CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
Khái niệm về thị trường tiêu thụ Khái niệm về tiêu thụ sản phẩmVai trò của tiêu thụ sản phẩmCác nhân tố ảnh hưởng tới tiêu thụ sản phẩm
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG TIÊU THỤ SẢN PHẨM CÀ PHÊ VIỆT NAM
Đặc điểm tiêu thụ cà phê ở Việt NamNhững thành tích đạt được trong tiêu thụ cà phê trên thị trường nội địaNhững vấn đề đặt ra trong tiêu thụ cà phê tại Việt NamKinh nghiệm phát triển ngành cà phê của một số nước trên thế giới
CHƯƠNG III. BIỆN PHÁP THÚC ĐẨY TIÊU THỤ CÀ PHÊ VIỆT NAM
Dự báo về thị trường tiêu thụ cà phê tại Việt NamGiải pháp đẩy mạnh tiêu thụ cà phê ở Việt Nam
Tăng chất lượng sản phẩm cà phê Việt Nam Hoàn thiện các hình thức xúc tiến bán Hoàn thiện các chính sách vĩ mô thúc đẩy tiêu thụ
3. Điều kiện thực hiện giải pháp
45 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4526 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giải pháp thúc đẩy tiêu thụ cà phê Việt Nam trên thị trường nội địa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ễ dàng bắt gặp cảnh đông đúc người ngồi bên vỉa hè uống cà phê dù vào mùa hè hay mùa Thu. Những quán dạng này tuy hơi xô bồ, bụi bặm nhưng trái lại người uống cảm thấy rất thoải mái và tiện lợi, giá cả lại phải chăng. Ở Sài Gòn, quán Môri trên đường Hồ Văn Huê là quán cà phê vỉa hè lớn nhất và được dân nghiền cà phê vỉa hè gọi vui bằng cái tên "chốn về bình yên".
Đối với dân văn phòng thì điểm đến quen thuộc và thường xuyên nhất có lẽ vẫn là cà phê wifi phủ khắp khuôn viên quán cộng với không khí dễ chịu, thoải mái là điểm thu hút nhất. Thần dân của quán là những người không thích môi trường làm việc gò bó của văn phòng, họ tìm đến đây như một cách làm việc tự do. Ngồi ở đây, vừa làm việc vừa có thể nhâm nhi cà phê hay tán gẫu cùng bạn bè. Mà họ vẫn gọi là "vừa làm vừa chơi".
Dạng quán cà phê độc đáo nhất vẫn là dạng quán chuyên về một thú chơi nào đó. Chẳng hạn, quán nhạc Trịnh là nơi hội tụ của dân mê nhạc Trịnh, quán xe cổ - là nơi trưng bày nhiều bộ sưu tập về xe máy cổ, Yoko là quán dành cho các fan nhạc rock, Đồng Quê - quán tái hiện lại không gian của làng quê thuần Việt với những vật trang trí thân quen như cái cày, bộ quang ghánh, cái liềm, lợp mái tranh... thậm chí, trong thời gian gần đây, khi thị trường chứng khoán rộ lên như một cơn sốt, thì xuất hiện những quán cà phê chuyên cập nhập thông tin chứng khoán để hút khách. Cá tính và độc đáo là "tính cách" của quán hay cũng chính là tính cách của những người đến đây. Họ tìm đến quán vì họ nhận thấy "gu" của quán hợp với gu của mình. Do đó quán là điểm gặp gỡ thường xuyên của những người có cùng sở thích, đam mê. Đây là kiểu cà phê in đậm dấu ấn cá nhân rõ nét nhất nhưng lại chiếm số lượng nhiều nhất.
Biểu đồ 1-3: Nơi uống cà phê chính (số người)
Nguồn: Bộ công thương
Đặc điểm tiêu dùng cà phê của người Việt Nam có nhiều nét riêng. Đặc biệt là ở Hà Nội. Điều làm nên sự hứng thú ngồi cà phê ở Hà Nội là các quán thường gắn với… hồ. , ở Hà Nội có rất nhiều hồ. Mà ven hồ nào - hồ Gươm, hồ Tây, hồ Trúc Bạch, hồ Thiền Quang, hồ Giảng Võ, hồ Ngọc Khánh, hồ Xã Đàn… thì cũng thường có nhiều quán cà phê mọc lên. Ngồi uống cà phê ven hồ, hẹn nhau ở quán ven hồ nào đó dường như đã thành “nếp” của nhiều người. Cái “khác biệt” thứ hai của cà phê Hà Nội với những nơi khác đó là những quán cà phê… chỉ có ở Hà Nội, như cà phê Lâm, cà phê Nhân, cà phê Giảng, cà phê Đinh... Đó thực sự là những nơi chốn khiến nhiều người nhớ, dù qua thời gian những quán đó đã có nhiều thay đổi. Người Hà Nội cũ vẫn giữ cho mình cái thú uống cà phê ở các phố cổ, mặc giới trẻ “nhảy” đủ điệu theo Capuccino, Espresso, Trung Nguyên. Không hào nhoáng, thay đổi không ngừng và sang trọng như thế hệ cà phê số, cà phê phố cổ Hà Nội luôn thâm trầm, ám ảnh. Không gian nhỏ hẹp, bài trí đơn giản, day dứt một thứ cà phê mang dư vị của một thuở xưa cũ. Người ta đến đây để uống và tận hưởng hết sự quyến rũ trong từng giọt cà phê, chứ không để khoe hầu bao sự chịu chơi. Dân sành uống Hà Thành trung thành, sống chết với quán ruột của mình lắm. Buổi sáng, 6 giờ - 9 giờ và bắt đầu cuối giờ chiều đến 12 giờ đêm, cà phê Năng (6 Hàng Bạc), cà phê Nhân (39 D1 - Hàng Hành), cà phê Quất (Quán Thánh), cà phê Quỳnh (Bát Đàn), cà phê Giảng (Hàng Gai), cà phê Lâm (60 và 91 Nguyễn Hữu Huân) luôn chật cứng khách. Cà phê phố lớn lên cùng 36 phố cổ Hà Nội, đi vào tâm thức của người dân thủ đô từ lâu. Đến đây hầu hết là khách quen. Từ cụ già đến đôi nam nữ đang yêu, chàng nghệ sĩ lãng tử, nhóm nữ sinh mỹ thuật. Chủ quen “gu” của khách, không cần gọi vẫn phục vụ đúng ý muốn cho khách. Khách nhẵn mặt nhau, chỉ cần một tuần không đến, hôm sau sẽ được hỏi thăm ngay
Thực trạng tiêu thụ cà phê Việt Nam trên thị trường nội địa
2.1. Tổng quan vê thị trường cà phê Việt Nam
Những năm gần đây, ngành công nghiệp cà phê của nước ta đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Chính sách của Bộ NN&PTNN là không mở rộng diện tích cà phê thêm nhưng tập trung vào tăng năng suất cây cà phê. Sản lượng cà phê tăng trên 1 triệu tấn. Để đạt được những kết quả đó, ngoài những nỗ lực của nhân dân, các nhà sản xuất, kinh doanh và nhà chế biến cà phê, công tác quảng bá thương mại đã đóng vai trò tích cực trong việc mở rộng thị trường, cả trong nước và quốc tế. Bên cạnh đó, các qui định quốc tế dành cho sản xuất nông nghiệp như nguyên tắc GAP (thực hành nông nghiệp tốt), 4C (qui tắc chung cho cộng đồng cà phê), UTZ Certified và tiêu chuẩn kỹ thuật khác đang được áp dụng rộng rãi tại Việt Nam để sản xuất cà phê chất lượng cao
Tiêu thụ cà phê ở thị trường nội địa Việt Nam niên vụ 2008/09 đạt 1,06 triệu bao, tương đương 64 nghìn tấn hạt xanh, chiếm chỉ 5,9% tổng sản lượng của cả nước. Trong niên vụ 2009/10, tiêu thụ dự đoán tăng lên mức 1,1 – 1,2 triệu bao, tương đương 72 nghìn tấn hạt, cao hơn 13% so với vụ trước, và chiếm 6,7% tổng sản lượng cà phê sản xuất ra. Niên vụ 2010/11 tiêu thụ cà phê nội địa Việt Nam sẽ đạt 1,26 triệu bao, tức 75,6 nghìn tấn hạt, tăng 5% so với vụ trước. Tiêu thụ cà phê ở thị trường Việt Nam đang tăng nhờ hiệu quả của các kế hoạch marketing khi giới kinh doanh bắt đầu chú trọng tới thị trường nội địa thông qua phương thức mở các chuỗi cửa hàng theo phong cách phương Tây như Highlands Coffe, Gloria Jean's, The Coffee Bean, Tea Leaf, và Illy. Hiện tiêu thụ cà phê nội địa vẫn gia tăng ở tầng lớp trung lưu. Dù vậy, theo Tổ chức Cà phê Quốc tế, hiện tiêu thụ cà phê bình quân đầu người tại Việt Nam ở mức 0,83 kg, thấp hơn nhiều so với ở các nước như Braxin 5,72 kg/người, EU 4,83 kg/người và Mỹ 4,13 kg/người
Biểu đồ 1-4: Tình hình tiêu thụ cà phê VN theo VLSS
(Lượng cà phê quy bột trung bình cả nước 0,2 kg/ người/năm 2004)
Nguồn: Bộ công thương
Sự kiện đáng chú ý là năm 2005 lần đầu tiên Buôn Ma Thuột tổ chức thành công Lễ hội cà phê, thu hút hơn 300.000 du khách trong nước và quốc đến xem, tìm hiểu về hương vị về cà phê BMT nói riêng và cà phê Việt Nam nói chung. Năm 2008, tỉnh cũng đã tiếp tục tổ chức thành công Lễ hội cà phê Buôn Ma Thuột lần thứ 2 - một trong 10 sự kiện xúc tiến thương mại lớn nhất của Việt Nam trong năm 2008.. Dự kiến tỉnh sẽ tổ chức lễ hội cà phê lần thứ 3 vào đầu năm 2011. Tỉnh đã trình lên Thủ tướng Chính phủ và được chấp thuận về việc tổ chức Lễ hội cà phê định kì 2 năm/lần ; coi đây là hoạt động mang tính quốc gia nhằm quảng bá rộng rãi hơn nữa hình ảnh cây cà phê Việt Nam. Các sự kiện đáng chú ý thứ hai là cà phê Tuần lễ Văn hóa vào năm 2007 tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Sự kiện này cũng thu hút hàng trăm ngàn du khách.
Diện tích gieo trồng cà phê năm 2010 dự kiến sẽ đạt khoảng 530 nghìn ha, tăng 0,6% so với năm 2009, trong đó, diện tích thu hoạch được ước tính ở mức 515 nghìn ha, tăng 1% so với năm 2009. Năng suất cà phê dự báo đạt 21 tạ/ha và sản lượng niên vụ 2010 sẽ lên tới gần 1,1 triệu tấn, tăng 6,1% so với năm 2009, nếu điều kiện thời tiết của vùng Tây Nguyên thuận lợi.
Biểu đồ 1-5: Sản lượng cà phê Việt Nam
Nguồn: Bộ NN&PTNT
Hiện nay, giá cà phê nội địa Việt Nam gắn khá chặt với giá cà phê xuất khẩu. Do đó, giá thu mua cà phê trong nước trong những tháng còn lại của năm 2010 sẽ không thể khôi phục như hồi năm 2008. Tuy nhiên, trong vài tháng tới tình hình có thể sẽ được cải thiện nếu chính sách hỗ trợ doanh nghiệp thu mua tạm trữ cà phê của Nhà nước được thực thi hiệu quả cũng như thị trường thế giới khởi sắc trở lại. Một điều chắc chắn rằng, giá cà phê nội địa thời gian tới sẽ không thể giảm quá sâu như năm 2009 bởi theo đề án thu mua tạm trữ cà phê của Chính phủ, mức giá tối thiểu cho cà phê robusta loại 2 là 23.000 đồng/ki lô gam. Do giá cà phê xuất khẩu tăng liên tục, nên giá cà phê trong nước cũng “nhảy múa” theo. Hiện nay, giá cà phê nhân xô tại Đăk Lăk là 31.100 VNĐ/kg
Biểu đồ 1-6: Giá cà phê Robusta trong nước
Nguồn: Agroinfo
Mở rộng kênh tiếp thị và tiêu thụ nội địa bằng cách phục vụ nhu cầu thưởng thức cà phê hòa tan hay pha sẵn cũng đang là cách mà một số công ty cà phê đang lựa chọn. Ngoài "chuỗi" quán cà phê Trung Nguyên, một loạt nhãn hiệu khác như Highland, Phúc Ban Mê, cà phê Buôn Mê Thuột... lần lượt mở các cửa hiệu cà phê tại các đô thị lớn như TP HCM, Cần Thơ, Quy Nhơn.... Một số nghiên cứu gần đây được Ngân hàng thế giới (WB) đưa ra cho thấy tiềm năng thị trường nội địa của Việt Nam có thể tiêu thụ tới 70.000 tấn/năm. Nghĩa là với sản lượng cà phê hàng năm thu hoạch được 700.000 - 800.000 tấn thì lượng cà phê tiêu thụ nội địa của Việt Nam ở mức xấp xỉ 10%. Trong khi đó theo Hiệp hội Cà phê thế giới, tiêu dùng nội địa của cà phê Việt Nam hiện chỉ đạt gần 3,6%, thấp nhất trong số các nước sản xuất cà phê. Mức chênh lệch này càng "khập khiễng" nếu so với sản lượng tiêu dùng cà phê nội địa của các nước thành viên Hiệp hội Cà phê thế giới là 25,16%.
Biểu đồ 1-7: Tình hình mua cà phê cho tiêu thụ gia đình
Nguồn: Bộ công thương
Loại cà phê tiêu thụ thị trường nội địa chỉ chiếm khoảng 5% trong tổng sản lượng xuất khẩu, tương đương 61.000 tấn/năm. Trong đó cà phê hòa tan chiếm 9.000 tấn, cà phê rang xay có nhãn hiệu chiếm 35.000 tấn, còn lại là cà phê không nhãn hiệu. Thị trường cà phê nội địa tăng trưởng khoảng 18% mỗi năm, trong đó cà phê hòa tan đang dẫn đầu về mức tăng trưởng với 22%, cà phê rang xay tăng trưởng 13%. Miền Nam có lượng tiêu thụ cao gấp 4 - 5 lần so với miền Bắc và miền Trung. Khảo sát ở hai thành phố lớn cho thấy, năm 2008, bình quân một gia đình ở Tp.HCM tiêu dùng 6,1 kg cà phê/năm, cao gấp 3 lần so với ở Hà Nội. Tại Tp.HCM, cà phê được uống tại quán nhiều hơn. Ngược lại, Hà Nội uống tại nhà nhiều hơn và có một nhóm đáng kể uống ở văn phòng. Khách hàng quan tâm khi mua cà phê để tiêu dùng tại nhà là khẩu vị, chủng loại, nhãn hiệu, sau đó mới đến giá bán, bao bì và nơi mua. Hạn chế chính trong tiêu thụ cà phê là các hộ chưa có thói quen và không biết cách chọn cà phê. Họ cũng lo ngại về cà phê giả, chất lượng của cà phê hòa tan (để có thể thay thế cà phê pha).
Biểu đồ 1-8: Thói quen uống cà phê của người tiêu dùng Việt Nam
Nguồn: Bộ công thương
Khách hàng ở độ tuổi thanh niên và vị thành niên có mức tăng tiêu thụ cà phê nhanh nhất, cả về cà phê bột và cà phê hòa tan. Nhóm thanh niên và trung niên có mức độ tiêu dùng cà phê cao nhất. Nhóm tuổi già tăng mức tiêu thụ rất ít và chỉ tăng lượng tiêu thụ cà phê bột. Tiêu dùng khu vực thành thị tăng hơn nông thôn hai lần với dạng bột tăng và cà phê hòa tan giảm. Nông thôn có lượng tiêu dùng thấp nhưng tốc độ tăng nhanh, trong đó dạng bột và hòa tan đều tăng.Xét về ngành nghề, những người làm việc nhiều về trí óc và có kỹ năng chuyên môn, kỹ thuật viên tiêu thụ cà phê nhiều nhất. Mức tiêu thụ cũng tăng mạnh ở lao động giản đơn
Thị trường các loại cà phê
Thị trường cà phê hoà tan đang có xu hướng tăng nhanh vì có các ưu thế như giúp người dùng tiết kiệm thời gian, sản phẩm có tính năng động, trẻ trung phù hợp với xu hướng tiêu dùng của giới trẻ (lớp người tiêu dùng mới) hiện nay. Đây cũng là nguyên nhân thúc đẩy thị trường này đạt mức tăng trưởng khá cao từ năm 2006 đến nay từ 20-25%/năm. Hiện tại thị phần của cà phê hòa tan chiếm 62% về số lượng và 65% về giá trị so với 32% số lượng và 31% về giá trị của cà phê rang xay có nhãn hiệu, 6% số lượng và 4% giá trị cà phê lon.
Biểu đồ 1-9: Sự phân chia thị phần giữa các loại cà phê
Nguồn:
Riêng tại thị trường Hà Nội và bốn thành phố chính (Hải phòng, Đà Nẵng, Nha Trang, Cần thơ), tỷ trọng cà phê hòa tan còn chiếm đa số so với cà phê rang xay tương ứng 91%, 73%. Trong thị trường cà phê hòa tan, lực lượng phân tán khá đồng đều cho ba đối thủ Vinacàphê (38%), Nescafe (32%) và G7 (23%). Thị trường này đang có bước chuyến biến khá nguy hiểm cho đối thủ Vinacafe khi mức độ tặng trưởng chỉ đạt 27% so với 51% và 88% của Nescafe và G7 trong năm gần đây.
Biểu đồ 1-10: Sự phân chia thị phần thị trường cà phê hòa tan
Nguồn:
Những vấn đề đặt ra trong tiêu thụ cà phê Việt Nam
Đầu năm 2010, bất chấp những dự báo khá lạc quan về kinh tế toàn cầu cũng như tình hình tiêu thụ và dự trữ cà phê thế giới, viễn cảnh về một năm khởi sắc trở lại của cà phê Việt Nam dường như vẫn không mấy sáng sủa. Theo kế hoạch của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), năm 2010 dự kiến diện tích gieo trồng cà phê cả nước sẽ đạt khoảng 530.000 héc ta, tăng 0,6% so với năm 2009. Trong đó diện tích thu hoạch được ước tính ở mức 515.000 héc ta, tăng 1% so với năm 2009. Năng suất cà phê dự báo đạt 21 tạ/héc ta và sản lượng niên vụ 2010 sẽ lên tới 1,082 triệu tấn, tăng 6,1% so với năm 2009. Tuy nhiên, mục tiêu của Bộ NN&PTNT khó có thể thực hiện được. Theo thông tin từ các địa phương trồng nhiều cà phê ở Tây Nguyên, hiện hàng trăm ngàn héc ta cà phê chỉ còn trông chờ vào mưa để cứu hạn. Ước tính sơ bộ, tỉnh Đak Nông có khoảng 300 héc ta sẽ bị thiếu nước tưới, Daklak có 1.200 héc ta bị chết khô hoàn toàn.
Thêm vào đó, nếu giá vật tư đầu vào tiếp tục tăng cao trong khi giá bán cà phê ở mức thấp như năm 2009, nông dân sẽ giảm lượng phân bón, số lần tưới nước, không trồng mới thay thế cà phê già cỗi… Như vậy, cả chất lượng và sản lượng cà phê trong năm 2010 khó có thể đạt như dự kiến. Mặt khác, năm 2009 và quí 1-2010, giá cà phê robusta trên thị trường thế giới liên tục xuống thấp khiến nông dân tại các nước xuất khẩu cà phê rơi vào tình cảnh khó khăn. Tuy nhiên, dự báo trong vài tháng tới tình hình sẽ được cải thiện, đặc biệt là với cà phê robusta.
Một trở ngại khác khiến cho cà phê Việt Nam khó tiêu thụ nội địa là do xu hướng uống cà phê "công nghiệp" trong giới trẻ ngày càng tăng để đáp ứng nhu cầu nhanh trong nhịp sống hiện đại. Cà phê hòa tan trở nên xu hướng tiêu dùng chủ đạo hiện nay, càng đa dạng hương vị và đáp ứng mọi nhu cầu càng hấp dẫn. Song việc đầu tư sản xuất cà phê hòa tan lại đòi hỏi nguồn vốn lớn và chi phí chuyển giao công nghệ, trở thành một cái khó "bó" lấy doanh nghiệp vừa và nhỏ. Kết quả, doanh nghiệp vẫn tập trung xuất khẩu cà phê nhân hoặc bột mà bỏ qua thị trường nội địa. Trong khi đó có tới 95% sản lượng cà phê nước ta sản xuất ra là để xuất khẩu, còn tiêu dùng nội địa chỉ chiếm 5%. Giá cà phê tại thị trường London và New York lên xuống thất thường làm cho các doanh nghiệp bán trừ lùi giao hàng xa chưa chốt giá lâm vào tình trạng thua lỗ nặng.
Trong vài năm vừa qua, ngành cà phê đã đạt được nhiều kết quả tốt nhưng có thể thấy, sự phát triển của ngành cà phê chưa thật sự vững chắc, hiệu quả kinh doanh vẫn thấp và tiềm ẩn nhiều nguy cơ. Nhất là khâu tổ chức thu mua trong nước chưa tốt đẫn đến đầu vụ người dân thường phải bán vội cà phê với giá thấp. Hệ thống đại lý thu mua cà phê hình thành một cách tự phát, chủ yếu là các đại lý tư nhân, hệ quả là khi giá cả thị trường biến động mạnh dẫn đến đổ vỡ theo dây chuyền từ đại lý tới các nhà xuất khẩu. Việc sơ chế cà phê của Việt Nam hiện nay chưa phát triển kịp với sự phát triển nhanh chóng của sản xuất cà phê. Vì vậy, cà phê hạt có chất lượng không cao. Tổn thất sau thu hoạch cà phê khá lớn, giá xuất khẩu thường thấp hơn 10% giá các sản phẩm cùng loại trên thế giới. Cà-phê Việt Nam từ lâu được khẳng định, có chất lượng tự nhiên cao và có hương vị đậm đà do được trồng ở độ cao nhất định so với mặt biển. Nhưng do khâu thu hái, phơi sấy, chế biến không tốt đã ảnh hưởng đến chất lượng vốn có. Cà-phê Việt Nam đã có mặt trên toàn thế giới, nhưng dường như người tiêu dùng trên thế giới vẫn chưa biết, họ hằng ngày vẫn đang dùng cà-phê hiệu Nestle, Maxell, Folger…Theo tiêu chuẩn Hội đồng cà-phê Quốc tế (ICO) quy định từ năm 2004 (Tiêu chuẩn ISO10470: 2004) thì hạt cà-phê xuất khẩu được lựa chọn bằng cách cân các hạt lỗi (hạt đen, hạt nâu và hạt vỡ) và chất lượng được quyết định bởi số lượng hạt lỗi có trong cà-phê. Cụ thể là cà-phê Arabica không được quá 86 lỗi trong 1 mẫu 300g, cà-phê Robusta không được quá 150 lỗi trên 1 mẫu 300g. Hai loại cà-phê này phải có hàm lượng ẩm không quá 8% và 12,5%. Tuy nhiên, đây vẫn là tiêu chuẩn có tính chất tự nguyện nên tất yếu dẫn đến tình trạng cà-phê chúng ta vẫn áp dụng theo tiêu chuẩn cũ, việc quản lý chất lượng cà phê vẫn còn nhiều bất cập.
Mặt khác, hơn 80% cà phê được sản xuất ra là từ các hộ nông dân sản xuất nhỏ, thiếu các điều kiện sơ chế tối thiếu, chủ yếu chế biến thủ công như xát tươi phơi khô. Các doanh nghiệp kinh doanh cà phê, các đại lý mua cà phê cũng thiếu hệ thống kho tàng và thiết bị chế biến. Bên cạnh đó, công tác vệ sinh an toàn thực phẩm, ngăn ngừa nấm mốc cũng như dư lượng thuốc bảo vệ thực vật vẫn chưa được quan tâm thường xuyên. Vấn đề xây dựng thương hiệu cà phê Việt Nam, thương hiệu cho từng doanh nghiệp chậm được triển khai thực hiện, đã làm hạn chế lớn đến vị thế cà phê Việt Nam. Hiện số lượng các doanh nghiệp mua cà phê quá nhiều, bát nháo khiến cà phê Việt Nam thua thiệt ngay trên sân nhà. Người xưa có câu trăm người bán vạn người mua, nhưng đối với cà phê hiện nay thì ngược lại, trăm người mua vạn người bán. Ở đây, khâu tổ chức sản xuất, chế biến, kinh doanh cà phê của ta trăm hoa đua nở, người người, nhà nhà làm kinh doanh, chế biến cà phê dẫn tới việc cạnh tranh thiếu lành mạnh, để người ngoài ép giá, tự làm hại nhau”.
Những điểm yếu đáng chú ý nhất của ngành cà phê Việt Nam là:
Thứ nhất, diện tích cà phê gia tăng một cách nhanh chóng, ồ ạt và không theo kế hoạch: Nhiều loại cà phê được trồng trên diện tích đất không phù hợp; thiếu sự chăm sóc đúng cách và nguồn nước làm cho chi phí sản xuất tăng cao. Thứ hai, cà phê ở Việt Nam chủ yếu tập trung phát triển ở dạng các hộ gia đình với quy mô nhỏ. Gần 82% hộ gia đình có diện tích cà phê dưới 2 ha cà phê. Vì vậy, để các hộ này áp dụng những thành tựu khoa học kĩ thuật tiên tiến là rất khó. Thứ ba, sản phẩm cà phê Việt Nam không đa dạng. Cơ cấu cây trồng không hợp lý khi 92% là cà phê Arabica và khoảng 6% là cà phê Robusta; trong khi đó sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là cà phê Robusta. Thứ tư, cà phê thường chín rộ theo cùng một thời điểm, vì thế vào vụ thu hoạch chi phí nhân công thuê hái cà phê tăng cao là nguyên nhân làm chi phí sản xuât cà phê tăng cao theo. Thứ năm, chất lượng cà phê còn thấp và không ổn định. Việc quản lí chất lượng cà phê còn nhiều yếu kèm. Chỉ có 5% cà phê là áp dụng theo tiêu chuẩn chất lượng được công nhận. Thứ sáu, hệ thống giao dịch, phân phối không chuyên nghiệp. Xuất khẩu tại địa phương thường phải qua trung gian, do vậy không những lợi nhuận thu được bị giảm mà uy tín và thương hiệu cà phê của Việt Nam cũng chưa được khẳng định. Thứ bảy, chỉ có 7% cà phê VN được bán ở thị trường nội địa. Vì thế, nếu thị trường cà phê thế giới bị biến động thì ngành cà phê Việt Nam lập tức sẽ bị ảnh hưởng và chi phối. Cuối cùng, mặc dù có các Hiệp hội cà phê nhưng hoạt động chưa thực sự hiệu quả trong việc gắn kết các thành viên và tạo ra nhiều cơ chế chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp cà phê, ngoài ra, chúng ta cũng chưa có các quỹ hỗ trợ tài chính để chia sẻ khó khăn khi Doanh nghiệp cà phê gặp khó khăn….
Kinh nghiệm phát triển ngành cà phê ở một số nước trên thế giới
*Brazil
Brazil là một quốc gia có lịch sử trồng trọt, chế biến và tiêu thụ cà phê từ thế kỷ 17, phát triển mạnh từ thập kỷ 20 cho đến nay, Trước đây, cà phê chiếm tới 80% tổng thu nhập từ xuất khẩu, nhưng hiện nay chỉ còn là 20% do giá trị xuất khẩu của các ngành hàng khác tăng mạnh. Mặc dù vị trí của ngành cà phê giảm tương đối trong cơ cấu xuất khẩu, nhưng Brazil vẫn là nước xuất khẩu cà phê lớn nhất thế giới, với sản lượng tương đối ổn định. Thành tựu này đạt được một phần là nhờ nước này có hệ thống giám sát nguồn cung cà phê hiệu quả, để đưa ra thông tin và dự báo thị trường cà phê chính xác, được công bố qua Hội thảo triển vọng thị trường được tổ chức hàng năm tại Brazil.
Sản phẩm cà phê của Brazil rất có uy tín trên thị trường thế giới nhờ chất lượng cao. Chuyến khảo sát cho thấy, mặc dù điều kiện đất đai của nước này chưa hẳn đã tốt hơn Việt Nam, nhưng Brazil có giống tốt và đồng bộ, quy trình và kỹ thuật sản xuất và chế biến tiên tiến. Thành tựu này đạt được là nhờ Brazil có hệ thống nghiên cứu khoa học rất tốt, do Chính phủ đầu tư toàn bộ. Hiện nay, cũng như Brazil, nhóm chuyên gia của Bộ Nông nghiệp và PTNT Việt Nam đang xây dựng chương trình áp dụng Bộ tiêu chuẩn chung của cộng đồng cà phê (4C) tại Việt Nam. Việc học tập kinh nghiệm của Brazil và cùng áp dụng bộ tiêu chuẩn 4C sẽ là hướng đi mới giúp Việt Nam nâng cao chất lượng cà phê một cách đồng bộ. Brazil là nước có sản lượng tiêu thụ cà phê lớn thứ 2 thế giới (sau Mỹ), với gần 50% sản lượng sản xuất ra được tiêu thụ trong nước, giúp giảm bớt sự phụ thuộc vào thị trường bất ổn trên thế giới. Hiện nay, lượng tiêu thụ nội địa vẫn liên tục tăng hàng năm, nhờ triển khai chương trình xúc tiến thương mại toàn diện trong nước từ thập kỷ 80 của thế kỷ 20. Đây là một kinh nghiệm rất tốt mà Việt Nam có thể học tập.
Ngành cà phê của Brazil có 4 nhóm tổ chức chính: Tổ chức của các nhà sản xuất (bao gồm các nhà sản xuất nhỏ lẻ và các hợp tác xã), Tổ chức của các nhà rang xay; Tổ chức của các nhà sản xuất cà phê hoà tan và tổ chức của các nhà xuất khẩu. Các tổ chức ngành hàng này đại diện cho từng nhóm người khác nhau, tham gia vào quá trình (i) thảo luận, hoạch định và thực hiện chính sách; (ii) xác định, điều chỉnh, giám sát và đánh giá nghiên cứu kỹ thuật cà phê; (iii) thực hiện các chương trình xúc tiến thương mại, tăng cường chất lượng cà phê. Bộ Nông nghiệp Brazil có chức năng nghiên cứu, hoạch định chính sách, chịu trách nhiệm về các vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm, phòng chống bệnh dịch. Brazil xây dựng và phát triển hệ thống hợp tác xã ngành hàng cà phê hoạt động rất hiệu quả và nhịp nhàng. Sản xuất cà phê của các Hợp tác xã chiếm tới 35% tổng sản lượng cà phê của cả nước. Đoàn đã tới thăm Hợp tác xã cà phê lớn nhất thế giới của Brazil (Cooxupe) được thành lập từ năm 1957, có 12000 thành viên, trong đó 70% là nông trại quy mô nhỏ (5-7ha), 30% là quy mô vừa và lớn. Hàng năm, trang trại này buôn bán tới 4,5 triệu bao (cung cấp cho cả thị trường trong nước và xuất khẩu trực tiếp tới các thị trường Mỹ, EU, Nhật Bản. HTX có hệ thống hoàn chỉnh bao gồm kho chứa, làm sạch, phân loại, đánh bóng, pha trộn hạt cà phê, và buôn bán trực tiếp. Năm 2006, HTX có kho chứa công suất lên tới 3,3 triệu bao/năm. Năm 2006, HTX đã nhận vào kho chứa tới 2,6 triệu bao. HTX có khoảng 60 chuyên gia nông nghiệp, mỗi người chịu trách nhiệm cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho khoảng 200-250 hộ. Như vậy, mỗi vụ, một chuyên gia có thể tới thăm 1 trang trại khoảng 4 lần để hướng dẫn kỹ thuật mới, kiểm tra quy trình sản xuất đến thu hoạch, phát hiện vấn đề và giúp giải quyết khó khăn khi cần thiết.
Ngoài ra, Brazil còn có các tổ chức hỗ trợ khác như Nhóm các tổ chức nghiên cứu cà phê (Coffee Research Consortium), chịu trách nhiệm nghiên cứu và chuyển giao các vấn đề kỹ thuật cho cà phê, bao gồm nhiều tổ chức nghiên cứu khác nhau như tổ chức nghiên cứu nông nghiệp của chính phủ (Embrapa-điều phối của nhóm), các đơn vị nghiên cứu của các trường đại học, các tổ chức phi chính phủ… Bên cạnh các tổ chức nghiên cứu kỹ thuật cà phê, Brazil còn có tổ chức nghiên cứu kinh tế - xã hội ngành hàng (Coffee Intelligence Center), chịu trách nhiệm nghiên cứu, dự báo, cung cấp thông tin thị trường cà phê thế giới và Brazil cho các tác nhân khác nhau. Điều phối toàn bộ hoạt động của các tổ chức trên là Hội đồng Cà phê Quốc gia (CNC), có văn phòng thường trực (Cục Cà phê) đặt tại Bộ Nông nghiệp Brazil. Thành viên của hội đồng bao gồm 50% là thành viên của Chính phủ (Bộ và các cơ quan nghiên cứu thuộc Bộ) và 50% là đại diện của 4 nhóm tổ chức trên. Chủ tịch hội đồng là Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp, Phó chủ tịch là 1 Thứ trưởng phụ trách nông nghiệp. Hội đồng bao gồm 4 uỷ ban: Uỷ ban thị trường và tiếp thị, Uỷ ban chính sách chiến lược, Uỷ ban nghiên cứu kỹ thuật và Uỷ ban phụ trách các tổ chức quốc tế. Trách nhiệm chính của Hội đồng là điều phối toàn bộ hoạt động của ngành hàng, đưa ra các định hướng chính sách trên cơ sở tham vấn các thành viên đại diện, xác định các ưu tiên nghiên cứu và phân bổ vốn cho hoạt động nghiên cứu và chuyển giao cũng như các chương trình khác như xúc tiến thương mại trong nước, nâng cao chất lượng cà phê, bảo vệ môi trường…
CHƯƠNG II. GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY TIÊU THỤ CÀ PHÊ VIỆT NAM TRÊN THỊ TRƯỜNG NỘI ĐỊA
Dự báo về thị trường tiêu thụ cà phê
1.1. Xu hướng chung của thị trường thế giới
Đối với mặt hàng cà phê, thị trường luôn có nhiều biến động và sự cạnh tranh giữa các quốc gia rất quyết liệt. Nhận diện những biến đổi trong xu hướng tiêu dùng cà phê thế giới năm 2010 sẽ là bí quyết giúp các doanh nghiệp Việt Nam cạnh tranh thắng lợi.
Xu hướng tiêu dùng cà phê trên thế giới đang có những biến đổi to lớn. Những biến đổi này vừa là thách thức, vừa là thời cơ cho ngành cà phê Việt Nam. Việc tiêu thụ cà phê tại thị trường nội địa cũng chịu sự chi phối của các xu hướng chung của thị trường thế giới sau:
a, Cầu về cà phê tăng trưởng mạnh nhất tại các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước trồng cà phê
Trong vòng 10 năm từ 1999-2009, lượng tiêu thụ cà phê thế giới đã tăng trưởng khoảng 17%, hiện vào khoảng 132 triệu bao. Trong đó cà phê được tiêu thụ nhiều nhất tại một số khu vực như: Tây Âu, Bắc Mỹ, Nam Mỹ, Đông Âu, Nhật Bản đặc biệt là EU, Mỹ và Nhật Bản với mức tiêu thụ trung bình chiếm 45%, 24% và 8% lượng tiêu thụ trên toàn thế giới. Trung bình, các quốc gia phát triển tiêu thụ khoảng 70 triệu bao mỗi năm.
Biểu đồ 2-1: Cầu cà phê thế giới
Nguồn: Agroinfo
Tuy nhiên trong vài năm trở lại đây, cầu về cà phê tăng trưởng mạnh mẽ tại các nước đang phát triển và đặc biệt là tại các quốc gia trồng cà phê. Dung lượng thị trường tại các quốc gia đang phát triển đã tăng từ 40 triệu bao vào năm 1999 lên tới 70 triệu bao vào năm 2009, tương đương mức tăng trưởng 75% trong vòng 10 năm. Giá cà phê giảm mạnh (từ 1,28USD/pound xuống còn 0,5 USD/pound, tương đương mức giảm 61% trong giai đoạn 1983-2002) là nguyên nhân chính của việc tăng trưởng tiêu dùng.
Sự tăng trưởng nhanh chóng này một phần là do các chiến dịch quảng cáo mạnh mẽ đang đang được tiến hành rộng rãi tại các quốc gia đang phát triển và các quốc gia sản xuất cà phê đã biến thứ đồ uống này trở thành một nhu cầu thiết yếu. Mặt khác, sự xâm nhập của văn hóa châu Âu trong ẩm thực và các nghiên cứu về lợi ích của cà phê đối với sức khỏe cũng góp phần làm tăng nhu cầu về cà phê tại các nước đang phát triển. Ngày càng nhiều quán cà phê được mở ra tại các nước này, điển hình là tại Ấn Độ, Colombia, ElSalvador, Việt Nam và nhiều nơi khác trên thế giới. Tại nhiều nơi, quán cà phê đã trở thành nơi thư giãn nghỉ ngơi của mọi tầng lớp. Trong đó, cầu tăng trưởng mạnh nhất tại các quốc gia trồng cà phê, điển hình là tại Brazil, lượng tiêu thụ cà phê đã tăng từ 12 triệu bao năm 1999 lên gần 19 triệu bao vào năm 2009 (mức tăng xấp xỉ 40% trong vòng 10 năm). Mức tiêu thụ bình quân đầu người của Brazil hiện đạt trung bình gần 5kg/người/năm, sau đó là Colombia, Ethiopia và Mexico (đạt khoảng trên dưới 1kg/người/năm). Indonesia và Việt Nam là hai nước có tiêu thụ bình quân đầu người thấp nhất, chỉ khoảng trên 0,5kg/người/năm tuy nhiên tốc độ tăng trưởng tiêu thụ của hai nước này đang tăng với tốc độ xấp xỉ 100% so với năm 2001.
b, Xu hướng lựa chọn cà phê đặc sản và các loại cà phê được chứng nhận xuất xứ
Biểu đồ 2-2: Cầu cà phê có chứng nhận
Nguồn: Agroinfo
Người tiêu dùng hình thành những thói quen mới, và những thói quen này góp phần tạo nên xu hướng tiêu dùng mới.
Người tiêu dùng coi trọng “chất lượng”, “nhãn hiệu nổi tiếng” và “sản phẩm bền vững và có xuất xứ”.
Tiêu dùng các sản phẩm được chứng nhận thân thiện với môi trường;
Lựa chọn các nhãn hiệu tốt và có trách nhiệm, tránh các công ty xấu
Do đó, cầu về các loại cà phê được chứng nhận gia tăng mạnh mẽ trong các năm gần đây. Chỉ số tăng trưởng cầu về cà phê năm 2007 là 100 thì tăng trưởng cầu về cà phê được chứng nhận là khoảng 135, chỉ số tương ứng năm 2008 là 100 và 170 (năm 2006=100). Dung lượng thị trường cà phê có chứng nhận năm 2008 vào khoảng 280-290 tấn, trong đó 27% người tiêu dùng lựa chọn các sản phẩm được chứng nhận UTZ, 22% lựa chọn sản phẩm được chứng nhận Rainforest Alliance, 28% lựa chọn các sản phẩm được chứng nhận là sản phẩm hữu cơ và 23% lựa chọn sản phẩm được chứng nhận FairTrade.
c, Sự cạnh tranh mạnh mẽ của các loại nước uống cung cấp năng lượng khác
Thị trường cà phê đang phải cạnh tranh mạnh mẽ với nhiều loại đồ uống khác: nước ngọt; trà; nước tăng lực bổ sung đường, caffeine, taurine; Các loại đồ uống dành cho vận động viên và người chơi thể thao. Sự cạnh tranh mạnh mẽ của các loại đồ uống khác khiến cà phê không còn là sự lựa chọn hàng đầu của nhiều người tiêu dùng.
Tại khu vực Bắc Mỹ, lượng tiêu thụ nước tăng lực chiếm khoảng 37% tổng lượng tiêu thụ toàn cầu , tiếp theo là khu vực châu Á Thái Bình Dương chiếm khoảng 30% và Đông Âu với 15%. Do đó các nhà kinh doanh cà phê phải tìm cách giành được phân khúc người tiêu dùng có nhu cầu về các loại đồ uống nhanh, dễ lựa chọn và chứa ít đường
Các loại đồ uống này hiện đang được marketing mạnh mẽ vào phân khúc người tiêu dùng trẻ tuổi, năng động, và đang hướng tới phân khúc nữ giới và người có tuổi. Với việc bổ sung vitamine, khoáng chất và các thành phần khác được cho là có lợi cho sức khỏe, các loại đồ uống này phục vụ phân khúc người tiêu dùng trẻ tuổi, năng động, có hiểu biết cao và hiện đang hướng tới nhóm người tiêu dùng là phụ nữ và người có tuổi. Ngoài ra, các loại đồ uống này còn có tính cạnh tranh cao nhờ giá rẻ: giá thành 1 chai nước ngọt có ga 2lits chỉ vào khoảng 1,25-1,5 usd hay 24-27.000 đồng trong khi 1 ly cà phê được pha chế như Starbucks vào khoảng 4USD.
1.2. Xu hướng thị trường cà phê nội địa
Tại thị trường nội địa cũng có những dấu hiệu riêng cần quan tâm đến. Cụ thể:
Trong niên vụ 2009/10, sản lượng cà phê của Việt Nam ước giảm còn 17,5 triệu bao, tương đương 1,05 triệu tấn, thấp hơn 3% so với niên vụ trước đó, do mưa quá nhiều trong giai đoạn cây ra hoa và thời gian thu hoạch tại các tỉnh Đắc Lắc và Lâm Đồng – hai địa phương trồng cà phê lớn nhất nước. Bên cạnh đó, mưa bất thường ở thời điểm cuối giai đoạn ra hoa cũng là nguyên nhân khiến trái cà phê chín ở những thời điểm khác nhau, làm giảm chất lượng quả. Việt Nam sẽ phải chịu chi phí nhân công trong thu hoạch cà phê gia tăng bởi thiếu nhân lực. Năng suất cà phê niên vụ 2009/10 của Việt Nam dự kiến đạt 2,09 tấn/hécta, thấp hơn 3,2% so với vụ trước. Trong niên vụ 2010/11 và 2011/12, sản lượng cà phê của Việt Nam có thể đạt 18,73 triệu bao, tức khoảng 1,12 triệu tấn, cao hơn 7% so với vụ trước đó nhờ thời tiết thuận lợi hơn trong giai đoạn cây ra hoa. Người trồng cà phê cho biết, hầu hết các cây cà phê đều cho quả tốt và đang chín trái khá đồng đều ở thời điểm hiện tại của vụ. Mùa khô tại các khu vực trồng cà phê chủ chốt, kéo dài từ tháng 11 năm ngoái đến tháng 4 năm nay, rất may là không ảnh hưởng tới sản lượng. Chính phủ Việt Nam trong năm nay vẫn tiếp tục khuyến khích người dân thay thế các cây cà phê già và năng suất kém bằng các cây cà phê cho năng suất và chất lượng cao hơn, đặc biệt tại các tỉnh Đắc Lắc và Lâm Đồng. Bên cạnh đó, chính quyền địa phương cũng có các biện pháp bao gồm cung cấp giống mới và chuyên gia kỹ thuật cho người nông dân nhằm giúp họ học hỏi các kỹ thuật canh tác mới nhằm cải thiện chất lượng cà phê. Tuy nhiên, do giá cà phê giảm gần đây đã không hỗ trợ hay khuyến khích người dân thay thế cây cà phê cũ và lâu năm, bởi số tiền mà họ thu được từ việc bán cà phê quá thấp. Sản lượng cà phê robusta của Việt Nam niên vụ này dự kiến vẫn chiếm 97%. Sản lượng cà phê arabica vẫn tăng nhẹ dù diện tích đuợc mở rộng tại các tỉnh phía Bắc và miền Trung như Quảng Trị, Sơn La và Hoà Bình.
Giải pháp đẩy mạnh tiêu thụ cà phê Việt Nam
Đối với doanh nghiệp
2.1.1. Xây dựng mạng luới phân phối nội địa
Nhìn trong dài hạn, sự lên xuống thất thường với biên độ lớn của cung-cầu và giá cả cà phê trên thị trường thế giới, cùng với những tác động của nó đến hoạt động kinh doanh cà phê Việt Nam, một cách tự nhiên dẫn tới những đánh giá khác nhau, kỳ vọng khác nhau, mức độ lòng tin khác nhau đối với triển vọng của ngành cà phê Việt Nam. Sau 20 năm phát triển mang tính bùng nổ, tuy đã được thế giới thừa nhận là “cường quốc cà phê” nhưng cần phải dũng cảm nhìn nhận, Việt Nam mới chỉ là “cường quốc sản xuất và bán hạt cà phê”, thậm chí là một “cường quốc cà phê nông dân”, chỉ được chia phần giá trị gia tăng ít ỏi và bị động. Vấn đề đặt ra là liệu hạt cà phê Việt Nam có đủ điều kiện, năng lực để thay đổi vị thế thực sự? Để làm giàu thực sự nhờ cây cà phê và trở thành cường quốc cà phê theo đúng nghĩa chỉ có một cách: chuyển nhanh phương thức tồn tại từ “trọng nông” sang “trọng thương”. Mục tiêu phụ trợ, cũng là định hướng thực hiện nhiệm vụ này là: giảm dần khối lượng cà phê thô cung cấp cho các nhà độc quyền, mở rộng dần thị phần cà phê chế biến của Việt Nam và do người Việt Nam cung cấp, doanh nghiệp cà phê Việt Nam cần tăng mức tiếp cận đến người trực tiếp tiêu thụ cà phê trên thế giới. Muốn vậy, ngoài việc tăng thị phần và nâng cao chất lượng cà phê chế biến, Việt Nam nên xây dựng và phát triển mạng lưới bán hàng toàn cầu. Cà phê Việt Nam không thể đủ uy tín để chinh phục thế giới một khi chưa chinh phục được chính người dân Việt Nam. Nói như vậy có nghĩa là, các doanh nghiệp trong nước cần mở mạng lưới tiêu thụ cà phê chính tại Việt Nam. Tạo ra hệ thống liên kết trong kinh doanh cà phê trên thị trường nội địa có thể là một trong những định hướng chiến lược kinh doanh chủ yếu của các doanh nghiệp cà phê Việt Nam trong giai đoạn tới.
Giải pháp cho vấn đề này đòi hỏi doanh nghiệp phải có sự tiếp cận với mạng xã hội, truyền thông cũng như xúc tiến để liên kết - chắp mối kinh doanh. Trong vấn đề này, doanh nghiệp cần phải quan tâm tới tầm quan trọng của hệ thống phân phối bán lẻ trong nước mà quan trọng hơn là hạ tầng, giao thông, kho bãi và hậu cần. Đặc biệt, trong việc chiếm lĩnh và phát triển thị trường trong khu vực này, doanh nghiệp cần xem xét trên quy mô vùng địa lý theo mỗi ngành hàng và đối với mỗi doanh nghiệp để có thể đạt được bảy chữ vàng như mong đợi “Hàng Việt Nam chất lượng quốc tế”
2.1.2. Đổi mới sản phẩm, phương thức cung ứng
Trong việc xây dựng và khẳng định thương hiệu cà phê Việt Nam tại thị trường nội địa cần chú trọng nâng cao nhận thức của doanh nghiệp trong việc xây dựng thương hiệu, mở rộng kênh tiếp thị và tiêu thụ bằng cách phục vụ nhu cầu thưởng thức cà phê hòa tan hay pha sẵn - đang là cách mà một số công ty cà phê đang lựa chọn. Hoàn thiện hệ thống thông tin về môi trường kinh doanh, hệ thống phân phối, giá cả mặt hàng hiện hành, chủ động áp dụng thương mại điện tử trong giao dịch mua, bán, ký gửi cà phê trong nước và quốc tế. Đại diện Vụ Thị trường trong nước cũng đề xuất, trên cơ sở rút kinh nghiệm sàn giao dịch vừa chính thức khai trương ở Buôn Ma Thuột và học tập kinh nghiệm các sàn giao dịch lớn trên thế giới, cần tiến hành xây dựng Đề án phát triển hệ thống phân phối cà phê trong nước, phấn đấu đến năm 2015 đưa vào hoạt động 1-2 sàn giao dịch cà phê tại Tây Nguyên hay TP.Hồ Chí Minh, áp dụng các phương thức mua bán hiện đại như giao dịch kỳ hạn… phòng ngừa rủi ro khi có biến động giá trên thị trường. Doanh nghiệp kinh doanh cà phê Việt Nam cần định hướng chiến lược vào thị trường nông thôn, giới trẻ, cà phê hòa tan, hạ giá thành và giá bán lẻ; lưu ý hơn đến khẩu vị và phong cách uống của nhóm thu nhập thấp và trình độ học vấn thấp; ưu tiên phân khúc thị trường. Như đối với cà phê hòa tan tại nhà, tiềm năng ở Hà Nội là nam giới, tuổi già, lãnh đạo, thợ thủ công; ở Tp.HCM là nam giới, trí thức, thu nhập cao. Còn cà phê bột tại nhà, tiềm năng ở Hà Nội là nhân viên dịch vụ
2.1.3. Tăng cường các hoạt động xúc tiến
Các giải pháp đẩy mạnh các chương trình quảng cáo và xúc tiến thương mại cho tiêu thụ cà phê nội địa cần chú trọng đến truyền thông và hội chợ, thiết lập hệ thống thông tin và đánh giá nhu cầu của người tiêu dùng cà phê hàng năm, đặc biệt tại thị trường nông thôn; kiểm soát chặt chẽ chất lượng cà phê bán lẻ; hỗ trợ hệ thống bán lẻ cà phê tại khu vực nông thôn, trong đó chú trọng tới cà phê hòa tan; hỗ trợ các nghiên cứu về công nghệ chế biến cà phê, nhằm nâng cấp chất lượng sản phẩm. Xây dựng chợ và sàn giao dịch cà phê là phương án được Hiệp hội cà phê – ca cao thực thi với mục đích sẽ trở thành một trung tâm thu mua cà phê một mối để giảm chi phí đầu vào, vừa ổn định giá cả trên cả nước. Chợ giao dịch là nơi cung cấp thông tin tập trung cho các thương nhân có tham gia sản xuất kinh doanh cà phê, là nơi hỗ trợ nông dân làm quen với phương thức mua bán, hỗ trợ khuyến nông, tài chính cho các doanh nghiệp.
Tiếp tục thực hiện các chương trình xúc tiến thương mại nội địa, phối hợp với các đơn vị phân phối để tiêu thụ, đáp ứng phân phối hàng hóa đều khắp các địa bàn. Tăng cường kiểm soát thị trường, xử lý nghiêm các hành vi đầu cơ, găm hàng, tăng giá, gian lận thương mại, niêm yết giá và bán không theo giá niêm yết, kiểm soát chặt chẽ chất lượng hàng hóa và VSATTP. Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền về chính sách, điều hành cũng như thông tin chính xác về diễn biến thị trường, tránh hiện tượng thông tin thất thiệt
2.2. Đối với nhà nước
Sau 1 năm hưởng ứng cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” thì đã có 58% người tiêu dùng Việt Nam quan tâm đến hàng Việt. Theo báo cáo của Cục Chế biến thương mại Nông lâm thủy sản và nghề muối (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn), việc thu mua tạm trữ cà phê theo quyết định của Chính phủ đã có tác động tích cực đối với thị trường và người nông dân. Việc thu mua tạm trữ cà phê đã giúp nông dân tiêu thụ được cà phê với giá cao, ổn định sản xuất, đồng thời tạo áp lực trên thị trường để nâng giá cà phê robusta, tăng kim ngạch xuất khẩu cho càphê Việt Nam cũng như giúp ngành cà phê Việt Nam phát huy được thế mạnh của mình và phát triển bền vững. Đến nay, các công ty sản xuất, kinh doanh cà phê đã thu mua tạm trữ được hơn 55.000 tấn cà phê với giá bình quân từ 25.000-26.000 đồng/kg, tổng giá trị trên 1.400 tỷ đồng. Như vậy, ngoài việc nỗ lực của bản thân doanh nghiệp, Chính phủ cần hỗ trợ một Chương trình quốc gia phát triển thương hiệu cà phê Việt Nam, như khuyến khích thực thi Dự án xây dựng “Thánh địa cà phê Tây Nguyên”… Dự án Thiên đường cà phê toàn cầu là một phần quan trọng trong chiến lược phát triển của cà phê VN, với các nội dung lớn như: Quy hoạch Buôn Ma Thuột thành một thành phố đặc trưng về cà phê, xây dựng Viện Bảo tàng cà phê thế giới, lập một sàn giao dịch nông sản được kết nối với các định chế tài chính và các quốc gia sản xuất, xuất khẩu cà phê hàng đầu thế giới, xây dựng đồn điền thực hành cà phê sạch, một quần thể tích hợp du lịch văn hóa - sinh thái cà phê, khu vườn thiên đường cà phê... Đây là những biện pháp cần làm ngay, được đông đảo các chuyên gia, các doanh nghiệp tại hội thảo đồng lòng nhất trí.
Một số giải pháp vĩ mô cần thiết để Việt Nam phát triển bền vững ngành hàng cà phê được đề xuất là:
- Cần đẩy mạnh tuyên truyền, thông tin cho mọi người hiểu rõ: cà phê không gây hại cho sức khoẻ. Tổ chức cà phê quốc tế đã hợp tác với nhiều viện nghiên cứu và trường đại học có danh tiếng nghiên cứu và làm rõ mối quan hệ giữa cà phê và sức khoẻ. Tuy người ta có nhắc tới tác dụng độc hại của acrylamid và furan là những chất gây ung thư cho loài gặm nhấm, nhưng hàm lượng những chất này trong cà phê không đáng kể. Các kết quả nghiên cứu khoa học cho thấy nhiều hữu ích của cà phê đối với sức khoẻ con người, đặc biệt tác dụng chống lão hoá. Dân ta thích uống trà xanh là bởi nguồn chất chống lão hoá khá phong phú như epigallocatechin, nhưng đáng chú ý là cà phê cũng chứa ở mức độ cao nhiều chất chống lão hoá ở dạng neochlorogenic acid, cholorogenic acid
- Phải sớm xây dựng chương trình hoàn chỉnh cho việc khuyến khích tiêu dùng cà phê trên thị trường trong nước. Đây là một vấn đề được giới kinh doanh và sản xuất cà phê trên thế giới quan tâm. Sau Brazil, Colombia cũng đưa ra chương trình xúc tiến tiêu dùng trong nước của mình. Tiếp đó Ấn Độ cũng đang có những chuẩn bị tích cực Chính phủ cần có chính sách chủ động hơn cho ngành cà phê, cải thiện năng lực tài chính cho doanh nghiệp thông qua cơ chế vay vốn từ ngân hàng, tổ chức lại ngành hàng cà phê từ sản xuất, chế biến, xuất khẩu… để nâng cao năng lực cho ngành càphê Việt Nam
- Thành lập ủy ban điều phối ngành hàng cà-phê nhằm đề xuất và hoạch định chính sách chiến lược ngành, gồm cả chính sách dự trữ; cung cấp và phổ biến thông tin thị trường; cải tiến thể chế tổ chức ngành hàng. Đặc biệt lưu ý là chiến lược xúc tiến thương mại. Thông qua dự án nghiên cứu nông nghiệp, marketing và dự báo mùa vụ. Thông qua giải pháp cân đối cung cầu cho xuất khẩu và tiêu thụ trong nước...
- Xây dựng, liên kết những hiệp hội như: hiệp hội sản xuất, hiệp hội những người buôn bán nhỏ, hiệp hội các công ty kinh doanh và hiệp hội người tiêu dùng. Hiện chúng ta mới chỉ có mô hình hiệp hội kinh doanh cà-phê, còn lại những nhân tố khác vẫn rời rạc và ở quy mô nhỏ. Do vậy, cần tạo ra các hiệp hội mới như hiệp hội sản xuất với mục đích kết nối quyền lợi của nông dân trồng cà-phê và gia đình nhằm bảo đảm ổn định thu nhập cho họ; hay những hiệp hội buôn bán nhỏ, hiệp hội người tiêu dùng, với vai trò góp phần tạo ra kênh phân phối hợp lý, tiếp cận và phản hồi thông tin và phản ứng thị trường một cách nhanh chóng và chính xác
- Xây dựng hệ thống thu mua sản phẩm: Đối với các sản phẩm nông sản thì khi sản xuất ra những để có thể tiêu thụ được không phải là vấn đề đơn giản, trong trường hợp không thuận lợi thì người sản xuất luôn bị thiệt. Cây cà phê Việt Nam được thừa hưởng những điệu kiện thuận lợi nên dễ phát triển với diện tích, sản lượng ngày càng tăng. Như vậy một vấn đề đặt ra đối với ngành cà phê là làm sao gắn kết được giữa người sản xuất – chế biến – tiêu thụ - tiêu dùng. Từ đó đòi hỏi các doanh nghiệp cà phê phải tổ chức thu mua một cách đồng bộ, có thể tập trung thu mua về một mối là nơi có thể giao dịch giữa cả người mua và người bán để có thể đảm bảo cả về chất lượng và số lượng vừa ổn định được giá thu mua. Từ việc thu mua này thì giúp người trồng cà phê yên tâm sản xuất, không phải chạy đi giao bán khắp nơi, không bị ép giá đồng thời giảm được chi phí vận chuyển cho người mua không phải thu mua nhỏ lẻ, rải rác từ các hộ gia đình.
3. Điều kiện thực hiện giải pháp
Để tiêu thụ nội địa phát triển đỏi hòi phải có những điệu kiện nhất định nhằm hỗ trợ, tạo tiền đề cho sự phát triển của ngành hàng này. Một số điệu kiện chủ yếu gồm: cơ sở hạ tầng xã hội, cơ sở vật chất kỹ thuật, hệ thống chính sách và luật pháp, điều kiện về nhân lực…
Thứ nhất, cơ sở hạ tầng xã hội đóng một vai trò vô cùng quan trọng cho sự phát triến của một ngành hàng của nói chung, của tiêu thụ cà phê nội địa nói riêng. Khi đề cập tới cơ sở hạ tầng kỹ thuật, người ta sẽ đề cập đến một số khía cạnh như: hệ thống giao thông vận tải, hệ thống thông tin liên lạc, hệ thống bến bãi, kho trạm… Trong thời đại phát triển khoa học kỹ thuật lên trình độ mới, những yếu tố này có ảnh hưởng lớn đến hệ thống phân phối của một doanh nghiệp, đòi hỏi doanh nghiệp phải tổ chức hệ thống phân phối linh hoạt với sự thay đổi của khoa học kỹ thuật. Điều này cũng có nghĩa là quốc gia đó phải có cơ sở hạ tầng văn minh, hiện đại và tiên tiến. Hệ thống giao thông vận tải như: đường xá, phương tiện vận tải thuận lợi sẽ giúp cho quá trình lưu thông hàng hóa trở nên dễ dàng hơn từ đó thúc đẩy quá trình tiêu thụ hàng hóa, quá trình vận chuyển cũng trở nên thông suốt là cơ sở cho việc giảm chi phí kho bãi, bốc dỡ khi hàng hóa bị ứ đọng từ đó giảm giá thành sản phẩm và là cơ sở cho chiến lược cạnh tranh về giá của doanh nghiệp. Một vấn đề cấp thiết hiện nay của nước ta là hệ thống cơ sở hạ tầng của chúng ta còn yếu kém cũng như lạc hậu so với nhiều nước trong khu vực và thế giới. Nó làm cản trở việc vận chuyển, phân phối hàng hóa. Bên cạnh đó, hệ thống thông tin liên lạc còn chậm, nghèo nàn khiến cho thông tin giữa doanh nghiệp với thị trường cũng như với khách hàng lỏng lẻo, gây ảnh hưởng tới tiếp nhận thông tin về công tác lưu thông, thông tin thị trường và sự phản hồi của khách hàng. Ngày nay, thế giới đang chứng kiến sự phát triển vượt bậc của khoa học công nghệ thông tin, chính vì vậy cần có sự đầu tư hơn nữa về giao thông liên lạc để tạo bước đệm cho quá trình phát triển của hệ thống phân phối. Hơn nữa yếu tố cơ sở hạ tầng cần được thực hiện một cách nhất quán, đồng bộ để đảm bảo sự phát triển đồng đều giữa các vùng, khu vực. Điển hình là sự phát triển của Internet ngày nay đã mở ra những cơ hội mới cho những doanh nghiệp muốn mở rộng thị trường ở cả trong nước và quốc tế. Nó tạo ra sự kết nối nhanh chóng và liên tục giữa các doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp đã ứng dụng thương mại điện tử trong tiêu thụ sản phẩm và đã mạng lại hiệu quả cao trong kinh doanh. Như vậy, đầu tư cơ sở hạ tầng là chiến lược lâu dài và hiệu quả mà bất kỳ quốc gia nào cũng cần phải quan tâm để nâng cao trình độ phát triển của đất nước.
Ngoài sự đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng như một chiến lược lâu dài thì đối với bản thân doanh nghiệp cần chú trọng vào đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật chẳng hạn như: trang thiết bị, hệ thống máy tính, hệ thống thanh toán theo phương thức điện tử (chuyển khoản, tín dụng…), hệ thống kho bãi, phương tiện vận chuyển… theo hướng chuyên môn hóa, hiện đại hóa. Sự ứng dụng những phương thức thanh toán hiện đại trong những năm gần đây tạo ra sự nhanh gọn, linh hoạt cho cả nhân viên lẫn khách hàng doanh nghiệp. Nếu sự ứng dụng được áp dụng rộng rãi trong cả ngành hàng thì sẽ tạo hiệu quả kinh doanh cao hơn cho doanh nghiệp. Hướng hiện đại hóa thể hiện qua việc sử dụng hệ thống máy tính tốc độ cao có kết nối các dịch vụ ADSL… đang được áp dụng rộng rãi. Điều này cho thấy rằng để doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh trên thị trường thì ngoài chính sách về giá, sản phẩm… thì doanh nghiệp cần có chiến lược phát triển mạng lưới tiêu thụ sản phẩm của mình theo hướng hiện đại có thể bắt kịp với xu hướng của các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Hay nói cách khác doanh nghiệp cần có những tiềm lực nhất định về cơ sở vật chất kỹ thuật để tạo ra lơi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp.
Để thúc đẩy sự phát triển, tiêu thụ của một ngành hàng ngoài sự nỗ lực của chính bản thân các doanh nghiệp cần có sự tác động rất lớn từ phía nhà nước thông qua công cụ pháp luật, các chính sách nhằm khuyến khích sự phát triển, mở rộng của doanh nghiệp. Hàng năm Quốc Hội thường xây dựng các bộ luật mới, các pháp lệnh đồng thời có điều chỉnh, bổ sung các văn bản pháp luật cũ để đảm bảo sự phát triển đồng bộ, công bằng đối với các chủ thể tham gia thị trường. Tuy nhiên, nền kinh tế Việt Nam vẫn vận hành trong điều kiện “thiếu luật”. Sự thiếu nhất quán và tính đồng bộ tạo không ít khó khăn cho các doanh nghiệp muốn mở rộng thị trường nhưng lại vướng mắc vào những quy định của pháp luật. Điều này cũng có nghĩa là hệ thống pháp luật phải minh bạch, rõ ràng, nhất quán để doanh nghiệp có thể được cung cấp đẩy đủ thông tin. Các hiệp hội đại diện cho quyền lợi của doanh nghiệp nội địa khi tham gia vào thị trường quốc tế sẽ có vai trò trong việc đảm bảo quyền lợi chính đáng cho các doanh nghiệp. Còn về phía doanh nghiệp cần cập nhật những thay đổi trong chính sách, quy định của pháp luật để điều chỉnh hoạt động của doanh nghiệp.
Một điều kiện cũng mang ý nghĩa quyết định tới lượng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp chính là nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực của doanh nghiệp bao gồm: Bộ phận quản lý điều hành và nhân viên. Sự vận hành của cả doanh nghiệp phù thuộc rất lớn vào khả năng tạo dựng, liên kết các thành viên kênh, cũng như sự điều khiển hoạt động của những nhà lãnh đạo cấp cao. Điều này không những đòi hỏi về năng lực chuyên môn mà cả những kỹ năng quản lý, kỹ xảo của người lãnh đạo đó. Do đó, doanh nghiệp phải có nguồn nhân lực quản lý thực sự chuyên nghiệp để định hướng phát triển kinh doanh cho toàn doanh nghiệp. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng có thể bổ sung thêm nguồn nhân lực chuyên cố vấn các vấn đề liên quan tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hay những vấn đề giải quyết mâu thuẫn giữa doanh nghiệp với các nhà phân phối, nhân viên bán hàng. Mặt khác , lực lượng nhân viên của mỗi doanh nghiệp cũng đóng vai trò quyết định tới sự liên kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp với khách hàng. Nguồn nhân lực này cần đáp ứng được những yêu cầu nhất định về trình độ chuyên môn, kỹ năng như: giải đáp sự phàn nàn của khách hàng về sản phẩm, dịch vụ, thương lượng với khách hàng hay nhà cung cứng….Đặc biệt là khả nănng ứng dụng những phương tiện hiện đại như: sử dụng máy tính,máy móc hiện đại trong quy trình thanh toán hay xử lý giấy tờ….Khi doanh nghiệp muốn mở rộng mạng lưới tiêu thụ tới những quốc gia khác trên thế giới hay với lượng khách nước ngoài tại thị trường trong nước thì yêu cầu về ngoại ngữ đối với nhân viên được phổ biến rộng rãi.
Tóm lại, những điều kiện cơ bản nói trên có quan hệ tác động qua lại với nhau do đó cần có các giải pháp đồng bộ và triệt để từ phía nhà nước và doanh nghiệp
KẾT LUẬN
Cà phê là ngành có giá trị kinh tế cao, đóng góp một giá trị không nhỏ vào GDP. Hơn nữa việc tiêu thụ cà phê trong nước còn mang những nét đặc thù của truyền thống văn hóa. Tăng lượng tiêu thụ trong nước, phát triển ổn định bền vững trị thrường nội địa là hướng đi lâu dài và vững chắc cho các doanh nghiệp cà phê Việt Nam. Những thành tựu mà nghành cà phê đạt được là nền tảng cho các doanh nghiệp Việt Nam nâng cao sức cạnh tranh ngay trên sân nhà. Hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội và cũng là thách thức lớn đòi hỏi ở các doanh nghiệp Việt Nan nhiều sự nỗ lực, linh hoạt trong hoạt động sản xuất kinh doanh, nhất là trong việc thúc đẩy tiêu thụ, chiễm lĩnh thị trường và định vị thương hiệu. Sản phẩm cà phê thơm ngon mang đậm bản sắc văn hóa Việt sẽ không chỉ có mặt ở nhiều nước trên thế giới mà còn được ưa chuộng, chiễm lĩnh thị trường nội địa. Cà phê sẽ tiếp tục là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam và có nền tảng phát triển bền vững từ thị trường trong nước của Việt Nam trong nhiều năm tới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Kinh tế thương mại – NXB ĐHKTQD
Web Bộ công thương – www.mot.gov.vn
Web Bộ NN & PTNT – www.mard-craft.org.vn
Web Cục xúc tiến thương mại – www.viettrade.com.vn
Web Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam
- www.vnemart.com.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Giải pháp thúc đẩy tiêu thụ cà phê Việt Nam trên thị trường nội địa.doc