Khi nói đến giọng châm biếm, mỉa 
mai ta không thể không nói đến giọng 
lên án, chỉ trích. Đây cũng là một giọng 
điệu làm nên sự đa dạng trong giọng 
châm biếm. Trước đó, giọng lên án, chỉ 
trích của Nguyễn Khuyến mang tính 
chất phê phán thâm trầm, kín đáo. 
Giọng lên án của Tú Xương quyết liệt 
hơn, gắn liền với thái độ muốn phá 
phách của tác giả trước những cái nhố 
nhăng. Trong Dòng nước ngược, giọng 
lên án, chỉ trích thường được thể hiện 
nổi bật ở những bài thơ viết về hủ tục, 
về tệ nạn xã hội, về bọn quan lại bóc lột, 
hà hiếp nhân dân.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 8 trang
8 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 5061 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Giọng điệu thơ trào phúng Tú Mỡ trong “Dòng nước ngược”, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007 
 39
Giọng điệu thơ trào phúng Tú Mỡ trong 
“Dòng n−ớc ng−ợc” 
 Nguyễn Do!n Quỳnh (a) 
 Tóm tắt. Trong bài viết này, chúng tôi trình bày những nghiên cứu về thơ trào 
phúng Tú Mỡ trên ph−ơng diện giọng điệu nghệ thuật. Bài viết đ−ợc triển khai trên 
hai nội dung chính: thứ nhất, xác định các loại giọng điệu thơ trào phúng Tú Mỡ theo 
hai tiêu chí cụ thể: tiêu chí điểm nhìn nghệ thuật và tiêu chí cảm hứng; thứ hai, xem 
xét mối quan hệ giữa giọng điệu thơ Tú Mỡ với giọng điệu của thơ ca thời đại, của 
khuynh h−ớng mà nhà thơ là đại biểu của khuynh h−ớng, thời đại ấy. 
 1. Giọng điệu văn ch−ơng vừa cho 
phép ta nhận ra g−ơng mặt riêng của 
tác giả, vừa giúp nhà văn bộc lộ rõ tài 
năng của mình. Đã có nhiều công trình 
luận bàn về các vấn đề của giọng điệu. 
ở đây chúng tôi xin đ−ợc đi vào một 
tr−ờng hợp cụ thể: tìm hiểu giọng điệu 
thơ trào phúng của Tú Mỡ trong Dòng 
n−ớc ng−ợc. 
 2. Trong Dòng n−ớc ng−ợc có sự 
xuất hiện của rất nhiều loại giọng điệu, 
mỗi giọng điệu có một vai trò nhất định 
trong việc bộc lộ phong cách, cái nhìn 
của nhà thơ. Tuy nhiên, việc nhận diện 
từng loại giọng điệu không hề là một 
việc làm đơn giản. Nó đòi hỏi phải đ−ợc 
tiến hành bằng một sự phân loại chặt 
chẽ, dựa trên những tiêu chí hết sức rõ 
ràng. Thừa nhận giọng điệu đ−ợc hình 
thành gắn liền với sự tổ chức điểm nhìn 
nghệ thuật và cảm hứng của chủ thể thì 
hai tiêu chí cơ bản để phân loại giọng 
điệu thơ trào phúng Tú Mỡ mà chúng 
tôi lựa chọn là tiêu chí điểm nhìn nghệ 
thuật và tiêu chí cảm hứng. Sau đây là 
sự trình bày cụ thể cách phân loại giọng 
điệu thơ Tú Mỡ trên các tiêu chí này: 
 2.1. Theo tiêu chí điểm nhìn nghệ 
thuật, ta có thể nói tới hai loại giọng 
điệu cơ bản: Giọng điệu chủ thể và 
giọng điệu khách thể. 
 2.1.1. Giọng điệu chủ thể là giọng 
điệu gắn liền với sự xuất hiện của hình 
t−ợng tác giả trong tác phẩm nghệ 
thuật. Trong thơ trào phúng của Tú Mỡ, 
giọng điệu chủ thể đ−ợc biểu hiện ở các 
hình thức: Giọng kể, giọng tả, giọng 
bình luận khách quan, giọng cái tôi tự 
bộc lộ. 
 Trong nhiều tr−ờng hợp, ở thơ trữ 
tình thông th−ờng, giọng kể chuyện 
khách quan, miêu tả khách quan vẫn 
xuất hiện với một vai trò nổi bật: 
Những bài thơ vịnh vật trong thơ cổ 
điển đặc một giọng tả; những bài thơ kể 
chuyện trong Thơ mới (1932 - 1945) nổi 
lên với một giọng thuật sự rõ ràng. 
Song tất cả đó thực chất chỉ là những 
tiếng nói khác nhau của chủ thể trữ 
tình khi anh ta muốn dấu mình. Những 
chi tiết, sự kiện của câu chuyện đã đ−ợc 
cái tôi trữ tình nội cảm hoá nhằm 
chuyển tải những xúc động của tâm 
Nhận bài ngày 27/11/2006. Sửa chữa xong 14/12/2006. 
Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007 
 40
hồn. Còn trong thơ trào phúng, vấn đề 
đã có nhiều khác biệt: Giọng tự thuật 
tâm trạng vẫn phát huy hiệu lực, nh−ng 
nhà thơ đặc biệt tô đậm giọng thuật sự 
khách quan. ở đây, giọng kể, giọng tả 
khách quan chiếm −u thế. Nó th−ờng 
xuất hiện qua những câu thơ mang tính 
tự sự (Xóm bên Đông có ph−ờng chèo nọ 
- Nguyễn Khuyến, ở phố Hàng Nâu có 
phỗng sành - Tú X−ơng), những câu thơ 
tả khách quan đối t−ợng (áo quần đĩnh 
đạc trông ra cậu. ăn nói nhề nhàng 
khác giọng Ngô - Tú X−ơng)… Có đ−ợc 
điều này là do chỗ thơ trào phúng 
th−ờng h−ớng về nhận thức và phản 
ánh cái xấu xa, thấp hèn, trống rỗng 
của đời sống. Đứng tr−ớc đối t−ợng đó 
nhà thơ “không chỉ tách mình ra ngoài 
môi tr−ờng của đối t−ợng mà còn đứng 
cao hơn đối t−ợng” để quan sát và miêu 
tả cho thật rạch ròi [3]. 
 Trong thơ Tú Mỡ, những câu thơ 
mang giọng kể, giọng tả xuất hiện dày 
đặc và có một vai trò nổi bật. Qua thống 
kê sơ bộ thì có khoảng trên 40 câu thơ 
giới thiệu nhân vật theo lối trực tiếp, 
kiểu: 
 Trên toa xe lửa hạng ba 
 Bọn hành khách có một bà một ông 
 (Thằng vú em) 
 Các câu thơ tự sự kiểu: Ông rằng, 
bà rằng, có một… đã đem lại cho thơ Tú 
Mỡ một không khí kể chuyện rõ ràng, 
rành mạch. Nó gần với lối tự sự bằng 
văn vần trong truyện nôm bình dân của 
cha ông x−a hay lối kể vè độc đáo. Thử 
phân tích một ví dụ cụ thể để minh hoạ 
cho điều này. Mở đầu bài S− cậu đi hát 
ả đào, Tú Mỡ đã vào bài bằng một giọng 
kể chuyện rất tự nhiên: 
 Có hai s− cậu chùa Bà 
 ăn no rửng mỡ la cà rong chơi 
 Tiếp đến nhà thơ kể từng chi tiết, 
sự kiện xẩy ra với hai s− cậu ng−ợc đời, 
lố bịch. Sự dẫn dắt của tác giả bằng các 
câu thơ S− rằng: Chơi gió chơi mây, 
Rằng: Nay trong cuộc tiêu giao… đã tạo 
ra cho giọng thơ của Tú Mỡ phảng phất 
giọng kể chuyện của Nguyễn Du trong 
Truyện Kiều và của các tác giả truyện 
thơ nôm bình dân thế kỉ XVIII. Đây là 
biểu hiện đặc tr−ng trong giọng kể của 
Tú Mỡ mà các nhà thơ trào phúng khác 
không có đ−ợc. 
 Đi liền với giọng kể, giọng tả là 
giọng bình phẩm, đánh giá của nhà thơ. 
Điều khác biệt với thơ trào phúng tr−ớc 
đây là Tú Mỡ th−ờng dành riêng những 
câu thơ, đoạn thơ để bình phẩm, đánh 
giá về đối t−ợng. Nó có thể xuất hiện ở 
đầu bài (nh− bài Đốt vàng đốt mã, Cáo 
phó… ), có thể xuất hiện giữa bài hoặc 
cuối bài (Hội Gióng, Hội Láng, Hà Nội 
ăn chơi…), nh−ng bao giờ nó cũng mang 
t− cách nh− một sự bình luận ngoại đề 
của tác giả. Ví dụ: Sau khi miêu tả cảnh 
Hội Gióng, bằng một sự suy luận chủ 
quan, nhà thơ đã nêu ra những bình 
luận, đánh giá của riêng mình: 
 Ngẫm xem hội với hè 
 Rõ chán hơn cơm nếp 
 Hả dạ bác Nhiêu Khê 
 Thoả lòng ông Lý Toét 
 No phỡn lại no phè 
 Say be rồi say bét 
 Một mớ lễ nghi quèn 
Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007 
 41
 Bảy nghìn đồng bạc tét 
 Thôn quê còn cái đình 
 Thằng khố giây còn chết 
(Hội Gióng) 
 Ta cũng bắt gặp tr−ờng hợp t−ơng 
tự trong rất nhiều bài thơ khác: Nhân 
duyên, Ông phủ cầu taì, Cáo phó… 
 Ngoài ra, còn phải kể đến giọng tự 
thuật của nhà thơ. Tú Mỡ hay nói về 
mình bằng một giọng tự bộc bạch, tự 
thanh minh, bày tỏ về tính cách của 
mình: Tôi vốn trời sinh tính khác ng−ời, 
Tú này béo mép ng−ời không béo… Song 
nhìn chung giọng tự thuật không phải 
là một nét nổi bật trong thơ Tú Mỡ. So 
với Nguyễn Khuyến, Tú X−ơng, giọng 
điệu này của Tú Mỡ còn tỏ ra đơn điệu, 
nghèo nàn, ch−a gây đ−ợc xúc động, ám 
ảnh trong lòng ng−ời đọc. 
 Nh− vậy, có thể nói rằng: giọng 
điệu chủ thể trong thơ trào phúng của 
Tú Mỡ rất đa dạng, phong phú. Qua 
giọng điệu đó ta thấy tâm thế của nhà 
thơ là tâm thế của một kẻ luôn tỉnh táo 
để thức nhận vấn đề. 
 2.1.2. Giọng điệu khách thể là 
giọng của đối t−ợng trào phúng tự cất 
lên tr−ớc cuộc đời. Bằng việc để cho đối 
t−ợng tự nói bằng giọng của mình, tác 
giả đã tìm đ−ợc một hình thức khám 
phá và tái hiện bản chất của cái hài 
một cách thuyết phục. Thực ra giọng 
điệu khách thể từ x−a đã thấy xuất 
hiện trong thơ của Nguyễn Khuyến với 
bài Lời vợ anh ph−ờng chèo. Nh−ng 
tr−ờng hợp nh− thế không nhiều trong 
thơ trào phúng cổ điển. Đến thơ Tú Mỡ 
nó trở nên phổ biến và có những đặc sắc 
đáng kể. 
 Có thể thấy giọng điệu khách thể 
trong những bài thơ S− cậu đi hát ả 
đào, Nuốt xu, Thầy mạt c−a, trò m−ớp 
đắng, Ông nghị đi hội đồng về, Bà Lý 
Toét khuyên chồng, Lý sự cùn… Đặc 
điểm chung của những bài thơ mang 
giọng điệu khách thể là dù thông qua 
đối thoại hay độc thoại thì giọng của đối 
t−ợng bao giờ cũng đ−ợc thực hiện theo 
nguyên tắc: các đối t−ợng là bọn quan 
lại, nghị viên khi nói bằng lời của mình 
đều mang giọng thanh minh, bào chữa, 
che lấp cho thói h− tật xấu; còn đối 
t−ợng nh− bà Lý Toét trong bài Bà Lý 
Toét khuyên chồng, bà nghị trong bài 
Khuyên chồng ông nghị khi đi hội đồng, 
cô gái trong bài Phụ bạc mang giọng tố 
cáo. Họ đang bằng cách này hay cách 
khác, cố tình hay vô ý vạch mặt những 
kẻ xấu xa, bất tài, trống rỗng có liên 
quan đến mình. 
 Nhìn chung nhờ có giọng điệu 
khách thể này mà Tú Mỡ đã mở ra đ−ợc 
nhiều góc nhìn khác nhau về các đối 
t−ợng trong cuộc đời. 
 2.2. Theo tiêu chí cảm xúc, cảm 
hứng ta có thể chia ra giọng bông lơn, 
đùa cợt; giọng châm biếm, mỉa mai. 
 2.2.1. Giọng bông lơn, đùa cợt: Đây 
không phải là một giọng riêng trong thơ 
Tú Mỡ, nh−ng đã đ−ợc Tú Mỡ thể hiện 
một cách riêng trong sáng tác của mình. 
Để làm rõ vấn đề này, tr−ớc hết xin nói 
qua về giọng bông lơn, đùa cợt trong thơ 
trào phúng của Nguyễn Khuyến, Tú 
X−ơng, Tản Đà. Đọc những bài thơ Tự 
trào của Nguyễn Khuyến, Tự c−ời 
mình, Ông phỗng đá, Văn tế sống vợ 
của Tú X−ơng, Tự thuật, Tự trào, Say 
của Tản Đà ta đều nhận ra đằng sau cái 
Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007 
 42
vẻ bông đùa kia là một nỗi niềm xót xa 
của nhà thơ đang rất cần đ−ợc chia sẻ. 
Đó là sự tự c−ời mình, nh−ng là c−ời 
bằng n−ớc mắt, bằng tâm trạng của 
những kẻ bất bình với thực tại, đối 
nghịch với thực tại. Còn trong thơ Tú 
Mỡ, ở những bài viết về mình, về bạn 
hoặc về vợ, cái tôi trào phúng đã xuất 
hiện trong một vị thế khác hẳn. Khi 
đứng tr−ớc thực tại xấu xa nhà thơ có 
thái độ phủ nhận, phản kháng quyết 
liệt, thì khi đứng tr−ớc bạn bè, tr−ớc 
chính mình ông lại cởi bỏ hết những −u 
phiền để tâm hồn đ−ợc vui vẻ. Cho nên 
hình t−ợng cái tôi trào phúng trong thơ 
Tú Mỡ là hình t−ợng một cái tôi lạc 
quan, vui vẻ, tinh nghịch. Vị thế đó cho 
phép nhà thơ có thể đ−a vào trong sáng 
tác của mình một giọng bông lơn, đùa 
cợt rất tự nhiên. Ng−ời đọc có thể hình 
dung về giọng điệu này qua hệ thống từ 
ngữ của tác phẩm, mà tr−ớc hết là hệ 
thống từ x−ng hô. Nhà thơ hay x−ng 
mình là: Tôi, Tú Mỡ, tớ (Tú Mỡ là một 
anh chàng đãng tính; Bạn mà bàn đến 
thi cùng cử. Thời vội van luôn: Tớ lạy 
mày…) và gọi đối t−ợng là bạn, là bác, 
là chị (bài: Cùng bác Tú Xơn, Cảm ơn 
chị) hoặc gọi tên trực tiếp một cách 
thân tình. Chính cách gọi tên, x−ng hô 
này đã quy định màu sắc cảm xúc trong 
những bài thơ vừa nêu là màu sắc 
suồng sã. 
 Thực ra, từ x−a Nguyễn Khuyến 
cũng đã tự x−ng mình (Nghĩ mình cũng 
gớm cho mình nhỉ. Thế cũng bia xanh 
cũng bảng vàng), Tú X−ơng đã x−ng tớ 
rất độc đáo (Mai mà tớ hỏng tớ đi ngay), 
Tản Đà cũng đã tự x−ng ông (Bởi ông 
ngông quá ông không đỗ. Không đỗ ông 
càng tốt bộ ngông). Nh−ng đó là cách 
x−ng hô biểu hiện của một cái tôi tự 
tách mình. Còn trong thơ Tú Mỡ, cách 
x−ng hô gọi tên thân mật, suồng sã là 
biểu hiện của một cái tôi trào phúng 
đang vây quanh giữa mọi ng−ời. Nhà 
thơ không tách mình ra mà kéo tất cả 
vào trong mối quan hệ bạn bè. 
 Giọng bông lơn, đùa cợt còn thể 
hiện ở những cách đùa nhiều khi có vẻ 
rất “quá lời” của Tú Mỡ khi viết về bạn. 
Ông nói về Tú Xơn: 
 Bác ơi tôi hỏi lần thần 
 Bác phò phụ nữ đỡ đần hai cô … 
Hay vì hôi nách rình rình 
Chẳng ai chơi với một mình Tú Xơn 
(Cùng bác Tú Xơn) 
Nhà thơ vẽ chân dung ng−ời tình nhân 
ch−a quen biết: 
 Tên với họ mô tê chẳng biết 
 Hình với dung xấu đẹp hay không? 
 H−ơng trời nguyệt đắm hoa say 
 Hay là nhan sắc sánh tày Dạ Xoa? 
 Xuân mấy độ tuổi già hay trẻ 
 Nặng bao cân ng−ời khoẻ hay còm? 
Tóc mây óng m−ợt đen ngòm 
Hay là đỏ bẻm nh− chòm râu ngô? 
 (Th− gửi ng−ời tình nhân không quên 
biết) 
 Rõ ràng, qua những bài thơ trên 
đây, ta nhận ra cái cốt lõi làm nên giọng 
thơ hài h−ớc trong thơ Tú Mỡ chính là 
tình cảm vui đùa trong sáng. Nó khác 
với tình cảm vui đùa trong thơ của các 
nhà thơ tr−ớc và cũng khác với giọng 
hài h−ớc vui đùa của Hồ Chí Minh 
trong Nhật kí trong tù. Giọng hài h−ớc 
Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007 
 43
trong Nhật kí trong tù là giọng hài h−ớc 
đ−ợc cất lên từ một tâm hồn lạc quan, 
đầy tin t−ởng của ng−ời chiến sĩ- thi sĩ 
luôn làm chủ đ−ợc mọi hoàn cảnh khắc 
nghiệt của lao tù (Chia n−ớc, Bị hạn 
chế, Đi Nam Ninh, Lại sang…). 
 Nhân tố thứ hai quy định màu sắc 
của loại giọng điệu đang bàn trong thơ 
Tú Mỡ. Đó là sự lựa chọn thể thơ của 
tác giả. Bởi vì “sự lựa chọn thể loại ngay 
từ đầu đã có xu h−ớng bộc lộ một cách 
thuận lợi các cung bậc của giọng điệu… 
vì bản thân mỗi thể loại đều hàm sẵn 
trong nó sức mạnh biểu cảm riêng” [2]. 
Trong Dòng n−ớc ng−ợc, trong số 36 bài 
viết về cái tôi của tác giả, về bạn thì có 
đến 18 bài viết theo thể tự do, 7 bài 
theo thể song thất lục bát, 4 bài ngũ 
ngôn, 4 bài lục bát, còn lại là thể hát 
nói và thất ngôn bát cú. Với tính chất 
phóng túng trong việc tổ chức âm luật, 
nhịp điệu, các thể thơ này rất phù hợp 
cho việc bộc lộ những tình cảm trong 
sáng, vui đùa của nhà thơ. 
 Nh− vậy, giọng bông lơn, đùa cợt 
trong thơ Tú Mỡ có đ−ợc những sắc thái 
riêng nhờ chỗ: Tác giả đã biết kế thừa 
và phát huy giọng hài h−ớc trong thơ 
trào phúng tr−ớc đó trên cơ sở những 
cảm xúc của tâm hồn mình. 
 2.2.2. Giọng châm biếm, mỉa mai: 
Giọng châm biếm, mỉa mai là giọng 
điệu chủ đạo trong thơ trào phúng Tú 
Mỡ. Nó xuất hiện d−ới nhiều hình thức 
giọng điệu khác nhau: Giọng chế giễu, 
nhạo báng; giọng giả vờ; giọng lên án, tố 
cáo… sau đây xin đ−ợc đi vào từng hình 
thức cụ thể. 
 Từ x−a, giọng chế giễu, nhạo báng 
đã trở nên phổ biến trong thơ trào 
phúng. Nó th−ờng đ−ợc dự báo ngay từ 
nhan đề, ví dụ: Chế ông đồ Cự Lộc của 
Nguyễn Khuyến, Chế ông huyện, Chế 
gái đĩ của Tú X−ơng. Đến thơ Tú Mỡ nó 
đã trở nên sinh động và đa dạng hơn 
nhiều. Ng−ời đọc dễ dàng nhận ra giọng 
chế nhạo của Tú Mỡ trong hệ thống từ 
ngữ mà nhà thơ dùng để giới thiệu và 
miêu tả đối t−ợng. Thử đọc những câu 
thơ này: 
 An Nam kể bọn nhân tài 
 Ông Khiêm, thạc sỹ là ng−ời lừng 
 danh 
(Ông trạng mẹo Phạm Duy Khiêm) 
 Trời sinh ra Lục, lại sinh An 
 Cho đủ vai trò với thế gian 
 Với cách x−ng hô, gọi tên trần trụi 
đó, nhà thơ đã tạo ra cho những lời giới 
thiệu của mình một giọng điệu suồng 
sã, thậm chí sỗ sàng, thiếu nhã nhặn. 
Bằng giọng điệu ấy để giới thiệu về 
những nhân vật đ−ợc xã hội đ−ơng thời 
trọng vọng, Tú Mỡ đã tạo nên một thái 
độ nhạo báng, gây c−ời. 
 Nh−ng đây mới chỉ là sự mào đầu, 
có tính chất tạo không khí. Thái độ chế 
nhạo ấy càng trở nên mãnh liệt khi nhà 
thơ cố tình khoét sâu vào đối t−ợng qua 
hệ thống từ ngữ miêu tả đầy ấn t−ợng. 
Ví dụ: Miêu tả chân dung văn sĩ Trần 
Văn Tùng, nhà thơ dùng hàng loạt các 
từ láy: Choăn choắt, mét me, le te và 
những động từ có tính chất vật hoá: Nói 
bô bô, mò đi, len, lỏi, hót nhằm biến đối 
t−ợng thành một thứ trò hề không hơn 
không kém. Các hình thức điệp từ, điệp 
ngữ, tách xen nh−: Du học du hành, 
Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007 
 44
giỏi gớm, giỏi ghê khi vẽ chân dung ông 
Phạm Duy Khiêm đã đem đối t−ợng vào 
“khu vực tiếp xúc thân mật đến thô bạo, 
ở đó có thể suồng sã sờ mó nó từ khắp 
mọi phía, lật ngửa, lộn trái, nhòm ngó 
từ d−ới, từ trên, đập vỡ bề ngoài để nhìn 
vào bên trong… một cách tự do” (dẫn 
theo Trần Đình Sử) [6]. 
 Cũng có khi giọng chế giễu của nhà 
thơ lại đ−ợc biểu hiện bằng một hình 
thức trái ng−ợc với điều vừa nói. Tác giả 
th−ờng trình bày cái tầm th−ờng, vặt 
vãnh bằng một giọng thơ hệ trọng nh− 
thể đang nói về một điều gì lớn lao. Đọc 
bài thơ Anh đốc, Cái giây kim tòng ta 
sẽ thấy rõ điều đó. 
 Bên cạnh giọng chế giễu, nhạo 
báng, Tú Mỡ đã sử hình thức giọng giả 
vờ. Nhà thơ giả vờ xót th−ơng, giả vờ an 
ủi, giả vờ ngợi ca, tán th−ởng. Nguyễn 
Khuyến x−a cũng đã từng giả vờ hỏi 
thăm ân cần một tên quan tuần bị c−ớp 
(Hỏi thăm quan tuần mất c−ớp), Đồ 
Phồn giả vờ nhỏ lệ tr−ớc một tên t−ớng 
Pháp bị thải hồi (Khóc cụ Tô-Lăng-Sơ). 
Nh−ng nhìn chung, những bài thơ 
mang giọng điệu này trong thơ Nguyễn 
Khuyến và Đồ Phồn không nhiều. Nó 
đặc biệt đậm đặc trong thơ Tú Mỡ. Ông 
đã vận dụng các thể loại văn tế, văn 
chầu, văn chiêu hồn với một tần số lớn 
để tạo nên những tác phẩm trào phúng 
đặc sắc (có 12 bài thuộc dạng này). 
Chẳng hạn: Những bài văn tế Văn tế 
t−ớng quân bỏ mình vì n−ớc…đá, Văn tế 
bảo hộ tác giả đã lợi dụng chức năng 
nghệ thuật của thể loại văn tế để châm 
biếm, gây c−ời. ở bài An ủi ông nghị 
Lục cái giọng an ủi giả vờ của tác giả 
đ−ợc cất lên thật hấp dẫn. Đọc những 
câu thơ dạng này ta có cảm giác nh− tác 
giả đang vỗ về nỗi đau của nhân vật: 
 Tuy rằng n−ớc bạc thua cay 
 Song le thắng bại x−a nay là 
 th−ờng 
 Vả chăng thua cũng nhiều đ−ờng 
 Càng tranh kịch liệt thua càng 
 thêm vinh 
 Mất ngôi nh−ng vẫn toàn danh 
 Còn nh− lợi lộc, xem khinh sá gì! 
 Nh−ng nếu xét lời lẽ của toàn bài, 
đặc biệt là những lời khuyên ở kết thúc 
bài thơ ta sẽ nhận ra đó là một lời 
nguyền rủa: 
 Buồn mà chi! bực mà chi! 
 Miếng ngon chấm mút no nê quá 
rồi 
 Để phần kẻ khác ông ơi 
 Khỏi mang cái tiếng con ng−ời nan 
du 
 Các bài thơ Ông trùm Phạm Lê 
Bổng, Nam mô bồ tát bồ hòn, Các ông 
nghị đi thăm đồn điền di dân… lại 
mang giọng tán d−ơng vờ vĩnh. Nhà thơ 
ngợi ca, nh−ng là một sự ngợi ca đầy ác 
ý. Ví dụ: Bằng con mắt của các ông 
nghị, nhà thơ đã tán th−ởng các món ăn 
đ−ợc tiếp đãi một cách rất hào phóng: 
 Nào là lòng lợn mắm tôm 
 Nào là bò tái, chấm t−ơng điểm 
 gừng 
 Thịt dê n−ớng chả thơm lừng 
 Tiết dê pha r−ợu vô cùng bổ d−ơng 
(Các ông nghị đi thăm đồn điền di dân) 
 ở những bài thơ mang giọng điệu 
giả vờ này ta thấy xuất hiện rất nhiều 
Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007 
 45
câu thơ cảm thán. Nó thể hiện sự ngạc 
nhiên giả vờ, khóc th−ơng giả vờ, tán 
d−ơng giả vờ của tác giả tr−ớc đối t−ợng 
gây c−ời. 
 Khi nói đến giọng châm biếm, mỉa 
mai ta không thể không nói đến giọng 
lên án, chỉ trích. Đây cũng là một giọng 
điệu làm nên sự đa dạng trong giọng 
châm biếm. Tr−ớc đó, giọng lên án, chỉ 
trích của Nguyễn Khuyến mang tính 
chất phê phán thâm trầm, kín đáo. 
Giọng lên án của Tú X−ơng quyết liệt 
hơn, gắn liền với thái độ muốn phá 
phách của tác giả tr−ớc những cái nhố 
nhăng. Trong Dòng n−ớc ng−ợc, giọng 
lên án, chỉ trích th−ờng đ−ợc thể hiện 
nổi bật ở những bài thơ viết về hủ tục, 
về tệ nạn xã hội, về bọn quan lại bóc lột, 
hà hiếp nhân dân. Ví dụ: Bỏ cái đình, 
Cáo phó, Phu kéo xe, Các quan đ−ợc 
tăng l−ơng… ở những bài thơ này ta 
thấy xuất hiện rất nhiều câu thơ mang 
nội dung lên án nh−: 
 Bỏ đình đi! Bỏ đình đi! 
Còn đình hủ tục còn di hại nhiều 
Còn truyền mãi lắm điều mê tín 
 (Bỏ cái đình) 
 Sự xuất hiện của giọng điệu này 
cho phép ta hình dung ra kiểu tác giả 
đặc tr−ng của thơ trào phúng là kiểu 
tác giả luôn bày tỏ sự phê phán và phủ 
nhận thực tại, đấu tranh tr−ớc cái xấu, 
cái lạc hậu, lỗi thời. 
 Qua sự phân tích trên ta có thể 
thấy thơ trào phúng của Tú Mỡ có rất 
nhiều loại giọng điệu khác nhau. 
 3. Có một vấn đề mà các nhà 
nghiên cứu văn học và lý luận văn học 
rất quan tâm khi tìm hiểu giọng điệu 
nghệ thuật là xác định mối quan hệ 
giữa giọng điệu của tác giả và giọng 
điệu của thời đại, của trào l−u, khuynh 
h−ớng mà nhà văn thuộc vào. Họ đã chỉ 
ra rằng giọng điệu của thời đại, của 
khuynh h−ớng góp phần làm nên giọng 
điệu của tác giả; còn giọng điệu của tác 
giả là sự cụ thể hoá giọng điệu của thời 
đại. Trong nhiều tr−ờng hợp giọng điệu 
của tác giả đã phá vỡ cấu trúc giọng 
điệu của thời đại để v−ợt thoát lên, 
khẳng định chính mình. Có thể thấy rõ 
mối quan hệ này trong thơ trào phúng 
của Tú Mỡ. 
 3.1. Giọng điệu của Thơ mới (1932 - 
1945) là giọng điệu cá nhân, cá thể. Đó 
là giọng của một cái tôi đã đ−ợc giải 
phóng và luôn khát khao đ−ợc thành 
thực đến tận cùng. Giọng điệu đó đã 
ảnh h−ởng rất lớn đến sự hình thành 
giọng điệu thơ trào phúng Tú Mỡ. Nó 
thể hiện ở việc trong thơ Tú Mỡ xuất 
hiện nhiều đại từ nhân x−ng ngôi thứ 
nhất, cho phép nhà thơ bày tỏ trực tiếp 
và dứt khoát t− t−ởng của mình; ở sự 
hình thành câu thơ lập luận với nhiều 
quan hệ từ, h− từ, phụ từ; ở sự tái tạo 
lại chất nhạc của câu thơ mang hơi thở 
của đời sống. Ngoài ra việc sử dụng các 
thể loại của Thơ mới cũng góp phần làm 
cho giọng điệu thơ trào phúng của Tú 
Mỡ mang âm h−ởng đặc tr−ng của 
giọng điệu thơ ca thời đại này. 
 3.2. Trên cái nền giọng điệu thời 
đại ấy, Tú Mỡ cũng đã xây dựng đ−ợc 
một giọng điệu riêng không của mình. 
Cụ thể, trong khi giọng điệu cơ bản của 
Thơ mới mang âm h−ởng buồn, cô đơn 
thì Tú Mỡ đã sáng tạo nên một giọng 
thơ đầy khoái chá. Dẫu cũng có lúc đầy 
Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007 
 46
bực dọc, dằng xé nh−ng cơ bản nó là 
tiếng nói lạc quan của nhà thơ tr−ớc 
cuộc đời. Còn giọng thơ của Đồ Phồn 
“sâu cay quá, lắm lúc lại bi thảm khiến 
ng−ời ta không thể c−ời đ−ợc nữa” [4]. 
Điều đó làm phong phú thêm cho giàn 
hợp x−ớng của thơ ca hiện đại. 
 Tóm lại, trên đây là một cái nhìn 
bao quát về giọng điệu thơ trào phúng 
của Tú Mỡ trong Dòng n−ớc ng−ợc. Sự 
nhìn nhận nh− thế ch−a đủ nói lên tất 
cả nh−ng cũng đã giúp ta phần nào 
nhận ra đ−ợc những đặc tr−ng về phong 
cách trào phúng của nhà thơ. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Nguyễn Đăng Điệp, Giọng điệu trong thơ trữ tình, NXB Văn học, Hà Nội, 2002. 
[2] Nguyễn Đăng Điệp, Vọng từ con chữ, NXB Văn học, Hà Nội, 2003, tr.33. 
[3] Nguyễn Thái Hoà, Những vấn đề thi pháp của truyện, NXB Giáo dục, Hà Nội, 
2000, tr.170. 
[4] Bùi Quang Huy, Thơ ca trào phúng Việt Nam, NXB Thanh niên, Hà Nội, 2003, 
tr. 584. 
[5] Lữ Huy Nguyên, Hồ Quốc C−ờng, Thanh Loan, Tú Mỡ toàn tập, Tập 1, NXB Văn 
học, Hà Nội, 1996. 
[6] Trần Đình Sử, Nguyễn Thanh Tú, Thi pháp truyện ngắn trào phúng Nguyễn 
Công Hoan, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.70. 
Sumary 
Tu Mo’s satirical poetry feature in the poem “Adverse current” 
 In this article, the author presents some research results of satirical poetry by 
Tu Mo from the point of artistic characteristics. The article has mentioned two main 
aspects: The first one is to identify different features of satirical poetry by Tu Mo 
based on two certain criteria such as artistic points of view and inspiration. The 
second is to show the relationship between poetic characteristics of Tu Mo and that 
of his era and tendency which the poet followed. 
(a) Cao học 12 Lí luận văn học, Tr−ờng Đại học Vinh. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 5nguyendoanquynh8tr39_46_091905171037_0899.pdf 5nguyendoanquynh8tr39_46_091905171037_0899.pdf