Gian lận thuế giá trị gia tăng tại các doanh nghiệp thương mại Việt Nam thực trạng và giải pháp

Luật Thuế GTGT được áp dụng ở nước ta tuy muộn hơn nhiều so với các nước có nền kinh tế thị trường trên thế giới và khu vực, nhưng qua thực tiễn hơn 10 năm thi hành, thuế GTGT đã phát huy khá đầy đủ những ưu điểm của một sắc thuế tiên tiến; đã góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, khuyến khích xuất khẩu, tạo ra nhiều công việc thu hút lao động trong xã hội; đã có tác dụng lớn đối với đời sống kinh tế - xã hội, góp phần hình thành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là đã trở thành một nguồn thu lớn của ngân sách nhà nước để nhà nước thực hiện tốt chức năng tổ chức quản lý quá trinh xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

pdf94 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2970 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Gian lận thuế giá trị gia tăng tại các doanh nghiệp thương mại Việt Nam thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
các hiệp hội, tổ chức thƣơng mại quốc tế nhƣ hiệp hội các quốc gia Đông Nam á (ASEAN), tổ chức thƣơng mại thế giới (WTO) thì việc hình thành các liên minh thuế quan trọng đòi hỏi điều chỉnh phát luật thuế GTGT cũng nhƣ cơ chế đảm bảo thực hiện chúng phải đƣợc chuyển đổi phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội đó để tạo điều kiện thuận lợi chủ động trong việc tham gia phát triển hợp tác quốc tế. Hơn nữa, mặc dù nƣớc ta hiện nay đang phải chịu sức ép của quá trình cắt giảm thuế nhập khẩu theo các cam kết cắt giảm thuế quan CEPT/ AFTA, nhƣng vẫn phải tạo đà phát triển kinh tế thúc đẩy các doanh nghiệp Việt Nam thích ứng với những biến động và áp lực cạnh tranh để tăng cƣờng khả năng cạnh tranh trên thị trƣờng quốc tế, vì lẽ này mà đòi hỏi pháp luật thuế GTGT phải có sự thay đổi cơ bản. Bên cạnh đó, do tác động toàn cầu hoá quyền tự do kinh doanh của các chủ thể kinh doanh đƣợc mở rộng trên nhiều bình diện và sắc thái mới trong việc thành lập các cơ sở kinh doanh. Khai thác triệt để các lợi ích thông qua các biện pháp chuyển giá cùng với việc di chuyển linh hoạt các luồng vốn và lao động trên phạm vi toàn cầu đã làm cho cuộc cạnh tranh về thuế giữa các quốc gia trở nên gay gắt hơn và kết quả của sự cạnh tranh này đã làm cho hệ thống pháp luật thuế của các nƣớc trên thế giới có xu hƣớng hội tụ và phụ thuộc nhau nhiều hơn. Vì vậy, việc hoàn thiện pháp luật thuế GTGT ở Việt Nam và cơ chế đảm bảo thực hiện cũng không thể đứng ngoài vòng xoáy đó. Mặt khác, xu thế toàn cầu hoá sẽ làm cho việc thực thi và quản lý thuế ở nƣớc ta trở nên khó khăn hơn do tính chất phức tạp của các nghiệp vụ kinh tế xuyên quốc gia phát sinh, khả năng trốn, lậu thuế trở nên dễ dàng hơn và phạm vi, quy mô rộng lớn hơn, nhƣ các công ty xuyên quốc gia sẽ có cơ hội để khai thác triệt để các lợi thế định giá chuyển giao để trốn thuế và tính thuế. Cộng thêm các cuộc cạnh tranh và các cuộc chạy đua trong cạnh tranh qua 66 thuế cùng với nhiều biện pháp kích thích để thu hút dành lợi thế trong cạnh tranh đem lại những ngoại ứng hoặc là tiêu cực hoặc là tích cực đối với các nƣớc khác trong điều kiện kinh tế - xã hội này đã đặt ra nhu cầu ngày càng cao về nhu cầu điều chỉnh pháp luật thuế GTGT đặc biệt là cơ chế đảm bảo thực hiện thuế GTGT trong đó yếu tố con ngƣời đƣợc đặt lên hàng đầu; sự tinh thông về nghiệp vụ và kiến thức của các chuyên gia quản lý thuế không thể không quan tâm đúng mức và sâu sắc hơn. Bởi bản thân toàn cầu hoá cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin một mặt mở ra những cơ hội hợp tác quốc tế có hiệu quả trong lĩnh vực thuế một mặt đòi hỏi trình độ quản lý thuế phải vƣợt lên một tầm cao mới. Yêu cầu này không thể không gắn liền với việc đào tạo một đội ngũ chuyên gia thuế có kỹ năng và kiến thức tầm cỡ quốc tế. Đây cũng là yêu cầu đặt ra trong quá trình hoàn thiện pháp luật thuế GTGT và cơ chế đảm bảo thực hiện. Hơn nữa, sự phát triển của công nghệ thông tin, đặc biệt là công nghệ Internet đứng ở góc độ quản lý có cả những thuận lợi và khó khăn. Trƣớc hết, sự phát triển của công nghệ mạng sẽ làm tăng nhanh chóng sự nhất thể hoá các chức năng kinh doanh của một doanh nghiệp. Vấn đề mạng nội bộ đã trở thành phƣơng tiện không thể thiếu ở các công ty đa quốc gia trong thời đại này. Do đó mạng nội bộ mà các nghiệp vụ kinh doanh đƣợc nội bộ hoá ở mức cao. Việc này đồng nghĩa với những khó khăn trong việc xác định chức năng kinh doanh vì vậy vấn đề này đặt ra những thách thức mới đối với cơ quan thuế cũng nhƣ các nhà làm luật trong việc xác định cơ chế điều tiết thích hợp đối với thuế GTGT. Sự khai thác lợi thế về những ƣu đãi thuế giữa các quốc gia sẽ làm gay gắt thêm cuộc cạnh tranh về thuế giữa các quốc gia và đây cũng là vấn đề cần phải tính khi hoàn thiện pháp luật thuế GTGT cũng nhƣ cơ chế đảm bảo thực hiện. 67 Toàn cầu hoá với sự trợ giúp của công nghệ thông tin truyền số liệu sẽ làm tăng các hoạt động đầu tƣ gián tiếp, các giao dịch ngoại hội và đặc biệt giao dịch thông qua các phƣơng tiện tài chính phát sinh nhƣ các hợp đồng tƣơng lai, quyền lựa chọn mua bán hoặc chuyển nhƣợng v..v…Trong thể chế những giao dịch này không chịu thuế GTGT vì vậy khi hoàn thiện pháp luật thuế GTGT nên quy định đánh thuế hay không các quy định này và cách đánh thuế và cách quản lý. Sự ra đời và phát triển nhanh chóng thƣơng mại điện tử đã đặt ra cho các nhà lập pháp cũng nhƣ các nhà quản lý thuế một bài toán hóc búa trong việc kiểm thoát các giao dịch thƣơng mại cũng nhƣ sự phân biệt giữa các giao dịch thƣơng mại và giao dịch có thể đánh thuế và những giao dịch phi thƣơng mại. Nếu không giải quyết đƣợc những vấn đề này thì cơ hội tránh thuế và trốn thuế càng lớn. Nhƣ vậy, sự tiến bộ của khoa học và công nghệ thông tin đã và đang đặt ra những thách thức lớn cho công tác quản lý nhƣng chính nó tạo điều kiện để cung cấp những phƣơng tiện hữu ích cho tiến trình áp dụng luật thuế GTGT ở nƣớc ta hiện nay. Xuất phát từ những vấn đề đặt ra từ thực trạng điều chỉnh pháp luật thuế GTGT và những yêu cầu hoàn thiện thuế GTGT việc hoàn thiện pháp luật thuế GTGT ở nƣớc ta là một tất yếu. Thực tế cho thấy, sau hơn mƣời năm triển khai áp dụng luật thuế GTGT những cái có đƣợc quá ít so với yêu cầu, tình trạng vi phạm pháp luật để trốn nghĩa vụ này còn quá nhiều. Bởi vậy thực tế đã chứng minh không một sắc thuế nào hoàn toàn có ƣu điểm mà không có nhƣợc điểm và ngƣợc lại. Vấn đề là ở chỗ phải tìm kiếm đƣợc những giải pháp tạo điều kiện cho sự vận hành “trơn tru” của thuế GTGT trong điều kiện thực tế của Việt Nam. Vì vậy việc sửa đổi bổ sung luật thuế GTGT hiện nay đƣợc coi là một bƣớc đệm để trong tƣơng lai không xa sẽ cho ra đời một luật thuế GTGT hiện đại 68 3.1.2 Phương hướng hoàn thiện pháp luật thuế GTGT Trƣớc hết, pháp luật thuế GTGT phải ghi nhận đầy đủ các nội dung chủ yếu của việc điều chỉnh pháp luật thuế, đồng thời phản ánh đúng chuẩn xác và khoa học bản chất của thuế GTGT, đảm bảo thuế GTGT là loại thuế gián thu mang bản chất liên hoàn và tính trung lập cao, đánh vào hoạt động chuyển giao hàng hoá và cung cấp dịch vụ đƣợc tính trên giá trị tăng thêm của hàng hoá dịch vụ trong quá trình sản xuất lƣu thông theo phƣơng pháp khấu trừ. Bởi vậy, một trong những tiêu chuẩn hàng đầu để đánh giá tính quy phạm của một văn bản pháp luật là văn bản đó có phản ánh đúng bản chất vốn có của sự vật, hiện tƣợng hay không ? và chỉ khi phản ánh đúng bản chất của sự vật hiện tƣợng thì pháp luật mới đủ sức mạnh để điều chỉh các quan hệ xã hội cần điều chỉnh. Hoàn thiện pháp luật thuế GTGT phải gắn liền và trên cơ sở hoàn thiện chính sách thuế GTGT. Xét về tổng thể, hệ thống pháp luật về thuế nói chung và pháp luật về thuế GTGT nói riêng có mối quan hệ hữu cơ với các chính sách thuế, các chính sách kinh tế – tài chính của nhà nƣớc. Pháp luật về thuế phản ánh, thể hiện và nhằm thực hiện các chính sách kinh tế – tài chính của nhà nƣớc. Pháp luật về thuế phản ánh, thể hiện và nhằm thực hiện các chính sách thuế trong đó góp phần bảo đảm các mục tiêu và chức năng của thuế nhƣ bảo đảm nguồn thu cho ngân sách nhà nƣớc, thực hiện chức năng điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế thông qua điều tiết thu nhập, điều tiết sản xuất. Vì vậy, hoàn thiện pháp luật thuế GTGT không thể tách rời và phải trên cơ sở hoàn thiện chính sách thuế GTGT. Mở rộng và nâng cao quy mô của luật thuế GTGT bằng cách đƣa một số nội dung mà hiện nay đang đƣợc quy định trong các văn bản hƣớng dẫn thi hành luật vào luật thuế GTGT, để đảm bảo nguyên tắc không có luật thuế thì không có nghĩa vụ thuế, luật thuế là cơ sở pháp lý làm phát sinh nghĩa vụ thu 69 nộp thuế để phù hợp với thẩm quyền của Quốc hội đƣợc quy định trong hiến pháp cũng nhƣ “đảm bảo thực quyền” của Quốc hội trong việc quyết định chính sách tài chính – tiền tệ quốc gia, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế đồng thời đáp ứng đòi hỏi của cơ chế điều chính pháp luật thuế GTGT ở nƣớc ta hiện nay. Nhƣng khi hoàn thiện pháp luật thuế GTGT cần tính đến mặt khách quan luôn tồn tại mâu thuẫn giữa yêu cầu phải điều chỉnh với khả năng thực tế điều chỉnh của pháp luật. Hoàn thiện pháp luật thuế GTGT theo hƣớng đơn giản, ổn định, công bằng, hiệu quả và đáp ứng xu thế hội nhập và toàn cầu hoá hiện nay, đồng thời phát huy vai trò đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nƣớc của thuế GTGT trong điều kiện cắt giảm thuế quan và vai trò điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế xã hội của nhà nƣớc theo hƣớng khuyến khích phát triển sản xuất đặc biệt khuyến khích hoạt động xuất khẩu kể cả hàng hoá và dịch vụ, tạo điều kiện cho kinh tế nông nghiệp phát triển nhƣ khuyến khích hoạt động chế biến nông sản, gia công….. Hoàn thiện luật thuế GTGT phải gắn liền với sự hoàn thiện của cả hệ thống pháp luật đặc biệt là pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt và pháp luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu. Pháp luật thuế GTGT là một bộ phận của hệ thống pháp luật thuế và phạm vi đánh thuế GTGT bao hàm cả hoạt động xuất nhập khẩu và các hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá tiêu thụ đặc biệt. Vì vậy khi hoàn thiện pháp luật thuế GTGT cũng cần phải quan tâm đúng mức về vấn đề này để đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ và sự “bọc lót” lẫn nhau của cả hệ thống pháp luật thuế. Diễn đạt các khái niệm kinh tế, tài chính về thuế bằng ngôn ngữ pháp lý trong các quy định của pháp luật thuế GTGT mà trong đó sử dụng các định nghĩa pháp lý hết sức cần thiết và đặc biệt phải tôn trọng đúng mức những 70 khía cạnh pháp lý của thuế GTGT để đảm bảo thực thi nghĩa vụ thuế GTGT, đồng thời nâng cao giá trị ngăn chặn các vi phạm của pháp luật thuế GTGT. Để áp dụng thuế GTGT một cách có hiệu quả, ngoài việc tiếp tục hoàn thiện luật thuế GTGT cần phải không ngừng hoàn thiện cơ chế đảm bảo thực hiện thuế GTGT trên cơ sở đẩy mạnh cải cách hành chính thuế, cải cách hành chính thuế là một tất yếu khách quan, bởi cải cách hành chính là yếu tố, là động lực cơ bản thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội trong bối cảnh kinh tế hội nhập quốc tế, là công cuộc đổi mới sâu sắc và toàn diện để xây dựng nhà nƣớc pháp quyền XHCN. Thứ nhất, cải cách thể chế hành chính thuế: trong cải cách thể chế hành chính thuế bao gồm cải cách thể chế pháp luật và cải cách thủ tục hành chính thuế. Cải cách thể chế pháp luật là cải cách việc xây dựng, ban hành các văn bản pháp quy về thuế của Chính phủ, của Bộ tài chính. Cụ thể: đổi mới quy trình xây dựng văn bản pháp quy, mở rộng việc tổ chức nghiên cứu soạn thảo các văn bản pháp quy bằng các nhóm chuyên gia liên ngành, nghiêm chỉnh thực hiện các quy định chinh của luật ban hành các văn bản quy phạm pháp luật. Cải cách thủ tục hành chính thuế là cải cách thủ tục thực hiện thẩm quyền trong hoạt động hành chính thuế. Hay nói cách khác, là cải cách trình tự thực hiện mọi hình thức hoạt động của cơ quan thuế bao gồm trình tự thành lập các cơ quan thuế, trình tự bổ nhiệm, miễn nhiệm, điều động cán bộ thuế, trình tự lập quy, áp dụng quy phạm để đảm bảo các quyền chủ thể và xử lý vi phạm, trình tự hoạt động tổ chức, tác nghiệp hành chính. Thứ hai, cải cách bộ máy hành chính thuế gồm:  Cải cách mô hình tổ chức bộ máy hành chính thuế  Cải cách sự phân cấp quản lý giữa các cơ quan thuế và sự phân công trong nội bộ từng cơ quan thuế. 71  Cải tiến phƣơng thức chỉ đạo, hoạt động, điều hành của tổng cục thuế, cục thuế, chi cục thuế để nâng cao chất lƣợng hoạt động đáp ứng những biến động cảu cơ chế thị trƣờng và quá trình hội nhập quốc tế có nhiều thách thức. Thứ ba, xây dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ công chức thuế, trong cải cách hành chính thuế, nếu cải cách thủ tục hành chính thuế là khâu đột phá thì trọng tâm lại là vấn đề kiện toàn đội ngũ cán bộ công chức thuế. Bởi vì rằng có thể xây dựng đƣợc một hệ thống thể chế tốt về thuế và thiết kế đƣợc mô hình tổ chức bộ máy hành chính thuế tối ƣu nhƣnng nếu không có đội ngũ cán bộ công chức thành thạo chuyên môn, nghiệp vu, tâm huyết với công việc để đáp ứng yêu cầu hiện đại hoá nền hành chính thì mọi ý đồ cải cách hành chính thuế cũng không thể trở thành hiện thực đƣợc. Thứ tư, cải cách chế độ tiền lƣơng, sửa đổi, bổ sung hoàn thiện các chế độ chính sách đối với cán bộ công chức thuế nhằm khuyến khích, động viên nâng cao chất lƣợng thực thi công việc hành thu. 3.2 Một số giải pháp chống gian lận thuế GTGT ở các Doanh nghiệp thƣơng mại Việt Nam hiện nay Các nguyên nhân của hiện tƣợng gian lận thuế GTGT tại các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay cho thấy nguyên nhân chủ yếu của hiện tƣợng này là sự không biết hoặc biết nhƣng không sợ pháp luật. Vì vậy, biện pháp cơ bản là xây dựng pháp luật thuế nói riêng và hệ thống pháp luật nói chung mạnh đủ để buộc mọi tổ chức và cá nhân tuân thủ vô điều kiện và trừng trị nghiêm khắc mọi vi phạm. Dƣới đây, tác giả đƣa ra một số biện pháp chống gian lận thuế GTGT. 3.2.1 Giải pháp tiếp tục hoàn thiện luật thuế GTGT a) Quy định lại phạm vi áp dụng luật thuế GTGT Hiện nay Luật thuế GTGT quy định tất cả các hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam là đối tƣợng chịu thuế GTGT, trừ 72 25 hàng hoá và nhóm hàng hoá, dịch vụ quy định tại điều 5 của Luật. Khi một hàng hoá, dịch vụ không thuộc diện chịu thuế GTGT thì đƣơng nhiên cơ sở sản xuất, kinh doanh sẽ không đƣợc khấu trừ thuế GTGT đầu vào, mặt khác cơ sở nào sử dụng các hàng hoá, dịch vụ đó làm đầu vào cho sản xuất kinh doanh lại cũng không đƣợc khấu trừ và hoàn thuế giá trị gia tăng đầu vào, trừ trƣờng hợp áp dụng mức thuế suất 0% quy định tại khoản 1 Điều 8 của Luật. Làm nhƣ vậy vừa thiếu cơ sở khoa học vừa gây lộn xộn, khó kiểm soát đƣợc việc thực hiện thuế, công tác ghi chép kế toán gặp rất nhiều khó khăn. Về lâu dài chúng ta nên bỏ điều 5, đƣa tất cả hàng hoá, dịch vụ vào chịu thuế GTGT, đối với một vài trƣờng hợp nên có quy định riêng về việc miễn thuế. b) Bổ sung một số quy định về phạm vi lãnh thổ của nghĩa vụ thuế GTGT Điều 3 của Luật thuế GTGT hiện hành có nêu về đối tƣợng chịu thuế nhƣ sau: “ Hàng hóa, dịch vụ sử dụng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam là đối tƣợng chịu thuế giá trị gia tăng…”, quy định này không xác định cụ thể phạm vi lãnh thổ của nghĩa vụ thuế GTGT nên trong quá trình áp dụng thuế GTGT đã xảy ra những tranh chấp giữa đối tƣợng nộp thuế và cơ quan thuế do không đồng nhất quan điểm với nhau trong nhận thức. Vì vậy, để xác định phạm vi, mức độ của nghĩa vụ thuế GTGT một cách tƣơng đối, chuẩn xác cần quy định rõ thế nào là ở Việt Nam. ở Việt Nam tức là nằm trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam: vùng đất, vùng trời, vùng nƣớc và vùng trong lòng đất. Trong phạm vi đó nhà nƣớc Việt Nam có toàn quyền quyết định tối cao. Vì vậy, xét về mặt nguyên tắc tất cả các hoạt động chuyển giao hàng hoá đƣợc thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam đều phải chịu thuế GTGT ở Việt Nam. 73 c) Quy định thời điểm phát sinh nghĩa vụ thuế GTGT trong pháp luật thuế GTGT Pháp luật thuế GTGT hiện hành không quy định thời điểm phát sinh nghĩa vụ thuế GTGT nên trên thực tế đã gặp nhiều khó khăn trong quá trình thực hành thu thuế và không ít tranh chấp xảy ra giữa cán bộ thuế và nộp thuế khi giải thích về vấn đề này. Để giải quyết triệt để vấn đề này cũng nhƣ đảm bảo tính công bằng của thuế GTGT thì trong pháp luật thuế GTGT cần phải xác định rõ thời điểm phát sinh nghĩa vụ thuế GTGT. Khi xác định thời điểm phát sinh nghĩa vụ thuế GTGT cần phải đảm bảo các nguyên tắc cơ bản sau: + Nguyên tắc công bằng + Nguyên tắc hiệu quả và thuận tiện + Nguyên tắc chắc chắn và chính xác + Nguyên tắc không đƣợc võ đoán. d) Hoàn thiện các quy định về căn cứ tính thuế và thuế suất, phương pháp tính thuế Về giá tính thuế, pháp luật thuế GTGT cần nhất thể hoá giá tính thuế là giá chƣa có thuế GTGT, đồng thời cần quy định rõ nếu giá ghi trên hóa đơn mà nhỏ hơn giá thị trƣờng thì căn cứ vào gía thị trƣờng để tính. Trƣờng hợp bán phá giá để trốn thuế cần có sự can thiệp của nhà nƣớc. Về thuế suất, lý luận về thuế GTGT cũng nhƣ thực tiễn áp dụng thuế GTGT từ thập kỷ 80 ngƣời ta nhận thấy rằng nếu thuế GTGT càng ít thuế suất càng dễ áp dụng. áp dụng thuế GTGT với một thuế suất thống nhất khắc phục đƣợc nguy cơ gian lận, trốn thuế và tránh thuế sinh ra từ việc nhập nhằng về thuế suất vì nếu chỉ có một mức thuế suất cao và mức thuế suất thấp khác nhau. Vì vậy, xuất phát từ thực tế kinh tế xã hội ở nƣớc ta hiện nay thì pháp luật thuế GTGT cần lựa chọn thuế suất 0% cho hàng hoá xuất khẩu và 10% cho mọi loại hàng hoá bán nội địa. 74 Về phƣơng pháp tính thuế, qua thực tiễn áp dụng thuế GTGT cho thấy phƣơng pháp tính thuế trực tiếp trên GTGT không còn mấy tác dụng mà còn phản ánh sai lệch nghĩa vụ thuế GTGT cũng nhƣ bản chất của thuế GTGT và đƣa đến nhiều hậu quả phát sinh tiêu cực khác. Vì vậy, tất yếu pháp luật thuế GTGT sửa đổi chỉ cần quy định một phƣơng pháp duy nhất đó là phƣơng pháp khấu trừ thuế GTGT. e) Cần chuẩn hóa và sửa đổi các quy định về khấu trừ thuế, hoàn thuế GTGT Để giảm dần và khắc phục việc gian lận trong hoàn thuế và khấu trừ khống, cần thực hiện các biện pháp: - Cơ chế khấu trừ khống cần nên bỏ, bởi lẽ trong lịch sử áp dụng thuế GTGT ở các nƣớc không có nƣớc nào quy định cho khấu trừ khống. Cần khẳng định rằng khấu trừ là đặc trƣng vốn có của thuế GTGT, nhƣng không phải là khấu trừ khống. Khấu trừ phải đảm bảo nguyên tắc có thu thuế ở khâu trƣớc mới hoàn thuế ở khâu sau và ngƣợc lại. - Cần ban hành cơ chế hoàn thuế mới, trong đó áp dụng đồng thời cả hai cơ chế: “hoàn trƣớc, kiểm sau” và “kiểm trƣớc, hoàn sau”. Nhƣ vậy, cần tiến hành phân loại các doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào nghiêm chỉnh chấp hành chính sách thuế, chƣa có hành vi vi phạm thì áp dụng cơ chế: “hoàn trƣớc, kiểm sau”. Các doanh nghiệp không chấp hành tốt Luật thuế, không thực hiện thanh toán qua ngân hàng thì áp dụng cơ chế: “kiểm trƣớc, hoàn sau”.  Tăng cƣờng công tác quản lý hoá đơn hợp pháp bằng nhiều biện pháp đồng bộ: + Khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng hoá đơn tự in. Biện pháp này tăng cƣờng trách nhiệm của doanh nghiệp đối với thực hiện nghĩa vụ nộp thuế và quản lý hoá đơn chứng từ. 75 + Tăng cƣờng quản lý hoá đơn từ khâu đầu nhằm đảm bảo bán hoá đơn đúng đối tƣợng, đúng địa chỉ bằng các nghiệp vụ cụ thể của ngành thuế. + Sử dụng các biện pháp kỹ thuật tiên tiến trong việc in ấn hoá đơn. + Tăng các mức phạt đối với các vi phạm về hoá đơn. Hoàn thuế và khấu trừ thuế là một vấn đề lớn trong việc thực hiện Luật thuế GTGT, cơ chế hoàn thuế GTGT thời gian qua đã có những tác động tích cực, góp phần làm cho sản xuất kinh doanh ổn định và phát triển. Tuy nhiên, nó chỉ tiếp tục phát huy tác dụng khi Luật thuế GTGT đƣợc sửa đổi một cách căn bản. Trƣớc mắt, cần thiết phải áp dụng các giải pháp có hiệu quả nhằm ngăn chặn các hành vi chiếm đoạt tiền thuế ngày càng tinh vi. f) Sửa đổi, bổ sung một số quy định về đăng ký, kê khai, nộp thuế, quyết toán thuế GTGT Về đăng ký thuế GTGT, từng bƣớc văn minh hoá, hiện đại hoá cơ chế thực hiện nghĩa vụ thuế GTGT. Pháp luật thuế GTGT cần sửa đổi, bổ sung một số nội dung về việc đăng ký thuế để khắc phục những vƣớng mắc. Một là, lập quy định theo mã tỉnh có thể không đảm bảo tính ổn định về trạng thái hoạt động sản xuất kinh doanh ở các doanh nghiệp cũng nhƣ sự phức tạp trong quản lý. Hai là, mã tình trạng nộp thuế GTGT (NO) không đảm bảo nguyên tắc mỗi đối tƣợng nộp thuế chỉ đƣợc cấp một mã số thuế duy nhất trong suốt quá trình hoạt động từ khi thành lập đến khi chấm dứt hoạt động. Về kê khai nộp thuế GTGT, tính tự giác thực hiện nghĩa vụ thuế của đối tƣợng là yếu tố then chốt cơ bản quyết định sự thành công lớn của quá trình tổ chức thực hiện các luật thuế. Vì vậy, pháp luật điều chỉnh thuế nói chung và thuế GTGT nói riêng cần có những quy định nâng cao khả năng tự giác của đối tƣợng nộp thuế. Đặc biệt với sự phát triển ngày càng đa dạng của các đối tƣợng nộp thuế thì sự tự giác của đối tƣợng nộp thuế càng có ý nghĩa 76 hơn bao giờ hết. Chính sự tự kê khai và nộp thuế theo kê khai của mình thay cho cơ quan tính thuế và ra thông báo nộp thuế đã chuyển trách nhiệm pháp lý cho đối tƣợng nộp thuế về những thông tin trong tờ khai thuế của họ với những quy định xử phạt phù hợp sẽ góp phần tăng cƣờng ý thức tuân thủ nghiêm luật thuế. Về quyết toán thuế GTGT, khi thực hiện cơ chế tự kê khai, tự tính thuế nộp vào ngân sách nhà nƣớc thì việc quyết toán thuế trở nên hết sức quan trọng và nó không mang thủ tục hành chính nhƣ trƣớc đây nữa, vì vậy cần phải có sự quy định chặt chẽ về vấn đề này đặc biệt trong trƣờng hợp quyết toán không theo định kỳ hàng năm nhƣ khi có quyết định phá sản, giải thể, chia, tách, sát nhập, hợp nhất, chuyển đổi hoặc giao bán doanh nghiệp… g) Hoàn thiện các văn bản hướng dẫn Để Luật thuế GTGT đƣợc thực hiện có hiệu quả cần phải có hệ thống các văn bản hƣớng dẫn dƣới luạt để tạo hành lang, môi trƣờng cho Luật thuế GTGT phát huy tác dụng. Trong thời gian triển khai, chúng ta đã có nhiều văn bản dƣới luật nhằm sửa chữa, sửa đổi bổ sung, điều đó gây khó khăn không ít cho việc chấp hành luật, văn bản dƣới luật và từ đó cũng tạo ra các khe hở làm thất thu NSNN, hạn chế vai trò tích cực của thuế. Để giải quyết nhƣng vƣớng mắc trên cần rà soát lại các văn bản, nếu thấy cần thiết cần phải thay thế các văn bản cũ bằng các văn bản mới trên cơ sở: + Ngoài luật thuế, tuỳ theo tình hình cụ thể mà chỉ nên có một vài văn bản hƣớng dẫn thực hiện. + Các văn bản phải dựa trên nền tảng của Luật thuế cũng nhƣ quy định hiện hành. + Hệ thống văn bản không đƣợc mâu thuẫn với nhau. 77 3.2.2 Các giải pháp hoàn thiện cơ chế bảo đảm thực hiện pháp luật thuế GTGT a) Cải cách mạnh mẽ công tác thanh tra, kiểm tra thuế Để thực hiện chống gian lận thuế có hiệu quả phải tăng cƣờng công tác thanh tra, kiểm tra đối tƣợng nộp thuế. Công tác thanh tra, kiểm tra nhằm phát hiện nhanh, ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật về thuế, chống thất thu ngân sách nhà nƣớc; đồng thời tổng kết các hành vi vi phạm và nghiên cứu dự báo các hành vi vi phạm về thuế, đề ra các biện pháp phòng ngừa. Để công tác thanh tra, kiểm tra thuế đạt kết quả tốt cần thực hiện một số vấn đề sau: Thứ nhất, thực hiện phân loại đối tƣợng nộp thuế để thanh tra, kiểm tra. Do đối tƣợng nộp thuế trên địa bàn nhiều và ngày càng phát triển rộng cơ quan thuế không có khả năng thanh tra, kiểm tra đƣợc tất cả các đối tƣợng nộp thuế, mặt khác, các hành vi vi phạm thuế dù còn đang diễn ra ở phạm vi rộng nhƣng cũng không phải tất cả các đối tƣợng nộp thuế đều vi phạm, và mức độ vi phạm của các đối tƣợng là khác nhau, do đó, để công tác thanh tra, kiểm tra đạt hiệu quả cao, cần thực hiện thanh tra, kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm vào các đối tƣợng có nghi vấn vi phạm, trƣớc hết là các vi phạm nghiêm trọng. Cần thực hiện phân loại đối tƣợng nộp thuế theo mức độ rủi ro và tập trung thanh tra, kiểm tra các đối tƣợng thiếu tín nhiệm, có những dấu hiệu vi phạm, mức độ rủi ro cao. Với sự phân loại nhƣ vậy vừa đảm bảo công tác thanh tra đạt đƣợc hiệu quả cao vừa động viên khuyến khích các đối tƣợng nộp thuế thực hiện tốt chính sách thuế. Thứ hai, xây dựng triển khai thực hiện các kỹ năng thanh tra, kiểm tra thuế. Để công tác thanh tra có hiệu quả cùng với việc phân loại đối tƣợng nộp thuế để thực hiện thanh tra có trọng tâm, trọng điểm thì cần xây dựng, triển khai kỹ nghệ thanh tra có tính chất chuyên sâu vào từng lĩnh vực, từng loại 78 hình doanh nghiệp và từng loại vi phạm để đảm bảo việc thu thập thông tin tài liệu, phân tích thông tin tài liệu, xác định vi phạm và kết luận thanh tra nhanh chóng, chính xác, đầy đủ. Thứ ba, phải kết hợp thanh tra với thực hiện điều tra thuế để có thể phát hiện các hành vi gian lận ở các mức độ tinh vi phức tạp. Xuất phát từ tình hình thực tế, các gian lận về thuế nói chung, các gian lận về thuế GTGT nói riêng càng ngày càng phức tạp, các hành vi gian lận càng ngày càng tinh vi, có sự cấu kết ở nhiều địa phƣơng trên nhiều lĩnh vực, với nhiều thành phần. Nếu chỉ thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra tại một đối tƣợng nộp thuế thì rất khó có thể phát hiện, hoặc nếu có nghi vấn cũng rất khó có đủ cơ sở pháp lý để kết luận gian lận về thuế. Để việc chống gian lận về thuế đạt đƣợc kết quả tốt, có thể kết luận xử lý đƣợc các hành vi vi phạm thuế tinh vi, phức tạp cần kết hợp chặt chẽ giữa công tác thanh tra và công tác điều tra thuế. Khi thực hiện công tác điều tra thuế mới có thể xử lý triệt để các vi phạm, đồng thời có tác dụng ngăn chặn có hiệu quả các hành vi vi phạm về thuế. Thứ tư, xây dựng chƣơng trình tin học hỗ trợ công tác thanh tra, điều tra thuế. Để công tác thanh tra và điều tra có hiệu quả, có thể phát hiện nhanh, kết luận chính xác, đầy đủ các vi phạm về thuế thì rất cần thiết phải có sự hỗ trợ của công nghệ thông tin. Công nghệ thông tin sẽ hỗ trợ cho công tác phân loại, sàng lọc doanh nghiệp để thực hiện thanh tra kiểm tra có trọng điểm, cung cấp cho công tác thanh tra, kiểm tra các thông tin nhanh nhất về đối tƣợng nộp thuế, các tài liệu có liên quan để phân tích đánh giá, so sánh, đối chiếu xác định vi phạm. Để thực hiện triển khai công nghệ thông tin hỗ trợ công tác thanh tra, kiểm tra có hiệu quả ngoài việc thiết lập hệ thống thông tin đầy đủ có chất lƣợng cao nhằm khai thác các dữ liệu phục vụ cho công tác phân loại doanh nghiệp, đánh giá rủi ro thì công nghệ thông tin phải xây dựng đƣợc những phần mềm phân tích sâu với từng doanh nghiệp trên cơ sở 79 các thông tin đã thu thập đƣợc trên hệ thống và các thông tin cụ thể thông qua công tác thanh tra, kiểm tra, điều tra để xác định đƣợc các vi phạm. Thứ năm, xây dựng lực lƣợng cán bộ thanh tra thuế. Đi cùng với những giải pháp về quản lý, kỹ thuật, việc tăng cƣờng cán bộ cho công tác thanh tra, kiểm tra là một trong những yếu tố quan trọng. Trong giai đoạn hiện nay do các vi phạm về thuế đang còn diễn ra ở diện rộng, muốn ngăn chặn các vi phạm thì các cuộc thanh tra phải thực hiện thƣờng xuyên, do đó cần tăng cƣờng lực lƣợng thanh tra cả về số lƣợng và chất lƣợng, để đảm bảo cùng với kỹ thuật, các biện pháp quản lý tốt, trình độ nghiệp vụ chuyên môn chuyên sâu đủ khả năng sử dụng công nghệ thông tin tốt phát hiện nhanh, kịp thời các vi phạm và xử lý nghiêm minh các vi phạm. b) Tăng cường áp dụng công nghệ thông tin vào quản lý thuế Hiện tại công nghệ thông tin đã và đang đƣợc triển khai để thực hiện quản lý thuế, nhƣng vẫn chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu quản lý. Để có thể quản lý đƣợc thuế GTGT trong điều kiện số lƣợng doanh nghiệp tăng nhanh, số lƣợng cán bộ thuế không thể tăng cùng với số lƣợng đối tƣợng, cơ quan thuế phải áp dụng công nghệ tin học. Để thực hiện chống hành vi gian lận thuế GTGT cần tăng cƣờng ứng dụng công nghệ tin học ở một số lĩnh vực cụ thể sau: - Thực hiện quản lý, đối chiếu số thuế GTGT đƣợc khấu trừ trên hóa đơn bằng công nghệ tin học. Hiện tại cơ quan thuế đang phải thực hiện công tác xác minh hóa đơn phục vụ cho công tác chống gian lận thuế thông qua hóa đơn. Để xác minh một số hóa đơn đã đƣợc thực hiện kê khai thuế chƣa, cán bộ thuế phải thực hiện xem trên bảng kê hóa đơn in trên giấy. Việc tìm kiếm trên bảng kê hóa đơn của một doanh nghiệp trong nhiều tháng với khối lƣợng thông tin lớn làm mất rất nhiều thời gian, công sức và rất rễ nhầm lẫn. Nếu sử dụng công nghệ 80 thông tin vào hệ thống này thì công việc trở thành đơn giản, tiết kiệm đƣợc nhiều nhân lực. Khi có dữ liệu nhập vào hệ thống trong khoảng thời gian ngắn với chƣơng trình tin học đơn giản, sẽ có thể phát hiện tất cả các hóa đơn bất hợp pháp đã đƣa vào khấu trừ thuế, từ đó có thể phát hiện các gian lận thuế. Để thực hiện đƣợc công tác này thì toàn bộ dữ liệu tờ khai thuế, bảng kê hàng hóa, dịch vụ mua vào, bảng kê hàng hóa, dịch vụ bán ra của doanh nghiệp phải đƣợc đƣa vào hệ thống quản lý tại cơ quan thuế. Hiện nay, dữ liệu bảng kê hàng hóa, dịch vụ mua vào, bảng kê hàng hóa, dịch vụ bán ra chƣa đƣợc nhập vào hệ thống của cơ quan thuế, do khối lƣợng dữ liệu quá lớn cơ quan thuế không thể tự nhập. Hơn nữa, hiện chƣa có cơ chế doanh nghiệp phải chuyển dữ liệu về cơ quan thuế theo đƣờng truyền tin học. Để đảm bảo nguyên tắc không trái quy định của pháp luật thì phải có văn bản quy định doanh nghiệp phải gửi báo cáo bằng đƣờng điện tử cùng với văn bản, khi đó cơ quan lý thuế mới có điều kiện áp dụng phƣơng pháp này. - Tăng cƣờng quản lý thông tin đối tƣợng nộp thuế trên hệ thống quản lý thuế bằng công nghệ tin học. Để có thể thực hiện tốt đƣợc công tác quản lý đối tƣợng nộp thuế, chống gian lận thuế đạt hiệu quả cao cần có thông tin nhiều và nhanh về đối tƣợng nộp thuế. Trên cơ sở có thông tin trên hệ thống quản lý về các đối tƣợng nộp thuế cơ quan thuế có thể phân tích, sàng lọc phát hiện sớm các hiện tƣợng nghi ngờ vi phạm và thực hiện việc thanh tra, kiểm tra kịp thời, tạo điều kiện phát hiện nhanh các hành vi vi phạm. Từ việc phát hiện nhanh đƣợc các hành vi vi phạm có điều kiện thực hiện các biện pháp cảnh báo, ngăn chặn chính xác và có hiệu quả. Để có thể đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý thuế cần phải quan tâm đến các vấn đề sau: 81 Thứ nhất, ƣu tiên đầu tƣ và phát triển các hệ thống thông tin phục vụ chuyên ngành nhƣ các chƣơng trình quản lý mã số đối tƣợng nộp thuế, quản lý hoá đơn, tính thuế, lập bộ và theo dõi nợ đọng, quyết toán thuế. Thứ hai, ƣu tiên cung cấp trang thiết bị cho các địa phƣơng có địa giới hành chính rộng, có số thu lớn nhằm giảm bớt công việc thủ công, phát triển tin học một cách đồng bộ đến tất cả các địa phƣơng, xây dựng hệ cơ sở dữ liệu đồng nhất, phát triển chƣơng trình ứng dụng, từng bƣớc phát huy hiệu quả hệ thống mạng máy tính ở từng cục thuế, chi cục thuế. Thứ ba, cần chú trọng đến công tác đào tạo cán bộ tin học, phải tiến hành đào tạo thƣờng xuyên và chất lƣợng đào tạo phải đặt lên hàng đầu nên đào tạo theo nhiều trình độ khác nhau nhƣ đào tạo các cán bộ theo trình độ cao để có thể quản lý các dự án tin học lớn trong ngành đạo tạo các cán bộ quản lý và triển khai ứng dụng, đạo tạo các cán bộ sử dụng chƣơng trình ứng dụng cho các cán bộ không chuyên hiện đang làm việc ở các phòng ban khác. Thứ tư, thực hiện nối mạng giữa cơ quan thuế với đối tƣợng nộp thuế và các cơ quan quản lý chức năng khác để luôn có đầy đủ những thông tin và dữ liệu cần thiết giữa chủ thể quản lý và đối tƣợng bị quản lý phục vụ cho công tác quản lý thuế. c) Tăng cường công tác quản lý chứng từ, hoá đơn giá trị gia tăng. Cơ chế quản lý có liên quan đến chứng từ, hoá đơn cần sửa đổi bổ sung một số điểm chƣa hợp lý nhƣ sau: Ban hành một hệ thống văn bản pháp quy thống nhất các qui định về quản lý, sử dụng và xử lý các hành vi vi phạm trong quản lý, sử dụng hoá đơn, thay thế cho các văn bản hiện hành qui định về vấn đề này. Qui định chi tiết các loại hoá đơn không hợp pháp, hình thức xử lý từng loại theo nhƣ nhóm hành vi vi phạm về hoá đơn. Đề nghị Quốc hội, Chính phủ bổ sung vào Bộ luật hình sự tội phạm về: 82 - Hành vi in ấn, mua bán hoá đơn giả (hoá đơn không hợp pháp), giúp cho doanh nghiệp khác lập hồ sơ kê khai gian lận để làm tăng thuế GTGT đƣợc khấu trừ, đƣợc hoàn thuế là hành vi giúp sức cho việc lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải bị xử lý phù hợp với hành vi. - Hành vi lập hồ sơ kê khai gian lận để làm tăng thuế GTGT đƣợc khấu trừ hoặc tăng thuế GTGT đƣợc hoàn là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tiền của Nhà nƣớc phải bị xử lý nhƣ hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của Nhà nƣớc. - Có Luật tố tụng về thuế, qui định cơ quan thuế có quyền điều tra, khởi tố các vụ án chiếm đoạt tiền thuế. - Đề nghị Quốc hội thu hẹp mức thuế suất còn 0%, 10%. Tổ chức thực hiện mở thƣởng đối với hoá đơn mua hàng của ngƣời tiêu dùng cuối cùng để khuyến khích ngƣời tiêu dùng yêu cầu ngƣời bán hàng phải lập hoá đơn. Đây là một biện pháp một số nƣớc trong khu vực đã và đang áp dụng nhằm tăng thu, chống khai man, trốn thuế và góp phần giáo dục ý thức chấp hành chính sách về thuế đối với quần chúng nhân dân. d) Đẩy mạnh dịch vụ tư vấn thuế Tƣ vấn thuế là hoạt động trong đó các chuyên gia về pháp luật thuế cung cấp các thông tin, kiến thức, giải pháp về lĩnh vực thuế cho đối tƣợng nộp thuế có nhu cầu để họ thực hiện nghĩa vụ phù hợp vơí nhà nƣớc. Tư vấn thuế gồm 2 dạng: * Tƣ vấn thuế với danh nghĩa là một dịch vụ công, với danh nghĩa này tƣ vấn thuế là một chức năng thuộc lĩnh vực hành chính của cơ quan thuế. * Tƣ vấn thuế với danh nghĩa là một dịch vụ tƣ, đây là một hoạt động dịch vụ có thu, các đối tƣợng nộp thuế có nhu cầu phải trả dịch vụ phí cho mỗi hoạt động tƣ vấn. 83 Trong nền kinh tế hàng hoá phát triển tƣ vấn thuế có một vai trò rất quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng nhƣ đối với xã hội. Đối với doanh nghiệp, thông qua tƣ vấn thuế chu doanh nghiệp có đƣợc các thông tin cần thiết về việc thực hiện nghĩa vụ thuế đối với hoạt động sản xuất kinh doanh cụ thể của doanh nghiệp mình. Từ đó doanh nghiệp có thể hạch toán đầy đủ các chi phí và tính toán một cách chính xác tiền lãi của doanh nghiệp sau mỗi chu kỳ kinh doanh. Tƣ vấn thuế còn có vai trò đào tạo, bổ sung, cập nhật những kiến thức thƣờng xuyên về thuế cho chủ doanh nghiệp sau mỗi sự thay đổi của luật thuế hoặc khi chủ doanh nghiệp thay đổi mặt hàng, phƣơng thức sản xuất kinh doanh. Xét trên phạm vi toàn xã hội, tƣ vấn thuế là kênh thông tin hai chiều giữa khách thể quản lý và chủ thể quản lý. Vì vậy, nhà tƣ vấn thuế để giúp cho việc giải thích, tuyên truyền các chính sách, pháp luật thuể để nâng cao nhận thức của mỗi ngƣời đối với nghĩa vụ thuế, qua đó cơ quan thuế thực hiện tốt nhiệm vụ thu đúng, thu đủ, thu kịp tiền thuế và các khoản thu khác theo luật định, tạo điều kiện duy trì kỷ cƣơng xã hội. Vì vậy, tƣ vấn thuế là một công việc cần thiết, khách quan, một công việc tiến hành thƣờng xuyên của cơ quan thuế e) Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ thuế Để công tác quản lý thuế đƣợc thực hiện tốt, chống gian lận thuế đạt hiệu quả thì con ngƣời luôn là trung tâm, là yếu tố quan trọng nhất. Chính vì vậy, nâng cao năng lực cán bộ thuế là một việc làm rất cần thiết để đội ngũ cán bộ thuế có thể đảm đƣơng đƣợc công việc tốt hơn trong giai đoan tới.Cụ thể cần phải: Thứ nhất, bồi dƣỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ thuế. Do cơ chế chuyển đối, cán bộ thuế đƣợc hình thành từ nhiều nguồn khác nhau 84 nhƣ thuế công thƣơng nghiệp cũ, thu quốc doanh... Mặc dù, đã đƣợc đào tạo cơ bản, đào tạo trong quá trình công tác, song nền kinh tế đang trong giai đoạn chuyển đổi, phát triển nhanh và đặt ra những yêu cầu mới nên việc đào tạo, đào tạo lại cán bộ thuế là vô cùng cần thiết để cán bộ thuế có thể tiếp cận nhanh với điều kiện công tác quản lý thuế mới, cụ thể là: có đủ năng lực trình độ để tiếp cận nhanh các kiến thức mới về kinh tế, thuế quốc tế, thƣơng mại quốc tế và các hình thức gian lận thuế; đủ kiến thức công nghệ thông tin để có thể khai thác triệt để các thông tin đã có phục vụ cho công tác chống các hành vi gian lận thuế và công tác quản lý thuế cũng nhƣ công tác tuyên truyền hỗ trợ đối tƣợng nộp thuế; có kỹ năng chuyên nghiệp, chuyên sâu, khả năng ứng dụng các tiến bộ công nghệ tin học vào công tác quản lý thuế. Thứ hai,song song với việc nâng cao trình độ nghiệp vụ thì cần phải rèn luyện phẩm chất đạo đức của cán bộ thuế. Để thực hiện tốt công tác quản lý thuế, chống gian lận thuế việc giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức của cán bộ thuế là vô cùng cần thiết và quan trọng. Gian lận thuế với mục đích là lợi ích vật chất của đối tƣợng nộp thuế; để thực hiện hành vi gian lận thuế đƣợc trót lọt, không bị phát hiện, đối tƣợng nộp thuế có thể san sẻ lợi ích vật chất cho cán bộ thuế. Vì vậy, nếu bản lĩnh, phẩm chất đạo đức cán bộ thuế không tốt sẽ dễ dẫn đến vi phạm pháp luật hoặc thiếu tinh thần trách nhiệm để lọt hành vi vi phạm pháp luật. f) Đẩy mạnh các hoạt động cảnh báo, ngăn ngừa từ xa các vi phạm về thuế. Hoạt động cảnh báo, ngăn ngừa từ xa các vi phạm về thuế sẽ là hoạt động chống hành vi gian lận thuế hiệu quả. Việc cảnh báo ngăn ngừa từ xa các hành vi vi phạm sẽ tránh cho doanh nghiệp rơi vào tình trạng đƣờng cùng; đối tƣợng nộp thuế sẽ chủ động tránh các hành vi vi phạm thuế khi đã đƣợc 85 cảnh báo các thiệt hại có thể xảy ra và để có những biện pháp phòng ngừa thích hợp. Hoạt động dự báo các hành vi vi phạm còn có tác dụng giúp cơ quan thuế chủ động trong phòng, chống, phát hiện nhanh các hành vi vi phạm thuế. Phát hiện ngay các vi phạm để thực hiện xử lý là một trong những biện pháp phòng ngừa hữu hiệu; khi phần lớn các vi phạm bị phát hiện thì các đối tƣợng không dám thực hiện. Rà soát, bổ sung các chế tài xử lý vi phạm pháp luật thuế kịp thời đảm bảo mọi vi phạm mới xuất hiện đều có chế tài xử lý. g) Phối hợp với các cơ quan chức năng thực hiện quản lý đối tượng, tham gia phòng chống các hành vi gian lận thuế. Công tác chống gian lận thuế là nhiệm vụ của cơ quan thuế nhƣng không chỉ riêng cơ quan thuế; gian lận thuế là hành vi vi phạm pháp luật cần phải đƣợc tất cả các tổ chức chính quyền, các cơ quan bảo vệ pháp luật cùng đông đảo quần chúng tham gia. Để công tác chống hành vi gian lận thuế đạt hiệu quả tốt cần có sự phối hợp nhịp nhàng của các cơ quan tổ chức, cụ thể là: - Phối hợp quản lý chặt chẽ doanh nghiệp từ khi thành lập, hoạt động đến khi giải thể hoặc phá sản. Doanh nghiệp là đối tƣợng nộp thuế, thực tế hiện nay việc quản lý các đối tƣợng này còn lỏng lẻo, nhiều đối tƣợng không thực hiện đúng các quy định của pháp luật về việc tồn tại, nghỉ, bỏ kinh doanh, phá sản, giải thể doanh nghiệp; do không đƣợc quản lý chặt chẽ nên đã dẫn đến tình trạng có một số lƣợng không nhỏ các doanh nghiệp nghỉ bỏ kinh doanh bất hợp pháp, gây rất nhiều khó khăn cho công tác quản lý thuế. Với những đối tƣợng này đã phát sinh và tiểm ẩn các hành vi vi phạm pháp luật thuế, hoặc tạo điều kiện cho doanh nghiệp khác vi phạm pháp luật thuế; cụ thể là, khi các đối tƣợng này bỏ kinh doanh bất hợp pháp thì số thuế còn nợ ngân sách sẽ không đƣợc thanh toán, không thực hiện quyết toán thuế khi giải thể, phá sản, số hóa đơn 86 mà doanh nghiệp chƣa dùng có thể đƣợc đƣa ra thị trƣờng cho các doanh nghiệp khác sử dụng bất hợp pháp để gian lận thuế, v.v.. Để giải quyết tình trạng này, các cơ quan chức năng quản lý doanh nghiệp phải phối hợp chặt chẽ trong thực hiện các quy định của luật pháp nhƣ cƣỡng chế buộc các doanh nghiệp thực hiện nghiêm pháp luật. - Phối hợp cung cấp các thông tin nhanh về các đối tƣợng nộp thuế. Hiện nay chỉ riêng thuế GTGT có hai cơ quan thu; đó là cơ quan thuế nội địa thu thuế nội địa và cơ quan hải quan thu thuế tại cửa khẩu và làm các thủ tục xác định hàng hóa xuất, nhập khẩu là điều kiện để doanh nghiệp đƣợc hƣởng thuế suất thuế GTGT 0%. Để chống các hành vi gian lận thuế GTGT thì cần có sự phối hợp chặt chẽ của hai cơ quan để đảm bảo có đủ thông tin nhanh về đối tƣợng nộp thuế. Để thực hiện chống gian lận về thuế không chỉ cần có thông tin về thuế mà còn cần có các thông tin khác nhƣ nơi cƣ trú, lý lịch của các cá nhân có trách nhiệm… Do đó rất cần có sự hỗ trợ của các cấp chính quyền địa phƣơng thực hiện phối hợp trong quản lý đối tƣợng nộp thuế. - Phối hợp trong tuyên truyền giáo dục. Công tác tuyên truyền đối tƣợng nộp thuế đóng một vai trò quan trọng trong chống gian lận thuế. Để thực hiện tốt công tác tuyên truyền, các cơ quan thông tin đại chúng phải phối hợp chặt chẽ để tuyên truyền đến ngƣời dân, để nhân dân hiểu rõ bản chất và lợi ích của công tác thuế, phê phán, lên án mạnh mẽ các hành vi gian lận tiền thuế, tích cực hỗ trợ cơ quan thuế thực hiện chống các hành vi gian lận thuế. - Phối hợp trong điều tra chống gian lận. Các hành vi gian lận thuế là các hành vi vi phạm pháp luật thuế trong đó có nhiều thủ đoạn tinh vi, phức tạp, nếu không làm tốt công tác điều tra thì việc chống hành vi vi phạm thuế sẽ rất hạn chế. Để thực hiện tốt công tác điều tra 87 phải có các cơ quan chuyên môn điều tra, việc phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan thuế và cơ quan điều tra là quan trọng và vô cùng cần thiết, có tác dụng kết luận các hành vi gian lận và trừng trị, răn đe 3.3 Một số kiến nghị 3.3.1 Với chính phủ Đề xuất Chính phủ ký các Hiệp định song phƣơng, đa phƣơng với các quốc gia láng giềng có chung biên giới, các nƣớc trong khu vực để tăng cƣờng việc phối hợp, hỗ trợ điều tra, xác minh làm rõ các sai phạm trong hoạt động xuất khẩu hàng hoá xin hoàn thuế 3.3.2 Với Tổng cục thuế + Cần xây dựng các quy trình, thủ tục quản lý thuế đơn giản và đáp ứng đày đủ các yêu cầu của công tác quản lý thuế theo cơ chế tự khai - tự nộp; thực hiện nguyên tắc một cửa trong việc giải quyết các công việc về thuế để giảm chi phí tuân thủ thuế cho cả ngƣời nộp thuế và chi phí quản lý thuế của cơ quan quản lý thuế. + Có chƣơng trình phối hợp với các ngành các cấp để từng bƣớc tạo môi trƣờng thuận lợi cho cải cách công tác quản lý thuế thành công. 3.3.3 Với Bộ Tài chính + Cần hoàn thiện luật thuế GTGT hơn nữa, đƣa luật thuế GTGT về đúng nguyên lý của thuế GTGT, cụ thể là: - Cần hạn chế số lƣợng nhóm hàng hóa, dịch vụ không chịu thuế GTGT, khi đó sẽ tạo điều kiện cho việc tính thuế, khấu trừ thuế GTGT đƣợc liên hoàn giữa các khâu trong quá trình sản xuất kinh doanh, tạo ra sự dõ ràng minh bạch của thuế GTGT. - Cần sớm giảm bớt loại thuế suất về còn hai loại thuế suất: thuế suất 0% cho hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu và 10% cho mọi loại hàng hoá bán nội địa để đơn giản trong việc tính thuế, đơn giản trong quản lý. Việc giảm bớt 88 thuế suất tạo ra sự đơn giản, công bằng, các đối tƣợng dễ nhớ, dễ làm, không có sự nhầm lẫn, sai sót, và cơ quan quản lý thuế cũng dễ phát hiện sai. + Cần có hình thức khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng hóa đơn tự in của mình. Việc các doanh nghiệp sử dụng hóa đơn do chính doanh nghiêp tự in sẽ làm giảm tình trạng mua hóa đơn bất hợp pháp. 3.3.4 Với đơn vị khác. + Ngành ngân hàng: Thanh toán qua ngân hàng là hình thức thanh toán văn minh, nếu hình thức thanh toán này đƣợc phát triển thì không chỉ có tác dụng hạn chế các hành vi vi phạm về thuế mà còn hạn chế nhiều hành vi khác trong xã hội. Chính vì vậy đẩy mạnh thanh toán qua ngân hàng là rất cần thiết. Để thực hiện đƣợc thì: - Hệ thống dịch vụ ngân hàng phải đƣợc cải tiến nâng cao chất lƣợng phục vụ để cho nhân dân và các pháp nhân có thể sử dụng thật thuận tiện và lợi ích mà họ đƣợc hƣởng cao hơn hình thức thanh toán bằng tiền mặt. - Cần có những quy định rõ ràng đối với các pháp nhân phải thực hiện thanh toán qua ngân hàng, tránh tình trạng các pháp nhân cố tình thực hiện thanh toán tiền mặt để có điều kiện thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật, trong đó có hành vi gian lận thuế. - Cũng cần có thời gian để triển khai công tác tuyên truyền lợi ích của hình thức thanh toán qua ngân hàng và để nâng cao chất lƣợng phục vụ của hệ thống thanh toán, tạo thành thói quan của ngƣời dân và các tổ chức kinh tế. - Thực hiện nghiêm túc việc trích tiền từ tài khoản của các đơn vị vi phạm nộp vào kho bạc nhà nƣớc theo lệnh thu của cơ quan thuế. + Các cơ quan pháp luật như: Viện kiểm soát, Công an, Tòa án cần phải phối hợp tích cực với cơ quan thuế để điều tra phát hiện các thủ đoạn gian lận trốn thuế, đồng thời xử lý nghiêm minh các vụ việc vi phạm. 89 + Các cơ quan thông tin đại chúng như: Báo, Đài, Truyền hình … cần tăng cƣờng giáo dục pháp luật thuế để nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật thuế. Đồng thời đƣa tin biểu dƣơng các đơn vị thực hiện tốt nghĩa vụ thuế, đƣa tin những đơn vị vi phạm trốn lậu thuế để răn đe Tóm lại, dựa vào quan điểm và mục tiêu phòng chống gian lận thuế GTGT và định hƣớng hoàn thiện luật thuế GTGT ở nƣớc ta hiện nay, tác giả đã đƣa ra các nhóm biện pháp phòng chống gian lận thuế GTGT ở Việt Nam, đó là nhóm biện pháp hoàn thiện luật thuế GTGT và nhóm biện pháp hoàn thiện cơ chế bảo đảm thực hiện pháp luật thuế GTGT cùng một số kiến nghị với các cơ quan chức năng, tác giả hy vọng các biện pháp trên phần nào góp phần làm giảm tình trạng gian lận thuế GTGT tại các doanh nghiệp thƣơng mại Việt nam trong thời gian tới. 90 KẾT LUẬN Luật Thuế GTGT đƣợc áp dụng ở nƣớc ta tuy muộn hơn nhiều so với các nƣớc có nền kinh tế thị trƣờng trên thế giới và khu vực, nhƣng qua thực tiễn hơn 10 năm thi hành, thuế GTGT đã phát huy khá đầy đủ những ƣu điểm của một sắc thuế tiên tiến; đã góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, đẩy mạnh tăng trƣởng kinh tế, khuyến khích xuất khẩu, tạo ra nhiều công việc thu hút lao động trong xã hội; đã có tác dụng lớn đối với đời sống kinh tế - xã hội, góp phần hình thành nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa, nhất là đã trở thành một nguồn thu lớn của ngân sách nhà nƣớc để nhà nƣớc thực hiện tốt chức năng tổ chức quản lý quá trinh xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Việc thực hiện Luật Thuế GTGT của các doanh nghiệp thƣơng mại Việt Nam những năm qua đã đạt đƣợc nhiều kết quả quan trọng và có những tác động tích cực cả về kinh tế, chính trị, xã hội. Song, vì đây là luật thuế mới, việc áp dụng đòi hỏi nhiều điều kiện đồng bộ nên trong quá trình triển khai thực hiện đã bộc lộ một số vấn đề phức tạp, đặc biệt là hiện tƣợng gian lận thuế GTGT. Ngành thuế đã có những biện pháp phòng, chống kịp thời, nhƣng do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, hiện tƣợng gian lận thuế GTGT vẫn còn xảy ra ở nhiều lúc, nhiều nơi, chƣa đƣợc ngăn chặn, đẩy lùi. Gian lận thuế không chỉ xuất hiện riêng tại Việt Nam mà ở hầu khắp các nƣớc có sử dụng thuế GTGT. Hiện tƣợng này có nguyên nhân từ khía cạnh đạo đức, trình độ dân trí, trình độ cán bộ nghiệp vụ, phƣơng tiện kỹ thuật và một phần không nhỏ xuất phát từ sự buông lỏng pháp luật. Do đó, chống gian lận và chiếm đoạt tiền thuế GTGT là một quá trình đòi hỏi tổng hợp nhiều yếu tố: ý chí kiên quyết, nghiệp vụ tinh thông, lòng kiên nhẫn, sự khôn khéo và tế nhị 91 và công tác quần chúng thích hợp. Hỗ trợ cho những yếu tố này là hành lang pháp lý rõ ràng, kịp thời và cứng rắn. Gian lận thuế không chỉ gây thiệt hại về mặt vật chất mà bào mòn lòng tin của dân chúng đối với Nhà nƣớc và tạo ra những tiền lệ xấu khiến nhiều kẻ bắt chƣớc. Càng ngày, các vụ gian lận thƣơng mại càng gia tăng cả về số vụ lẫn quy mô nên việc chống gian lận thuế cần phải làm ngay, làm triệt để bằng cách nhanh chóng hoàn thiện hơn nữa luật thuế GTGT và cơ chế bảo đảm thực hiện pháp luật thuế GTGT. Để làm hỗ trợ tốt cho công tác này cần có sự phối hợp tốt của cơ quan chức năng nhƣ Bộ tài chính, Cơ quan thuế, Ngân hàng.... 92 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Tài chính ( 23/3/2009), Số liệu Ngân sách nhà nước các năm 2006,2007,2008 2. Bộ tài chính (2007), Luật quản lý thuế, các văn bản hướng dẫn, NXB Tài chính, Hà Nội 3. Bộ tài chính ( 26/12/2008), Thông tư 129 /2008/TT- BTC, Hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng và hướng dẫn thi hành Nghị định số 123/2008/NĐ-CP ngày 08 tháng 12 năm 2008 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng 4. Bộ tài chính (22/1/2009), Thông tư 13/2009/TT- BTC hướng dẫn thực hiện giảm thuế giá trị gia tăng đối với một số hàng hóa, dịch vụ doanh nghiệp kinh doanh gặp khó khăn. 5. Bộ tài chính (30/1/2009), Thông tư 18/2009/TT-BTCHướng dẫn thực hiện giảm 50% mức thuế suất thuế giá trị gia tăng theo Danh mục hàng hoá của Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi. 6. Bộ tài chính ( 14/6/2007), thông tư 60 /2007/TT-BTC Hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Quản lý thuế và hướng dẫn thi hành Nghị định số 85/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Quản lý thuế 7. Chính phủ (8/12/2008), Nghị định 123/2008/NĐ-CP, quy định chi tiết và hướng dẫn việc thi hành một số điều của Luật thuế GTGT 8. Tổng cục thống kê (2009), Thực trạng doanh nghiệp qua kết quả điều tra năm 2006, 2007, 2008, NXB Thống kê, Hà Nội 9. Quốc hội (03/06/2008), Luật thuế GTGT, Luật số: 13/2008/QH12 10. Quốc hội (10/05/1997), Luật thuế GTGT, Luật số: 02/1997/QH9 93 11. Hà Xuân Thạch (30/8/2009), “ Chứng từ, hoá đơn và việc gian lận trong khấu trừ, hoàn thuế GTGT”, Luật Việt. 12. Ngô Thế Chi, Vũ Công Ty ( 1998), Thuế và kế toán Thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, NXB Tài chính, Hà nội 13. Nguyễn Hồng Thắng (30/8/2009), “Hiện tƣợng gian lận thuế giá trị gia tăng: nguyên nhân và biện pháp khắc phục”, Luật Việt 14. Nguyễn Ngọc Hùng (30/8/2009), “ Nguyên nhân và giải pháp khắc phục hiện tƣợng gian lận trong khấu trừ, hoàn thuế giá trị gia tăng”, Luật Việt 15. Luật sƣ Nguyễn Trọng Hạnh (30/8/2009), “Chứng từ hoá đơn và vấn nạn gian lận trong hoàn thuế giá trị gia tăng ”, Luật Việt 16. Nguyễn Văn Vân & Nguyễn Thị Thuỷ (30/8/2009), “Một số vấn đề pháp lý về hoàn thuế giá trị gia tăng”, Luật Việt. 17. .Phan Mỹ Hạnh (30/8/2009), “Gian lận trong khấu trừ, hoàn thuế giá trị gia tăng thông qua chứng từ, hoá đơn khống và nguy cơ thất thoát Ngân sách Nhà nƣớc”, LuậtViệt 18. .Trần Anh Tuấn & Châu Quốc An (30/8/2009), “Những bất cập trong phƣơng pháp tính thuế và qui trình hoàn thuế GTGT”, Luật Việt. 19. Trần Hải Hiệp (30/8/2009), “Khấu trừ và hoàn thuế giá trị gia tăng - thực trạng và những giải pháp hoàn thiện”, Luật Việt 20. Võ Thế Hào (30/8/2009), “Vấn đề hoàn thuế giá trị gia tăng ở nƣớc ta hiện nay”, Luật Việt. 21. Vietnamnet ( 1/10/2009), “Ôtô nhập khẩu có dấu hiệu trốn thuế”

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf3379_1424.pdf
Luận văn liên quan