Giọng điệu thơ trào phúng Tú Mỡ trong “Dòng nước ngược”

Khi nói đến giọng châm biếm, mỉa mai ta không thể không nói đến giọng lên án, chỉ trích. Đây cũng là một giọng điệu làm nên sự đa dạng trong giọng châm biếm. Trước đó, giọng lên án, chỉ trích của Nguyễn Khuyến mang tính chất phê phán thâm trầm, kín đáo. Giọng lên án của Tú Xương quyết liệt hơn, gắn liền với thái độ muốn phá phách của tác giả trước những cái nhố nhăng. Trong Dòng nước ngược, giọng lên án, chỉ trích thường được thể hiện nổi bật ở những bài thơ viết về hủ tục, về tệ nạn xã hội, về bọn quan lại bóc lột, hà hiếp nhân dân.

pdf8 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4574 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giọng điệu thơ trào phúng Tú Mỡ trong “Dòng nước ngược”, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007 39 Giọng điệu thơ trào phúng Tú Mỡ trong “Dòng n−ớc ng−ợc” Nguyễn Do!n Quỳnh (a) Tóm tắt. Trong bài viết này, chúng tôi trình bày những nghiên cứu về thơ trào phúng Tú Mỡ trên ph−ơng diện giọng điệu nghệ thuật. Bài viết đ−ợc triển khai trên hai nội dung chính: thứ nhất, xác định các loại giọng điệu thơ trào phúng Tú Mỡ theo hai tiêu chí cụ thể: tiêu chí điểm nhìn nghệ thuật và tiêu chí cảm hứng; thứ hai, xem xét mối quan hệ giữa giọng điệu thơ Tú Mỡ với giọng điệu của thơ ca thời đại, của khuynh h−ớng mà nhà thơ là đại biểu của khuynh h−ớng, thời đại ấy. 1. Giọng điệu văn ch−ơng vừa cho phép ta nhận ra g−ơng mặt riêng của tác giả, vừa giúp nhà văn bộc lộ rõ tài năng của mình. Đã có nhiều công trình luận bàn về các vấn đề của giọng điệu. ở đây chúng tôi xin đ−ợc đi vào một tr−ờng hợp cụ thể: tìm hiểu giọng điệu thơ trào phúng của Tú Mỡ trong Dòng n−ớc ng−ợc. 2. Trong Dòng n−ớc ng−ợc có sự xuất hiện của rất nhiều loại giọng điệu, mỗi giọng điệu có một vai trò nhất định trong việc bộc lộ phong cách, cái nhìn của nhà thơ. Tuy nhiên, việc nhận diện từng loại giọng điệu không hề là một việc làm đơn giản. Nó đòi hỏi phải đ−ợc tiến hành bằng một sự phân loại chặt chẽ, dựa trên những tiêu chí hết sức rõ ràng. Thừa nhận giọng điệu đ−ợc hình thành gắn liền với sự tổ chức điểm nhìn nghệ thuật và cảm hứng của chủ thể thì hai tiêu chí cơ bản để phân loại giọng điệu thơ trào phúng Tú Mỡ mà chúng tôi lựa chọn là tiêu chí điểm nhìn nghệ thuật và tiêu chí cảm hứng. Sau đây là sự trình bày cụ thể cách phân loại giọng điệu thơ Tú Mỡ trên các tiêu chí này: 2.1. Theo tiêu chí điểm nhìn nghệ thuật, ta có thể nói tới hai loại giọng điệu cơ bản: Giọng điệu chủ thể và giọng điệu khách thể. 2.1.1. Giọng điệu chủ thể là giọng điệu gắn liền với sự xuất hiện của hình t−ợng tác giả trong tác phẩm nghệ thuật. Trong thơ trào phúng của Tú Mỡ, giọng điệu chủ thể đ−ợc biểu hiện ở các hình thức: Giọng kể, giọng tả, giọng bình luận khách quan, giọng cái tôi tự bộc lộ. Trong nhiều tr−ờng hợp, ở thơ trữ tình thông th−ờng, giọng kể chuyện khách quan, miêu tả khách quan vẫn xuất hiện với một vai trò nổi bật: Những bài thơ vịnh vật trong thơ cổ điển đặc một giọng tả; những bài thơ kể chuyện trong Thơ mới (1932 - 1945) nổi lên với một giọng thuật sự rõ ràng. Song tất cả đó thực chất chỉ là những tiếng nói khác nhau của chủ thể trữ tình khi anh ta muốn dấu mình. Những chi tiết, sự kiện của câu chuyện đã đ−ợc cái tôi trữ tình nội cảm hoá nhằm chuyển tải những xúc động của tâm Nhận bài ngày 27/11/2006. Sửa chữa xong 14/12/2006. Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007 40 hồn. Còn trong thơ trào phúng, vấn đề đã có nhiều khác biệt: Giọng tự thuật tâm trạng vẫn phát huy hiệu lực, nh−ng nhà thơ đặc biệt tô đậm giọng thuật sự khách quan. ở đây, giọng kể, giọng tả khách quan chiếm −u thế. Nó th−ờng xuất hiện qua những câu thơ mang tính tự sự (Xóm bên Đông có ph−ờng chèo nọ - Nguyễn Khuyến, ở phố Hàng Nâu có phỗng sành - Tú X−ơng), những câu thơ tả khách quan đối t−ợng (áo quần đĩnh đạc trông ra cậu. ăn nói nhề nhàng khác giọng Ngô - Tú X−ơng)… Có đ−ợc điều này là do chỗ thơ trào phúng th−ờng h−ớng về nhận thức và phản ánh cái xấu xa, thấp hèn, trống rỗng của đời sống. Đứng tr−ớc đối t−ợng đó nhà thơ “không chỉ tách mình ra ngoài môi tr−ờng của đối t−ợng mà còn đứng cao hơn đối t−ợng” để quan sát và miêu tả cho thật rạch ròi [3]. Trong thơ Tú Mỡ, những câu thơ mang giọng kể, giọng tả xuất hiện dày đặc và có một vai trò nổi bật. Qua thống kê sơ bộ thì có khoảng trên 40 câu thơ giới thiệu nhân vật theo lối trực tiếp, kiểu: Trên toa xe lửa hạng ba Bọn hành khách có một bà một ông (Thằng vú em) Các câu thơ tự sự kiểu: Ông rằng, bà rằng, có một… đã đem lại cho thơ Tú Mỡ một không khí kể chuyện rõ ràng, rành mạch. Nó gần với lối tự sự bằng văn vần trong truyện nôm bình dân của cha ông x−a hay lối kể vè độc đáo. Thử phân tích một ví dụ cụ thể để minh hoạ cho điều này. Mở đầu bài S− cậu đi hát ả đào, Tú Mỡ đã vào bài bằng một giọng kể chuyện rất tự nhiên: Có hai s− cậu chùa Bà ăn no rửng mỡ la cà rong chơi Tiếp đến nhà thơ kể từng chi tiết, sự kiện xẩy ra với hai s− cậu ng−ợc đời, lố bịch. Sự dẫn dắt của tác giả bằng các câu thơ S− rằng: Chơi gió chơi mây, Rằng: Nay trong cuộc tiêu giao… đã tạo ra cho giọng thơ của Tú Mỡ phảng phất giọng kể chuyện của Nguyễn Du trong Truyện Kiều và của các tác giả truyện thơ nôm bình dân thế kỉ XVIII. Đây là biểu hiện đặc tr−ng trong giọng kể của Tú Mỡ mà các nhà thơ trào phúng khác không có đ−ợc. Đi liền với giọng kể, giọng tả là giọng bình phẩm, đánh giá của nhà thơ. Điều khác biệt với thơ trào phúng tr−ớc đây là Tú Mỡ th−ờng dành riêng những câu thơ, đoạn thơ để bình phẩm, đánh giá về đối t−ợng. Nó có thể xuất hiện ở đầu bài (nh− bài Đốt vàng đốt mã, Cáo phó… ), có thể xuất hiện giữa bài hoặc cuối bài (Hội Gióng, Hội Láng, Hà Nội ăn chơi…), nh−ng bao giờ nó cũng mang t− cách nh− một sự bình luận ngoại đề của tác giả. Ví dụ: Sau khi miêu tả cảnh Hội Gióng, bằng một sự suy luận chủ quan, nhà thơ đã nêu ra những bình luận, đánh giá của riêng mình: Ngẫm xem hội với hè Rõ chán hơn cơm nếp Hả dạ bác Nhiêu Khê Thoả lòng ông Lý Toét No phỡn lại no phè Say be rồi say bét Một mớ lễ nghi quèn Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007 41 Bảy nghìn đồng bạc tét Thôn quê còn cái đình Thằng khố giây còn chết (Hội Gióng) Ta cũng bắt gặp tr−ờng hợp t−ơng tự trong rất nhiều bài thơ khác: Nhân duyên, Ông phủ cầu taì, Cáo phó… Ngoài ra, còn phải kể đến giọng tự thuật của nhà thơ. Tú Mỡ hay nói về mình bằng một giọng tự bộc bạch, tự thanh minh, bày tỏ về tính cách của mình: Tôi vốn trời sinh tính khác ng−ời, Tú này béo mép ng−ời không béo… Song nhìn chung giọng tự thuật không phải là một nét nổi bật trong thơ Tú Mỡ. So với Nguyễn Khuyến, Tú X−ơng, giọng điệu này của Tú Mỡ còn tỏ ra đơn điệu, nghèo nàn, ch−a gây đ−ợc xúc động, ám ảnh trong lòng ng−ời đọc. Nh− vậy, có thể nói rằng: giọng điệu chủ thể trong thơ trào phúng của Tú Mỡ rất đa dạng, phong phú. Qua giọng điệu đó ta thấy tâm thế của nhà thơ là tâm thế của một kẻ luôn tỉnh táo để thức nhận vấn đề. 2.1.2. Giọng điệu khách thể là giọng của đối t−ợng trào phúng tự cất lên tr−ớc cuộc đời. Bằng việc để cho đối t−ợng tự nói bằng giọng của mình, tác giả đã tìm đ−ợc một hình thức khám phá và tái hiện bản chất của cái hài một cách thuyết phục. Thực ra giọng điệu khách thể từ x−a đã thấy xuất hiện trong thơ của Nguyễn Khuyến với bài Lời vợ anh ph−ờng chèo. Nh−ng tr−ờng hợp nh− thế không nhiều trong thơ trào phúng cổ điển. Đến thơ Tú Mỡ nó trở nên phổ biến và có những đặc sắc đáng kể. Có thể thấy giọng điệu khách thể trong những bài thơ S− cậu đi hát ả đào, Nuốt xu, Thầy mạt c−a, trò m−ớp đắng, Ông nghị đi hội đồng về, Bà Lý Toét khuyên chồng, Lý sự cùn… Đặc điểm chung của những bài thơ mang giọng điệu khách thể là dù thông qua đối thoại hay độc thoại thì giọng của đối t−ợng bao giờ cũng đ−ợc thực hiện theo nguyên tắc: các đối t−ợng là bọn quan lại, nghị viên khi nói bằng lời của mình đều mang giọng thanh minh, bào chữa, che lấp cho thói h− tật xấu; còn đối t−ợng nh− bà Lý Toét trong bài Bà Lý Toét khuyên chồng, bà nghị trong bài Khuyên chồng ông nghị khi đi hội đồng, cô gái trong bài Phụ bạc mang giọng tố cáo. Họ đang bằng cách này hay cách khác, cố tình hay vô ý vạch mặt những kẻ xấu xa, bất tài, trống rỗng có liên quan đến mình. Nhìn chung nhờ có giọng điệu khách thể này mà Tú Mỡ đã mở ra đ−ợc nhiều góc nhìn khác nhau về các đối t−ợng trong cuộc đời. 2.2. Theo tiêu chí cảm xúc, cảm hứng ta có thể chia ra giọng bông lơn, đùa cợt; giọng châm biếm, mỉa mai. 2.2.1. Giọng bông lơn, đùa cợt: Đây không phải là một giọng riêng trong thơ Tú Mỡ, nh−ng đã đ−ợc Tú Mỡ thể hiện một cách riêng trong sáng tác của mình. Để làm rõ vấn đề này, tr−ớc hết xin nói qua về giọng bông lơn, đùa cợt trong thơ trào phúng của Nguyễn Khuyến, Tú X−ơng, Tản Đà. Đọc những bài thơ Tự trào của Nguyễn Khuyến, Tự c−ời mình, Ông phỗng đá, Văn tế sống vợ của Tú X−ơng, Tự thuật, Tự trào, Say của Tản Đà ta đều nhận ra đằng sau cái Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007 42 vẻ bông đùa kia là một nỗi niềm xót xa của nhà thơ đang rất cần đ−ợc chia sẻ. Đó là sự tự c−ời mình, nh−ng là c−ời bằng n−ớc mắt, bằng tâm trạng của những kẻ bất bình với thực tại, đối nghịch với thực tại. Còn trong thơ Tú Mỡ, ở những bài viết về mình, về bạn hoặc về vợ, cái tôi trào phúng đã xuất hiện trong một vị thế khác hẳn. Khi đứng tr−ớc thực tại xấu xa nhà thơ có thái độ phủ nhận, phản kháng quyết liệt, thì khi đứng tr−ớc bạn bè, tr−ớc chính mình ông lại cởi bỏ hết những −u phiền để tâm hồn đ−ợc vui vẻ. Cho nên hình t−ợng cái tôi trào phúng trong thơ Tú Mỡ là hình t−ợng một cái tôi lạc quan, vui vẻ, tinh nghịch. Vị thế đó cho phép nhà thơ có thể đ−a vào trong sáng tác của mình một giọng bông lơn, đùa cợt rất tự nhiên. Ng−ời đọc có thể hình dung về giọng điệu này qua hệ thống từ ngữ của tác phẩm, mà tr−ớc hết là hệ thống từ x−ng hô. Nhà thơ hay x−ng mình là: Tôi, Tú Mỡ, tớ (Tú Mỡ là một anh chàng đãng tính; Bạn mà bàn đến thi cùng cử. Thời vội van luôn: Tớ lạy mày…) và gọi đối t−ợng là bạn, là bác, là chị (bài: Cùng bác Tú Xơn, Cảm ơn chị) hoặc gọi tên trực tiếp một cách thân tình. Chính cách gọi tên, x−ng hô này đã quy định màu sắc cảm xúc trong những bài thơ vừa nêu là màu sắc suồng sã. Thực ra, từ x−a Nguyễn Khuyến cũng đã tự x−ng mình (Nghĩ mình cũng gớm cho mình nhỉ. Thế cũng bia xanh cũng bảng vàng), Tú X−ơng đã x−ng tớ rất độc đáo (Mai mà tớ hỏng tớ đi ngay), Tản Đà cũng đã tự x−ng ông (Bởi ông ngông quá ông không đỗ. Không đỗ ông càng tốt bộ ngông). Nh−ng đó là cách x−ng hô biểu hiện của một cái tôi tự tách mình. Còn trong thơ Tú Mỡ, cách x−ng hô gọi tên thân mật, suồng sã là biểu hiện của một cái tôi trào phúng đang vây quanh giữa mọi ng−ời. Nhà thơ không tách mình ra mà kéo tất cả vào trong mối quan hệ bạn bè. Giọng bông lơn, đùa cợt còn thể hiện ở những cách đùa nhiều khi có vẻ rất “quá lời” của Tú Mỡ khi viết về bạn. Ông nói về Tú Xơn: Bác ơi tôi hỏi lần thần Bác phò phụ nữ đỡ đần hai cô … Hay vì hôi nách rình rình Chẳng ai chơi với một mình Tú Xơn (Cùng bác Tú Xơn) Nhà thơ vẽ chân dung ng−ời tình nhân ch−a quen biết: Tên với họ mô tê chẳng biết Hình với dung xấu đẹp hay không? H−ơng trời nguyệt đắm hoa say Hay là nhan sắc sánh tày Dạ Xoa? Xuân mấy độ tuổi già hay trẻ Nặng bao cân ng−ời khoẻ hay còm? Tóc mây óng m−ợt đen ngòm Hay là đỏ bẻm nh− chòm râu ngô? (Th− gửi ng−ời tình nhân không quên biết) Rõ ràng, qua những bài thơ trên đây, ta nhận ra cái cốt lõi làm nên giọng thơ hài h−ớc trong thơ Tú Mỡ chính là tình cảm vui đùa trong sáng. Nó khác với tình cảm vui đùa trong thơ của các nhà thơ tr−ớc và cũng khác với giọng hài h−ớc vui đùa của Hồ Chí Minh trong Nhật kí trong tù. Giọng hài h−ớc Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007 43 trong Nhật kí trong tù là giọng hài h−ớc đ−ợc cất lên từ một tâm hồn lạc quan, đầy tin t−ởng của ng−ời chiến sĩ- thi sĩ luôn làm chủ đ−ợc mọi hoàn cảnh khắc nghiệt của lao tù (Chia n−ớc, Bị hạn chế, Đi Nam Ninh, Lại sang…). Nhân tố thứ hai quy định màu sắc của loại giọng điệu đang bàn trong thơ Tú Mỡ. Đó là sự lựa chọn thể thơ của tác giả. Bởi vì “sự lựa chọn thể loại ngay từ đầu đã có xu h−ớng bộc lộ một cách thuận lợi các cung bậc của giọng điệu… vì bản thân mỗi thể loại đều hàm sẵn trong nó sức mạnh biểu cảm riêng” [2]. Trong Dòng n−ớc ng−ợc, trong số 36 bài viết về cái tôi của tác giả, về bạn thì có đến 18 bài viết theo thể tự do, 7 bài theo thể song thất lục bát, 4 bài ngũ ngôn, 4 bài lục bát, còn lại là thể hát nói và thất ngôn bát cú. Với tính chất phóng túng trong việc tổ chức âm luật, nhịp điệu, các thể thơ này rất phù hợp cho việc bộc lộ những tình cảm trong sáng, vui đùa của nhà thơ. Nh− vậy, giọng bông lơn, đùa cợt trong thơ Tú Mỡ có đ−ợc những sắc thái riêng nhờ chỗ: Tác giả đã biết kế thừa và phát huy giọng hài h−ớc trong thơ trào phúng tr−ớc đó trên cơ sở những cảm xúc của tâm hồn mình. 2.2.2. Giọng châm biếm, mỉa mai: Giọng châm biếm, mỉa mai là giọng điệu chủ đạo trong thơ trào phúng Tú Mỡ. Nó xuất hiện d−ới nhiều hình thức giọng điệu khác nhau: Giọng chế giễu, nhạo báng; giọng giả vờ; giọng lên án, tố cáo… sau đây xin đ−ợc đi vào từng hình thức cụ thể. Từ x−a, giọng chế giễu, nhạo báng đã trở nên phổ biến trong thơ trào phúng. Nó th−ờng đ−ợc dự báo ngay từ nhan đề, ví dụ: Chế ông đồ Cự Lộc của Nguyễn Khuyến, Chế ông huyện, Chế gái đĩ của Tú X−ơng. Đến thơ Tú Mỡ nó đã trở nên sinh động và đa dạng hơn nhiều. Ng−ời đọc dễ dàng nhận ra giọng chế nhạo của Tú Mỡ trong hệ thống từ ngữ mà nhà thơ dùng để giới thiệu và miêu tả đối t−ợng. Thử đọc những câu thơ này: An Nam kể bọn nhân tài Ông Khiêm, thạc sỹ là ng−ời lừng danh (Ông trạng mẹo Phạm Duy Khiêm) Trời sinh ra Lục, lại sinh An Cho đủ vai trò với thế gian Với cách x−ng hô, gọi tên trần trụi đó, nhà thơ đã tạo ra cho những lời giới thiệu của mình một giọng điệu suồng sã, thậm chí sỗ sàng, thiếu nhã nhặn. Bằng giọng điệu ấy để giới thiệu về những nhân vật đ−ợc xã hội đ−ơng thời trọng vọng, Tú Mỡ đã tạo nên một thái độ nhạo báng, gây c−ời. Nh−ng đây mới chỉ là sự mào đầu, có tính chất tạo không khí. Thái độ chế nhạo ấy càng trở nên mãnh liệt khi nhà thơ cố tình khoét sâu vào đối t−ợng qua hệ thống từ ngữ miêu tả đầy ấn t−ợng. Ví dụ: Miêu tả chân dung văn sĩ Trần Văn Tùng, nhà thơ dùng hàng loạt các từ láy: Choăn choắt, mét me, le te và những động từ có tính chất vật hoá: Nói bô bô, mò đi, len, lỏi, hót nhằm biến đối t−ợng thành một thứ trò hề không hơn không kém. Các hình thức điệp từ, điệp ngữ, tách xen nh−: Du học du hành, Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007 44 giỏi gớm, giỏi ghê khi vẽ chân dung ông Phạm Duy Khiêm đã đem đối t−ợng vào “khu vực tiếp xúc thân mật đến thô bạo, ở đó có thể suồng sã sờ mó nó từ khắp mọi phía, lật ngửa, lộn trái, nhòm ngó từ d−ới, từ trên, đập vỡ bề ngoài để nhìn vào bên trong… một cách tự do” (dẫn theo Trần Đình Sử) [6]. Cũng có khi giọng chế giễu của nhà thơ lại đ−ợc biểu hiện bằng một hình thức trái ng−ợc với điều vừa nói. Tác giả th−ờng trình bày cái tầm th−ờng, vặt vãnh bằng một giọng thơ hệ trọng nh− thể đang nói về một điều gì lớn lao. Đọc bài thơ Anh đốc, Cái giây kim tòng ta sẽ thấy rõ điều đó. Bên cạnh giọng chế giễu, nhạo báng, Tú Mỡ đã sử hình thức giọng giả vờ. Nhà thơ giả vờ xót th−ơng, giả vờ an ủi, giả vờ ngợi ca, tán th−ởng. Nguyễn Khuyến x−a cũng đã từng giả vờ hỏi thăm ân cần một tên quan tuần bị c−ớp (Hỏi thăm quan tuần mất c−ớp), Đồ Phồn giả vờ nhỏ lệ tr−ớc một tên t−ớng Pháp bị thải hồi (Khóc cụ Tô-Lăng-Sơ). Nh−ng nhìn chung, những bài thơ mang giọng điệu này trong thơ Nguyễn Khuyến và Đồ Phồn không nhiều. Nó đặc biệt đậm đặc trong thơ Tú Mỡ. Ông đã vận dụng các thể loại văn tế, văn chầu, văn chiêu hồn với một tần số lớn để tạo nên những tác phẩm trào phúng đặc sắc (có 12 bài thuộc dạng này). Chẳng hạn: Những bài văn tế Văn tế t−ớng quân bỏ mình vì n−ớc…đá, Văn tế bảo hộ tác giả đã lợi dụng chức năng nghệ thuật của thể loại văn tế để châm biếm, gây c−ời. ở bài An ủi ông nghị Lục cái giọng an ủi giả vờ của tác giả đ−ợc cất lên thật hấp dẫn. Đọc những câu thơ dạng này ta có cảm giác nh− tác giả đang vỗ về nỗi đau của nhân vật: Tuy rằng n−ớc bạc thua cay Song le thắng bại x−a nay là th−ờng Vả chăng thua cũng nhiều đ−ờng Càng tranh kịch liệt thua càng thêm vinh Mất ngôi nh−ng vẫn toàn danh Còn nh− lợi lộc, xem khinh sá gì! Nh−ng nếu xét lời lẽ của toàn bài, đặc biệt là những lời khuyên ở kết thúc bài thơ ta sẽ nhận ra đó là một lời nguyền rủa: Buồn mà chi! bực mà chi! Miếng ngon chấm mút no nê quá rồi Để phần kẻ khác ông ơi Khỏi mang cái tiếng con ng−ời nan du Các bài thơ Ông trùm Phạm Lê Bổng, Nam mô bồ tát bồ hòn, Các ông nghị đi thăm đồn điền di dân… lại mang giọng tán d−ơng vờ vĩnh. Nhà thơ ngợi ca, nh−ng là một sự ngợi ca đầy ác ý. Ví dụ: Bằng con mắt của các ông nghị, nhà thơ đã tán th−ởng các món ăn đ−ợc tiếp đãi một cách rất hào phóng: Nào là lòng lợn mắm tôm Nào là bò tái, chấm t−ơng điểm gừng Thịt dê n−ớng chả thơm lừng Tiết dê pha r−ợu vô cùng bổ d−ơng (Các ông nghị đi thăm đồn điền di dân) ở những bài thơ mang giọng điệu giả vờ này ta thấy xuất hiện rất nhiều Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007 45 câu thơ cảm thán. Nó thể hiện sự ngạc nhiên giả vờ, khóc th−ơng giả vờ, tán d−ơng giả vờ của tác giả tr−ớc đối t−ợng gây c−ời. Khi nói đến giọng châm biếm, mỉa mai ta không thể không nói đến giọng lên án, chỉ trích. Đây cũng là một giọng điệu làm nên sự đa dạng trong giọng châm biếm. Tr−ớc đó, giọng lên án, chỉ trích của Nguyễn Khuyến mang tính chất phê phán thâm trầm, kín đáo. Giọng lên án của Tú X−ơng quyết liệt hơn, gắn liền với thái độ muốn phá phách của tác giả tr−ớc những cái nhố nhăng. Trong Dòng n−ớc ng−ợc, giọng lên án, chỉ trích th−ờng đ−ợc thể hiện nổi bật ở những bài thơ viết về hủ tục, về tệ nạn xã hội, về bọn quan lại bóc lột, hà hiếp nhân dân. Ví dụ: Bỏ cái đình, Cáo phó, Phu kéo xe, Các quan đ−ợc tăng l−ơng… ở những bài thơ này ta thấy xuất hiện rất nhiều câu thơ mang nội dung lên án nh−: Bỏ đình đi! Bỏ đình đi! Còn đình hủ tục còn di hại nhiều Còn truyền mãi lắm điều mê tín (Bỏ cái đình) Sự xuất hiện của giọng điệu này cho phép ta hình dung ra kiểu tác giả đặc tr−ng của thơ trào phúng là kiểu tác giả luôn bày tỏ sự phê phán và phủ nhận thực tại, đấu tranh tr−ớc cái xấu, cái lạc hậu, lỗi thời. Qua sự phân tích trên ta có thể thấy thơ trào phúng của Tú Mỡ có rất nhiều loại giọng điệu khác nhau. 3. Có một vấn đề mà các nhà nghiên cứu văn học và lý luận văn học rất quan tâm khi tìm hiểu giọng điệu nghệ thuật là xác định mối quan hệ giữa giọng điệu của tác giả và giọng điệu của thời đại, của trào l−u, khuynh h−ớng mà nhà văn thuộc vào. Họ đã chỉ ra rằng giọng điệu của thời đại, của khuynh h−ớng góp phần làm nên giọng điệu của tác giả; còn giọng điệu của tác giả là sự cụ thể hoá giọng điệu của thời đại. Trong nhiều tr−ờng hợp giọng điệu của tác giả đã phá vỡ cấu trúc giọng điệu của thời đại để v−ợt thoát lên, khẳng định chính mình. Có thể thấy rõ mối quan hệ này trong thơ trào phúng của Tú Mỡ. 3.1. Giọng điệu của Thơ mới (1932 - 1945) là giọng điệu cá nhân, cá thể. Đó là giọng của một cái tôi đã đ−ợc giải phóng và luôn khát khao đ−ợc thành thực đến tận cùng. Giọng điệu đó đã ảnh h−ởng rất lớn đến sự hình thành giọng điệu thơ trào phúng Tú Mỡ. Nó thể hiện ở việc trong thơ Tú Mỡ xuất hiện nhiều đại từ nhân x−ng ngôi thứ nhất, cho phép nhà thơ bày tỏ trực tiếp và dứt khoát t− t−ởng của mình; ở sự hình thành câu thơ lập luận với nhiều quan hệ từ, h− từ, phụ từ; ở sự tái tạo lại chất nhạc của câu thơ mang hơi thở của đời sống. Ngoài ra việc sử dụng các thể loại của Thơ mới cũng góp phần làm cho giọng điệu thơ trào phúng của Tú Mỡ mang âm h−ởng đặc tr−ng của giọng điệu thơ ca thời đại này. 3.2. Trên cái nền giọng điệu thời đại ấy, Tú Mỡ cũng đã xây dựng đ−ợc một giọng điệu riêng không của mình. Cụ thể, trong khi giọng điệu cơ bản của Thơ mới mang âm h−ởng buồn, cô đơn thì Tú Mỡ đã sáng tạo nên một giọng thơ đầy khoái chá. Dẫu cũng có lúc đầy Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007 46 bực dọc, dằng xé nh−ng cơ bản nó là tiếng nói lạc quan của nhà thơ tr−ớc cuộc đời. Còn giọng thơ của Đồ Phồn “sâu cay quá, lắm lúc lại bi thảm khiến ng−ời ta không thể c−ời đ−ợc nữa” [4]. Điều đó làm phong phú thêm cho giàn hợp x−ớng của thơ ca hiện đại. Tóm lại, trên đây là một cái nhìn bao quát về giọng điệu thơ trào phúng của Tú Mỡ trong Dòng n−ớc ng−ợc. Sự nhìn nhận nh− thế ch−a đủ nói lên tất cả nh−ng cũng đã giúp ta phần nào nhận ra đ−ợc những đặc tr−ng về phong cách trào phúng của nhà thơ. Tài liệu tham khảo [1] Nguyễn Đăng Điệp, Giọng điệu trong thơ trữ tình, NXB Văn học, Hà Nội, 2002. [2] Nguyễn Đăng Điệp, Vọng từ con chữ, NXB Văn học, Hà Nội, 2003, tr.33. [3] Nguyễn Thái Hoà, Những vấn đề thi pháp của truyện, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2000, tr.170. [4] Bùi Quang Huy, Thơ ca trào phúng Việt Nam, NXB Thanh niên, Hà Nội, 2003, tr. 584. [5] Lữ Huy Nguyên, Hồ Quốc C−ờng, Thanh Loan, Tú Mỡ toàn tập, Tập 1, NXB Văn học, Hà Nội, 1996. [6] Trần Đình Sử, Nguyễn Thanh Tú, Thi pháp truyện ngắn trào phúng Nguyễn Công Hoan, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.70. Sumary Tu Mo’s satirical poetry feature in the poem “Adverse current” In this article, the author presents some research results of satirical poetry by Tu Mo from the point of artistic characteristics. The article has mentioned two main aspects: The first one is to identify different features of satirical poetry by Tu Mo based on two certain criteria such as artistic points of view and inspiration. The second is to show the relationship between poetic characteristics of Tu Mo and that of his era and tendency which the poet followed. (a) Cao học 12 Lí luận văn học, Tr−ờng Đại học Vinh.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf5nguyendoanquynh8tr39_46_091905171037_0899.pdf
Luận văn liên quan