đứng vững trước làn sóng vốn tràn vào Việt Nam và luôn biến động một cách mạnh mẽ như hiện nay. Chính vì tầm quan trọng của đầu tư đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế là rất lớn nhưng vấn đề giải thích sự tác động đó thông qua các lý thuyết kinh tế về đầu tư còn ít được đề cập đến. Do đó chúng tôi quyết định chọn đề tài nghiên cứu là: “DỰA VÀO CÁC LÝ THUYẾT KINH TẾ VỀ ĐẦU TƯ GIẢI THÍCH VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ”. Đê tài được chia làm 3 phần chính: Phần I: Những vấn đề lý luận cơ bản về đầu tư, tăng trưởng và phát triển kinh tế. Phần này đề cập đến một số khái niệm về đầu tư, tăng trưởng và phát triển kinh tế với mục đích tạo thuận lợi hơn cho quá trình nghiên cứu, đồng thời cũng đưa ra một số tác động của đầu tư đến tăng trưởng và phát triển kinh tế tạo tiền đề cho việc phân tích, nghiên cứư phần 2 & phần 3. Phần II: Giải thích sự tác động của đầu tư đến tăng trưởng và phát triển kinh tế thông qua các lý thuyết kinh tế về đầu tư. Trong phần này chúng ta sẽ nghiên cứu cụ thể sự tác động của đầu tư đến tăng trưởng và phát triển kinh tế dựa vào các lý thuyết về đầu tư như: Số nhân đầu tư, lý thuyết gia tốc đầu tư, lý thuyết quỹ nội bộ của đầu tư, Phần III: Một số bài học và kết luận rút ra từ việc nghiên cứu các lý thuyết kinh tế về đầu tư . Với phần này chúng ta sẽ xem xét lại tất cả các lý thuyết kinh tế về đầu tư đã được đề cập ở trên, từ đó rút ra được các bài học và kết luận cơ bản từ các lý thuyế đó. Đề tài của em hoàn thành được là nhờ sự giúp đỡ trực tiếp, tận tình của TS. Từ Quang Phương và TS. Phạm Văn Hùng. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ rất nhiệt tình và quý báu của các thầy để em có thể hoàn thành tốt nhất đề tài này. Tuy nhiên do kiến thức lý luận và kinh nghiêm thực tiễn còn non yếu, thời gian nghiên cứu chưa nhiều, cùng với hạn chế về mặt tài liệu nên đề tài của em không tránh khỏi những khiếm khuyết và sơ sài. Em mong được sự đóng góp chỉ bảo của các thầy để đề tài của em được tốt hơn.

doc38 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2750 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Dựa vào các lý thuyết kinh tế về đầu tư giải thích vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ộng của đầu tư đến tăng trưởng và phát triển kinh tế tạo tiền đề cho việc phân tích, nghiên cứư phần 2 & phần 3. Phần II : Giải thích sự tác động của đầu tư đến tăng trưởng và phát triển kinh tế thông qua các lý thuyết kinh tế về đầu tư. Trong phần này chúng ta sẽ nghiên cứu cụ thể sự tác động của đầu tư đến tăng trưởng và phát triển kinh tế dựa vào các lý thuyết về đầu tư như: Số nhân đầu tư, lý thuyết gia tốc đầu tư, lý thuyết quỹ nội bộ của đầu tư,… Phần III: Một số bài học và kết luận rút ra từ việc nghiên cứu các lý thuyết kinh tế về đầu tư . Với phần này chúng ta sẽ xem xét lại tất cả các lý thuyết kinh tế về đầu tư đã được đề cập ở trên, từ đó rút ra được các bài học và kết luận cơ bản từ các lý thuyế đó. Đề tài của em hoàn thành được là nhờ sự giúp đỡ trực tiếp, tận tình của TS. Từ Quang Phương và TS. Phạm Văn Hùng. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ rất nhiệt tình và quý báu của các thầy để em có thể hoàn thành tốt nhất đề tài này. Tuy nhiên do kiến thức lý luận và kinh nghiêm thực tiễn còn non yếu, thời gian nghiên cứu chưa nhiều, cùng với hạn chế về mặt tài liệu nên đề tài của em không tránh khỏi những khiếm khuyết và sơ sài. Em mong được sự đóng góp chỉ bảo của các thầy để đề tài của em được tốt hơn. Hà nội, tháng 10 năm 2008. PHẦN I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ĐẦU TƯ, TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ I. CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN 1. Đầu tư và phân loại đầu tư. 1.1 Khái niệm về đầu tư. Đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Như vậy , mục tiêu của mọi công cuộc đầu tư là đạt được các kết quả lớn hơn so với những hy sinh về nguồn lực mà nhà đầu tư phải ghánh chịu khi tiến hành đầu tư. Nguồn lực được nói đến ở đây có thể là tiền, tài nguyên, công nghệ, nhà xưởng, sức lao động, trí tuệ… và các mục đích hướng tới chính là sự tăng lên về tài sản tài chính (tiền vốn), tài sản vật chất (nhà máy, đường sá, bệnh viện, máy móc…), tài sản trí tuệ (trình độ chuyên môn, kỹ năng tay nghề, năng suất lao động, trình độ quản lý… ) trong nền sản xuất xã hội. Trong những kết quả đạt được trên đây, những kết quả trực tiếp của sự hy sinh các tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực tăng thêm có vai trò quan trọng trong mọi lúc , mọi nơi không chỉ đối với người bỏ vốn mà cả đối với toàn bộ nền kinh tế. Những kết quả này không chỉ nhà đầu tư mà cả nền kinh tế xã hội được thụ hưởng. Chẳng hạn, một nhà máy được xây dựng, tài sản vật chất của nhà đầu tư trực tiếp tăng lên, đồng thời tài sản vật chất, tiềm lực sản xuất của nền kinh tế cũng được tăng thêm. Lợi ích trực tiếp do sự hoạt động của nhà máy này đem lại cho nhà đầu tư là lợi nhuận, còn cho nền kinh tế là thoả mãn nhu cầu tiêu dùng (cho sản xuất và cho sinh hoạt ) tăng thêm của nền kinh tế, đóng góp cho ngân sách, giải quyết việc làm cho người lao động… Trình độ nghề nghiệp, chuyên môn của người lao động tăng thêm không chỉ có lợi cho chính họ (để có thu nhập cao, địa vị cao trong xã hội) mà còn bổ sung nguồn lực có kỹ thuật cho nền kinh tế để có thể tiếp nhận công nghệ ngày càng hiện đại, góp phần nâng cao dần trình độ công nghệ và kỹ thuật của nền sản xuất quốc gia. 1.2 Phân loại đầu tư. Căn cứ vào các kết quả của hoạt động đầu tư, bản chất và lợi ích do đầu tư đem lai chúng ta có thể chia đầu tư ra làm 3 loại : đầu tư tài chính, đầu tư thương mại và đầu tư phát triển. Đầu tư tài chính: Đầu tư tài chính là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ ra cho vay hoặc mua các giấy tờ có giá để hưởng lãi suất định trước, hay lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của cơ quan phát hành. Đầu tư tài chính không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (Nếu không xét đến quan hệ quốc tế trong lĩnh vực này) mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính của các tổ chức, cá nhân. Với sự hoạt động của hình thức đầu tư này, vốn được lưu chuyển dễ dàng, khi cần có thể rút ra nhanh chóng. Đây thực sự là một nguồn cung cấp vốn quan trọng cho đầu tư phát triển. Đầu tư thương mại: Đầu tư thương mại là hình thức đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra mua hàng hóa và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận chênh lệch do giá khi mua và khi bán. Loại đầu tư này không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (nếu không xét đến ngoại thương), mà chỉ làm tăng tài sản tài chính của nhà đầu tư trong quá trình mua đi bán lại, chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá giữa người bán với nhà đầu tư và giữa nhà đầu tư với khách hàng của họ. Tuy nhiên đầu tư thương mại có tác dụng thúc đẩy quá trình lưu thông của cải vật chất do đầu tư phát triển tạo ra. Từ đó thúc đẩy đầu tư phát triển, tăng thu cho ngân sách, tăng tích luỹ vốn cho phát triển sản xuất kinh doanh dịch vụ nói riêng và nền sản xuất xã hội nói chung. Đầu tư phát triển : Đầu tư phát triển là những hoạt động đầu tư tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm, nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội. Nói cách khác đầu tư phát triển là việc bỏ tiền ra để xây dựng, sửa chữa nhà cửa, kết cấu hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền với hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội. Ba loại đầu tư trên luôn tồn tại và có mối quan hệ tương hỗ với nhau, trong đó đầu tư phát triển là cơ bản nhất, tạo tiền đề đề tăng tích lũy, phát triển hoạt động đầu tư tài chính và đầu tư thương mại. Đầu tư phát triển là điều kiện tiên quyết cho sự ra đời, tồn tại và tiếp tục phát triển của mọi cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ. Bên cạnh đó, đầu tư tài chính và đầu tư thương mại hỗ trợ và tạo điều kiện để tăng cường đầu tư phát triển. Tuy nhiên trong khuân khổ của đề tài này chúng ta chỉ đi sâu, tiềm hiểu, xem xét các vấn đề kinh tế của đầu tư phát triển- loại đầu tư quyết định trực tiếp sự phát triển của nền sản xuất xã hội, là điều kiện tiên quyết cho sự ra đời, tồn tại và tiếp tục phát triển của mọi cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ. 2. Khái niệm về tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định (thường là một năm). Sự gia tăng này được thể hiện ở quy mô và tốc độ tăng trưởng. Quy mô phản ánh sự gia tăng nhiều hay ít còn tốc độ tăng trưởng được dùng để so sánh sự gia tăng giữa các thời kỳ. Người ta thường xác định tăng trưởng kinh tế thông qua các chỉ tiêu GDP (tổng sản phẩm quốc nội), GNP (tổng sản phẩm quốc dân) và GNI (thu nhập bình quân đầu người). Đầu tư là một trong những yếu tố được tính đến trong tăng trưởng kinh tế, dựa vào công thức tính GDP sau: GDP = S + I + G + (X – IM) Trong đó: S: tổng tiết kiệm trong nền kinh tế I: đầu tư G: chi tiêu của chính phủ X: xuất khẩu IM: nhập khẩu. Bản chất của tăng trưởng kinh tế là phản ánh sự thay đổi về lượng của nền kinh tế còn đầu tư phát triển không những làm gia tăng tài sản của nhà đầu tư mà còn trực tiếp làm tăng tài sản của nền kinh tế quốc dân, chẳng hạn khi nhà đầu tư xây dựng một nhà máy thì nhà máy đó không những là tài sản của nhà đầu tư mà còn là tiềm lực sản xuất của cả nền kinh tế, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động. Như vậy đầu tư phát triển chính là một yếu tố không thể thiếu đối với quá trình tăng trưởng của một nền kinh tế. 3. Khái niệm về phát triển kinh tế. Phát triển kinh tế là quá trình lớn lên, tăng tiến về mọi mặt của nền kinh tế. Phát triển kinh tế là một khái niệm rộng hơn tăng trưởng. Nếu tăng trưởng được xem là quá trình biến đổi về lượng thì phát triển là quá trình biến đổi cả về lượng và chất của nền kinh tế. Đó là sự kết hợp một cách chặt chẽ quá trình hoàn thiện của cả hai vấn đề về kinh tế và xã hội ở mỗi quốc gia. Phát triển kinh tế bao gồm có tăng trưởng, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo chiều hướng tiến bộ (thường xét đến sự chuyển dịch cơ cấu ngành: sự gia tăng tỉ trọng ngành công nghiệp, dịch vụ và giảm tỉ trọng ngành nông nghiệp), sự biến đổi ngày càng tốt hơn trong các vấn đề xã hội (xóa bỏ nghèo đói, suy dinh dưỡng, tăng tuổi thọ bình quân, tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế, nước sạch của người dân, đảm bảo phúc lợi xã hội, giảm thiểu bất bình đẳng trong xã hội…). Một mặt trái của đầu tư phát triển, bên cạnh việc làm tăng sản lượng của nền kinh tế, đầu tư phát triển còn gây nên một số tác động tiêu cực như ô nhiễm, suy thoái môi trường, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, gây ảnh hưởng tới sức khỏe con người. Hiện nay, ở nhiều quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, người ta đã chú ý tới những ảnh hưởng tiêu cực đến tương lai do tăng trưởng nhanh gây ra. Trên thế giới đã xuất hiện khái niệm mới về phát triển, đó là phát triển bền vững. Theo định nghĩa của Ngân hàng Thế giới WB: “Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng các nhu cầu hiện tại mà không làm nguy hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai”. Nói cách khác, phát triển bền vững là sự kết hợp hài hòa, chặt chẽ, hợp lý cả về ba mặt: tăng trưởng kinh tế, cải thiện các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường. Đây là mục tiêu hướng tới của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. PHẦN II : CÁC LÝ THUYẾT KINH TẾ VỀ ĐẦU TƯ Chúng ta đều biết rằng đầu tư là một yếu tố nằm trong tổng cầu của nền kinh tế. Trong khi đầu tư nhỏ hơn rất nhiều so với tiêu dùng trong GDP, nhưng nó lại rất quan trọng bởi vì đây là thành tố trong GDP biến động mạnh nhất và phản ánh rõ nét nhất hình mẫu biến động theo chu kỳ mà các nền kinh tế thị trường phải đối mặt. Trong yêu cầu của đề tài chúng ta phải nghiên cứu ảnh hưởng của đầu tư đến tăng trưởng và phát triển kinh tế nhưng dưới góc độ vận dụng các lý thuyết kinh tế về đầu tư để giải thích . Do đó chúng ta phải nghiên cứu vấn đề trên phương diện lý luận, vận dụng các lý thuyết đầu tư là chủ yếu. Có rất nhiều lý thuyết kinh tế về đầu tư, mỗi lý thuyết nghiên cứu một khía cạnh khác nhau của đầu tư đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế. Dưới đây trình bày một số lý thuyết tiêu biểu sau. 1. SỐ NHÂN ĐẦU TƯ. 1.1 Tư tưởng của mô hình . Mô hình số nhân đầu tư xuất phát từ tư tưởng của Keynes. Ông cho rằng đầu tư tăng sẽ bù đắp cho những thiếu hụt về cầu tiêu dùng. Để đảm bảo cho đầu tư gia tăng liên tục ông đưa ra nguyên lý số nhân. 1.2 Mô hình số nhân đầu tư . Số nhân đầu tư phản ánh vai trò của đầu tư đối với sản lượng. Nó cho thấy sản lượng gia tăng bao nhiêu khi đầu tư gia tăng một đơn vị. ∆Y ∆I Công thức tính (1) : k = Trong đó: ΔY là mức gia tăng sản lượng ΔI là mức gia tăng đầu tư K là số nhân đầu tư Từ công thức (1) ta có : ΔY= k .ΔI Như vậy việc gia tăng đầu tư có tác dụng khếch đại sản lượng tăng lên số nhân lần. Trong công thức trên, k là một số dương lớn hơn 1. Nếu MPC càng lớn thì k càng lớn, do đó, độ khếch đại của sản lượng càng lớn. Sản lượng càng tăng, công ăn việc làm càng gia tăng. Thực tế, gia tăng đầu tư, dẫn đến gia tăng cầu về các yếu tố tư liệu sản xuất (máy móc thiết bị, nguyên nhiên vật liệu…) và qui mô lao động. Sự kết hợp hai yếu tố này làm cho sản xuất phát triển, kết quả là, gia tăng sản lượng của nền kinh tế. 2. LÝ THUYẾT GIA TỐC ĐẦU TƯ. 2.1. Tư tưởng trung tâm của mô hình gia tốc đầu tư . Nếu số nhân đầu tư giải thích mối quan hệ giữa việc gia tăng đầu tư với gia tăng sản lượng hay việc gia tăng đầu tư có ảnh hưởng như thế nào đến sản lượng. Như vậy đầu tư xuất hiện như một yếu tố của tổng cầu. Theo Keynes, đầu tư cũng được xem xét dưới góc độ tổng cung, nghĩa là mỗi sự thay đổi của sản lượng làm thay đổi đầu tư như thế nào. Các doanh nghiệp thực hiện các dự án đầu tư để đưa mức tư bản đạt mức mong muốn. Lượng tư bản mong muốn phụ thuộc vào mức sản lượng là điều dễ dàng chấp nhận được. Khi mức sản lượng cao hơn, các hãng có nhu cầu lớn hơn về tư bản vì tư bản là một trong nhiều nhân tố để tạo ra sản lượng. Tư tưởng trung tâm của mô hình gia tốc dựa trên mối quan hệ đơn giản này. 2.2. Nội dung của lý thuyết gia tốc đầu tư . Mô hình gia tốc giả thiết rằng lượng tư bản mong muốn là bội số của mức sản lượng : K dt= α .Yt α>0 (1) Ở dạng đơn giản nhất của mô hình gia tốc, đầu tư ròng đúng bằng chênh lệch giữa lượng tư bản mong muốn với lượng tư bản hiện có vào cuối thời kì trước. Nếu tạm thời bỏ qua hao mòn tư bản trong quá trình sử dụng, chúng ta có mối liên hệ sau: I n,t = K dt - K dt -1 (2) Lượng tư bản có được vào cuối thời kỳ trước chính là lượng tư bản mong muốn phụ thuộc vào thu nhập của thời kỳ đó. Kt-1 = Kt-1d = α .Yt-1 (3) Vì vậy, chúng ta có thể viết l ại phương trình (2) như sau: In,t = K dt - Kt-1= α .Yt - α .Yt-1= α.( Yt - Yt-1 ) In,t= α.Δ Yt (4) Mức đầu tư phụ thuộc vào sự thay đổi của sản lượng. Dạng đơn giản này cho ta thấy một đặc điểm quan trọng của mô hình gia tốc. Từ phương trình (1), α có thể được coi là tỷ lệ giữa mức tư bản mong muốn so với sản lượng: α =Ktd / Yt (5) Ví dụ, giả sử rằng tỷ lệ này là 2. Trong trường hợp này, cứ mỗi đồng sản lượng thay đổi thì mức bổ sung tương ứng là 2 đồng. Trong bối cảnh đó, đầu tư sẽ biến động rất mạnh trong chu kỳ kinh doanh. Theo mô hình giao điểm của Keynes cho thấy sự thay đổi của đầu tư có tác dụng số nhân đến sản lượng. Vì vậy cùng với hiệu ứng số nhân, lý thuyết gia tốc đơn giản chỉ có thể giải thích sự biến động theo chu kỳ của sản lượng. Một cú sốc đối với sản lượng sẽ làm thay đổi mức đầu tư và sự thay đổi này sẽ làm mức sản lượng cân bằng thay đổi thông qua hiệu ứng số nhân, và tác động thêm vào đầu tư thông qua hiệu ứng gia tốc. Tuy nhiên cũng giống như lý thuyết đơn giản về số nhân của Keynes, chúng ta cần phải điều chỉnh lý thuyết gia tốc về đầu tư trước khi có thể sử dụng nó để giải thích cho quá trình đầu tư trong nền kinh tế thực. Điều chỉnh đầu tiên mà chúng ta cần làm để mô hình gia tốc đơn giản trở nên thực tế hơn bằng cách cho rằng lượng tư bản thực tế sẽ điều chỉnh dần đến mức mong muốn. Gỉa sử rằng chúng ta sử dụng mô hình cho một năm nào đó. Cũng giả sử rằng, do sản lượng tăng lên nên lượng tư bản mong muốn cũng tăng theo. Các dự án đầu tư sẽ được thực hiện nhằm đưa lượng tư bản tiến tới mức mong muốn. Bên cạnh những chi phí mà ta gọi là chi phí trực tiếp của đầu tư, chúng ta cần tính đến những chi phí điều chỉnh, và việc coi chi phí này tăng lên khi mức đầu tư tăng cũng là điều hợp lý. Những ví dụ về chi phí điều chỉnh như phải đóng cửa nhà máy hoặc thuê thêm công nhân làm việc ngoài giờ để lắp đặt thiết bị, chi phí tăng thêm do muốn tăng tiến độ xây dựng nhà máy và hoạt động sản xuất có thể bị đình trệ do bộ máy quản lý phải tập trung vào việc triển khai các dự án đầu tư. Nếu chi phí điều chỉnh tăng mạnh, thì quyết định tối ưu đối với doanh nghiệp sẽ là điều chỉnh dần lượng tư bản thực tế đến mức mong muốn. Khi đó chênh lệch giữa hai lượng tư bản này chỉ bị triệt tiêu một phần trong từng thời kỳ. Để phản ánh được độ trễ điều chỉnh này, chúng ta có thể viết (2) như sau: I n,t= λ.( Kdt-Kt-1) 0< λ<1 (6) Sử dụng (1), ta có: I n,t= λ.( α.Yt - Kt-1) (7) Trong đó, thông thường, Kt-1 khác K dt -1 do lượng tư bản thực tế khác với lượng tư bản mong muốn trong mỗi thời kỳ. Phương trình (7) xác định cơ chế điều chỉnh một phần mà ở đó hệ số λ thể hiện phần của chênh lệch giữa lượng tư bản mong muốn với lượng tư bản thực tế được thực hiện thông qua đầu tư. Do chỉ một phần sự thay đổi của lượng tư bản mong muốn được thực hiện trong mội thời kỳ nên trong một thời kỳ nhất định nào đó đầu tư sẽ phản ứng với những thay đổi của thu nhập trong một số thời kỳ trước đó. Phương trình (7) hàm ý rằng, đầu tư phản ứng chậm hơn với sự thay đổi của thu nhập hiên tại, và vì thế mà cũng hàm ý rằng đầu tư không thay đổi nhiều trong ngắn hạn như mô hình gia tốc đơn giản dự báo (ở phương trình 4). Phương trình (7) được gọi là mô hình gia tốc linh hoạt- có thể thích hợp hơn với những biến động của đầu tư trong thực tế. Mặc dù đầu tư là nhân tố dễ biến động, nhưng nó không biến đông nhiều như dự đoán của mô hình gia tốc đơn giản. Mô hình gia tốc linh hoạt cũng có thể được điều chỉnh nhằm thể hiện sự biến động về tốc độ thay đổi của đầu tư nhằm lấp đầy lỗ hổng giữa lượng tư bản thực tế với lượng tư bản mong muốn (tham số λ). Đây chính là biến lựa chọn đối với hãng kinh doanh và có thể bị tác động bởi các điều kiện tín dụng, bao gồm lãi suất, thuế và các biến số khác. Ví dụ, chúng ta có thể kỳ vọng rằng, trong điều kiện các nhân tố khác không thay đổi, có ít đầu tư hơn sẽ được thực hiện để triệt tiêu lỗ hổng giữa lượng tư bản thực tế với lượng tư bản mong muốn khi lãi suất cao hơn và ngược lại. 2.2. Nhận xét về lý thuyết gia tốc đầu tư. 2.2.1 Ưu điểm. Lý thuyết gia tốc đầu tư phản ánh quan hệ giữa sản lượng với đầu tư.Nếu α không thay đổi trong kỳ kế hoạch thì có thể sử dụng công thức để lập kế hoạch khá chính xác. Lý thuyết phản ánh sự tác động của tăng trưởng kinh tế dẫn đến đầu tư. Khi kinh tế tăng trưởng cao, sản lượng nền kinh tế tăng, cơ hội kinh doanh lớn, dẫn đến tiết kiệm tăng cao và đầu tư nhiều. 2.2.2 Nhược điểm. Lý thuyết giả định quan hệ tỷ lệ giữa sản lượng và đầu tư là cố định. Thực tế đại lượng này (α) luôn biến do sự tác động c ủa nhiều nhân tố khác. Thực chất lý thuyết đã xem xét sự biến động của đầu tư thuần (NI) chứ không phải sự biến động của tổng đầu tư do sự tác động của thay đổi sản lượng. Vì từ công thức K dt= α.Yt có thể viết: Tại thời điểm t : K dt= α.Yt (8) Tại thời điểm (t-1): Kt-1d= α.Yt-1d (9) Lấy (8) trừ đi (9), ta có : K dt - Kt-1d = α.Yt -α.Yt-1d = α.( Yt -Yt-1d) (10) Trong đó: K dt - Kt-1d : Đầu tư ròng và bằng (It-D) với D l à khấu hao Do đó: It-D= K dt - Kt-1d = α.( Yt -Yt-1d)= α.ΔY () và đầu tư ròng ΔI= α.ΔY Như vậy theo lý thuyết này đầu tư ròng là hàm của sự gia tăng sản lượng đầu ra. Nếu sản lượng tăng, đầu tư ròng tăng(lớn hơn α lần). Nếu sản lượng giảm, đầu tư thuần sẽ âm. Nếu tổng cầu về sản lượng trong thời gian dài không đổi, đầu tư ròng sẽ bằng 0 (khi ΔY=0 thì ΔI=0 ) Tuy nhiên khi sản lượng không thay đổi giữa hai thời kỳ đầu tư thuần bằng o nhưng tổng đầu tư là một số dương vì các doanh nghiệp vẫn phải đầu tư thay thế máy móc thiết bị đã hao mòn hết. c. Theo lý thuyết này toàn bộ vốn đầu tư mong muốn đều được thực hiện ngay trong cùng một thời kỳ. Điều này không đúng vì nhiều lý do, chẳng hạn do việc cung cấp các yếu tố có liên quan đến thực hiện vốn đầu tư không đáp ứng, do cầu vượt qúa cung…do đó lý thuyết gia tốc đầu tư tiếp tục được hoàn thiện qua thời gian. Theo lý thuyết gia tốc đầu tư sau này thì vốn đầu tư mong muốn được xác định như là một hàm của mức sản lượng hiện tại và quá khứ, nghĩa là quy mô đầu tư mong muốn được xác định trong dài hạn. Nếu gọi Ktd và Kt-1d là vốn đầu tư thực hiện ở thời kì t và t-1 Kt*t –Kt-1d là vốn đầu tư mong muốn λ là một hằng số (0< λ <1) Thì: Kt –Kt-1= λ .(Kt*t –Kt-1) Có nghĩa là sự thay đổi vốn đầu tư thực hiện giữa hai kỳ chỉ bằng một phầm của chênh lệch giữa vốn đầu tư mong muốn thời kỳ t và vốn đầu tư thực hiện thời kỳ t-1. Nếu λ =1 thì Kdt=Kt*t . Và lý thuyết gia tốc đầu tư hoàn thiện sau này cũng đã đề cập đến tổng đầu tư. Theo lý thuyết gia tốc đầu tư ban đầu thì đầu tư thuần ∆I=It- Dt=Ktd-Kt-1d. Theo lý thuyết gia tốc đầu tư sau này thì Ktd - Kt-1d= λ(Kt*t –Kt-1) và do đó ∆I= λ(Kt*t –Kt-1) Để xác định tổng đầu tư, chúng ta giả định: Dt=δ.Kt-1 δ là hệ số khấu hao v à 0< δ <1. Do đó It- Dt= It- δ Kt-1d= λ(Kt*t –Kt-1) hoặc It= λ .(Kt*t –Kt-1) + δ Kt-1d It chính là tổng đầu tư trong kỳ và là hàm của vốn mong muốn và vốn thực hiện. .3. LÝ THUYẾT QUỸ NỘI BỘ CỦA ĐẦU TƯ. Theo lý thuyết này, đầu tư có quan hệ tỷ lệ thuận với lợi nhuận thực tế: I ~ f (lợi nhuận thực tế ). Do đó , dự án đầu tư nào đem lại lợi nhuận cao sẽ được lựa chọn. Vì lợi nhuận cao, thu nhập giữ lại cho đầu tư sẽ lớn hơn và mức đầu tư sẽ cao hơn. Nguồn vốn cho đầu tư có thể huy động bao gồm: Lợi nhuận giữ lại, tiền trích khấu hao, đi vay các loại trong đó bao gồm cả việc phát hành trái phiếu bán cổ phiếu là nguồn vốn huy động từ bên ngoài. Vay mượn thì phải trả nợ, trường hợp nền kinh tế lâm vào tình trạng suy thoái, doanh nghiệp có thể không trả được nợ và lâm vào tình trạng phá sản. Do đó, việc đi vay không phải là điều hấp dẫn, trừ khi được vay ưu đãi. Cũng tương tự, việc tăng vốn đầu tư bằng phát hành trái phiếu cũng không phải là biện pháp hấp dẫn. Còn bán cổ phiếu để tài trợ cho đầu tư chỉ được các doanh nghiệp thực hiện khi hiệu quả của dự án đầu tư là rõ ràng và thu nhập do dự án đem lại trong tương lai sẽ lớn hơn các chi phí đã bỏ ra. Chính vì vậy theo lý thuyết quỹ nội bộ của đầu tư, các doanh nghiệp thường chọn biện pháp tài trợ cho đầu tư từ các nguồn vốn nội bộ và các sự gia tăng của lợi nhuận sẽ làm cho mức đầu tư của doanh nghiệp lớn hơn. Sự khác nhau giưa lý thuyết gia tốc đầu tư và lý thuyết này dẫn đến việc thực thi các chính sách khác nhau để khuyến khích đầu tư. Theo lý thyết gia tốc đầu tư chính sách tài khoá mở rộng sẽ làm cho mức đầu tư cao hơn và do đó sản lượng thu được cũng sẽ cao hơn. Còn việc giảm thuế lợi tức của doanh nghệp không có tác dụng kích thích đầu tư. Ngược lại theo lý thuyết quỹ nội bộ của đầu tư thì việc giảm thuế lợi tức của doanh nghiệp sẽ làm tăng lợi nhuận từ đó tăng đầu tư và tăng sản lượng, mà tăng lợi nhuận cũng có nghĩa là tăng quỹ nội bộ. Quỹ nội bộ là một yếu tố quan trọng để xác định lượng vốn đầu tư mong muốn, còn chính sách tài khoá mở rông không có tác dụng trực tiếp làm tăng đầu tư theo lý thyết này. 4. LÝ THUYẾT TÂN CỔ ĐIỂN. 4.1. Sự ra đời của lý thuyết tân cổ điển . Cuối thế kỷ 19 là thời kỳ đánh dấu sự chuyển biến mạnh mẽ của khoa học – kỹ thuật. Hàng loạt các phát minh khoa học về ang loạt các nguồn tài nguyên được khai thác phục vụ cho quá trình sản xuất. Sự chuyển biến này đã có những ảnh hưởng rõ rệt trong các trào lưu chính của tư tưởng kinh tế. Sự phát triển của trào lưu này hình thành một trường phái kinh tế mới, đứng đầu là Alfred Marshall (1842 – 1924), tác phẩm chính của ông là “Các nguyên lý của kinh tế học” xuất bản 1890, do đó thời gian này được coi như điểm mốc đánh dấu sự ra đời của trường phái tân cổ điển. Những tư tưởng cơ bản của trường phái này có những điểm mới so với các nhà kinh tế cổ điển nhưng cúng có những quan điểm thống nhất với họ. 4.2. Nội dung của lý thuyết tân cổ điển . Các nhà kinh tế tân cổ điển đã cố gắng giải thích nguồn gốc của sự tăng trưởng thông qua hàm sản xuất. Hàm số này nêu lên mối quan hệ giữa sự tăng lên của đầu ra với sự tăng lên của các yếu tố đầu vào: vốn, lao động, tài nguyên và khoa học – công nghệ. Y=f (K, L, R, T) Trong đó: Y: Đầu ra (ví dụ GDP) K: Vốn sản xuất L: Số lượng lao động R: Nguồn tài nguyên thiên nhiên T: Khoa học – công nghệ Một dạng của kiểu phân tích này là hàm Cobb-Douglas, hàm này có dạng: Y=T.Kα..Lβ.Rγ Ở đây α, β, γ là các số luỹ thừa, phản ánh tỷ lệ cận biên của các yếu tố đầu vào. (α + β + γ = 1) Sau khi biến đổi Cobb-Douglas thiết lập được mối quan hệ theo tốc độ tăng trưởng của các biến số. g = t + αk + βl + γr Trong đó: g: Tốc độ tăng trưởng của GDP K, l, r: Tốc độ tăng trưởng của các yếu tố đầu vào. T: Phần dư còn lại, phản ánh tác động của khoa học công nghệ. Ví dụ: Giả sử các biến số của phương trình trên nhận các giá trị sau: y = 0,07 (vốn tăng 7%) k = 0,02 (lao động tăng 2%) r = 0,01 (tài nguyên – ví dụ đất đai – tăng 1%) α = 0,3 (vốn chiếm 30% trong GDP) β = 0,6 (lao động chiếm 60% trong GDP) γ = 0,1 (tài nguyên chiếm 10% trong GDP). Thay các số liệu vào phương trình trên chúng ta có: 0,06 = t + (0,3 x 0,07) + (0,6 x 0,02) + (0,1 x 0,01) t = 0,026 Con số này cho biết rằng trong số 6% tăng GDP thì tác động của khoa học công nghệ là 2,6%. Như vậy hàm sản xuất Cobb – Douglas cho biết có 4 yếu tố cơ bản tác động đến tăng trưởng kinh tế và cách thức tác động của 4 yếu tố này là khác nhau giữa các yếu tố K, L, R với yếu tố T. Họ cũng cho rằng khoa học – công nghệ có vai trò quan trọng nhất với sự phát triển kinh tế. 4.3.Nhận xét về mô hình tân cổ điển . 4.3.2. Những nội dung mới của mô hình tân cổ điển. a. Trong mô hình tân cổ điển các nhà kinh tế học bác bỏ quan điểm cổ điển cho rằng sản xuất trong một tình trạng nhất định đòi hỏi những tỷ lệ nhất định về lao động và vốn, họ cho rằng vốn có thể thay thế được nhân công, và trong quá trình sản xuất có thể có nhiều cách khác nhau trong việc kết hợp các yếu tố đầu vào. Ví dụ, cần 10 tỷ đồng và 100 lao động để sản xuất 100 nghìn tấn xi măng, nếu xí nghiệp muốn tăng sản lượng lên gấp đôi, tức là 200 nghìn tấn thì có thể lựa chọn các phương án khác nhau với cách kết hợp các yếu tố đầu vào khác nhau. Cách lựa chọn phương án với việc kết hợp các yếu tố đầu vào khác nhau (xem Sơ đồ). Sơ đồ 1. Đường đồng sản lượng là các đường cong 10 20 100 C B A 200 Y(nghìn tấn) D Y=f(K,L) L (người) K(tỷ đ) I(100.000tấn) II(200.000tấn) - Tại B: Sự gia tăng vốn phù hợp với gia tăng lao động. - Tại D: Công nghệ sử dụng nhiều lao động. - Tại C: Sử dụng vốn thay thế lao động. b. Từ quan điểm trên đây các nhà kinh tế học tân cổ điển cũng đưa ra khái niệm “Sự phát triển kinh tế theo chiều sâu”, có nghĩa là gia tăng số lượng vốn cho một đơn vị lao động trong sản xuất còn sự gia tăng vốn phù hợp với sự gia tăng về lao động được gọi là “phát triển kinh tế theo chiều rộng”. c. Các nhà kinh tế tân cổ điển còn cho rằng tiến bộ kỹ thuật là yếu tố cơ bản để thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Ví dụ, bằng cải tiến trong các phương pháp sản xuất sẽ gia tăng khối lượng sản phẩm. Một khía cạnh khác đáng lưu ý của các nhà kinh tế tân cổ điển về xu hướng thay đổi trong kỹ thuật là đa số các sáng chế đều có khuynh hướng dùng vốn để tiết kiệm nhân công. 4.3.3. Những quan điểm giống mô hình cổ điển. a. Các nhà kinh tế cổ điển cho rằng nền kinh tế có hai đường tổng cung: AS-RL phản ánh sản lượng tiềm năng của nền kinh tế, còn AS-SR phản ánh khả năng thực tế. Mặc dù vậy các nhà kinh tế tân cổ điển vẫn cho rằng nền kinh tế luôn luôn đạt được sự cân bằng ở mức sản lượng tiềm năng. b. Cũng giống như các nhà kinh tế cổ điển, các nhà kinh tế tân cổ điển cũng cho rằng trong điều kiện thị trường cạnh tranh, khi nền kinh tế có biến động thì sự linh hoạt về giá cả và tiền công là nhân tố cơ bản khôi phục nền kinh tế về vị trí sản lượng tiềm năng với việc sử dụng hết nguồn lao động. Họ cho rằng chính sách kinh tế của Chính phủ không thể tác động vào sản lượng, nó chỉ có thể ảnh hưởng đến mức giá của nền kinh tế, do đó, vai trò của Chính phủ là mờ nhạt trong phát triển kinh tế (xem sơ đồ 2). Sơ đồ 2. Các nhà kinh tế tân cổ điển cho rằng nền kinh tế đạt được mức sản lượng tiềm năng (Y=Y*). Yo GDP AS-LR AS-SR AD PL PLo AS-LR: Tổng cung dài hạn AS-SR: Tổng cung ngắn hạn 5. MÔ HÌNH HARROD - DOMAR. 5.1 Sự ra đời của mô hình . Dựa vào tư tưởng của Keynes, vào những năm 40 với sự nghiên cứu một cách độc lập, hai nhà kinh tế học là Roy Harrod ở Anh và Evsay Domar ở Mỹ đã cùng đưa ra mô hình giải thích mối quan hệ giữa sự tăng trưởng và thất nghiệp ở các nước phát triển. Mô hình này cũng được sử dụng rộng rãi ở các nước đang phát triển để xem xét mối quan hệ giữa tăng trưởng và các nhu cầu về vốn Mô hình này coi đầu ra của bất kỳ một đơn vị kinh tế nào, dù là một công ty, một nghành công nghiệp hay toàn bộ nền kinh tế phụ thuộc vào tổng số vốn đầu tư cho nó. 5.2 Nội dung của mô hình Harrod - Domar . Mô hình Harrod- Domar giải thích mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế với yếu tố tiết kiệm và đầu tư. Để xây dựng mô hình, các tác giả đưa ra 2 giả định: Lao động đầy đủ việc làm, không có hạn chế đối với cung lao động Sản xuất tỷ lệ với khối lượng máy móc. Mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng được thể hiện thông qua hệ số ICOR(Incremental Captital Output Ratio). Hệ số ICOR là tỷ lệ vốn đầu tư so với tốc độ tăng trưởng (còn gọi là hệ số đầu tư tăng trưởng). Hệ số ICOR cho biết muốn có một đồng tăng trưởng thì phải cần bao nhiêu đồng vốn đầu tư. Hệ số ICOR biểu hiện mối quan hệ giữa mức tăng sản lượng đầu ra (kỳ t) và mức đầu tư của kỳ (t-1) và được tính bằng công thức: I = ∆K/∆y Trong đó: ∆K - Mức thay đổi của vốn ∆y - Mức thay đổi của sản lượng Hệ số ICOR phụ thuộc vào nguồn dự trữ và công nghệ sản xuất. ICOR càng cao chứng tỏ đầu tư càng đắt. Hệ số ICOR ở một số nước có xu hướng tăng và ICOR ở các nước phát triển thường cao hơn các nước đang phát triển. Số liệu thống kê cho thấy hệ số ICOR thường nằm trong khoảng 3 và 4 trong Thế kỷ 19, nhưng hệ số ICOR khác nhau đáng kể giữa các ngành kinh tế. Mức tăng trưởng tiềm năng được tính bằng cách chia tỷ lệ đầu tư cho hệ số ICOR. Ví dụ một nước dùng 12% tổng thu nhập vào đầu tư mới và cần 3 đồng đầu tư để tăng 1 đồng kết quả/1năm, khi đó tốc độ tăng trưởng sẽ là 4%. Nếu hệ số ICOR cao hơn, giả dụ cần 4 đồng đầu tư mới để tăng 1 đồng kết quả/năm, khi đó mức tăng trưởng sẽ là 3%. Cần lưu ý rằng một nền kinh tế mạnh thường “sống bằng” 80% kết quả, 20% còn lại có thể dùng đầu tư mới và làm tăng mức tăng trưởng. Vì vậy một trong số nhân tố quyết định mức tăng trưởng là quy mô và sử dụng thặng dư xã hội. Nếu tốc độ tăng trưởng kinh tế không cao hơn tốc độ tăng dân số thì sản lượng bình quân đầu người không tăng. Nếu ta muốn tính tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đầu người thì phải trừ đi mức tăng dân số từ mức tăng trưởng kinh tế. Vì vậy theo ví dụ trên mức tăng trưởng 4%, mức tăng dân số là 2%/năm sẽ có mức tăng trưởng trên 1 đồng vốn đầu tư chỉ là 2%. Tăng trưởng kinh tế hoạt động như lợi ích cận biên. Một nền kinh tế có sản lượng bình quân đầu người tăng ở mức 2%/năm sẽ gấp đôi sản lượng bình quân đầu người trong vòng 36 năm. Nếu tốc độ tăng giảm xuống còn 1,5% sẽ cần 48 năm để gấp đôi sản lượng. Nếu tốc độ tăng trưởng tăng lên 2,5%/năm sẽ cần khoảng 29 năm. Vì vậy, việc tăng hoặc giảm tốc độ tăng trưởng có ý nghĩa khi xét tác động của nó trong vòng 3 hoặc 4 thập kỷ (nguyên tắc 72 là phương pháp nhanh nhất để tính tác động của tăng trưởng tích luỹ. Đơn giản lấy 72 chia cho mức tăng trưởng hàng năm ta sẽ có kết quả là số năm cần để gấp đôi mức sản lượng bình quân đầu người). Vì vậy, quá trình phát triển kinh tế bắt đầu khi có đầu tư đủ để chuyển mức tăng trưởng kinh tế trên mức tăng dân số và duy trì được sự tăng trưởng. Rostow, một sử gia kinh tế đã phát triển thuyết “giai đoạn” phát triển kinh tế, ông gọi điểm bắt đầu quan trọng là giai đoạn “cất cánh” và từ cất cánh được sử dụng phổ biến. Tuy nhiên Rostow đã cố gắng để chứng tỏ rằng phần còn lại của quá trình phát triển kinh tế chắc chắn sẽ xảy ra (ít hoặc nhiều) khi giai đoạn “cất cánh” đã xảy ra, một gợi ý cho rằng từ “cất cánh” không hoàn toàn phù hợp với thực tế của lịch sử. Một nhà kinh tế khác gọi giai đoạn bắt đầu này là “sự đâm chồi” - bằng chứng của các dấu hiệu tăng trưởng đầu tiên. Cần xét đến một số khía cạnh ít mang tính số lượng hơn của việc tăng trưởng. Một thời kỳ của tăng trưởng bền vững dẫn đến sự tăng trưởng bình thường. Các nhà lập chính sách hy vọng sẽ có tăng trưởng liên tục và sẽ sửa đổi chính sách nếu không tăng trưởng. Nếu thặng dư xã hội, hệ số ICOR và mức tăng trưởng kinh tế kết hợp mang lại cho xã hội tốc độ tăng trưởng 0,5%/năm/vốn đầu tư tăng trưởng, điều chắc chắn là không một ai muốn có tốc độ tăng trưởng này. Nếu tốc độ tăng trưởng duy trì ở mức 0,5%/năm thì phải cần tới 144 năm để gấp đôi thu nhập từ 1 đồng vốn. Ở góc độ toàn nền kinh tế, hệ số ICOR biểu hiện tỷ lệ vốn đầu tư so với tốc độ tăng trưởng GDP, ở nước ta tỷ lệ vốn đầu tư toàn xã hội so với GDP còn thấp so với các quốc gia trong khu vực. Vấn đề đặt ra là phải có các chính sách và biện pháp để tăng huy động vốn (cả về số lượng và tỷ lệ) và đặc biệt quan trọng là phải nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng vốn đầu tư. Hệ số ICOR năm 1991 của Việt Nam là 0,39, tức là để có 1 đồng tăng trưởng cần phải đầu tư 0,39 đồng vốn. Đến năm 2001, số liệu này là 3,82. Thực tế cho thấy càng tiếp cận sâu rộng với thị trường Thế giới thì lợi thế cạnh tranh ban đầu sẽ giảm đi (tài nguyên phong phú, lao động rẻ). Nếu không phát huy được lợi thế cạnh tranh ban đầu và không tạo được những lợi thế cạnh tranh mới thì khó có thể đạt được mức tăng trưởng mong muốn. Đầu tư vốn cho khoa học công nghệ là một hướng đầu tư quan trọng và mang tính đặc thù. Vốn đầu tư cho công nghệ sẽ mang lại hiệu quả cao trong phát triển dài hạn, tuy nhiên đây cũng là lĩnh vực đầu tư có nhiều rủi ro, ở các nước mới thực hiện công nghiệp hoá, chính phủ đóng vai trò hỗ trợ chính trong phát triển khoa học và công nghệ. Hiện nay ở nước ta quy định sử dụng 2% tổng ngân sách cho hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ, nhưng trong thực tế chỉ đạt 1%, (chiếm 0,2% GDP). Đây là một tỷ lệ rất thấp và bất hợp lý so với tỷ lệ 2,5-3% ở các nước công nghiệp phát triển. Theo phân tích của Báo đầu tư [5] thì nguyên nhân của đầu tư kém hiệu quả ở nước ta hiện nay, trước hết là do việc chọn và quyết định dự án đầu tư. Nếu thời kỳ 1991-1997, hệ số ICOR là 2,6 thì hiện nay đã tăng lên khoảng 5,0. Cùng một đơn vị vốn có thể tạo ra những mức sản lượng rất khác nhau, phụ thuộc vào hiệu quả sử dụng vốn. Hiệu suất của một đơn vị vốn có thể giảm nếu việc quản lý lực lượng làm việc không hiệu quả hoặc không bảo đảm đủ nguyên vật liệu cho sản xuất, đồng thời cũng bị những rang buộc về lực lượng lao động. Vì những lý do này mà mức sản lượng thu được từ một lượng vốn sẽ rất khác nhau giữa các nước. So sánh mang tính quốc tế về hệ số ICOR sẽ gặp khó khăn trong việc tính sự thay đổi về vốn. Ví dụ, trong liên doanh liên kết đầu tư ở nước ta phần góp vốn đầu tư của nước chủ nhà thường tính bằng giá trị đất đai, nhà xưởng và thực tế ở nước ta giá đất quá đắt và thay đổi rất nhanh. Hoặc trong đầu tư xây dựng cơ bản thì chi phí cho giải phóng mặt bằng chiếm một phần rất lớn và chi phí này tăng lên theo giá đất đai…do vậy cũng gây khó khăn cho việc xác định giá trị đầu tư. Mặc dù có những khó khăn trong việc tính vốn đầu tư cũng như các yếu tố thuộc lĩnh vực quản lý, thì hệ số ICOR vẫn được sử dụng là một số đo hiệu quả đầu tư và so sánh hiệu quả đầu tư ở các nước khác nhau. Mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng kinh tế, không chỉ được đặt ra đối với nền kinh tế của một quốc gia mà còn phải đặt ra cho từng mục lĩnh vực, từng ngành kinh tế và từng đơn vị kinh tế. Việc đầu tư vào đâu, đầu tư bao nhiêu và đầu tư vào thời điểm nào để đạt được hiệu quả kinh tế cao là những vấn đề mà các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà hoạch định chính sách, xây dựng dự án đầu tư phải nghiên cứu kỹ. Đầu tư và tăng trưởng đang trở thành vấn đề kinh tế quan trọng hiện nay của đất nước. Tăng thêm vốn đầu tư và đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Đầu tư và tăng trưởng sẽ mang lại hiệu quả nếu có những giải pháp thích hợp. 6. t¸c ®éng cña ®Çu t­ tíi t¨ng tr­ëng kinh tÕ th«ng qua m« h×nh thu nhËp quèc d©n. §Ó xem xÐt ¶nh h­ëng qua l¹i cña c¸c nh©n tè kinh tÕ ®Æc thï ®èi víi t¨ng tr­ëng kinh tÕ còng nh­ ®èi víi ®Çu t­ ta sÏ xÐt tíi m« h×nh thu nhËp quèc d©n. Quy ­íc: : tæng s¶n phÈm quèc d©n trong n¨m t C: tiªu dïng cña d©n c­. I: ®Çu t­. G: tiªu dïng cña chÝnh phñ. EM: xuÊt khÈu rßng (XuÊt khÈu rßng= XuÊt khÈu -nhËp khÈu). T: ThuÕ . r: l·i suÊt. Lap: L¹m ph¸t ER: tû gia hèi ®o¸i ®ång ngo¹i tÖ §TN§: ®Çu t­ trong n­íc. §TNN: ®Çu t­ tõ n­íc ngoµi vµo. §ång nhÊt thøc thu nhËp quèc d©n GDP = C+I+G+EM Hµm tiªu dïng: C=(GDP-T) ; : Møc tiªu dïng tèi thiÓu cña d©n c­. : Xu h­íng tiªu dïng biªn. Khi thu nhËp quèc d©n t¨ng lªn, møc tiªu dïng t¨ng theo. Khi thuÕ t¨ng th× tiªu dïng sÏ gi¶m xuèng. Hµm thuÕ: T= +*GDP >0, 0<<1. : thuÕ suÊt, hay sù thay ®æi tuyÖt ®èi cña T do ¶nh h­ëng cña GDP (=dT/dGDP). ThuÕ thu ®­îc lu«n thÊp h¬n møc s¶n l­îng thu ®­îc. Hµm ®Çu t­: I= §TN§ + §TNN §TN§ = §TNN= ,;, Møc s¶n l­îng trong hiÖn t¹i vµ qu¸ khø cã t¸c ®éng m¹nh tíi ®Çu t­. Thu nhËp quèc d©n t¨ng lµm cho tiÕt kiÖm t¨ng dÉn ®Õn ®Çu t­ t¨ng. ThuÕ cã ¶nh h­ëng ng­îc chiÒu víi ®Çu t­. ThuÕ t¨ng lµm cho lîi nhuËn gi¶m tÝch luü thÊp®Çu t­ gi¶m. L·i suÊt còng cã t¸c ®éng ng­îc chiÒu víi ®Çu t­. Bëi khi l·i xuÊt t¨ng lµm cho chi phÝ ®Çu t­ còng t¨ngQuy m« ®Çu t­ gi¶m xuèngcÇu ®Çu t­ gi¶m. L¹m ph¸t lµ thï ®Þch cña c¸c nhµ ®Çu t­. Khi l¹m ph¸t cã xu h­íng t¨ng lªn lµm cho gi¸ trÞ cña ®ång tiÒn gi¶m xuènglµm cho ®é rñi ro cña ®ång vèn t¨ng lªnNhu cÇu ®Çu t­ gi¶m xuèng. Khi tû gi¸ hèi ®o¸i cña ®ång ngo¹i tÖ t¨ng lªn lµm cho gi¸ trÞ ®ång ngo¹i tÖ so víi ®ång néi tÖ t¨ng lªn kÝch thÝch c¸c nhµ ®Çu t­ n­íc ngoµi mang ngo¹i tÖ vµo trong n­íc ®Çu t­ lµm cho cÇu ®Çu t­ còng t¨ng lªn. Hµm xuÊt -nh©p khÈu: EM = Tû gi¸ hèi ®o¸i lµ nh©n tè t¸c ®éng rÊt m¹nh tíi xuÊt khÈu, khi tû gi¸ hèi ®o¸i t¨ng lªn, khèi l­îng hµng ho¸ xuÊt khÈu t¨ng. =dEX/dGDP cho biÕt l­îng biÕn ®éng tuyÖt ®èi cña xuÊt khÈu rßng do t¸c ®éng cña GDP. Khi GDP t¨ng lªn mét ®¬n vÞ th× l­îng xuÊt khÈu rßng t¨ng lªn =dEM/dER: biÕn ®éng tuyÖt ®èi cña xuÊt khÈu do t¸c ®éng cña tû gi¸ hèi ®o¸i. Khi tû gi¸ hèi ®o¸i t¨ng lªn mét ®¬n vÞ th× xuÊt khÈu t¨ng lªn ®¬n vÞ Trong m« h×nh trªn, c¸c biÕn néi sinh bao gåm: GDP, T, EM, I cßn c¸c biÕn ngo¹i sinh bao gåm c¸c biÕn: r, Lap, G, ER, . M« h×nh biÓu diÔn c¸c quan hÖ gi÷a c¸c biÕn kinh tÕ vÜ m« G Lap T C ER EM r I Phần III: MỘT SỐ BÀI HỌC VÀ KẾT LUẬN RÚT RA TỪ VIỆC NGHIÊN CỨU CÁC LÝ THUYẾT KINH TẾ VỀ ĐẦU TƯ 1. KẾT LUẬN VỀ MÔ HÌNH SỐ NHÂN ĐẦU TƯ . Mô hình số nhân đầu tư phản ánh quan hệ giữa gia tăng thu nhập với gia tăng đầu tư, theo Keynes mỗi sự gia tăng của đầu tư đều kéo theo sự gia tăng nhu cầu bổ sung công nhân, nâng cao cầu về tư liệu sản xuất, do vậy làm tăng cầu về tiêu dùng, tăng giá hàng, làm tăng việc làm cho công nhân. Tất cả điều đó làm cho thu nhập tăng lên, đến lượt mình thu nhâp lại là tiền đề cho sự gia tăng đầu tư mới, tăng đầu tư mới lại làm tăng thu nhập mới. Cứ như vậy, đầu tư quyết định thu nhâp, thu nhâp lại tạo tiền đề để gia tăng đầu tư. 2. KẾT LUẬN VỀ LÝ THUYẾT GIA TỐC ĐẦU TƯ. Lý thuyết gia tốc và số nhân đầu tư giải thích mối quan hệ qua lại giữa đầu tư và sản lượng. Mỗi sự gia tăng đầu tư đều kéo theo việc gia tăng bổ sung lao động, nguyên vật liệu sản xuất…dẫn đến gia tăng sản phẩm (giải thích qua số nhân đầu tư). Sản lượng gia tăng, dẫn đến gia tăng tiêu dùng (do thu nhập người tiêu dùng tăng), tăng cầu hàng hoá v dịch vụ nên lại đòi hỏi gia tăng đầu tư mới (giải thích qua mô hình gia tốc đầu tư ). Gia tăng đầu tư mới dẫn đến gia tăng sản lương, gia tăng sản lượng lại là nhân tố thúc đẩy gia tăng đâu tư. Qúa trình này diễn ra liên tục, dây chuyền. 3. MỘT SỐ BÀI HỌC VÀ KẾT LUẬN RÚT RA TỪ MÔ HÌNH HARROD-DOMAR . 3.1 Bài học từ mô hình Harrod- Domar. Vì vốn đầu tư (I) có tác dụng tác động quyết định đến tăng trưởng kinh tế (g) và mức tiết kiệm (S) là nguồn gốc của đầu tư. ∆Y Y Ta có: g = , S Y trong đó Y là chỉ tiêu kết quả sản xuất - ở đây lấy chỉ tiêu GDP), nếu gọi S là mức tiết kiệm của nền kinh tế thì tỷ lệ tích luỹ trong GDP là s = Vì tiết kiệm là nguồn gốc của đầu tư nên về mặt lý thuyết đầu tư luôn bằng tiết kiệm (S = I). Mục đích của đầu tư là tạo ra vốn sản xuất (I = ∆K). I ∆Y ∆K ∆Y Từ công thức hệ số ICOR ta có: k = \\= I ∆Y I Y I. ∆Y I.Y ∆Y Y Vì g = = = : s k Hay g = Từ quan hệ trên, chúng ta có thể rút ra được hai điểm cơ bản sau: Một là: Xác định mục tiêu tăng trưởng kinh tế cho thời kỳ mới khi xác định được khả năng tiết kiệm của nền kinh tế thời kỳ gốc và dự báo hệ số ICOR thời kỳ kế hoạch là một trong những căn cứ quan trọng đối với các nhà hoạch định trong xây dựng chiến lược phát triển kinh tế, xã hội. Hai là: Khi đứng trước một mục tiêu tăng trưởng do yêu cầu của các cấp lãnh đạo đặt ra, mô hình cho phép chúng ta xác định được nhu cầu tích luỹ cần có để đạt được mục tiêu đó. Là căn cứ để đánh giá khả năng đạt mục tiêu đã đề ra. 3.2 Kết luận về mô hình Harrod – Domar. Như vậy, theo mô hình Harro- Domar, tiết kiệm là nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế. Muốn gia tăng sản lượng với tốc độ g thì cần duy trì tỷ lệ tích luỹ để đầu tư trong GDP là s với hệ số ICOR không đổi. Mô hình thể hiện tiết kiêm (S) là nguồn gốc của đầu tư (I), đầu tư làm tăng vốn sản xuất (∆K), gia tăng vốn sản xuất sẽ trực tiếp làm tăng ∆Y. Cũng lưu ý rằng, do nghiên cứu ở các nước tiên tiến, nhằm xem xét vấn đề: để duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế 1% thì đầu tư phải tăng bao nhiêu, nên những kết luận của mô hình cần được kiểm nghiệm kĩ khi nghiên cứư đối với các nước đang phát triển như nước ta. Ở những nước đang phát triển, vấn đề không đơn thuần chỉ là duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế như cũ mà quan trọng là phải tăng tốc với tốc độ cao hơn. Đồng thời do thiếu vốn, thừa lao động, họ thường sử dụng nhiều nhân tố khác phục vụ tăng trưởng. KÕt luËn Do h¹n chÕ vÒ mÆt thêi gian vµ sè liÖu nªn đề tài kh«ng thÓ diÔn t¶ ®­îc chi tiÕt c©c lý thuyÕt kinh tÕ vÒ ®Çu t­. Tuy nhiªn bµi viÕt còng gióp cho chóng ta cã ®­îc sù hiÓu biÕt nhÊt ®Þnh vÒ ®Çu t­, ®Æc biÖt lµ c¸c lý thuyÕt kinh tÕ vÒ ®Çu t­. Ngoµi ra ®Ò tµi cßn cho chóng ta thÊy ®­îc vai trß cña ®Çu t­ ®èi víi t¨ng tr­ëng vµ ph¸t triÓn kinh tÕ lµ rÊt quan träng. C¸c m« h×nh ph©n tÝch tuy ch­a ®­îc nh­ mong muèn nh­ng ch¾c ch¾n c¸c lý thuyÕt ®· ®­îc ®Ò cËp lµ rÊt chÝnh x¸c vµ lµ c¬ b¶n nhÊt. §ã chÝnh lµ nÒn t¶ng, tiÒn ®Ò ®Ó cho chóng ta cã thÓ tiÕp thu c¸c kiÕn thøc kinh tÕ tèt h¬n. Mét lÇn n÷a, em xin ch©n thµnh c¸m ¬n sù gióp ®ì cña c¸c thÇy PGS.TS Tõ Quang Ph­¬ng vµ thÇy TS.Ph¹m V¨n Hïng ®· gióp em hoµn thµnh tèt ®Ò tµi nµy. Phô lôc M« h×nh 1 : T¸c ®éng cña ®Çu t­ tíi t¨ng tr­ëng kinh tÕ th«ng qua m« h×nh thu nhËp quèc d©n System: UNTITLED Estimation Method: Weighted Least Squares Date: 05/23/02 Time: 10:07 Sample: 1990 2000 Included observations: 11 Total system (unbalanced) observations 32 Coefficient Std. Error t-Statistic Prob. C(1) 0.922037 0.024787 37.19817 0.0000 C(2) 0.233318 0.026229 8.895420 0.0000 C(3) -0.094904 0.035492 -2.673904 0.0139 C(4) 0.166330 0.027809 5.981107 0.0000 C(5) -0.197154 0.046183 -4.268980 0.0003 C(6) 2.544735 0.165869 15.34181 0.0000 C(7) 0.839423 0.024864 33.76119 0.0000 C(8) -0.085439 0.015932 -5.362759 0.0000 C(9) -10.27842 0.586233 -17.53300 0.0000 C(10) 1.777943 0.048166 36.91300 0.0000 Determinant residual covariance 5.26E-13 Equation: LOG(GDPR)= C(1)*LOG(CR)+C(2)*LOG(IR)+C(3)*LOG(GR) +C(4)*LOG(XR)+C(5)*LOG(MR) Observations: 11 R-squared 0.999603 Mean dependent var 12.16876 Adjusted R-squared 0.999338 S.D. dependent var 0.253198 S.E. of regression 0.006516 Sum squared resid 0.000255 Durbin-Watson stat 1.982539 Equation: LOG(CR)=C(6)+C(7)*LOG(GDPR)+C(8)*LOG(THUE) Observations: 10 R-squared 0.998065 Mean dependent var 11.90251 Adjusted R-squared 0.997512 S.D. dependent var 0.166912 S.E. of regression 0.008326 Sum squared resid 0.000485 Durbin-Watson stat 1.364128 Equation: LOG(MR)=C(9)+C(10)*LOG(GDPR) Observations: 11 R-squared 0.991992 Mean dependent var 11.35693 Adjusted R-squared 0.991102 S.D. dependent var 0.451985 S.E. of regression 0.042636 Sum squared resid 0.016360 Durbin-Watson stat 1.248918 TÝnh phï hîp cña m« h×nh Phï hîp vÒ mÆt lý thuyÕt: c¸c hÖ sè thu ®­îc tõ m« h×nh ®Òu cã dÊu phï hîp víi dÊu cña k× väng mµ chóng ta ®· ®­a ra ë phÇn tr­íc chøng tá r»ng m« h×nh ph¶n ¸nh kh¸ chÝnh x¸c vÒ mÆt kinh tÕ cña c¸c biÕn sè c1=0.922026 ; c2 =0.233316; c3 = -0.094896; c4 =0.166326;c5 = -0.197144; c6 =2.544823; c7 =0.839413; c8 = -0.085436; c9 =-10.27842; c10 =1.777943 Phï hîp vÒ mÆt thèng kª: c¸c gi¸ trÞ cña thèng kª t mµ m« h×nh ®­a ra cïng víi c¸c møc x¸c suÊt P[value] cho thÊy c¸c hÖ sè trong m« h×nh ®Òu cã ý nghÜa thèng kª ë møc tin cËy 10%. C¸c hÖ sè R2 trong c¸c ph­¬ng tr×nh kh¸ lín chøng tá cã mét mèi quan hÖ tuyÕn tÝnh chÆt chÏ gi÷a biÕn phô thuéc vµ biÕn ®éc lËp, C¸c gi¸ trÞ Durbin-Watson cho thÊy c¸c hµm håi quy trong hÖ ph­¬ng tr×nh cã chøa hiÖn t­îng tù t­¬ng quan. C¬ së d÷ liÖu ®­îc sö dông trong m« h×nh: obs GDPr Cr Ir Gr Xr Mr THUE 1990 131968.0 113250.0 21048.00 10156.00 31256.00 44022.00 NA 1991 139634.0 116885.0 22366.00 11010.00 39302.00 48244.00 15256.40 1992 151782.0 121490.0 27086.00 11831.00 46726.00 52718.00 20757.22 1993 164043.0 125774.0 39862.00 13348.00 48596.00 62632.00 28662.91 1994 178534.0 133299.0 45483.00 14738.00 60725.00 77591.00 33576.85 1995 195567.0 142917.0 53249.00 15976.00 71352.00 89229.00 37326.51 1996 213832.0 155909.0 60826.00 17163.00 91882.00 112065.0 40998.51 1997 231263.0 165125.0 66529.00 17850.00 102316.0 120068.0 39159.81 1998 244594.0 172498.0 74931.00 18425.00 110288.0 130818.0 38417.85 1999 256269.0 176976.0 75830.00 17374.00 125014.0 138171.0 43518.22 2000 273582.0 183980.0 84033.00 17660.00 140969.0 152271.0 48997.12 Trong ®ã : GDPr: Tæng s¶n phÈm quèc néi tÝnh theo gi¸ cè ®Þnh n¨m 1994 Cr : chi tiªu cuèi cïng cña khu vùc d©n c­ tÝnh theo gi¸ cè ®Þnh n¨m 1994 Ir : tæng ®Çu t­ x· héi tÝnh theo gi¸ cè ®Þnh n¨m 1994 Gr: chi tiªu cuèi cïng cña khu vùc nhµ n­íc tÝnh theo gi¸ cè ®Þnh n¨m 1994 Xr: Gi¸ trÞ xuÊt khÈu s¶n phÈm vµ dÞch vô tÝnh theo gi¸ cè ®Þnh n¨m 1994 Mr: Gi¸ trÞ nhËp khÈu vµ dÞch vô tÝnh theo gi¸ cè ®Þnh n¨m 1994. THUE: Tæng ®éng viªn thuÕ vµo Ng©n s¸ch Nhµ n­íc tÝnh theo gi¸ cè ®Þnh n¨m1994. M« h×nh 2: t¸c ®éng cña tæng ®Çu t­ tíi t¨ng tr­ëng kinh tÕ th«ng qua m« h×nh Harrod-Domar M« h×nh ­íc l­îng ®­îc ch¹y trªn EVIEWS nªn hµm @PCH(GDPR) chÝnh lµ tèc ®é t¨ng tr­ëng cña GDP thùc(GDPR), tøc: @PCH(GDPR)= M« h×nh 2 Dependent Variable: @PCH(GDPR) Method: Least Squares Date: 05/23/02 Time: 18:57 Sample: 1990 2000 Included observations: 11 Variable Coefficient Std. Error t-Statistic Prob. VDTXHR/GDPR 0.320620 0.016418 19.52856 0.0000 BIENGIA -0.040242 0.007612 -5.286564 0.0005 R-squared 0.654673 Mean dependent var 0.073491 Adjusted R-squared 0.616303 S.D. dependent var 0.017585 S.E. of regression 0.010893 Akaike info criterion -6.038508 Sum squared resid 0.001068 Schwarz criterion -5.966164 Log likelihood 35.21179 Durbin-Watson stat 1.764482 TÝnh phï hîp cña m« h×nh : VÒ ý nghÜa kinh tÕ ta thÊy c¸c hÖ sè ®Òu tho¶ m·n nh÷ng k× väng ë phÇn trªn, hÖ sè d­¬ng vµ nhá h¬n 1, hÖ sè ©m. VÒ ý nghÜa thèng kª c¸c thèng kª t cho phÐp kÕt luËn c¸c hÖ sè cã ý nghÜa thèng kª. KiÓm ®Þnh sù tù t­¬ng quan cña m« h×nh Gi¸ trÞ Durbin-Watson d=1.764482 cho thÊy víi møc ý nghÜa 5% th× dL < d < dU cho phÐp kh¼ng ®Þnh m« h×nh kh«ng cã chøa hiÖn t­îng tù t­¬ng quan. KiÓm ®Þnh ph­¬ng sai cña sai sè thay ®æi §Ó kiÓm ®Þnh ph­¬ng sai cña m« h×nh, b»ng ph­¬ng ph¸p kiÓm ®Þnh dùa trªn biÕn phô thuéc ta kiÓm ®Þnh trªn m« h×nh: = +*+Ut RESID lµ phÇn d­ thu ®­îc tõ MH2, @PCH(GDPRF) lµ gi¸ trÞ ­íc l­îng cña k× väng @PCH(GDPR) M« h×nh kiÓm ®Þnhsù thay ®æi ph­¬ng sai cña sai sè Dependent Variable: (RESID02)^2 Method: Least Squares Date: 05/23/02 Time: 19:06 Sample: 1990 2000 Included observations: 11 Variable Coefficient Std. Error t-Statistic Prob. (GDPRF)^2 -0.011078 0.013943 -0.794546 0.4473 C 0.000159 8.78E-05 1.811285 0.1035 R-squared 0.065547 Mean dependent var 9.71E-05 Adjusted R-squared -0.038281 S.D. dependent var 0.000132 S.E. of regression 0.000134 Akaike info criterion -14.83168 Sum squared resid 1.62E-07 Schwarz criterion -14.75933 Log likelihood 83.57422 F-statistic 0.631303 Durbin-Watson stat 2.277039 Prob(F-statistic) 0.447322 Víi møc tin cËy 5% ta cã =3.84146 MÆt kh¸c n*=0.95053 < 3.84146 vËy ph­¬ng sai trong m« h×nh 2 lµ kh«ng thay ®æi . KiÓm ®Þnh tÝnh dõng cña phÇn d­: Víi ph­¬ng ph¸p kiÓm ®Þnh tÝnh dõng cña phÇn d­ dùa trªn l­îc ®å t­¬ng quan vµ l­îc ®å tù t­¬ng quan ta nhËn thÊy phÇn d­ cña m« h×nh lµ nhiÔu tr¾ng L­îc ®å t­¬ng quan vµ tù t­¬ng quan cña phÇn d­ Date: 05/23/02 Time: 19:11 Sample: 1990 2000 Included observations: 11 Autocorrelation Partial Correlation AC PAC Q-Stat Prob . | . . | . 1 0.059 0.059 0.0497 0.824 . | . . | . 2 -0.049 -0.053 0.0883 0.957 . *| . . *| . 3 -0.097 -0.091 0.2559 0.968 . **| . . **| . 4 -0.268 -0.264 1.7285 0.786 . |** . . |** . 5 0.201 0.235 2.6914 0.747 . | . . | . 6 0.051 -0.014 2.7662 0.838 . *| . . **| . 7 -0.151 -0.205 3.5778 0.827 . *| . . *| . 8 -0.120 -0.149 4.2615 0.833 . *| . . | . 9 -0.116 0.023 5.2209 0.815 KiÓm ®Þnh tÝnh chuÈn cña phÇn d­: Gi¸ trÞ JB=0.98604 < nªn kÕt luËn phÇn d­ cña hµm håi quy trong m« h×nh trªn ph©n bè chuÈn. Tõ nh÷ng kiÓm ®Þnh ®· ®­îc tho¶ m·n cho phÐp kÕt luËn m« h×nh 2 cã thÓ tin cËy ®Ó ph©n tÝch vµ dù b¸o C¬ së d÷ liÖu ®­îc dïng trong viÖc ­íc l­îng m« h×nh 2 obs GDPr VDTXHr BIENGIA 1990 131968.0 16607.60 0.000000 1991 139634.0 21940.10 0.000000 1992 151782.0 30963.20 0.000000 1993 164043.0 45421.30 0.000000 1994 178534.0 51834.80 0.000000 1995 195567.0 60757.00 0.000000 1996 213832.0 67489.30 0.000000 1997 231263.0 79204.60 1.000000 1998 244594.0 75579.70 1.000000 1999 256269.0 79094.60 1.000000 2000 273582.0 91800.00 1.000000 Trong ®ã: GDPr: gi¸ trÞ tæng s¶n phÈm quèc néi ®­îc tÝnh theo gi¸ cè ®Þnh n¨m 1994. VDTXHr: Tæng vèn ®Çu t­ toµn x· héi ®­îc ®iÒu chØnh vÒ gi¸ cè ®Þnh n¨m 1994. BIENGIA: biÕn gi¶ ®¹i diÖn cho cuéc khñng ho¶ng tµi chÝnh ch©u ¸ n¨m 1997. Danh môc tµi liÖu tham kh¶o Gi¸o tr×nh kinh tÕ ph¸t triÓn – Tr­êng ®¹i häc kinh tÕ Quèc d©n Hµ Néi. Gi¸o tr×nh kinh tÕ häc vÜ m« - Tr­êng ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n Hµ Néi Gi¸o tr×nh Kinh tÕ l­îng tËp 1,2 -NguyÔn Quang Dong / §H Kinh tÕ quèc d©n. B¸o c¸o kinh tÕ n¨m 1998 - ViÖn nghiªn cøu qu¶n lý kinh tÕ trung ­¬ng. Kinh tÕ ViÖt Nam 1991-2000 qua c¸c con sè\ kinh tÕ 2000-2001\ thêi b¸o kinh tÕ ViÖt Nam. Gi¸o tr×nh kinh tÕ häc ®Çu t­- Tr­êng §¹i häc kinh tÕ quèc d©n Hµ Néi. J.M Keynes Lý thuyÕt tæng qu¸t vÒ viÖc lµm, l·i suÊtt vµ tiÒn tÖ, ViÖn nghiªn cøu qu¶n lý kinh tÕ trung ­¬ng, 1995.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docnhom2.doc
  • pptslidenhom2.ppt
Luận văn liên quan