Xây dựng cơ cấu thị trường theo hướng đa dạng hóa thị trường, đa dạng hóa
bạn hàng, giảm mạnh tỷ trọng các thị trường trung gian, tăng nhanh tỷ trọng
các thị trường tiêu thụ trực tiếp, có nhu cầu thủy sản lớn. Quan tâm nghiên
cứu, tìm hiều nhu cầu thủy sản của các thị trường xuất khẩu chủ lực. Từ đó có
những cơ chế, chính sách, biện pháp cụ thể để phát triển, điều chỉnh cơ cấu
chủng loại thủy sản xuất khẩu. Xây dựng và phát triển cơ cấu thị trường xuất
khẩu hợp lý không lệ thuộc quá nhiều vào thị trường nào.
65 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2355 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giải pháp thu hút vốn đầu tưtrực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực Thuỷ sản của Việt Nam thời kỳ hậu WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n có
chuyển biến lớn về nhiều mặt: số lượng doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn xuất
khẩu vào các thị trường khó tính (EU, Mỹ, Nhật Bản…) tăng hai lần so với
trước; hàng thủy sản Việt Nam đã có mặt tại 130 quốc gia và vùng lãnh thổ;
sản phẩm xuất khẩu đa dạng hơn về chủng loại.
Tuy nhiên, xuất khẩu Thuỷ sản cũng còn nhiều thách thức, trong đó chủ yếu
là các hàng rào kỹ thuật mới từ các thị trường nhập khẩu đòi hỏi ngày càng
cao. Bởi vậy, các doanh nghiệp Thuỷ sản phải không ngừng đổi mới công nghệ để
đáp ứng yêu cầu ngày càng khắt khe của thị trường. Bên cạnh đó, cũng cần có sự
phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản lý và doanh nghiệp để siết chặt công tác
kiểm tra, kiểm soát an toàn vệ sinh chất lượng hàng thủy sản. Có làm tốt được
điều này, năm 2008 mới có thể đạt được mục tiêu kim ngạch xuất khẩu khoảng
4,25 tỷ USD. Ngành thủy sản cũng phải đẩy mạnh sử dụng các tiến bộ công nghệ
sinh học để phát triển nuôi trồng thủy sản trên quy mô lớn, giảm thuế nhập khẩu
thủy sản để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp giải quyết vấn đề thiếu nguyên
liệu, đa dạng mặt hàng và tăng cường chế biến hàng có giá trị gia tăng cao. Trong
kế hoạch phát triển giai đoạn 2010-2020, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
đặt mục tiêu, giá trị xuất khẩu của riêng thủy sản phải đạt tối thiểu 7 tỷ USD (gấp
đôi năm 2007), đòi hỏi ngành thủy sản phải có những bước chuyển cơ bản trong
tư duy phát triển kinh tế thủy sản bền vững
Bảng 6 : Giá trị xuất khẩu Thuỷ sản 2000-2007
Năm Giá trị xuất khẩu (tỷ USD) Tốc độ tăng trưởng (%)
2000 1,041 -
2001 1,760 25,55
2002 2,013 14,39
2003 2,241 11,20
2004 2,398 7,01
2005 2,65 10,50
2006 3,2 20,75
2007 3,5 9,38
Nguồn: Bộ Thủy sản.
2. Cơ cấu vốn đầu tư.
Bảng 7 : FDI trong ngành Thủy sản (1996 – 2005).
Đơn vị triệu USD
Thời kỳ 1996 – 2000 2001 - 2005
Khai thác 132.81 191.19
Nuôi trồng 277.63 876.71
Chế biến xuất khẩu 91.57 93.27
Quản lý ngành 15.26 39.38
Tổng số 467.28 1200
Nguồn: Bộ Thủy sản.
Hầu hết các dự án thủy sản có quy mô vốn trung bình và nhỏ, khoảng 3 triệu
USD và có tỷ lệ giải thể cao. Trong số 143 dự án đăng ký đầu tư vào ngành
thủy sản đã có đến 60 dự án giải thể trước thời hạn, chiếm tỷ lệ 42%. Tỷ lệ
này cao hơn rất nhiều so với mức trung bình chung của lĩnh vực nông-lâm-
thủy sản là 23%. Mức độ rủi ro và khó khăn trong đầu tư vào ngành thủy sản
ở Việt Nam thể hiện rất rõ khi số dự án được cấp phép trong ngành này năm
2004 và 6 tháng đầu năm 2005 chỉ là 5 dự án với quy mô vốn đầu tư rất nhỏ,
trung bình 1 triệu USD/1 dự án.
Trong 10 năm qua, tình hình thu hút FDI vào Thuỷ sản có xu hướng tăng qua
các giai đoạn. Giai đoạn 1996-2000 khai thác mới chỉ thu hút được 132,81
triệu USD, một con số chiếm khá nhỏ so với tổng số vốn FDI thu hút vào Việt
Nam trong giai đoạn này, nhưng đến giai đoạn 2001-2005 số vốn FDI thu hút
vào Thuỷ sản tuy không đáng kể so với tỏng FDI vào Việt Nam nhưng nó
cũng đã tăng lên một cách đáng kể 191.19 triệu USD.
Riêng về mặt nuôi trồng Thuỷ sản lại được chú ý và đầu tư thích đáng, giai
đoạn 1996-2000 đầu tư vào lĩnh vực Thuỷ sản là 277,63 triệu USD chiếm
59,41% tổng số vốn FDI thu hút vào lĩnh vực thuỷ sản. Vì nuôi trồng Thuỷ
sản của Việt Nam được thiên nhiên ưu đãi cho những điều kiện thuận lợi về
mặt địa lý cũng như các khu nuôi trồng thích hợp. Chính vì vậy nuôi trồng
Thuỷ sản của Việt Nam được đầu tư nhiều so với các ngành khác trong cơ cấu
thuỷ sản. Sự phát triển của nghề nuôi trồng Thuỷ sản càng được quan tâm chú
ý hơn trong giai đoạn 2000-2005 số vốn đầu tư vào Thuỷ sản tăng một cách
nhanh chóng lên tới 876,71 triệu USD tăng gấp 3,15 lần so với giai đoạn
1996-2000 chiếm 73,06% trong tổng số vốn thu hút vào FDI. Đây là một con
số khá cao cho đầu tư FDI vào ngành nuôi trồng. Đơn thuần vì lĩnh vực nuôi
trồng Việt Nam quá thuận lợi cho các doanh nghiệp FDI đầu tư vào lĩnh vực
này, với thiên nhiên khí hậu nhiệt đới thích hợp với nhiều loại Thuỷ sản có
giá trị xuất khẩu, vì vậy mà nuôi trồng Thuỷ sản Việt Nam được chú ý đầu tư
hơn so với các lĩnh vực khác.
Trong lĩnh vực chế biến Thuỷ sản thì lại được đầu tư rất ít riêng giai đoạn
1996-2000 chỉ thu hút được 91,57 triệu USD vào lĩnh vực chế biến thuỷ sản,
sang giai đoạn 2000-2005 thì vẫn chỉ thu hút được 93,27 triêu USD và lĩnh
vực chế biến. Do vậy mà ngành Thuỷ sản vẫn còn nhiều khâu yếu kém trong
quá trình chế biến Thuỷ sản do không được đầu tư thích đáng với những công
nghệ hiện đại tầm cỡ thé giới. Khâu chế biến yếu kém làm cho giá trị xuất
khẩu Thuỷ sản của Việt Nam giảm hẳn thu với nhiều nước cùng xuất khẩu
thuỷ sản.
Đặc biệt hơn, trong cách quản lý còn yếu kém hơn, chỉ thu hút và phân bổ
15,26 triệu USD và lĩnh vực quản lý Thuỷ sản chiếm khoảng 3,27% trong
tổng số vốn FDI được đầu tư vào ngành thuỷ sản. Sang đến giai đoan 2000-
2005 vốn đầu tư vào lĩnh vực quản lý cũng tăng lên đáng kể là 39,38 triệu
USD chiếm 3,28% trong tổng số 1200 triệu USD được đầu tư vào ngành thuỷ
sản.
Theo tổng cục thống kê, năm 2006 có 443 dự án FDI vào Việt Nam với tổng
số vốn là 4,44 tỷ USD, trong đó khu vực dịnh vụ có 193 dự án với tổng số
vốn là 1,61 tỷ USD, còn lại được rót vào khu vực nông lâm nghiệp và thuỷ
sản, nhưng trong đó Thuỷ sản chỉ chiếm một phần nhỏ trông tổng số vốn
đước đầu tư vào nông nghiệp.
3. Theo nước đầu tư.
Cho đến nay, đã có 50 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp vào ngành
nông – lâm – ngư nghiệp nước ta, trong đó, các nước châu Á ( Đài Loan, Nhật
Bản, Trung Quốc, Hồng Kông,..) chiếm 60% tổng vốn đăng ký vào ngành
nông nghiệp (riêng Đài Loan là 28%). Các nước thuộc EU đầu tư vào Việt
Nam đáng kể nhất gồm có Pháp (8%), quần đảo British Virgin Islands (11%).
Một số nước có ngành nông nghiệp phát triển mạnh (Hoa Kỳ, Canada,
Australia) vẫn chưa thực sự đầu tư vào ngành nông nghiệp nước ta.
Bảng 8 :Đối tác ĐTNN trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp ở Việt
Nam
0
100
200
300
400
500
600
700
800
D
ai
L
oa
n
Au
st
ra
lia
C
an
ad
a
D
uc
H
a
La
n
Ha
n
Q
uo
c
Ho
ng
C
on
g
H
oa
K
y
Ita
lia
N
ga
M
al
ay
si
a
N
a
Uy
N
ha
t B
an
Ph
ap
Si
ng
ap
or
e
Th
ai
la
n
Th
uy
S
y
Tr
un
g
Q
uo
c
An
h
M
il
li
o
n
s
Von dang ky Von thuc hien
Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài- Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Qua bảng biểu ta thấy các nước đầu tư vào lĩnh vực nông lâm thuỷ sản rất ít,
trong đó thuỷ sản chiếm tỷ lệ khá nhỏ so với đầu tư trong nông nghiệp. Nhìn
từ bảng biểu ta có thể thấy Đài Loan là nước đầu tư vào Việt Nam nhiều nhất
trong lĩnh vự này với tổng số vốn khoảng 750 triệu USD, nhưng trong đó số
vốn thự hiện là khoảng 350 triệu USD chiếm 46,67% tổng số vốn của Đài
Loan rót vào Việt Nam đầu tư cho lĩnh vực này.
Tiếp theo ngay sau đó là Thái Lan với tổng số vốn đầu tư vào ngành là
khoảng 470 triệu USD, nhưng số vốn thực hiện chỉ là 180 triệu USD chiếm
38,29% so với tổng số vón mà Thái Lan đầu tư vào Việt Nam. Bên cạnh đó có
các nước như Pháp Singapora, Hoa Kỳ, Hồng Kông, Nhật Bản, Hàn Quốc…
cũng đầu tư khá nhiều vào Việt Nam.
Các nước đầu tư vào Việt Nam đều có một tình trạng chung đó là tiền vốn đầu
tư vào các dự án thì nhiều, nhưng số vốn thực tế được sử dụng lại rất ít so với
nguồn vốn được đăng ký đầu tư, do vậy mà các dự án đầu tư vào lĩnh vực
thuỷ sản thường hay bị chậm trễ, khả năng sử dụng nguồn vốn cho các dự án
của Việt Nam còn rất nhiều yếu kém, dẫn đến tình trạng thiếu nguồn vốn đầu
tư cho các dụ án cấp bách, nhiều dự án phải ngừng hoạt động. Sự chuyển giao
công nghệ còn chậm dẫn đến các công nghệ phục vụ cho nuôi trồng chế biến
thuỷ sản còn nhiều lặc hậu, việc xuất khẩu Thuỷ sản của Việt Nam còn nhiều
hạn chế do mẫu mã và hạn ngạch kinh tế của nhiều nước áp đặt cho Việt
Nam.
Sau khi ra nhập ổ chức thương mại thế giới WTO, Việt Nam đã có những
bước đi quan trong trong lĩnh vực thu hút vốn đầu tư nước ngoài FDI. Kể từ
sau khi ra nhập WTO được 1 năm, thì năm 2007 có thể coi là năm thành công
nhất trong lĩnh vực thu hút FDI vào Việt Nam. Trong năm 2007 FDI vào Việt
Nam đạt 13 tỷ USD, đây là con số kỷ lục từ trước nhưng đầu tư vào lĩnh vực
nông nghiệp chỉ có vẻn vẹn 40 dự án trong tổng số 1.445 dự án mới được cấp
phép, trong đó số vốn FDI đầu tư cho lĩnh vực nuôi trồng và chế biến thuỷ sản
chỉ chiếm 8,4% trong tổng sỗ vốn đầu tư vào ngành Thuỷ sản.
Nhưng việc gia nhập WTO cũng đã giúp cho Việt Nam có một vị thế trên
chính trường quốc tế, là điểm tin cạy để đầu tư, là nơi đến an toàn cho các
nước muốn đầu tư vào Việt Nam.
III : ĐÁNH GIÁ CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI THU HÚT FDI
VÀO NGÀNH THUỶ SẢN.
1. Đánh giá về cơ chế, chính sách.
Trong bối cảnh nước ta gia nhập WTO, tăng cường thu hút FDI rất cần thiết
cho mục tiêu tạo dựng một nền nông nghiệp hàng hóa mạnh, hiệu quả cao trên
cơ sở áp dụng công nghệ tiên tiến để làm ra các sản phẩm có khả năng cạnh
tranh. Điều này ai cũng thấy được, tuy nhiên đến nay nước ta vẫn chưa tạo
dựng được cơ chế, các điều kiện cần thiết để thu hút vốn FDI vào ngành nông
nghiệp. Năm 2007, ngành nông nghiệp chỉ có hơn 40 dự án trong tổng số
1.445 dự án mới được cấp phép. Cả giai đoạn 1988 - 2007, nông nghiệp mới
thu hút khoảng 933 dự án với tổng vốn 4,4 tỷ USD, đáng buồn hơn là trong số
vốn ít ỏi đó, chỉ có khoảng 2 tỷ USD được giải ngân. Do luôn tiềm ẩn rủi ro
từ nhiều phía (điều kiện tự nhiên, thị trường, lãi suất thấp, thu hồi vốn chậm
vì phải theo chu kỳ cây trồng - vật nuôi...) nên có tới 30% số dự bị giải thể so
với mức bình quân chung của cả nước là 20%.
Nguyên nhân của tình trạng trên là do sự yếu kém trong hệ thống quản lý,
chưa có chiến lược, cơ chế, đề xuất các dự án; chưa theo dõi sát sao để giúp
đỡ, giải quyết kịp thời những vướng mắc trong quá trình xúc tiến và thực hiện
các dự án FDI; năng lực sản xuất của lao động các địa phương còn thấp, tính
rủi ro trong sản xuất cao; cơ sở hạ tầng thiếu đồng bộ... nên dẫn đến tình trạng
nông nghiệp bị bỏ ngỏ. Trong khi đó, đối với các nhà đầu tư nước ngoài, vấn
đề chất lượng sản phẩm và thị trường lại là yếu tố tiên quyết để đưa ra quyết
định đầu tư.
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đang tồn tại nhiều vấn đề, là rào cản đối
với việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Trong Luật Đầu tư
nước ngoài sửa đổi năm 2000, hình thức đầu tư nước ngoài chưa đa dạng và
chưa đáp ứng yêu cầu mở rộng các kênh huy động vốn từ nước ngoài phục vụ
phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, trong lĩnh vực đầu tư, những ưu đãi từ phía
Chính phủ Việt Nam còn tỏ ra quá tràn lan, không trọng điểm, không có chiến
lược đầu tư tổng thể và lâu dài đã tạo ra cơ cấu đầu tư kém hiệu quả, không
phục vụ đúng mục tiêu của chiến lược công nghiệp hóa, đôi khi còn tạo ra sự
cạnh tranh bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp nước ngoài trên thị trường
Việt Nam. Luật Đầu tư nước ngoài của Việt Nam vẫn đang tồn tại những hạn
chế là: những ưu đãi đầu tư chỉ bó hẹp trong một số lĩnh vực nhất định. Do
vậy, cơ cấu ngành nghề và địa phương của các dự án FDI còn có vấn đề.
Trong tổng số vốn FDI thu hút được giai đoạn 2001 - 2003, ngành nông lâm
nghiệp và thủy sản mới chiếm 9,8% số vốn đăng ký, 5,5% số vốn thực hiện.
Hầu hết số dự án và số vốn FDI tập trung trong nghành công nghiệp và xây
dựng.
Về cơ chế khuyến khích hoạt động chuyển giao công nghệ vào lĩnh vực nông
nghiệp và nông thôn, thời gian qua Chính phủ Việt Nam đã có những chính
sách khá mạnh trong việc thu hút vốn FDI và công nghệ hiện đại vào lĩnh vực
này. Chẳng hạn, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam qui định các dự án
thuộc lĩnh vực nuôi trồng nông, lâm, thủy sản, ứng dụng công nghệ sinh học,
chế biến nông sản, lâm sản (trừ gỗ), thủy sản từ nguồn nguyên liệu trong nước
xuất khẩu 50% sản phẩm trở lên, sản xuất các loại giống mới có chất lượng và
hiệu quả kinh tế cao thuộc danh mục dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư và
mức thuế thu nhập doanh nghiệp là 10% lợi nhuận thu được. Ngoài ra, việc
ưu đãi thuế cho các mặt hàng xuất khẩu, chính sách trang trại đã phát huy tác
dụng, chính sách thuế nông nghiệp đã làm yên tâm người nông dân, chính
sách khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư đã giúp cho hàng triệu nông dân
tiếp cận với công nghệ mới, đặc biệt là công nghệ sinh học.... Những chính
sách này đang tạo ra một môi trường sản xuất và kinh doanh hàng nông sản
sôi động, có chiều sâu và hiệu quả ngày càng tăng, làm tăng thêm tính hấp
dẫn của môi trường đầu tư trong lĩnh vực này đối với hoạt động chuyển giao
công nghệ. Ngoài ra, thị trường xuất khẩu cũng đang ngày càng mở rộng cho
hàng nông sản Việt Nam.
2. Đánh giá các tác động môi trường
2.1 Tác động từ hoạt động khai thác hải sản
Xu hướng biến động của nguồn lợi hải sản: Trong giai đoạn 1991 - 2001 tốc
độ tăng số lượng tàu thuyền máy bình quân hàng năm là 6% và tổng cộng suất
tăng bình quân 18%/năm và năng suất bình quân đã giảm từ 0,9 tấn/cv năm
1991 xuống còn 0,43 tấn/cv năm 2001. Cùng với mật độ tàu thuyền khai thác
tăng là hiện tượng khai thác bằng các ngư cụ phạm pháp: mắt lưới quá nhỏ,
mìn, điện, chất hoá học đều gây nên tác động xấu tới nguồn lợi hải sản và môi
trường biển. Kết quả của nhiều cuộc điều tra đều cho thấy tới hơn 50% số ngư
dân được phỏng vấn đều cho rằng sản lượng khai thác có xu hướng giảm.
Mặc dù những con số này không đánh giá chính xác được sự suy giảm nguồn
lợi từ hoạt động khai thác hải sản nhưng vẫn có thể khẳng định rằng khuynh
hướng này chắc chắn đang đe dọa tính bền vững của nguồn lợi Thuỷ sản.
Hàm lượng xianua và dầu trong môi trường nước biển: Theo Báo cáo hiện
trạng môi trường Việt Nam năm 2000 của Bộ Khoa học Công nghệ và Môi
trường thì từ năm 1999, do ngư dân bắt đầu sử dụng xianua trong khai thác
nên có tới 50% số mẫu khảo sát cho thấy có hàm lượng xianua vượt quá giới
hạn cho phép. Mặt khác, với mật độ tàu thuyền khai thác lớn thì lượng chất
thải, dầu, nước dằn tàu xả ra môi trường nước xung quanh cũng là một vấn đề
gây nên ô nhiễm môi trường biển. Bên cạnh đó là các sự cố, tai nạn hàng hải
đều là nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường biển, phá huỷ môi trường sống
thuỷ sinh. Tổng lượng dầu xâm nhập vào môi trường biển Việt Nam năm
1992 là 7.380 tấn, năm 1995 là 10.020 tấn và năm 2000 con số này đã là
17.650 tấn ( Cục môi trường, Trimar –AB )
2.2 Tác động từ hoạt động nuôi trồng Thuỷ sản
Nuôi trồng thuỷ sản mặn lợ được xác định như hướng phát triển mang tính
đột phá của ngành thuỷ sản với mục tiêu tăng tỷ lệ sử dụng mặt nước tiềm
năng cho nuôi trồng thuỷ sản cũng như tăng hơn nữa sản lượng nuôi trồng
thuỷ sản. Vì vậy rất nhiều diện tích rừng ngập mặn, đất trồng lúa đã và đang
được chuyển đổi sang làm đầm nuôi tôm, cùng với các chất thải từ ao nuôi đã
trở thành những nguy cơ gây ô nhiễm hữu cơ nghiêm trọng cho các vùng vên
biển.
Diện tích rừng ngập mặn: Tác động trước tiên có thể kể đến là việc phát
triển nuôi trồng thuỷ sản làm thu hẹp diện tích rừng ngập mặn. Năm 1943 cả
nước có gần 400.000 ha rừng ngập mặn, trong đó rừng ngập mặn ven biển
Nam Bộ chiếm tới 250.000 ha. Do chiến tranh và do con người tàn phá, bao
gồm cả việc phá rừng ngập mặn để làm đầm nuôi tôm, đến năm 2001 cả nước
chỉ còn chưa tới 150.000 ha rừng ngập mặn, trong đó 70% là rừng trồng, chất
lượng rừng ở mức nghèo kiệt. Mất rừng ngập mặn đi đôi với mất cái nôi sinh
trưởng của tôm, cá nhỏ không những ảnh hưởng tới môi trường mà còn dẫn
đến tình trạng suy giảm nguồn lợi hải sản.
Ô nhiễm và nhiễm mặn nguồn nước: Theo điều tra, hầu hết các hộ gia đình
nuôi trồng thuỷ sản đều không tiến hành xử lý nước thải trước khi thải ra môi
trường, trong khi phần lớn họ đều sử dụng các hoá chất trong quá trình nuôi.
Thậm chí ngay cả khi không sử dụng hoá chất thì các chất thức ăn dư thừa,
các chất hữu cơ cũng có thể là nguy cơ gây ô nhiễm nguồn nước. Các loại
phân bón, thức ăn nhân tạo... sử dụng trong nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là
trong nuôi lồng bè ở các vùng với mật độ lồng cao đã làm cho môi trường
nước nuôi ở đây bị ô nhiễm, gây ra dịch bệnh không những cho thuỷ sản nuôi
mà còn cho cả con người sử dụng nguồn nước ô nhiễm này trong sinh hoạt.
Xu hướng thay đổi môi trường: Qua kết quả điều tra 116 hộ nuôi trồng thuỷ
sản, có tới 73,8% cho rằng nuôi trồng thuỷ sản có làm thay đổi môi trường và
điều đáng nói ở đây là các thay đổi đó lại là thay đổi không tốt. Ðây là điều
rất đáng lo ngại cho chất lượng môi trường sinh thái cũng như việc phát triển
và nuôi trồng Thuỷ sản bền vững.
2.3 Tác động từ chế biến thuỷ sản
Ngành chế biến thuỷ sản cũng gây ra khá nhiều tác hại cho môi trường bằng
số lượng lớn nước thải (10-12 triệu m3/năm) và chất thải rắn và phế thải
(khoảng 170.000-180.000 tấn/năm). Ngoài ra, số lượng lớn tiếng ồn, độ ẩm,
nhiệt, khí thải, mùi có nguồn gốc từ các hoạt động chế biến thuỷ sản cũng là
một nguyên nhân đáng kể ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường xung quanh và
cả sức khoẻ người lao động.
Ngành chế biến đã có các bước cải thiện tích cực trong công tác bảo vệ môi
trường như nâng cấp, cải tạo nhà xưởng, đầu tư đổi với trang thiết bị, công
nghệ, áp dụng quy phạm sản xuất tốt-GMP, quy phạm vệ sinh tốt-SSOP,
chương trình quản lí chất lượng HACCP, thực hiện các tiêu chuẩn ngành,
quản lí vệ sinh an toàn thực phẩm trong cả quá trình từ nuôi trồng thuỷ sản
cho tới khâu tiêu thụ sản phẩm cuối cùng. Tuy nhiên, do phần lớn các xí
nghiệp chế biến đã được xây dựng từ lâu, điều kiện tài chính hạn hẹp, công
nghệ và thiết bị xử lí lại quá đắt tiền cộng với công tác quản lí môi trường còn
lỏng lẻo nên kết quả là hiện chỉ có khoảng trên 40 cơ sở trong tổng số các cơ
sở chế biến thuỷ sản trong cả nước có hệ thống xử lí nước thải đáp ứng yêu
cầu chất lượng nước thải sau xử lí (Báo cáo Ðánh giá tác động môi trường
trong chế biến Thuỷ sản năm 2002 Vụ KHCN - Bộ Thuỷ sản).
3. Đánh giá chính sách đối với các nhà đầu tư
Thủ tục hành chính vẫn là một trong những cản trở làm tăng chi phí và làm
nản lòng các nhà đầu tư nước ngoài. Đó là các thủ tục về địa chính, về đầu tư
và xây dựng cơ bản, về thuế, những quy định về thanh tra, kiểm tra, kiểm
toán... Những quy định này thường xuyên thay đổi, không nhất quán và chồng
chéo, gây mối hoài nghi cho các nhà đầu tư nước ngoài về chính sách và luật
pháp của Việt Nam. Trong thời gian gần đây, Chính phủ Việt Nam đã có
nhiều biện pháp để cải cách hành chính, nhưng bộ máy hành chính Nhà nước
ở Việt Nam vẫn được các tổ chức quốc tế đánh giá rất thấp. Theo xếp hạng
của Tổ chức minh bạch quốc tế (TI), mức độ tham nhũng ở Việt Nam năm
2003 xếp thứ 90/130 nước, trong đó hối lộ để mắc diện, nước, điện thoại xếp
thứ 66, hối lộ để vay tín dụng xếp thứ 66, hối lộ liên quan đến cấp giấy phép
xuất nhập khẩu xếp thứ 69. Đây là một nguy cơ làm giảm sút uy tín trong mắt
các nhà đầu tư nước ngoài, là căn bệnh làm đánh mất cơ hội thu hút vốn đầu
tư nước ngoài cất cánh nền kinh tế.
Một nguyên nhân khác không kém phần quan trọng là chính sách chung chưa
thực sự ưu đãi cho đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp. Vấn đề tích tụ ruộng đất
để có vùng sản xuất lớn là yếu tố quyết định để thu hút FDI nhưng rất khó
thực hiện. Tỷ lệ bảo hộ thực tế đối với nông sản quá thấp (dưới 3%) so với
hàng công nghiệp (thậm chí lên tới hơn 200%). Hệ thống bảo hiểm nông
nghiệp hầu như không hoạt động khiến nhà đầu tư ngần ngại khi đổ tiền vào
lĩnh vực vốn nhạy cả và nhiều rủi ro này.
CHƯƠNG III : MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THU HÚT VỐN
ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI VÀO NGÀNH THUỶ SẢN VIỆT
NAM.
I : ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NGÀNH THUỶ SẢN VIỆT NAM.
1. Định hướng.
1.1 Chương trình phát triển đến năm 2010
Phấn đấu trong thời kỳ 2006 – 2010, sản lượng tăng với tốc độ bình quân
3,8%/năm, giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản tăng với tốc độ bình quân
10,63%/năm, lao động nghề cá tăng bình quân 3%/năm. Tổng sản lượng thủy
sản đến năm 2010 sẽ đạt 3,5 - 4 triệu tấn, trong đó: sản lượng nuôi trồng đạt 2
triệu tấn, sản lượng khai thác hải sản đạt 1,5 - 1,8 triệu tấn và sản lượng khai
thác nội địa đạt 0,2 triệu tấn. Giá trị kim ngạch xuất khẩu năm 2010 sẽ đạt 4
tỷ USD. Số lao động nghề cá năm 2010 sẽ đạt 4,7 triệu người.
Theo đó, ngành thủy sản tiếp tục chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng
đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng có giá trị gia tăng cao, giảm dần tỷ trọng
hàng xuất khẩu thô. Trong đó, xuất khẩu Thuỷ sản vừa là mục tiêu, vừa là
động lực để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữa các ngành trong khối
nông nghiệp, thúc đẩy nuôi trồng thủy sản và khai thác hải sản phát triển có
hiệu quả, góp phần nâng cao đời sống và làm giàu cho nhân dân vùng nông
thôn ven biển và hải đảo.
Cụ thể đến năm 2010, phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu
Thuỷ sản bình quân trên 9%/năm; giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 4 - 4,5 tỷ
USD.
Xây dựng và tuân thủ hệ thống các tiêu chuẩn chất lượng từ ao nuôi đến chế
biến sản phẩm xuất khẩu. Phổ biến kiến thức và tổ chức áp dụng trong cả
nước, phấn đấu đến năm 2010, có ít nhất 50% các vùng nuôi Thuỷ sản tập
trung thực hiện hệ thống quản lý theo GAP hoặc các hệ thống quản lý đáp
ứng tiêu chuẩn quốc tế.
Nhà nước có chính sách khuyến khích và huy động các thành phần kinh tế
trong nước và nhà đầu tư nước ngoài, nhằm tập trung vốn đầu tư xây dựng
hình thành các trung tâm nghề cá lớn, trong đó có các trung tâm chế biến
Thuỷ sản ở các tỉnh trọng điểm; đầu tư hệ thống chợ Thuỷ sản tại các vùng và
địa phương trọng điểm nghề cá, các chợ biên giới Việt - Trung, hiện đại hoá
hệ thống thông tin nghề cá; khuyến khích các thành phần kinh tế, các nguồn
lực đầu tư vào sản xuất nguyên liệu, chế biến thuỷ sản.
Định hướng phát triển Thuỷ sản 5 năm 2006 – 2010 được ghi trong Nghị
quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X là: “ Phát triển nuôi trồng Thuỷ sản
theo hướng sản xuất hàng hoá lớn đi đôi với bảo vệ môi trường sinh thái,
chuyển đổi cơ cấu khai thác qua việc lựa chọn ngư trường, loại hình nghề
nghiệp và sản phẩm để nâng cao giá trị hàng hoá, sử dụng hợp lý nguồn lợi,
giảm chi phí, nâng cao sức cạnh tranh, bảo đảm tăng trưởng bền vững.”
Để thực hiện được định hướng trên, ngành Thuỷ sản cần thực hiện tốt một số
giải pháp sau:
Cơ cấu lại ngành nghề khai thác nhằm giảm áp lực nguồn lợi Thuỷ sản ven bờ
bằng cách phát triển khai thác các nguồn lợi chưa được khai thác ở vùng viển
xa bờ và tiếp tục chuyển một bộ phận ngư dân từ đánh bắt sang nuôi trồng
hoặc làm dịch vụ, phục vụ du lịch…
Rà soát và điều chỉnh qui hoạch nuôi trồng thuỷ sản, gắn qui hoạch phát triển
Thuỷ sản với phát triển thuỷ lợi, đê điều trên địa bàn, nhằm bảo đảm an toàn
cho các công trình thuỷ lợi, đê điều, nâng cao hiệu quả đầu tư và sử dụng có
hiệu quả đất đai, mặt nước vào nuôi trồng thuỷ sản.
Trên cơ sở qui hoạch của từng vùng, lấy kinh tế hộ, kinh tế trang trại là hình
thức tổ chức sản xuất chủ yếu trong nuôi trồng thủy sản, gắn với phát triển
các hình thức kinh tế hợp tác nhằm hạn chế những tác động của cơ chế thị
trường, giúp nhau trong sản xuất, phòng chống thiên tai, bảo vệ môi trường
sinh thái.
Tăng cường hoạt động khuyến ngư về vốn, giống, kỹ thuật nuôi trồng, chế
biến, tiếp cận thị trường… Trong đó cần chú ý hơn nữa đến việc giới thiệu
các điển hình tiến tiến, làm ăn có hiệụ quả nhằm giúp nông dân có thể tiếp cận
được dễ dàng kiến thức và kinh nghiệm trong phát triển thuỷ sản.
Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, sản xuất giống, thức ăn và vật tư nuôi trông
Thuỷ sản . Riêng về giống phấn đấu bảo đảm cung cấp đủ, kịp thời với giá
hợp lý và bảo vệ tốt các bãi giống, bãi đẻ tự nhiên, các nguồn gien Thuỷ sản
quí hiếm.
Phát triển việc nuôi trồng và chế biến Thuỷ sản một cách bền vững nhằm bảo
vệ nguồn lợi Thuỷ sản và không làm ô nhiễm môi trường đất, nước và không
khí.
Bảng 9 : Dự kiến phát triển kinh tế thủy sản đến năm 2010
(GDP tạm tính cho khối Địa phương- số tròn)
Số TT Danh mục ĐVT 1995 2000 2005 2010
I Khối địa phương
1 GDP toàn ngành 1000USD 135.5 203.12 307.5 477.45
2 GDP/người T.sản USD/năm 473 652 949 1.257
3 Mức tăng GDP/năm % 6 10 10 11
4 TGTSL toàn ngành Tỷ đồng 2.348 3.547 5.337 8.221
a Khai thác - 1.127 1.614 2.45 4.005
b Nuôi trồng - 261 631 1.003 1.644
c Chế biến - 359 620 1.035 1.474
d HC-DV-T.thụ - 601 682 849 1.098
5 TGTTS cố định - 11.431 12.949 16.051 24.078
II Khối trung ương Tỷ đồng 753 979 1.195 1.476
a Khai thác - 71 152 225 342
b Chế biến - 95 142 183 246
c HC-DV-T.thụ - 587 685 787 888
III TGTTS toàn vùng Tỷ đồng 3.101 4.526 6.532 9.697
Nguồn : Bộ KH và ĐT
1.2 Định hướng phát triển đến năm 2020
Thủ tướng Chính phủ vừa phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển ngành
Thuỷ sản đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020.
Phát triển ngành Thuỷ sản thành một ngành sản xuất hàng hoá lớn, có năng
suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh cao, có cơ cấu sản phẩm đa dạng, đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng tăng trong nước, đồng thời đẩy mạnh xuất
khẩu, tiếp tục giữ vững là ngành có kim ngạch xuất khẩu cao và có tỷ trọng
GDP đáng kể trong các ngành nông, lâm, ngư nghiệp trong các năm tới.
Song song đó, phát triển ngành thủy sản nhanh và bền vững trên cơ sở khai
thác, sử dụng tốt mọi tiềm năng về đất đai, mặt nước và lao động, đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá; áp dụng nhanh các tiến bộ khoa học - công
nghệ vào sản xuất; tiếp tục chuyển dịch cơ cấu các ngành nghề sản xuất, kinh
doanh, có cơ cấu hợp lý giữa khai thác với nuôi trồng, gắn sản xuất với chế
biến, tiêu thụ sản phẩm và bảo vệ môi trường sinh thái.
Đến năm 2020, tiếp tục phát huy lợi thế về tiềm năng, trên cơ sở công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, phát triển các vùng sản xuất tập trung gắn với phát triển
công nghiệp chế biến và dịch vụ nghề cá, hình thành các trung tâm nghề cá
lớn tại một số vùng trọng điểm ven biển và đồng bằng Nam Bộ; đa dạng hóa
cơ cấu sản phẩm thủy sản chế biến, đồng thời phát triển sản xuất một số loại
sản phẩm chủ lực mang tính đặc trưng của Thuỷ sản Việt Nam, có giá trị và
sức cạnh tranh cao để chiếm lĩnh thị trường xuất khẩu, giữ vững là ngành có
kim ngạch xuất khẩu cao; đồng thời với phát triển khai thác xa bờ hợp lý, ổn
định khai thác vùng ven bờ, phát triển mạnh nuôi trồng thuỷ sản, đa dạng hình
thức nuôi và cơ cấu giống nuôi, nhất là nuôi trên biển, nhằm khai thác tiềm
năng còn lớn, giải quyết việc làm lao động nông thôn ven biển, có thu nhập
ổn định, góp phần quan trọng bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản, bảo vệ môi trường
sinh thái ven biển bền vững, đồng thời là nguồn cung cấp chủ yếu nguyên liệu
cho xuất khẩu.
Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Thuỷ sản phối hợp với các Bộ, ngành, địa
phương và các hội, hiệp hội để thống nhất triển khai thực hiện Chương trình;
hướng dẫn, chỉ đạo các địa phương phát triển sản xuất trên các lĩnh vực nuôi
trồng, khai thác, chế biến theo đúng quy hoạch tổng thể phát triển ngành Thuỷ
sản đã được phê duyệt, các quy hoạch trong từng lĩnh vực cụ thể.
Các Bộ, ngành: Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước có trách
nhiệm cân đối, bố trí ngân sách nhà nước và nghiên cứu các cơ chế, chính
sách tạo điều kiện Bộ Thuỷ sản, các địa phương thực hiện các nhóm giải pháp
về cơ chế, chính sách tài chính - tín dụng và đầu tư, đảm bảo việc triển khai
thực hiện Chương trình thuận lợi và hiệu quả.
UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo các cơ quan chức
năng của địa phương xây dựng và thực hiện Chương trình của địa phương
mình, trên cơ sở mục tiêu, nhiệm vụ của Chương trình này.
2. Mục tiêu.
Vùng có tiềm năng lớn về thủy sản trên cả 3 vùng sinh thái mặn, lợ, ngọt;
phát huy hết năng lực cơ sở vật chất kỹ thuật, tiềm lực về lao động hiện có, có
lợi thế về vị trí trung tâm kinh tế, khoa học- kỹ thuật và cửa ngõ giao lưu với
bên ngoài. Vì vậy, cần phải tăng cao sản lượng đánh bắt và giá trị sản lượng
xuất khẩu thủy sản để tích luỹ nội bộ ngành cho tái đầu tư phát triển và thực
hiện nghĩa vụ với nhà nước ngày một cao.
Nghề cá nhân dân có vị trí trọng yếu, đặc biệt trong các lĩnh vực khai thác,
nuôi trồng, ươm giống các loại, chế biến truyền thống và các dịch vụ, hậu
cần- tiêu thụ trong dân. Nhà nước đảm nhận vai trò chủ đạo trong khai thác
vùng biển khơi: chế biến thủy sản CN có trình độ cao (chế biến đông lạnh,
thực phẩm ăn liền...), sản xuất giống, thức ăn nuôi, các cơ sở hậu cần cảng,
bến cá, cơ khí tàu thuyền loại lớn, sản xuất lưới sợi, bao bì, cung ứng vật tư
ngoại nhập, cơ điện lạnh, đào tạo, chuyển giao công nghệ và thông tin quảng
bá tiến bộ kỹ thuật cũng như hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích nghề
cá phát triển.
Đối với khai thác thủy sản
Gia tăng năng lực khai thác biển bằng cách tăng cường đầu tư phát triển nhiều
thuyền nghề lớn, tiên tiến có khả năng khai thác vùng biển khơi, bên cạnh đó
là chuyển đổi, sắp xếp lại cơ cấu nghề nghiệp khai thác vùng gần bờ cho phù
hợp với đặc điểm và khả năng nguồn lợi, nhằm bảo vệ lâu dài tài nguyên hải
sản vùng ven bờ.
Kết hợp giữa đánh bắt với bảo vệ chủ quyền, an ninh vùng biển, nhất là
những vùng có các bãi cá, bãi tôm quan trọng, từng bước làm chủ vùng đặc
quyền kinh tế biển, góp phần cùng hải quân ngăn chặn tàu thuyền nước ngoài
đánh bắt trái phép trong vùng biển nước ta.
Đối với nuôi trồng thủy sản
Với diện tích mặt nước lên đến 62,3 ngàn ha (chưa kể các hồ chứa nước sẽ
xây dựng) vùng có tiềm năng cần nhân rộng mô hình nuôi tiên tiến có năng
suất cao và sớm đưa các tiến bộ kỹ thuật và công nghệ mới vào sản xuất đại
trà. Đối với các mặt nước lớn (hồ chứa), áp dụng hình thức sản xuất kinh
doanh tổng hợp với các ngành kinh tế khác, trong đó việc thả giống bổ sung
hàng năm để tái tạo nguồn lợi cần nghiên cứu sản xuất và ươm các loại giống
nuôi, nhanh chóng ổn định bộ giống chủ lực cả về số lượng và chất lượng.
Nghiên cứu mở rộng cơ cấu bộ giống (cá bống tượng, cá lóc, cá chẽm, tôm
kẹt, cua, sò...) theo nhu cầu phát triển chung. Xây dựng vùng thực sự trở
thành trung tâm giống lớn của miền Nam.
Đối với chế biến - tiêu thụ thủy sản
Giảm thất thoát sau thu hoạch, tiết kiệm tối đa nguồn nguyên liệu trong chế
biến các sản phẩm thô bằng cách đầu tư chiều sâu về kỹ thuật và đổi mới công
nghệ, để nâng cao chất lượng và đa dạng hóa cơ cấu mặt hàng, tạo ra nhiều
sản phẩm thủy sản chế biến có giá trị cao (chú trọng các sản phẩm thực phẩm
ăn liền chế biến Công nghiệp (sản phẩm xuất tới các siêu thị) có mẫu mã, bao
bì phù hợp với đặc điểm thị hiếu của từng thị trường trong ngoài nước.
Gia tăng sản lượng nước đá cho bảo quản sản phẩm trong khai thác vận
chuyển. Nhanh chóng áp dụng rộng rãi các phương pháp mới về bảo quản
thủy sản tươi và sống(bằng hóa chất, gây mê...).
Giữ vững thị trường xuất khẩu truyền thống như Nhật Bản, Hồng Kông, Đài
Loan, Thái Lan... mở rộng thêm nhiều thị trường ở các nước trong khu vực,
các nước Châu Âu, Bắc Mỹ. Đối với thị trường trong nước, bên cạnh sự đảm
bảo thỏa mãn nhu cầu các thành phố lớn, thị xã, KCN, khu du lịch, cần tập
trung nhiều hơn cho thị trường nông thôn, vùng cao, vùng xa.
Đối với hậu cần - dịch vụ
Củng cố mạng lưới đóng tàu sửa thuyền và máy thủy hiện có để đáp ứng nhu
cầu mua sắm. Đầu tư chiều sâu để nâng cấp và đổi mới công nghệ các cơ sở
sản xuất, gia công lưới sợi, bao bì và cơ điện lạnh hiện có. Từng bước khôi
phục và phát triển sản xuất phụ tùng, ngư cụ khai thác biển và nội đồng như
phao, chì, lưỡi câu.
Đầu tư nâng cấp, mở rộng công suất và năng lực các cảng, bến cá, chợ cá hiện
có. Sớm hoàn thành đầu tư xây dựng cảng cá Rạch Lở - Vũng Tàu và Bến
Đàm ở Côn Đảo. Biến vị trí các cảng, bến cá thực sự trở thành trung tâm hậu
cần nghề cá cho từng khu vực. Có kế hoạch nạo vét mở rộng thông luồng lạch
và bảo vệ môi trường nước các vùng bến cảng.
Tranh thủ sự trợ giúp vốn và kỹ thuật từ bên ngoài thông qua liên doanh liên
kết, hợp tác đầu tư từ nhiều nguồn, nhằm đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh
tế thủy sản trong vùng
II : ĐỊNH HƯỚNG THU HÚT FDI VÀO NGÀNH THUỶ SẢN
1. Nhu cầu thu hút FDI vào ngành thuỷ sản.
1.1 Nhu cầu phát triển ngành
Vừa qua Việt Nam được công nhận đứng trong tốp 10 nước có sản lượng xuất
khẩu thủy sản lớn nhất thế giới, với tổng kim ngạch đạt tới 3,75 tỷ đô-la Mỹ.
Vào đầu vụ sản xuất thủy sản năm qua, ít người tin rằng xuất khẩu lại đạt và
vượt mức hơn 3 tỷ đô-la Mỹ. Bởi vì trên tất cả các lĩnh vực nuôi trồng, đánh
bắt và xuất khẩu thủy sản đều gặp khó khăn, nhiều lúc tưởng chừng không thể
vượt qua được. Bên cạnh đó là thời tiết khí hậu bất thường, mưa bão triền
miên, lũ chồng lên lũ, ảnh hưởng nặng nề đến việc nuôi trồng và đánh bắt
thủy, hải sản xuất khẩu. Tuy nhiên, trong những khó khăn chồng chất đó, các
đơn vị sản xuất, xuất khẩu thủy sản vẫn chủ động, tỉnh táo, bảo vệ và phát
triển sản xuất, xuất khẩu nên đã đạt được sự tăng trưởng về xuất khẩu thủy
sản tới 3,75 tỷ đô-la Mỹ, tăng 25% so với cùng kỳ năm trước...
Trước hết, sự tăng trưởng mạnh mẽ về xuất khẩu thủy sản trong năm qua
chính là do cả một quá trình quy hoạch sản xuất, tạo dựng nền tảng kinh tế kỹ
thuật, xây dựng cơ chế chính sách, khuyến khích, hỗ trợ vốn đầu tư trong và
ngoài nước thực hiện khuyến ngư, chủ động hội nhập quốc tế... trên cả tầm vĩ
mô và vi mô. Chỉ tính riêng trong 5 năm qua, Nhà nước đã đầu tư cho nuôi
trồng, khai thác, chế biến thủy sản gần 10.000 tỷ đồng. Chính phủ đã phê
duyệt quy hoạch và chương trình phát triển nuôi trồng, đánh bắt thủy sản tới
năm 2010. Diện tích, chất lượng thủy sản, cục diện sản xuất, kinh doanh tăng
mạnh. Đồng thời, sau khi gia nhập WTO công tác tiếp thị, xúc tiến thương
mại, mở rộng thị trường, các giải pháp hòa nhập, giữ vững thương hiệu...
được triển khai hiệu quả nên đã rộng đường xuất khẩu thủy sản hơn trước.
Hiện nay trên các bình diện về sản xuất, nuôi trồng, đánh bắt, chế biến thủy
hải sản xuất khẩu ở nước ta đã có những nền tảng cơ bản, thuận lợi. Theo điều
tra sơ bộ của ngành thủy sản, riêng cá nước ngọt có tới gần 550 loài, cá nước
lợ, nước mặn có hơn 180 loài. Phương thức chăn thả thủy sản khá đa dạng,
phong phú được triển khai rộng rãi trên nhiều diện tích mặt nước: ao, hồ,
đầm, phá, sông suối, vùng ven biển, vùng rừng ngập mặn... Nếu như năm
2002, thủy sản xuất khẩu của cả nước mới chỉ có mặt ở thị trường của 60
quốc gia và vùng lãnh thổ thì giờ đây đã được hiện diện trên 130 quốc gia và
vùng lãnh thổ, khẳng định vị trí của thương hiệu thủy sản Việt Nam. Đồng
thời, sản phẩm thủy sản xuất khẩu cũng đa dạng, nhiều chủng loại hàng hóa
hơn trước gồm các sản phẩm đông lạnh, sản phẩm chế biến sẵn, hàng chục
sản phẩm tôm các loại, vài chục sản phẩm cá da trơn, cá đặc sản... Đã có thời
kỳ nhiều doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản của nước ta phải điêu đứng vì các
vụ kiện chống phá giá, các vụ “phản hồi” về chất lượng sản phẩm, nhiều dư
lượng thuốc kháng sinh... Hiện nay tình trạng đó đã được cải thiện rõ rệt do
công tác quản lý, áp dụng khoa học kỹ thuật và xúc tiến thương mại, đấu
tranh trên thương trường quốc tế tạo ra. Các yếu tố này đã góp phần to lớn
trong cục diện thương trường xuất khẩu thủy sản trong giai đoạn vừa qua.
1.2 Nhu cầu đổi mới công nghệ
Khoa học công nghệ trong ngành thuỷ sản đã tiến một bước dài và đạt được
nhiều kết quả và thành tựu đáng tự hào. Công tác quản lý và tổ chức hoạt
động Khoa học công nghệ đã từng bước được đổi mới theo tinh thần của Luật
Khoa học công nghệ; Các tiến bộ kỹ thuật của ngành được xây dựng thành
các tiêu chuẩn, quy trình kỹ thuật phổ biến cho sản xuất. Các nhiệm vụ nghiên
cứu, triển khai đã dần được gắn kết với đào tạo cán bộ khoa học và đáp ứng
nhu cầu thị trường.
Ðặc biệt, công tác Khoa học công nghệ đã kết hợp với hoạt động khuyến ngư
để chuyển giao các kết quả nghiên cứu vào sản xuất, quan trọng trong việc
đưa thuỷ sản thành một ngành sản xuất hàng hoá phục vụ xuất khẩu và tiêu
thụ nội địa, góp phần xứng đáng vào chương trình xoá đói giảm nghèo. Các
nhà khoa học đã tìm tòi, xây dựng và áp dụng công nghệ sinh sản nhân tạo
một số loài tôm, cá nuôi, triển khai việc giữ giống, di giống, thuần hoá, chọn
và lai tạo giống thuỷ sản mới và đã tạo được khả năng hoàn thiện tập đoàn cá
nuôi của Việt Nam; Nhiều đề tài nghiên cứu đã góp phần xây dựng hệ thống
chế biến thủy sản tiên tiến; Chất lượng, an toàn vệ sinh thuỷ sản đã đáp ứng
các đòi hỏi khắt khe của thị trường; Công tác điều tra biển đã có đóng góp
đáng kể cho nhu cầu quy hoạch, và quản lý ngành.
Tuy nhiên, so với sự phát triển mạnh mẽ và những thành tựu lớn lao của toàn
ngành thuỷ sản, công tác Khoa học công nghệ vẫn chưa thực sự đáp ứng được
nhu cầu, việc quản lý nhiều lúc tỏ ra bị động, nặng về giải pháp tình thế. Công
tác nắm bắt các hoạt động Khoa học công nghệ ở các địa phương còn yếu,
quản lý công tác nhập và chuyển giao công nghệ chưa đạt hiệu quả như mong
muốn. Nghị quyết 16 NQ/BCS của Ban Cán sự Ðảng Bộ Thuỷ sản đã chỉ ra
những hạn chế của công tác Khoa học công nghệ trong ngành Thuỷ sản như
sau :
- Còn thiếu sự gắn kết giữa Khoa học công nghệ và các khoa học kinh tế, xã
hội và nhân văn để giải quyết đồng bộ những vấn đề phát triển của ngành.
- Chưa có nhiều nghiên cứu về nguồn lợi tự nhiên và môi trường sinh thái liên
quan đến thuỷ sản. Ðặc biệt, các nghiên cứu phục vụ khai thác hải sản còn
yếu.
- Liên kết giữa các đơn vị nghiên cứu với các cơ sở sản xuất, kinh doanh chưa
chặt chẽ. Việc áp dụng các kết quả nghiên cứu vào thực tiễn còn chậm.
- Chưa phát huy đồng bộ các nguồn lực phục vụ cho công tác Khoa học công
nghệ như công tác thông tin, xuất bản, các chính sách về quản lý Khoa học
công nghệ …
Những hạn chế trên được đánh giá là do các cấp lãnh đạo chưa thực sự coi
phát triển Khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu, do hạn chế về lực
lượng quản lý, đào tạo và cơ sở vật chất nghiên cứu khoa học và nhiều lý do
khách quan khác.
Chính vì vậy việc thu hút FDI vào để đổi mới công nghệ trong ngành Thuỷ
sản là một nhiệm vụ cấp bách hàng đầu, nó quyết định đến sự phát triển Thuỷ
sản của Việt Nam.
1.3 Nhu cầu đổi mới quản lý
Với thực trạng như hiện nay, các thủ thục hành chính của Việt Nam còn nhiều
bất cập và qua nhiều cửa, mặc dù đã được khắc phục nhưng tàn dư và dư âm
của các nguyên tắc hành chính vẫn còn, chính vì vậy việc thu hút FDI vào
ngành Thuỷ sản để giảm bớt sự phiền hà trong quá trình, nâng cao năng lực
của cán bộ quản lý. Khi nguồn vốn FDI được đầu tư vào ngành Thuỷ sản,
Việt Nam học hỏi được kinh nghiệm quản lý của các nước đầu tư, vì khi các
nhà đầu tư đưa nguồn vốn FDI vào Việt Nam họ có những phương thức quản
lý chặt chẽ và minh bạch, chống được hiện tượng thất thoát và tiêu cực trong
nguồn vốn.
Hiện nay, trong ngành Thuỷ sản vẫn là một nỗi khó khăn của Việt Nam, các
nhà đầu tư không dám mạo hiểm đầu tư vào lĩnh vực nhiều rủi ro của Việt
Nam. bởi nhẽ, Việt Nam là một nước nhiều thiên tai lũ lụt các cấp chính
quyền thường không có biện pháp ngăn ngừa và phòng chống được ngay từ
đầu, nên việc thu hút các nhà đầu tư còn nhiều bất cập và khó khăn.
1.4 Nhu cầu mở rộng mạng lưới xuất khẩu thuỷ sản
Theo thông tin từ Bộ Thủy sản, hàng thủy sản Việt Nam đã có mặt tại 105
quốc gia và vùng lãnh thổ. Toàn ngành có 171 Doanh nghiệp được cấp code
xuất hàng vào thị trường EU, 295 Doanh nghiệp được phép xuất khẩu hàng
vào Hàn Quốc và 300 Doanh nghiệp đã áp dụng hệ thống tiêu chuẩn vệ sinh
chất lượng quốc tế (HACCP) đủ điều kiện xuất khẩu hàng thuỷ sản vào thị
trường Mỹ. Trong năm qua, Mỹ, Nhật Bản và Hàn Quốc vẫn là 3 thị trường
được xem là chủ lực; trong đó Bộ Thủy sản đánh giá cao thị trường Nhật Bản
và đang ưu tiên xuất hàng, phấn đấu giai đoạn 2006 - 2010 chiếm thị phần
không dưới 30%. Năm 2005, tổng giá trị kim ngạch XKTS vào EU chỉ đạt
khoảng 300 triệu USD trong tổng số 2,65 tỷ USD. Tuy nhiên sự chấp nhận
của EU đối với thủy sản Việt Nam đã tác động rất lớn đến các thị trường khác
khi càng ngày, số lượng lô hàng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam bị giữ lại
do phát hiện nhiễm dư lượng kháng sinh ở các nước càng ít đi. Đối với Mỹ,
thị trường quen thuộc của thủy sản Việt Nam. Hiện xuất khoảng 25% thị phần
và phấn đấu tăng lên 30% những năm tới. Có thể nói đây là thị trường lớn
nhưng rất khó tính, do đó phải đa dạng các sản phẩm, xúc tiến thương mại,
phương thức mua bán, thanh toán... nhất là bảo đảm VSATTP.
Nguồn vốn FDI được thu hút vào Việt Nam chủ yếu dùng vào việc nghiên
cứu và phát triển mở rộng thị trường, tạo ra một mạng lưới thị trường rộng
khắp, thuận lợi cho việc tiêu thụ sản phẩm Thuỷ sản của Việt Nam.
2. Định hướng thu hút FDI vào ngành thuỷ sản.
Thực hiện đường lối đối ngoại mở cửa của Đảng và Nhà nước Việt Nam,
trong thời gian qua, ngành thuỷ sản đã triển khai và phát triển nhiệm vụ hợp
tác quốc tế theo hướng củng cố và mở rộng mối quan hệ hợp tác song phương
và đa phương, hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực nhằm thu
hút nguồn vốn đầu tư, chuyển giao công nghệ, đào tạo cán bộ, phát triển xuất
khẩu thuỷ sản, phục vụ cho việc triển khai các chương trình kinh tế – xã hội
của ngành , đồng thời tích cực đưa nghề cá Việt Nam hội nhập với nghề cá
khu vực và thế giới. cụ thể là :
* Ngành thuỷ sản đã sớm chủ động và tích cực mở rộng hợp tác quốc tế và
hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, đã tranh thủ được một số dự án từ nguồn
vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) song phương và đa phương, một số
dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI), góp phần quan trọng trong việc
xây dựng cơ sở hạ tầng nghề cá, tăng cường năng lực cả về trang thiết bị ,
công nghệ và đội ngũ cán bộ quản lý các cấp.
* Trong thời gian qua, Ngành thuỷ sản đó thu được những thành tựu đáng kể,
trong giai đoạn từ 1986 đến 2004, giá trị xuất khẩu của cả nước tăng gần 23,5
lần, riêng năm 2005, xuất khẩu của toàn ngành đạt 2,739 tỷ USD. Ngành
Thuỷ sản đã thu hút được 113 dự án FDI với tổng giá trị 250 triệu USD và 13
dự án ODA với tổng giá trị 89,8 triệu USD. Riêng năm 2005, ngành đã tiếp
nhận 7 dự án với số vốn 14,35 triệu USD.
* Ngành thuỷ sản đã bước đầu hoàn thiện môi trường pháp lý nhằm chủ động
hợp tác và hội nhập quốc tế và triển khai một số Hiệp định hợp tác với các tổ
chức quốc tế, khu vực và các nước.
* Hiện nay, Bộ Thuỷ sản đang có gắng xây dựng Chiến lược HTQT và Hội
nhập kinh tế quốc tế ngành thuỷ sản đến năm 2010 và định hướng đến năm
2020.
Việc hợp tác với các tổ chức quốc tế của Liên Hợp quốc như UNDP, FAO…
được bắt đầu từ những năm 1980 thông qua việc thực hiện các dự án viện trợ
kỹ thuật đã tạo điều kiện bước đầu cho ngành thuỷ sản Việt Nam phát triển
sản xuất, nâng cao sản lượng, đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản. Nhiều dự án
trọng điểm được triển khai trong các lĩnh vực nuôi nuôi trồngTthuỷ sản nước
ngọt, sản xuất rong câu, bảo vệ môi trường nuôi trồng Thuỷ sản ven biển, sản
xuất kích dục tố HCG, cơ điện lạnh, tăng cường năng lực điều phối các
nguồn tài trợ, đào tạo quản lý thông tin thống kê nghề cá …đã góp phần đưa
thuỷ sản trở thành ngành kinh tế trọng điểm của Việt nam. Hiện nay, Việt
Nam đã trở thành thành viên của nhiều tổ chức nghề cá thế giới như FAO với
vị thế ngày càng được nâng cao.
Đối với các tổ chức nghề cá của khu vực, Việt Nam đã tích cực tham gia và
trở thành viên chính thức của Mạng lưới các Trung tâm NTTS khu vực Châu
Á - Thái Bình Dương (NACA), Trung tâm phát triển Nghề cá Đông Nam Á
(SEAFDEC), Uỷ ban thuỷ sản Châu Á - Thái Bình Dương (APFIC),Tổ chức
thông tin nghề cá (INFOFISH), Uỷ hội sông MêKông (MRC). Từ 1993, Việt
Nam đã tích cực tham gia các diễn đàn nghề cá khu vực của ASEAN,
APEC…Trình độ của các cấp quản lý và các chuyên gia cho đến nay đã ngày
một nâng cao, dần đáp ứng được các yêu cầu của khu vực, đặc biệt trong lĩnh
vực tư vấn và kỹ thuật.
Ngành Thuỷ sản đã tranh thủ được sự hỗ trợ của các tổ chức phi chính phủ
như AFRICA 70 của Italia, AIDA của Tây Ban Nha, Tổ chức bảo tồn thiên
nhiên quốc tế IUCN, Quỹ bảo vệ thiên nhiên hoang dã WWF, Liên minh sinh
vật biển quốc tế IMA, Trung tâm thuỷ sản thế giới Worldfish Center… trong
nhiều lĩnh vực như: Phát triển NTTS ven bờ tại các làng cá quy mô nhỏ, Hỗ
trợ Chương trình an ninh thực phẩm thông qua việc nâng cao sản lượng
NTTS ven biên phía Bắc; Bảo tồn biển, bảo vệ môi trường và đa dạng sinh
học… Ngoài ra, việc hợp tác với Ngân hàng Thế giới WB được bắt đầu với
Dự án nghiên cứu khả thi về phát triển NTTS (giai đoạn 1994-1995). Ngân
hàng thế giới (WB) đã cùng với DANIDA tài trợ cho Dự án Khu bảo tồn biển
Hòn Mun tại Nha Trang, Khánh Hoà từ 2001-2005. Hiện WB đang cùng với
các đơn vị của BTS lập báo cáo khả thi về Sử dụng vốn vay ưu đãi để phát
triển bền vững Ngành Thuỷ sản. ( Nguồn: Bộ Thuỷ sản )
III : GIẢI PHÁP THU HÚT FDI VÀO NGÀNH THUỶ SẢN.
1. Quy hoạch phát triển nuôi trồng và khai thác hợp lý nguồn lợi Thuỷ
sản
Điều chỉnh Quy hoạch tổng thế phát triển kinh tế thủy sản đến năm 2010.
Nuôi trồng thủy sản có tính chất quyết định đến việc tăng sản lượng, phương
hướng lâu dài là phải sản xuất thâm canh. Khuyến khích các địa phương,
doanh nghiệp và cá nhân thả cá giống xuống biển để tái tạo các giống cá quý
mà vừa qua một số tỉnh đã làm như Quảng Ninh, Khánh Hoà…
Xây dựng cơ cấu mặt hàng thủy sản hợp lý và đạt hiệu quả kinh tế cao, xây
dựng cơ cấu đầu tư nhằm phát huy các lợi thế so sánh của từng địa phương và
vùng lãnh thổ, dựa vào tình hình cung-cầu thủy sản trên thị trường thế giới.
Theo dự báo của FAO, sản lượng thủy sản sẽ tiếp tục tăng với tốc độ khoảng
2%/năm trong giai đoạn 2000 -2005 và giảm xuống còn 1,7%/năm giai đoạn
2006 - 2010, chủ yếu do nuôi trồng. Nhịp độ tăng tiêu thụ thủy sản ở các nước
đang phát triển đạt 2,9%/năm và của các nước phát triển đạt 1,2%/năm trong
giai đoạn 2001 - 2005; trong giai đoạn 2006 -2010, nhịp độ tăng tiêu thụ
tương ứng là 2,1%/năm và 1,0%/năm. Nhật Bản vẫn là nước nhập khẩu hàng
đầu thế giới chiếm khoảng dưới 30% giá trị nhập khẩu thủy sản thế giới, tiếp
đến là Hoa Kỳ, Pháp và Tây Ban Nha. Tỷ trọng nhập khẩu thủy sản của các
nước phát triển vẫn chiếm trên 80% nhập khẩu thủy sản thế giới. Quan hệ
cung cấu thủy sản trong thới gian tới sẽ mất cân đối gay gắt hơn. Mức giá sàn
của phần lớn thuỷ sản sẽ có xu hướng ngày càng tăng cao.
Do vậy, chúng ta phải xây dựng và thực hiện các chương trình, dự án, đề án
sản xuất và tiêu thụ đối với một số thủy sản chủ lực như tôm, cua, ngao, cá
tra, ba sa, cá sấu.
Sản xuất và xuất khẩu thủy sản phải chuyển từ kinh tế khai thác tài nguyên,
thương mại là chủ yếu sang kinh tế khai thác lao động kỹ thuật, công nghệ
sinh học và công nghẹ chế biến sâu là chủ yếu.
Chú trọng đánh bắt hải sản xa bờ: kết hợp phát triển kinh tế biển với việc bảo
vệ lãnh hải của đát nước.
Huy động các nguồn vốn để phát triển các đội tàu lớn có khả năng ra khơi dài
ngày, đánh bắt xa bờ, có phương tiện chế biến tại chỗ. Xây dựng các cơ sở
dịch vụ ở tuyến đảo để làm điểm trung chuyển giữa bờ và ngoài khơi. Tổ
chức ngư dân, các xí nghiệp đánh cá thành từng cụm ra khơi đánh bắt để hỗ
trợ nhau trong sản xuất kinh doanh và đảm bảo an ninh. Xây dựng và phát
triển hệ thống cảng cá, chợ cá phù hợp với sản lượng thủy sản của từng địa
phương.
2. Đẩy mạnh hoạt động thông tin, dự báo thị trường, xúc tiến thương mại
và xây dựng thương hiệu.
Xây dựng cơ cấu thị trường theo hướng đa dạng hóa thị trường, đa dạng hóa
bạn hàng, giảm mạnh tỷ trọng các thị trường trung gian, tăng nhanh tỷ trọng
các thị trường tiêu thụ trực tiếp, có nhu cầu thủy sản lớn. Quan tâm nghiên
cứu, tìm hiều nhu cầu thủy sản của các thị trường xuất khẩu chủ lực. Từ đó có
những cơ chế, chính sách, biện pháp cụ thể để phát triển, điều chỉnh cơ cấu
chủng loại thủy sản xuất khẩu. Xây dựng và phát triển cơ cấu thị trường xuất
khẩu hợp lý không lệ thuộc quá nhiều vào thị trường nào.
Xây dựng và phát triển một số trung tâm thông tin, trung tâm kiểm tra chất
lượng, chợ bán buôn thủy sản ở các vùng có sản lượng thủy sản hàng hóa lớn.
Các trung tâm này là đầu mối tiến hành các thương vụ buôn bán thủy sản
trong nước cũng như xuất khẩu, có điều kiện thuận lợi về kết cấu hạ tầng, chi
nhánh ngân hàng, cơ quan kiểm tra chất lượng, kho chứa, thông tin liên lạc và
các dịch vụ khác.
3. Xây dựng và phát triển hệ thống phân phối thủy sản, tạo sự gắn bó
giữa thị trường trong nước và nước ngoài.
Khảo sát, đánh giá và phân loại khả năng cạnh tranh của hệ thống doanh
nghiệp chế biến và quy hoạch lại hệ thống cơ sở chế biến, kho lạnh. Tổ chức
lại hệ thống sản xuất kinh doanh thủy sản, gắn sản xuất - chế biến với thị
trường, bên cạnh các cơ sở chế biến cần có các xí nghiệp cung ứng, dịch vụ.
Các đơn vị sản xuất kinh doanh thủy sản nên áp dụng mô hình kinh doanh:
"sản xuất - mua gom - chế biến - tiêu thụ" đã được một số doanh nghiệp xuất
khẩu áp dụng thành công. Xây dựng mạng lưới bán thủy sản tươi và chế biến
đạt tiêu chuẩn về: chủng loại, chất lượng, quy cách, vệ sinh thực phẩm... Các
doanh nghiệp, thương nhân tích cực tìm kiếm nguồn thủy sản từ nhiều địa
phương trong cả nước để bổ sung cho cơ cấu, chủng loại thủy sản thêm phong
phú, đa dạng.
4. Đổi mới công tác quản lý nhà nước.
Tiếp tục xây dựng, ban hành các tiêu chuẩn, quy trình sản xuất chế biến thủy
sản sạch. Nghiên cứu và chuyển giao công nghệ, ứng dụng vào sản xuất trên
quy mô lớn các đối tượng thủy sản có giá trị kinh tế; đồng thời gắn với các
đơn vị chế biến để nghiên cứu sản xuất những mặt hàng mới có hàm lượng
công nghệ cao. Tập trung đổi mới và bảo quản sau thu hoạch và khâu vận
chuyển.
Tăng cường và mở rộng hình thức đào tạo trong và ngoài nước cho cán bộ
quản lý, cán bộ nghiên cứu và cán bộ về xúc tiến thương mại. Đặc biệt là đào
tạo về luật lệ và các chính sách kinh tế - thương mại quốc tế và của các nước.
Tiếp tục đổi mới tổ chức bộ máy và phương thức quản lý Nhà nước phù hợp
với đặc điểm của sản xuất, chế biến và kinh doanh sản phẩm.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 2_7695.pdf