Hệ thống chính trị cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Lào Cai

Luận văn dài 114 trang MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP XÃ VÙNG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ 9 1.1 Quan niệm về hệ thống chính trị cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở nước ta 9 1.2. Đặc điểm và vai trò của hệ thống chính trị cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay 16 Chương 2 THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP XÃ VÙNG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ TỈNH LÀO CAI HIỆN NAY 28 2.1 Đặc điểm, tình hình các xã vùng đồng bào dân tộc thiểu tỉnh Lào Cai tác động đến hệ thống chính trị ở xã 28 2.2 Thực trạng hoạt động của hệ thống chính trị cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Lào Cai 39 2.3. Những vấn đề đặt ra trong hoạt động của hệ thống chính trị cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Lào Cai 71 Chương 3 QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM KIỆN TOÀN HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP XÃ VÙNG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở TỈNH LÀO CAI HIỆN NAY 84 3.1. Quan điểm cơ bản nhằm kiện toàn hệ thống chính trị cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Lào Cai hiện nay 84 3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm kiện toàn hệ thống chính trị cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Lào Cai hiện nay 89 KẾT LUẬN 114 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Cơ sở xã, phường, thị trấn là nơi đại bộ phận nhân dân cư trú, sinh sống và diễn ra mọi hoạt động của đời sống xã hội một cách sinh động. Hệ thống chính trị cơ sở có vị trí, vai trò quan trọng trong hệ thống chính trị nước ta, là cấp trực tiếp tổ chức, hướng dẫn, vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động mọi nguồn lực phát triển kinh tế-xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư.Các xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số miền núi ở nước ta có những đặc điểm riêng khác với ở phường, thị trấn và các xã vùng đồng bằng. Bởi vì, nơi đây có vị trí chiến lược về an ninh - quốc phòng; trình độ phát triển kinh tế -xã hội thấp; tính đa diện trong văn hóa tộc người; trình độ dân trí chưa cao; sự phức tạp, nhạy cảm trong vấn đề dân tộc, tôn giáo Chính những đặc điểm ấy đã làm cho vị trí, vai trò của hệ thống chính trị cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số miền núi trở nên đặc biệt quan trọng trong việc ổn định chính trị, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh quốc phòng của địa phương. Thời gian qua, với sự quan tâm, lãnh chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, hệ thống chính trị cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số miền núi ở nước ta đã từng bước được kiện toàn, đạt hiệu quả cao trong tổ chc và hoạt động. Tuy vậy, hệ thống chính trị vùng này vẫn còn những yếu kém và hạn chế cần khắc phục như: chưa xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của các thành viên trong hệ thống chính trị cấp xã; nội dung và phương thức hoạt động chưa đáp ứng yêu cầu xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc miền núi; trình độ văn hóa, quản lý và năng lực điều hành công việc thực tiễn của cán bộ cấp xã vùng dân tộc thiểu số miền núi còn nhiều hạn chế Điều này càng bộc lộ rõ hơn trong giai đoạn dân chủ hóa hiện nay, nhất là từ khi thực hiện Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn (1998) và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn (2007). Lào Cai là tỉnh vùng cao biên giới nằm phía Tây Bắc Việt Nam, đơn vị hành chính của tỉnh bao gồm 1 thành phố Lào Cai và 8 huyện, với 164 xã, phường, thị trấn, trong đó có 138 xã vùng sâu, vùng xa, biên giới. Địa bàn tỉnh cũng là nơi sinh sống và cư trú của 13 dân tộc với 25 nhóm ngành khác nhau, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số chiếm 64,09 % dân số. Nhìn chung, các dân tộc anh em cùng chung sống hoà thuận, đoàn kết, giúp đỡ nhau cùng phát triển. Đặc thù trên đòi hỏi các cấp ủy đảng và chính quyền của tỉnh cần đặc biệt quan tâm đến chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của các xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là các xã vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới. Mục tiêu là tăng cường khai thác mọi tiềm năng, thế mạnh của các xã để đưa đồng bào các dân tộc thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, đảm bảo an ninh quốc phòng, xây dựng cuộc sống văn minh, góp phần vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của đất nước. Để thực hiện nhiệm vụ đó, giải pháp đầu tiên có ý nghĩa quyết định nhất là cần phải kiện toàn và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong tỉnh. Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Lào Cai, việc kiện toàn hệ thống chính trị các cấp, đặc biệt là cấp xã đã đạt được nhiều chuyển biến tích cực. Hệ thống chính trịcấp xã đã được kiện toàn theo hướng gần dân, vì dân hơn; phương pháp công tác và phương thức lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ xã được đổi mới. Năng lực chỉ đạo, điều hành và quản lý của chính quyền cấp cấp xã có nhiều tiến bộ, hiệu lực, hiệu quả được nâng lên; cải cách thủ tục hành chính bước đầu có chuyển biến tích cực. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục được đổi mới về nội dung và phương thức, bảo đảm thiết thực và hiệu quả hơn. Nội bộ cấp uỷ đoàn kết, thống nhất, sự đồng thuận trong Đảng, chính quyền và nhân dân ngày càng tăng. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu nói trên, hệ thống chính trị cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Lào Cai vẫn đứng trước những khó khăn, thách thức không nhỏ: Tình trạng quan liêu, tham nhũng, mất đoàn kết nội bộ xảy ra ở nhiều nơi, có những nơi nghiêm trọng. Chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận trong hệ thống chính trị cơ sở chưa được xác định rành mạch, trách nhiệm không rõ; nội dung và phương thức hoạt động chậm đổi mới; đội ngũ cán bộ xã ít được đào tạo, bồi dưỡng Trong khi đó, các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình”, triệt để lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo, những khó khăn trong đời sống của đồng bào và những hạn chế, yếu kém của hệ thống chính trị các cấp để nói xấu Đảng, Nhà nước, hòng làm mất lòng tin của đồng bào vào đường lối chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Chính vì vậy, việc tìm hiểu, nghiên cứu thực trạng và những vấn đề đặt ra đối vớihệ thống chính trị ở các xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Lào Cai hiện nay là nhiệm vụ hết sức bức thiết. Với ý nghĩa đó, tác giả chọn đề tài: “Hệ thống chính trị cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Lào Cai” làm chủ đề nghiên cứu cho luận văn Thạc sĩ Triết học, chuyên ngành chủ nghĩa xã hội khoa học của mình. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Lào Cai (2010), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Lào Cai. 2. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Lào Cai (2006), Văn Kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Lào Cai lần thứ XIII, nhiệm kỳ 2006 – 2010. 3. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Lào Cai (2011), Văn Kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Lào Cai lần thứ XIV, nhiệm kỳ 2010 - 2015. 4. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2006), chuyên đề nghiên cứu Nghị quyết Đại hội X của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 5. Hoàng Chí Bảo (2004), Hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 6. Hoàng Chí Bảo (2004), "Cơ sở và hệ thống chính trị ở cơ sở đối với ổn định và phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta", Xã hội học, (3), tr.25-34. 7. Phan Xuân Biên (Chủ biên) (2005), Một số vấn đề đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cấp cơ sở, Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. 8. Bộ Nội vụ (2004), Báo cáo kết quả 2 năm thực hiện Quyết định 85/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 "Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở xã, phường, thị trấn", Hà Nội. 9. Bộ Tài chính (2006), Quy định mới về quyền lợi và nghĩa vụ đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn và các văn bản có liên quan, Nxb Tài chính, Hà Nội. 10. Chính phủ (1998), Quy chế thực hiện dân chủ ở xã (được ban hành kèm theo Nghị định số 29/1998/NĐ-CP), Hà Nội. 11. Chính phủ (2003), Quy chế thực hiện cơ chế "một cửa" tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương (được ban hành kèm theo Quyết định số 181/2003/QĐ-TTg), Hà Nội. 12. Chính phủ (2003), Quy chế thực hiện dân chủ ở xã (được ban hành kèm theo Nghị định số 79/2003/NĐ-CP), Hà Nội. 13. Chính phủ (2004), Chỉ thị số 38/2004/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng tiếng dân tộc thiểu số đối với cán bộ, công chức công tác ở vùng dân tộc, miền núi, Hà Nội. 14. Chính phủ (2004), Nghị định số 53/2004/NĐ-CP về việc kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác dân tộc thuộc UBND các cấp, Hà Nội. 15. Chính phủ (2006), Nghị định số 159/2005/NĐ-CP về phân loại đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn, Hà Nội. 16. Chính phủ (2006), Quyết định số 40/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức giai đoạn 2006- 2010, Hà Nội. 17. Chính phủ (2007), Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 18. C.Mác - Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 19. Vũ Hoàng Công (2002), Hệ thống chính trị cơ sở - Đặc điểm, xu hướng và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia,Hà Nội. 20. Đinh Hữu Cường (2006), "Để bảo đảm ổn định chính trị ở Tây Nguyên hiện nay", Sinh hoạt lý luận, tr.39-44. 21. Phan Hữu Dật (2001), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách liên quan đến mối quan hệ dân tộc hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 22. Phạm Hảo, Trương Minh Dục (đồng chủ biên) (2003), Một số vấn đề về xây dựng hệ thống chính trị ở Tây Nguyên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 23. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật,Hà Nội. 24. Đảng Cộng sản Việt Nam (1990), Nghị quyết số 8b của Ban Chấp hành Trung ương về đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân, Hà Nội.

doc123 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5680 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hệ thống chính trị cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Lào Cai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g dân cư; giám sát hoạt động của cơ quan hành chính và những việc do cấp trên thực hiện trên địa bàn xã, nhất là việc quản lý đất đai, quỹ công, tài sản công, kể cả các quỹ do nhân dân đóng góp. - Phối hợp hài hòa giữa HĐND xã với UBND, MTTQ và các đoàn thể; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật và thực thi nghị quyết của HĐND cấp trên, góp phần tích cực vào việc phát triển kinh tế trên địa bàn xã, khắc phục tình trạng hoạt động hình thức của HĐND, xứng đáng với cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân trên địa bàn xã. - Nghiêm túc thực hiện chế độ tiếp dân, giải quyết những kiến nghị và đề nghị của dân đúng quy định của pháp luật. HĐND cần có phòng tiếp dân riêng, quy chế làm việc bắt buộc phải thực hiện nghiêm túc công tác tiếp dân theo lịch của Chủ tịch, Phó Chủ tịch và thường trực HĐND. Trường hợp đại biểu HĐND thực hiện không nghiêm túc hoặc thiếu trách nhiệm với dân thì phải kiểm điểm đến nơi, đến chốn. Đại biểu HĐND phải tiếp xúc cử tri; cử tri có quyền phê bình, chất vấn; đại biểu HĐND phải tôn trọng ý kiến, tiếp thu, sửa chữa và trả lời chất vấn của cử tri theo thẩm quyền của mình. Nếu những vấn đề không thuộc thẩm quyền thì HĐND và UBND báo cáo cho cử tri biết và đưa lên cấp có thẩm quyền giải quyết và báo cáo lại cho cử tri biết. 3.2.3.2. Đối với Ủy ban nhân dân xã Về tổ chức: Bổ sung số lượng thành viên của Ủy ban nhân dân xã cho phù hợp với thực tiễn từng địa phương. Đối với những xã vùng xâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, những xã có địa bàn rộng, nhiều thành phần dân tộc chung sống cần tăng thêm 01 phó chủ tịch xã so với quy định chung hiện nay. Về nội dung, phương thức hoạt động: UBND là cơ quan hành chính nhà nước ở xã, là nơi thực hiện chức năng hành pháp ở xã, chịu trách nhiệm chấp hành hiến pháp, pháp luật, các văn bản của Nhà nước cấp trên. Với tư cách đó, UBND xã thực hiện quản lý nhà nước một cách toàn diện: kế hoạch kinh tế, ngân sách, tài chính, văn hóa, xã hội, giáo dục, an ninh, quốc phòng, địa giới hành chính trên địa bàn xã và tổ chức thực hiện nghị quyết của cấp mình. Vì thế, cần thực hiện các giải pháp sau: Một là, phân công rành mạch chức năng, quyền hạn của Chủ tịch UBND, quan hệ giữa Chủ tịch UBND với Chủ tịch HĐND và Bí thư Đảng ủy xã. Cũng như việc phân công rành mạch giữa Chủ tịch và Phó Chủ tịch và các thành viên trong UBND. Thu gọn số thành viên, không nên để cán bộ kiêm nhiệm quá nhiều chức danh và chuyên môn hóa các chức danh UBND theo quy định của Chính phủ. Tổ chức thực hiện tốt quy chế làm việc mẫu mực của UBND xã. Hai là, thành lập ban chỉ đạo, tiến hành xây dựng đề án ban hành các quy định về quy trình, thủ tục, giải quyết công việc hành chính; đồng thời, mở rộng hội nghị quán triệt trong cán bộ, đảng viên; tuyên truyền phổ biến rộng rãi trong nhân dân về cơ chế một cửa. Đây là vấn đề được nhân dân quan tâm như: xác nhận hồ sơ địa chính, nhà đất; tư pháp, hộ tịch, chứng thực các loại giấy tờ trong phạm vi được phân cấp. Ba là, cần phát huy hiệu lực quản lý và điều hành của cơ quan nhà nước cấp xã là việc làm mang tính cấp bách. Đồng thời, kiểm tra cán bộ, đảng viên trong bộ máy chính quyền thực hiện đúng quyền hạn và trách nhiệm; lựa chọn đảng viên có đủ trình độ, năng lực, kinh nghiệm lãnh đạo, bố trí các chức vụ chủ chốt trong các ban chuyên môn. Tuy nhiên, cần tạo điều kiện để MTTQ và các đoàn thể quần chúng nhân dân tham gia xây dựng và giám sát hoạt động của chính quyền, thể hiện mối liên minh đặc biệt giữa Đảng, chính quyền và các đoàn thể quần chúng. Là cấp cuối cùng của Nhà nước, cấp xã thực hiện chức năng là đơn vị quản lý nhà nước trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Việc áp dụng cơ chế "một cửa" trong việc tiếp nhận và giải quyết các yêu cầu chính đáng của nhân dân là vô cùng cần thiết, rút ngắn thời gian giải quyết công việc, tránh tình trạng hách dịch cửa quyền ở cơ quan hành chính nhà nước. Triển khai thực hiện cơ chế hành chính "một cửa" ở chính quyền cấp xã nhằm tạo thuận tiện, giảm phiền hà và giải quyết nhanh chóng công việc hành chính theo yêu cầu của nhân dân. Vì vậy, để thực hiện có hiệu quả cơ chế "một cửa" ở cấp xã tỉnh Lào Cai hiện nay cần tập trung thực hiện một số việc sau: - Tạo cơ chế làm việc nhanh, hiệu quả đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của các tổ chức và cá nhân, - Cần củng cố, phát huy mô hình một cửa ở xã trên cơ sở tổng kết những kinh nghiệm thực tế. - Thực hiện đồng bộ quy trình phối hợp chặt chẽ trong quá trình thực hiện cơ chế "một cửa" ở cấp xã. - Tiếp tục củng cố đội ngũ cán bộ, trang bị cơ sở vật chất thực hiện tốt cơ chế một cửa ở cấp xã. Đảng ủy, HĐND và UBND phải phối hợp tổ chức quán triệt cho toàn thể cán bộ, đảng viên, viên chức của xã thấy được tầm quan trọng và ý nghĩa to lớn của việc thực hiện cải cách hành chính theo cơ chế một cửa, xem đây là khâu đột phá trong việc cải cách hành chính trong toàn Đảng bộ. Qua đó, giúp cho toàn thể cán bộ, đảng viên, viên chức của xã thấy được vai trò trách nhiệm của mình, tích cực hành động góp phần thắng lợi nhiệm vụ chính trị của xã. 3.2.4. Nâng cao vai trò và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội ở các xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Lào Cai 3.2.4.1. Đối với Mặt trận Tổ quốc xã: Kiện toàn bộ máy các thành viên của MTTQ, trước hết là chấn chỉnh, kiện toàn Ban Thường trực và Ban Kiểm tra nhân dân, vì tổ chức và hoạt động của các ban này còn lỏng lẻo, hạn chế. Đặc biệt, là trưởng ban dân vận không nên kiêm Chủ tịch MTTQ. Cần giới thiệu những người có phẩm chất, năng lực để nhân dân lựa chọn bầu vào Ban Thanh tra nhân dân; sửa đổi, bổ sung quy chế hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân để tổ chức này có thể kiểm tra, giám sát hoạt động của chính quyền xã có hiệu quả. Thực hiện đa dạng hóa chức năng của MTTQ và các đoàn thể nhân dân. Cần phải chú trọng chức năng tập hợp, giáo dục quần chúng thực hiện tốt mọi đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước; bảo vệ, thỏa mãn những nhu cầu, lợi ích chính đáng của đoàn viên, hội viên. Được như vậy, MTTQ và các đoàn thể nhân dân mới thu hút được đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia và hiệu quả hoạt động ngày càng cao. Hiện nay, đời sống của nhân dân các xã vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng còn nhiều khó khăn. Do đó, xóa đói, giảm nghèo, phát triển kinh tế gia đình là nhu cầu thiết thực đối với nhân dân ở những vùng này. Vì vậy, hoạt động của MTTQ và các đoàn thể cần tập trung vào vấn đề sau: - Thực hiện đa dạng hóa các hình thức xóa đói, giảm nghèo như: thành lập câu lạc bộ khuyến nông, tổ tiết kiệm, tổ giúp nhau làm kinh tế gia đình, tổ đan lát... Đối với hội viên, đoàn viên thiếu vốn thì MTTQ phải có cơ chế tín chấp cho hội viên vay vốn sản xuất. - Tổ chức thực hiện tốt cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư”, vận động nhân dân tích cực tham gia sản xuất, kinh doanh, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, giải quyết việc làm, đẩy mạnh chuyển giao tiến bộ khoa học - kỹ thuật, giúp nhau về vốn, giống cây trồng vật nuôi và kinh nghiệm sản xuất. - Vận động cộng đồng dân cư xây dựng kết cấu hạ tầng và tích cực tham gia các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn, tương thân tương ái. 3.2.4.2. Đối với Đoàn Thanh niên xã: - Đổi mới nội dung, phương thức sinh hoạt cho phù hợp với lứa tuổi của thanh niên. Nội dung, phương thức hoạt động của Đoàn phải vừa mang tính chất vui chơi, vừa mang tính thiết thực. Hiện nay, đoàn viên thanh niên không tính các hoạt động mà không đem lại hiệu quả thiết thực. Vì vậy, nội dung, phương thức hoạt động phải gắn với các hoạt động kinh tế như: nhận làm giao thông nông thôn, nhận cắm cột điện, nhận xây dựng cầu nông thôn và nhận công trình thủy nông nội đồng... qua việc làm thiết thực này giúp cho đoàn viên thanh niên có thêm kinh phí hoạt động, có việc làm. Đồng thời, các hoạt động của đoàn viên thanh niên phải gắn với các hoạt động xã hội: tham gia lập lại trật tự an toàn giao thông, giải tỏa lấn chiếm lòng lề đường, vệ sinh môi trường, xây dựng nhà tình nghĩa, nhà tình thương, hiến máu nhân đạo, tổ chức phổ cập tin học, anh văn... Ngoài ra, Đoàn thanh niên cũng cần tích cực tham gia các hoạt động văn hóa, văn nghệ và các cuộc dã ngoại, qua đó, gắn kết được đoàn viên với các tổ chức, thu hút thanh niên tham gia sinh hoạt đoàn. - Giáo dục đoàn viên thanh niên về lý tưởng cách mạng, kiến thức pháp luật, phòng chống các tệ nạn xã hội và các dịch bệnh. Đồng thời, phát huy vai trò gương mẫu, xung kích của đoàn viên, thanh niên trong các phong trào. Tập trung nâng cao chất lượng đoàn mà trọng tâm là nâng cao giác ngộ về lý tưởng, phẩm chất đạo đức, tính tiền phong gương mẫu và khả năng thu hút tập hợp thanh thiếu niên; phát huy tính chủ động, sáng tạo cán bộ đoàn, đoàn viên, thanh niên, góp phần xây dựng Đoàn vững mạnh, xung kích thực hiện tốt nhiệm vụ cách mạng. - Quan tâm đến công tác phát triển đảng viên mới từ đoàn viên thanh niên ở nông thôn. Đặc biệt là đối với đoàn viên thanh niên người đồng bào dân tộc thiểu số. - Phát huy vai trò xung kích của tuổi trẻ, cần thực hiện nhiều chương trình hành động có ý nghĩa thiết thực: thanh niên học tập, sáng tạo làm chủ khoa học công nghệ, thanh niên giúp nhau lập nghiệp, thanh niên tình nguyện... 3.2.4.3. Đối với Hội Phụ nữ xã: - Đa dạng hóa nội dung, hình thức tuyên truyền, giáo dục nâng cao kiến thức, phẩm chất đạo đức, trình độ mọi mặt cho hội viên. Cần nắm bắt tình hình tư tưởng, đời sống nhu cầu nguyện vọng của phụ nữ. Chú ý giúp đỡ, vận động phụ nữ giúp đỡ lẫn nhau một cách thiết thực, hiệu quả hơn trong phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo; phát huy tinh thần hợp tác, tương thân tương ái, ưu tiên giúp hộ phụ nữ nghèo. Hình thành mô hình tổ, nhóm phụ nữ tiết kiệm gắn với hoạt động vay vốn tín dụng giúp phụ nữ phát triển sản xuất. Qua các phong trào này góp phần đáng kể trong công tác xóa đói, giảm nghèo. - Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ nữ. Bởi vì, cơ cấu thành phần cán bộ nữ trong hệ thống chính trị cấp xã là rất thấp chưa phù hợp và thỏa đáng. Tỷ lệ phụ nữ là đảng viên, trong Ban Chấp hành Đảng bộ, chính quyền và các đoàn thể chính trị xã là rất thấp. Để có cán bộ trước hết cần thực hiện tốt việc tuyển dụng, tuyển chọn, ngoài các yêu cầu về tiêu chuẩn, điều kiện cần chú ý hơn đến đặc điểm giới của cán bộ nữ. Cần quan tâm đến việc sắp xếp, bố trí công việc phù hợp, tạo môi trường thuận lợi để cán bộ nữ thể hiện năng lực, sở trường. Các xã cần có chủ trương tuyển chọn công chức dự bị, có chính sách ưu tiên để khi cần bố trí cán bộ nữ vào công việc chính. Thu hút nữ sinh viên tốt nghiệp từ khá giỏi các trường đại học về xã công tác, nhất là lĩnh vực phụ nữ chiếm ưu thế. Đặc biệt, cần có chính sách ưu tiên cho vùng nông thôn, đồng bào dân tộc trong việc tuyển nữ sinh, cấp học bổng, hỗ trợ cho học sinh giỏi, tạo ra nguồn lực cán bộ nữ có chất lượng. - Cấp ủy Đảng cần chủ động tạo nguồn cán bộ nữ thông qua việc chú trọng kết nạp đảng viên nữ. Nhưng mỗi chị em phải tự vượt khỏi tâm lý tự ti, khuôn mình vào thiên chức người vợ, người mẹ, vào chuyên môn nghiệp vụ thuần túy để hướng mình vào sự phát triển của xã hội. Tăng cường cán bộ nữ là chú trọng phát triển đảng viên nữ - biện pháp quan trọng, có ý nghĩa đến việc tạo nguồn cán bộ nữ. Quan tâm tuyển dụng con em gia đình có công với cách mạng, con em dân tộc thiểu số... 3.2.4.4. Đối với Hội Nông dân xã: - Xây dựng chương trình hoạt động của hội gắn với việc phát triển kinh tế. Theo đó, cần tiếp tục đổi mới có chất lượng nội dung, phương thức hoạt động, nâng cao trách nhiệm của Ban Chấp hành hội; đặc biệt là trách nhiệm của cá nhân cán bộ chủ chốt, xây dựng hội vững mạnh toàn diện, xứng đáng là tổ chức tin cậy của nông dân trong tình hình, nhiệm vụ mới. Mỗi hội, chi và tổ đều xây dựng và chấp hành, thực hiện đúng quy chế hoạt động của hội viên. Phải coi trọng công tác hội, bởi lẽ, chất lượng, hiệu quả của hội còn phụ thuộc vào chất lượng của hội viên; nâng cao chất lượng hội viên phải gắn liền với số lượng phát triển hội viên mới. Đặc biệt, quan tâm phát triển hội viên là người dân tộc thiểu số, nữ nông dân, nông dân sản xuất - kinh doanh giỏi. Công tác cán bộ hội là khâu then chốt ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động của hội cũng như phong trào của nông dân. Do đó, tiêu chuẩn cán bộ của hội không chỉ là có lòng nhiệt tình mà quan trọng là phải đảm bảo có trình độ, năng lực tập hợp, vận động quần chúng. - Giáo dục nâng cao kiến thức sử dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất Công tác tuyên truyền, học tập nâng cao nhận thức cho hội viên là phải nâng cao nhận thức, hiệu quả cải tiến hình thức, nội dung tuyên truyền nhằm xây dựng ý thức chấp hành tốt và thực hiện đúng đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước và các nghị quyết, chương trình hành động của Hội. Cần có chương trình, kế hoạch chủ động chọn mô hình mới, tranh thủ vốn; phối hợp với các ngành chức năng tổ chức mở các lớp tập huấn nâng cao năng lực tiếp nhận khoa học - công nghệ, quản lý, sử dụng nguồn vốn. Vận động tập hợp, hướng dẫn nông dân tổ chức lại sản xuất, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới, huấn luyện, dạy nghề tại chỗ và nhân rộng mô hình tiên tiến. Tích cực phối hợp với các trung tâm thực hiện tốt công tác dạy nghề, giới thiệu việc làm và hỗ trợ nông dân xây dựng mô hình sản xuất có hiệu quả cao và bền vững. Cần nhân rộng các mô hình sản xuất nông nghiệp, thủy sản, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ ở nông thôn. Thành lập nhiều câu lạc bộ, tổ hợp tác, tổ chức tham quan, học tập mô hình tiên tiến. Cần có hệ thống thông tin phục vụ nhu cầu nông dân về giống, kiến thức khoa học - kỹ thuật, xử lý nông sản sau thu hoạch, giúp nông dân chủ động ký kết hợp đồng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm hàng hóa; xác lập, xây dựng thương hiệu hàng hóa, giảm bớt chi phí, nâng cao thu nhập. - Sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm hoạt động của hội. Qua đó, kịp thời biểu dương, nhân rộng các mô hình tiên tiến trong đời sống nhân dân và tổ chức, hoạt động hội. Đặc biệt phải biểu dương, khen thưởng kịp thời người tốt, việc tốt trong các phong trào. Đồng thời, mạnh dạn phê bình, kiểm điểm, xử lý nghiêm túc những trường hợp tập thể, cá nhân cán bộ, hội viên, nông dân chưa tốt, có hành vi vi phạm Điều lệ Hội. 3.2.4.5. Đối với Hội Cựu chiến binh xã: - Cần tăng cường giáo dục truyền thống "Bộ đội Cụ Hồ", truyền thống anh hùng của quân đội Việt Nam, truyền thống yêu nước của dân tộc cho tất cả các hội viên; phát huy truyền thống cách mạng, ra sức phấn đấu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền của nhân dân. - Tích cực tập hợp, đoàn kết, vận động hội viên thực hiện nhiệm vụ cách mạng; bảo vệ quyền lợi chính đáng, lợi ích hợp pháp của hội viên; tổ chức động viên giúp đỡ nhau trong cuộc sống. Hội Cựu chiến binh quan tâm, tìm mọi cách giải quyết đói, nghèo cho hội viên coi đó là nhiệm vụ chính trị trọng tâm của hội. Vận động hội viên đoàn kết giúp nhau xóa đói, giảm nghèo, khơi dậy ý chí tự lực, tự cường, đoàn kết, tương thân, tương ái, sáng tạo, vượt qua khó khăn, bệnh tật để thoát cảnh đói nghèo. - Tích cực tuyên truyền, vận động thanh niên đến tuổi tham gia các đợt tuyển quân, bảo đảm chỉ tiêu, chất lượng tuyển quân và đón tiếp quân nhân đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về địa phương; phối hợp với chính quyền tạo công ăn việc làm cho những quân nhân xuất ngũ. - Cán bộ và hội viên tích cực tham gia công tác hòa giải mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, giáo dục, cảm hóa giúp đỡ các đối tượng mãn hạn trừng phạt của pháp luật, góp phần tích cực xây dựng mối quan hệ tình làng nghĩa xóm, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc. - Phát huy vai trò của Hội và hội viên góp phần quan trọng vào giáo dục thế hệ trẻ. Giáo dục truyền thống yêu nước, truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ, là trách nhiệm quan trọng của Hội Cựu chiến binh. Đây không chỉ là trách nhiệm mà còn là tình cảm của Hội đối với thế hệ trẻ. Hội phối hợp với đoàn thanh niên tổ chức các buổi giao lưu, đối thoại giữa cựu chiến binh với thanh niên, "nói với thanh niên, nghe thanh niên nói" nhằm giáo dục truyền thống yêu nước, truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ. Hội cần chú trọng phối hợp xây dựng, củng cố tổ chức Đoàn; giới thiệu, bồi dưỡng đoàn viên, thanh niên ưu tú cho Đảng xem xét kết nạp; tích cực tham gia xây dựng, phát triển chi đoàn, củng cố chi đoàn yếu, thúc đẩy phong trào thanh niên. 3.2.4.6. Đối với công đoàn cơ sở xã: Sức sống của công đoàn cơ sở luôn thể hiện ở khả năng hoàn thành nhiệm vụ và chất lượng phong trào. Do đó, vai trò của ban chấp hành công đoàn cơ sở là rất quan trọng. Đặc biệt chủ tịch công đoàn xã phải thật sự năng động, linh hoạt, nhiệt tình trong công tác; biết thống nhất ý chí và hành động trong ban chấp hành và toàn thể đoàn viên. Chủ tịch công đoàn xã phải là cầu nối quan trọng trong các mối quan hệ làm việc với công đoàn cấp trên, với cấp ủy Đảng, chính quyền và đoàn thể cùng cấp. Quá trình lãnh đạo hoạt động công đoàn cần chú ý quy chế làm việc; triển khai kế hoạch công tác cần chọn thời gian thích hợp để vừa không gây ảnh hưởng nhiệm vụ thường xuyên của các bộ phận, vừa khuyến khích mọi đoàn viên tham gia trên tinh thần tự nguyện. Hoạt động công đoàn phải bám sát nhiệm vụ chính trị của cơ sở, gắn với công tác chuyên môn của cơ quan cấp xã, phường, thị trấn, và chỉ đạo của công đoàn cấp trên. Ban chấp hành công đoàn cơ sở phải thường xuyên nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của đoàn viên để xây dựng, triển khai kế hoạch hoạt động phù hợp, chăm lo tốt quyền lợi chính đáng của cán bộ, công chức; mạnh dạn kiến nghị với lãnh đạo xã và công đoàn cấp trên quan tâm giải quyết những vấn đề bức xúc trong thực tiễn. Có như vậy thì hoạt động của tổ chức công đoàn cơ quan xã mới có thể duy trì và phát triển; góp phần xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở, xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn ngày càng vững mạnh. 3.2.5. Thực hiện tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí và sử dụng cán bộ, nhất là cán bộ người dân tộc thiểu số, vừa đảm bảo cơ cấu hợp lý, tính kế thừa, vừa phù hợp với thực tế của các xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Lào Cai Việc xây dựng cho được một đội ngũ cán bộ đủ về số lượng, bảo đảm về chất lượng, có cơ cấu đồng bộ và hợp lý đang là vấn đề then chốt cho việc kiện toàn HTCT ở các xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Lào Cai. Để thực hiện tốt công tác cán bộ trước yêu cầu của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần tập trung thực hiện một số giải pháp chủ yếu sau: Trước hết, cần thống nhất nhận thức về tư tưởng. Các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể và cán bộ, đảng viên ở các xã trong tỉnh cần phải học tập, quán triệt sâu sắc Nghị quyết của Trung ương, của tỉnh và huyện, nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của hệ thống chính trị cấp xã trong giai đoạn cách mạng hiện nay, đặc biệt coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nhằm tiêu chuẩn hóa đội ngũ cán bộ công chức ở xã đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới. Hai là, thường xuyên tiến hành điều tra, thống kê, phân tích thực trạng cán bộ, công chức xã theo các tiêu chí: độ tuổi, giới tính, dân tộc, chức vụ công tác, trình độ học vấn phổ thông, lý luận chính trị, quản lý nhà nước, chuyên môn nghiệp vụ làm cơ sở cho việc xây dựng quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ, công chức xã, thôn, bản. Ba là, Xây dựng quy hoạch gắn quy hoạch với đào tạo, bồi dưỡng, tuyển dụng, bố trí sử dụng cán bộ và dự báo cơ cấu quy hoạch nguồn cán bộ đến năm 2015. Bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách hỗ trợ đào tạo đối với cán bộ, công chức xã, thôn, bản. Trên cơ sở các quy định về chế độ, chính sách hiện hành, căn cứ điều kiện cụ thể của xã cần sửa đổi, bổ sung một số cơ chế, chính sách phù hợp cho cán bộ đi học nhất là đối với những xã biên giới, vùng sâu, vùng xa, cán bộ dân tộc ít người như tăng tiền hỗ trợ cho cán bộ đi đào tạo, bồi dưỡng, có nguồn kinh phí hỗ trợ cho cán bộ làm thay nhiệm vụ của cán bộ đi học. Bốn là, tạo nguồn cán bộ xã để bổ sung, thay thế từ các nguồn sau: - Con em các dân tộc tại địa phương đã tốt nghiệp các trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp tình nguyện về công tác tại địa phương. Học sinh đã tốt nghiệp đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp từ nơi khác tình nguyện về công tác tại cơ sở. - Thanh niên, con em các dân tộc ở địa phương đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự tình nguyện về công tác tại địa phương được lựa chọn đi đào tạo lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ và quản lý nhà nước. - Lực lượng thanh niên, cán bộ trẻ ở địa phương chưa phải là công chức có quá trình tu dưỡng, rèn luyện và lao động sản xuất tốt đã tốt nghiệp trung học cơ sở trở lên. Năm là, tiếp tục điều chỉnh bổ sung xây dựng các chính sách về đào tạo bồi dưỡng và bố trí sử dụng sau đào tạo, có chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về công tác ở xã. Sáu là, bổ sung hoàn thiện quy chế, quy trình đánh giá, nhận xét cán bộ một cách khoa học, khách quan, dân chủ, công khai, lấy kết quả hoàn thành nhiệm vụ của cán bộ làm thước đo chủ yếu trong đánh giá cán bộ, phản ánh đúng thực chất ưu, khuyết điểm của cán bộ tránh rườm rà, hình thức. Bảy là, nghiên cứu chính sách cho cán bộ xã đi khảo sát học tập kinh nghiệm trong và ngoài nước. Tám là, tập trung đổi mới một số chính sách đãi ngộ cán bộ cụ thể sau: - Cần nghiên cứu, ban hành chế độ phụ cấp đặc biệt cho cán bộ các xã vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, vùng căn cứ cách mạng. - Xây dựng và hoàn thiện chế độ bảo trợ về kinh phí học tập cho hợp lý hơn. Giữa cán bộ đi học tập trung với cán bộ học tại chức, cán bộ đi học ở huyện, tỉnh và Trung ương. - Tạo điều kiện theo các mức độ đối với cán bộ có kinh tế gia đình gặp khó khăn, cán bộ có gia đình làm giàu hợp pháp; để vừa đảm bảo cho cán bộ chuyên tâm công tác, gắn bó với địa bàn xã, với xóm làng, vừa nêu gương và gây được uy tín đối với Đảng và nhân dân trong xã. - Cần kiện toàn chính sách đãi ngộ, thu hút cán bộ về vùng sâu, vùng xa và vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Chín là, đẩy mạnh việc luân chuyển cán bộ trẻ có năng lực, trình độ về công tác tại các xã. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nội dung và hình thức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ xã theo chức danh cán bộ. Đặc biệt, bồi dưỡng nâng cao kiến thức, kỹ năng, nghiệp vụ và kinh nghiệm giải quyết những tình huống cụ thể ở cấp xã. 3.2.6. Tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện hiệu quả sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân Quan hệ giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng được thể hiện cô đọng nhất trong quan hệ giữa kinh tế và chính trị, trong đó kinh tế quy định nội dung, kết cấu của chính trị; ngược lại chính trị định hướng cho quá trình phát triển kinh tế và điều chỉnh các quan hệ kinh tế. Kinh tế phát triển là cơ sở bảo đảm chắc chắn cho ổn định chính trị và sự ổn định chính trị là điều kiện để thúc đẩy phát triển kinh tế. Nhận thức đúng và giải quyết thành công quan hệ giữa kinh tế và chính trị, giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là vấn đề có ý nghĩa quyết định chiều hướng, nội dung, nhịp độ, hiệu quả và mức độ bền vững của sự phát triển. Với ý nghĩa đó, đổi mới, kiện toàn HTCT cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Lào Cai hiện nay thực chất là phát động nhân dân, tập hợp quần chúng thực hiện tốt kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội tại địa phương. Thực hiện đường lối đổi mới những năm qua các xã ở Lào Cai đã đạt được những thành tựu rất quan trọng về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; đời sống vật chất, tinh thần và văn hóa của nhân dân các dân tộc từng bước được cải thiện, bộ mặt nông thôn miền núi có nhiều đổi mới. Tuy nhiên, vùng dân tộc thiểu số và miền núi Lào Cai đang đứng trước những thách thức to lớn trong quá trình phát triển, do sức ép về dân số, tài nguyên không được khai thác và sử dụng hợp lý đã tác động xấu đến môi trường, thời tiết diễn biến không thuận làm cho tài nguyên rừng, đất và nước bị suy kiệt. Do điều kiện lịch sử, miền núi mang nhiều tính tự nhiên về kinh tế và văn hóa, trình độ phát triển thấp hơn vùng dân tộc Kinh và miền xuôi, lại chậm thích ứng với các yếu tố thị trường; khoảng cách giàu - nghèo giữa miền núi và miền xuôi cũng như giữa các vùng thuộc miền núi đang có xu hướng doãng ra. Từ thực tế trên cho thấy, để tạo điều kiện vùng dân tộc thiểu số và miền núi của tỉnh phát triển nhanh, bền vững trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh, khai thác tiềm năng vững bước hội nhập, đồng thời nâng cao chất lượng cuộc sống, góp phần sớm đưa tỉnh nhà thoát khỏi nhóm tỉnh nghèo của cả nước, cần rà soát lại các cơ chế, chính sách hiện hành đối với đồng bào dân tộc thiểu số, vùng dân tộc và miền núi; đồng thời nghiên cứu đề xuất, điều chỉnh, bổ sung, ban hành cơ chế, chính sách mới phù hợp với tình hình hiện nay. Bên cạnh đó, để phát triển kinh tế - xã hội các xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số cần đi liền với quá trình chuyển dần nền kinh tế tự cấp, tự túc thành nền kinh tế hàng hóa, bằng việc đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng, điều chỉnh hợp lý cơ cấu kinh tế, bảo vệ và cải thiện môi trường thiên nhiên, bảo vệ các giá trị tài nguyên đa dạng sinh học. Chú trọng công tác định canh định cư, chuyển đổi dần tập quán sản xuất của người dân tộc thiểu số, trên cơ sở đẩy mạnh công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư theo chiều sâu, gắn giới thiệu mô hình sản xuất với hướng dẫn bắt tay chỉ việc. Trong quá trình phát triển miền núi cần kết hợp chặt chẽ phát triển sản xuất với cải thiện đời sống của các dân tộc ở miền núi, trước tiên là bảo đảm an toàn lương thực, giảm đói nghèo, cải thiện chất lượng cuộc sống, đáp ứng các nhu cầu về giáo dục, y tế và các vấn đề an sinh khác nhằm phát triển toàn diện con người. Cần xác định công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn miền núi vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc phát triển của các xã, tạo cơ sở vững chắc bảo đảm sự ổn định chính trị và phát triển kinh tế - xã hội, củng cố khối đoàn kết giữa cộng đồng các dân tộc trên địa bàn. Sự nghiệp to lớn đó đòi hỏi nhân dân các dân tộc trong xã kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân và cộng đồng, tiến tới xóa bỏ sự mất cân đối về trình độ phát triển giữa các nhóm dân tộc và giữa các vùng. Để đáp ứng các yêu cầu này, HTCT cấp xã tỉnh Lào Cai phải tăng cường sự phối hợp nhằm giải quyết có hiệu quả những vấn đề khó khăn của địa phương. Quan tâm đến công tác phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là người dân tộc thiểu số. Đẩy mạnh hơn nữa việc thực hiện các Nghị quyết của Đảng, của Quốc hội, Chính phủ theo hướng dân chủ, công khai hoá và bình đẳng. 3.2.7. Tiếp tục thực hiện tốt Pháp lệnh dân chủ ở xã Để việc thực hiện pháp lệnh dân chủ ở các xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Lào Cai trong thời gian tới đạt kết quả tốt hơn, cần tập trung thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau: Trước hết, tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, quán triệt sâu sắc cho cán bộ, đảng viên và nhân dân trong xã những chủ trương chỉ đạo của Đảng và pháp luật của Nhà nước về xây dựng và thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở cơ sở, nhằm nâng cao hơn nữa nhận thức và năng lực thực hiện dân chủ cho cán bộ, đảng viên và nhân dân; coi đây là nhiệm vụ quan trọng và thường xuyên của các cấp uỷ, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội ở xã. Để công tác giáo dục, tuyên truyền đạt hiệu quả cao, phải đa dạng hình thức tuyên truyền, giáo dục và thường xuyên đổi mới; chú trọng đến trình độ, phong tục tập quán của từng dân tộc để lựa chọn những hình thức tuyên truyền, giáo dục phù hợp. Kiên quyết khắc phục tình trạng người dân không biết hoặc không nắm được đầy đủ chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về thực hiện dân chủ ở xã do không được cung cấp thông tin. Hai là, từng bước nâng cao trình độ dân trí nói chung, đặc biệt là những kiến thức về pháp luật để nhân dân có thể hiểu biết về quyền và nghĩa vụ của mình, có ý thức sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, từ đó có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ của người làm chủ và có đủ năng lực quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Ba là, các cấp uỷ, chính quyền và Mặt trận Tổ quốc ở xã cần phối hợp chặt chẽ, thường xuyên, có nền nếp trong việc tổ chức thực hiện tốt quy chế dân chủ; coi đây là tiền đề thúc đẩy mạnh mẽ quá trình thực hiện pháp lệnh dân chủ ở xã. Hoạt động của chính quyền xã phải thể hiện không khí dân chủ, đồng thời tích cực vận động và tạo điều kiện tối đa để nhân dân có thể kiểm tra, giám sát được hoạt động của mình. Bốn là, cần gắn việc xây dựng và thực hiện pháp lệnh dân chủ ở xã với việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng hệ thống chính trị cấp xã. Thực hiện chính sách động viên, khen thưởng kịp thời những tổ chức, cá nhân làm tốt; đồng thời, xử lý nghiêm minh đối với những trường hợp mất dân chủ hoặc lợi dụng dân chủ để gây rối, vi phạm pháp luật, gây bức xúc trong xã hội và nhân dân. 3.2.8. Khai thác, phát huy mặt tích cực cũng như hạn chế mặt tiêu cực từ các thiết chế xã hội cổ truyền mang tính đặc thù của các dân tộc Các xã tỉnh Lào Cai là nơi cư trú của 12 đồng bào dân tộc thiểu số trong tỉnh. Mỗi một dân tộc lại có một thiết chế tự quản khác nhau, vai trò của những thiết chế không chính thống này, đặc biệt là những người đứng đầu các thiết chế đó trong đời sống cộng đồng của đồng bào các dân tộc là hết sức quan trọng. Ngày nay vai trò của làng, bản được đề cao. Làng, bản tuy không phải là một cấp trong hệ thống chính quyền nhưng lại là một thiết chế gần dân nhất. Mọi công việc của dân, mọi chính sách, chế độ, chủ trương từ các cấp chính quyền đến được với dân hay không đều thông qua bản, làng. Vai trò của trưởng bản càng trở nên quan trọng. Và tất nhiên, kế thừa truyền thống trọng lão, người già trong làng, bản vẫn có tiếng nói quan trọng đến việc thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Vấn đề đặt ra là cần phải kết hợp hài hòa giữa các thiết chế đó; định hướng, khai thác, phát huy mặt tích cực của các thiết chế không chính thống trong việc xây dựng, củng cố HTCT từ xã đến thôn. Các dân tộc thiểu số tỉnh Lào Cai vốn có truyền thống đoàn kết rất chặt chẽ trong cộng đồng, nhất là trong mỗi một làng và trong mỗi một dòng họ, tộc họ. Truyền thống đoàn kết này dựa trên những sinh hoạt mang tính cộng đồng trong lĩnh vực kinh tế và văn hóa tư tưởng. Vấn đề đặt ra là HTCT các xã có phát huy được truyền thống đoàn kết của đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn vào việc phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào; tăng cường hơn nữa tinh thần đoàn giữa các dân tộc, bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự xã hội tại địa phương, đặc biệt ở các xã vùng biên giới. Bên cạnh truyền thống đoàn kết thì truyền thống tự quản trong tổ chức và hoạt động của các thiết chế xã hội cổ truyền của đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Lào Cai cũng cần được khai thác, phát huy trong quá trình đổi mới HTCT ở các xã. Hiện nay, ở các xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đặc biệt là các xã vùng sâu, vùng xa của Lào Cai vẫn chịu sự chi phối rất lớn của những luật tục trong các quan hệ xã hội. Luật tục quy định trách nhiệm, nghĩa vụ của người dân trong việc bảo vệ trật tự xã hội, giữ gìn thuần phong mỹ tục, bảo vệ sản xuất, bảo vệ rừng và các hình thức xử phạt đối với những ai vi phạm. Hệ thống chính trị một số xã ở Lào Cai bắt đầu đi sâu nghiên cứu luật tục, hương ước. Trên cơ sở đó kế thừa xây dựng quy chế quản lý cộng đồng, quy ước thôn bản. Ở một số xã đã vận dụng luật tục bảo vệ rừng của người Hà Nhì, người Phù Lá, người Nùng vào việc quản lý rừng trong hoạt động kiểm lâm. Đồng thời hướng nghiên cứu về việc chăm sóc sức khoẻ trẻ sơ sinh cũng được thí điểm ở vùng người Dao Tuyển, người Tày ở Bảo Yên… Đây là những giá trị phù hợp với các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước ta, vì thế HTCT các xã cần tiếp tục nghiên cứu để kết hợp giữa pháp luật và luật tục, thậm chí luật tục hóa pháp luật để thực hiện nhiệm vụ quản lý có hiệu quả cao hơn. Lào Cai là một tỉnh vùng cao biên giới có 13 tộc người chung sống theo cộng đồng, với 25 ngành nhóm địa phương khác nhau đã tạo ra sự đa dạng trong văn hoá tộc người. Việc nghiên cứu, sưu tầm và khai thác văn hoá dân gian vào việc phát triển kinh tế - xã hội bền vững, xóa đói giảm nghèo..., đang là vấn đề đặt ra đối với hoạt động của HTCT các xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Lào Cai. Trước những yêu cầu của thực tiễn, một số xã trong tỉnh đã tập trung khảo sát, nghiên cứu “Xây dựng mô hình làng văn hoá du lịch”. Đến nay xã Bản Dền có 20 nhà sàn - nhà nghỉ phục vụ du khách, mỗi năm mỗi nhà nghỉ thu từ 10 triệu đến 42 triệu đồng. Một số sản phẩm nghề thủ công như thổ cẩm người Hmông, chăn, gối, đệm người Tày đã trở thành hàng hoá không chỉ bán ở trong làng mà còn phục vụ ở các chợ phiên. Nhờ phát huy lợi thế văn hoá dân gian xây dựng thành các nguồn lực du lịch, các làng văn hoá du lịch đã tạo nhiều nguồn thu, chuyển dịch cơ cấu kinh tế góp phần giảm tỷ lệ hộ đói nghèo từ 43,31 % năm 2005 xuống còn 16,8% năm 2010. Đồng bào dân tộc thiểu số ở các xã tỉnh Lào Cai có hệ thống lễ hội phong phú thường tổ chức vào mùa xuân, mùa thu và đầu tháng 6 âm lịch hàng năm. Nhiều lễ hội trở thành điểm du lịch quan trọng thu hút đông đảo du khách như lễ hội Gióong boọc của người Giáy ở xã Tả Van, lễ hội xuống đồng của người Tày ở Bắc Hà, lễ hội Gầu Tào của người Hmông ở xã Pha Long huyện Mường Khương... Cùng với lễ hội, nhiều di sản văn hoá phi vật thể ở các di tích được phát hiện, giới thiệu, quảng bá thực sự trở thành nguồn lực có sức hấp dẫn khách du lịch, góp phần tăng nguồn thu như di tích đền Bảo Hà thu 800 triệu đồng/năm. Mỗi một vùng, mỗi một ngành nhóm dân tộc đều sáng tạo ra các loại đặc sản nổi tiếng của từng vùng, từng xã, từng tộc người. Như người Hmông có rượu ngô Bắc Hà, rượu Kê Mường Khương, đồ rèn đúc nổi tiếng, các sản phẩm thổ cẩm đặc sắc được tạo nên bởi sự kết hợp của kỹ thuật thêu, kỹ thuật ghép vải, kỹ thuật in sáp ong. Người Dao có rượu Sán Lùng, rượu Thanh Kim, đồ chạm khắc bạc, đồ thêu, nghề làm thuốc nam với nhiều sản phẩm như rượu thuốc, thuốc lá, thuốc tắm... Người Giáy có gạo nếp xã Mường Vi, có văn hoá ẩm thực đặc sắc. Các xã đã phối hợp với các ngành trong tỉnh quảng bá, khai thác, xây dựng thương hiệu, nghiên cứu việc sản xuất các đặc sản trở thành hàng hoá, góp phần xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế ở vùng cao còn nhiều khó khăn. Bên cạnh việc phát huy mặt tích cực của các thiết chế xã hội cổ truyền thì vấn đề quan trọng đặt ra là phải hạn chế sự ảnh hưởng, tác động tiêu cực của các thiết chế đó đến tổ chức và sự vận hành của HTCT cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Lào Cai. Cần phải xóa bỏ tình trạng khép kín trong các thiết chế cổ truyền (làng, bản, tôn giáo, dòng họ, tộc họ). Những tàn dư này đã làm cho sản xuất hàng hóa kém phát triển, sinh ra tâm lý cục bộ, địa phương, khép kín trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân; làm hạn chế, gây khó khăn trong quá trình xây dựng, củng cố, đổi mới HTCT, phát huy dân chủ ở các xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Lào Cai hiện nay. Những người đứng đầu các thiết chế xã hội cổ truyền có lúc có nơi lợi dụng ảnh hưởng của mình để can thiệp, giải quyết những vụ việc thuộc trách nhiệm, thẩm quyền của các cơ quan nhà nước bằng luật tục, hay những tập tục lạc hậu, có khi trái với quy định của pháp luật hiện hành. Một số chức sắc các tôn giáo đã và đang bị các thế lực thù địch trong và ngoài nước lợi dụng, lôi kéo để chống phá cách mạng. Do vậy, trong quá trình đổi mới HTCT cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Lào Cai thì việc hết sức quan trọng là phải giáo dục, lôi kéo, tập hợp, tranh thủ sự ủng hộ của bộ phận này trong quá trình lãnh đạo của Đảng, quản lý và điều hành của chính quyền, tránh để tình trạng bị các thế lực thù địch lợi dụng. KẾT LUẬN Hệ thống chính trị cơ sở với các thành tố cấu thành là hệ thống tổ chức cơ bản của hệ thống chính trị Việt Nam xã hội chủ nghĩa, là nền tảng chính trị vững chắc ở cơ sở. Điều này được lý giải bởi chính tác dụng và chức năng trong hoạt động của cả hệ thống cũng như của từng tổ chức trong hệ thống đối với các giai đoạn phát triển, trên những lĩnh vực khác nhau của đời sống kinh tế- xã hội đất nước. Xác định hệ thống chính trị cơ sở xã, phường, thị trấn thường xuyên tiếp xúc với người dân, hằng ngày tiếp thu, giải quyết các ý kiến của người dân trong quá trình thực hiện các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước tại cơ sở. Chính vì vậy, nơi nào hệ thống chính trị hoạt động có hiệu quả, phát huy được cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ" thì nơi đó kinh tế - xã hội phát triển, quốc phòng, an ninh được giữ vững. Từ nhận thức đó, Tỉnh ủy Lào Cai đã quán triệt và tổ chức thực hiện tốt các nội dung trong Nghị quyết T.Ư 5 (khóa IX), trong đó chú trọng vấn đề đổi mới, củng cố và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị các xã thuộc khu vực khó khăn. Từ năm 2005 đến nay, tình hình hệ thống chính trị cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Lào Cai đã có nhiều chuyển biến tích cực: công tác giáo dục chính trị, tư tưởng đã tạo nên sự thống nhất trong tổ chức đảng, sự đồng thuận trong cán bộ, đảng viên và nhân dân khi thực hiện các nghị quyết của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; cán bộ xã được quan tâm đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ về mọi mặt; Công tác quy hoạch cán bộ được tiến hành dân chủ, công khai cùng với đánh giá, bổ nhiệm đúng cán bộ, đã góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ; số đảng viên kết nạp mới không ngừng tăng qua các năm; đổi mới về nội dung và phương thức lãnh đạo, phương thức hoạt động theo hướng thiết thực, hiệu quả và hướng về cơ sở… Do vậy, vai trò là hạt nhân chính trị lãnh đạo của tổ chức đảng cơ sở đã thể hiện rõ nét, chỉ đạo tập trung hơn. Vai trò quản lý, điều hành của bộ máy chính quyền đã đổi mới, phục vụ nhân dân tốt hơn, hạn chế sự vi phạm quyền công dân; Quy chế dân chủ ở cơ sở được thực hiện, các vấn đề liên quan đến người dân được công khai minh bạch hơn. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân đã tập trung vào công tác vận động quần chúng thực hiện nhiệm vụ chính trị ở địa phương, tích cực tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền vững mạnh, giữ vững khối đoàn kết trong Đảng, trong nhân dân, thu hút đông đảo hội viên, đoàn viên vào các tổ chức quần chúng; chăm lo tốt hơn công tác xóa đói, giảm nghèo, từ thiện nhân đạo, hạn chế dần tình trạng hình thức hóa quan liêu của các tổ chức đoàn thể ở cơ sở. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được vẫn nổi lên một số yếu kém mà cấp ủy đang tập trung khắc phục. Đó là hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở xã chuyển biến chậm và chưa đồng bộ; một số nơi sự phối hợp giữa các tổ chức chính trị chưa chặt chẽ, hiệu quả hoạt động chưa cao. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của một số tổ chức cơ sở đảng còn yếu, nhất là năng lực vận dụng các chủ trương, nghị quyết của Đảng và chính sách của Nhà nước vào tình hình cụ thể của địa phương. Trong lãnh đạo, chỉ đạo còn lúng túng, chưa chủ động sáng tạo; vai trò tiên phong gương mẫu của một số đảng viên còn hạn chế. Hiệu quả hoạt động của bộ máy chính quyền một số nơi chưa cao; trình độ, năng lực của một bộ phận cán bộ chuyên trách và công chức cấp xã, nhất là các xã vùng cao chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Công tác đào tạo cán bộ xã chưa coi trọng nội dung đào tạo có phù hợp với công việc ở xã hay không, còn chạy theo bằng cấp để thành công chức xã. Hoạt động của các đoàn thể chính trị ở một số nơi còn mang tính hình thức, chưa thiết thực. Công tác kiểm tra nắm tình hình ở một số địa bàn chưa thường xuyên, sâu sát, dẫn đến việc phát hiện và xử lý các vấn đề nảy sinh trên địa bàn còn bị động. Số chi bộ ghép của các thôn, bản còn nhiều… Những hạn chế, yếu kém trong hoạt động của HTCT cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Lào Cai đang đặt ra những vấn đề cấp bách cần khắc phục, giải quyết mới có thể vượt qua những khó khăn, thách thức hiện nay. Việc đánh giá đúng thực trạng, tìm ra nguyên nhân cơ bản, đặc biệt là nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động của HTCT cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Lào Cai sẽ là cơ sở vững chắc để xác định đúng quan điểm chỉ đạo, từ đó mới có thể đề ra các giải pháp thiết thực, phù hợp cho việc kiện toàn HTCT ở các xã trong tỉnh. Kiện toàn HTCT cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Lào Cai là điều kiện tiên quyết nhất cho việc triển khai có hiệu quả các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đến với đồng bào dân tộc ở địa phương, nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn tỉnh Lào Cai, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN Việt Nam. DANH MỤC BÀI VIẾT ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN VĂN Đề tài khoa học cấp Trường: Nguyễn Thành Nam (2006), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn Lào Cai - Thực trạng và giải pháp, đã nghiệm thu, đạt loại A. Nguyễn Thành Nam (2008), Phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Lào Cai, đã nghiệm thu, đạt loại A. Tạp chí Mặt trận: Nguyễn Thành Nam (năm 2011), Một số giải pháp cơ bản kiện toàn hệ thống chính trị vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Lào Cai. Báo Lào Cai: Nguyễn Thành Nam (năm 2011), Những giải pháp kiện toàn hệ thống chính trị cấp xã ở Lào Cai, số 2162/10-2011, tr. 2. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Lào Cai (2010), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Lào Cai. 2. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Lào Cai (2006), Văn Kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Lào Cai lần thứ XIII, nhiệm kỳ 2006 – 2010. 3. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Lào Cai (2011), Văn Kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Lào Cai lần thứ XIV, nhiệm kỳ 2010 - 2015. 4. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2006), chuyên đề nghiên cứu Nghị quyết Đại hội X của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 5. Hoàng Chí Bảo (2004), Hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 6. Hoàng Chí Bảo (2004), "Cơ sở và hệ thống chính trị ở cơ sở đối với ổn định và phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta", Xã hội học, (3), tr.25-34. 7. Phan Xuân Biên (Chủ biên) (2005), Một số vấn đề đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cấp cơ sở, Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. 8. Bộ Nội vụ (2004), Báo cáo kết quả 2 năm thực hiện Quyết định 85/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 "Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở xã, phường, thị trấn", Hà Nội. 9. Bộ Tài chính (2006), Quy định mới về quyền lợi và nghĩa vụ đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn và các văn bản có liên quan, Nxb Tài chính, Hà Nội. 10. Chính phủ (1998), Quy chế thực hiện dân chủ ở xã (được ban hành kèm theo Nghị định số 29/1998/NĐ-CP), Hà Nội. 11. Chính phủ (2003), Quy chế thực hiện cơ chế "một cửa" tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương (được ban hành kèm theo Quyết định số 181/2003/QĐ-TTg), Hà Nội. 12. Chính phủ (2003), Quy chế thực hiện dân chủ ở xã (được ban hành kèm theo Nghị định số 79/2003/NĐ-CP), Hà Nội. 13. Chính phủ (2004), Chỉ thị số 38/2004/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng tiếng dân tộc thiểu số đối với cán bộ, công chức công tác ở vùng dân tộc, miền núi, Hà Nội. 14. Chính phủ (2004), Nghị định số 53/2004/NĐ-CP về việc kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác dân tộc thuộc UBND các cấp, Hà Nội. 15. Chính phủ (2006), Nghị định số 159/2005/NĐ-CP về phân loại đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn, Hà Nội. 16. Chính phủ (2006), Quyết định số 40/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức giai đoạn 2006- 2010, Hà Nội. 17. Chính phủ (2007), Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 18. C.Mác - Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 19. Vũ Hoàng Công (2002), Hệ thống chính trị cơ sở - Đặc điểm, xu hướng và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 20. Đinh Hữu Cường (2006), "Để bảo đảm ổn định chính trị ở Tây Nguyên hiện nay", Sinh hoạt lý luận, tr.39-44. 21. Phan Hữu Dật (2001), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách liên quan đến mối quan hệ dân tộc hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 22. Phạm Hảo, Trương Minh Dục (đồng chủ biên) (2003), Một số vấn đề về xây dựng hệ thống chính trị ở Tây Nguyên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 23. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội. 24. Đảng Cộng sản Việt Nam (1990), Nghị quyết số 8b của Ban Chấp hành Trung ương về đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân, Hà Nội. 25. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội. 26. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 27. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 28. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Chỉ thị số 30 của Bộ Chính trị về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, Hà Nội. 29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Quy định của Ban Chấp hành Trung ương về chức năng, nhiệm vụ của Đảng bộ, chi bộ cơ sở xã, Hà Nội. 32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Điều lệ Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 33. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 34. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 35. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 36. Hồ Minh Đức (2002), "Hệ thống chính trị cơ sở vùng sâu, vùng xa và những vấn đề đặt ra cần được giải quyết", Dân vận, (1+2). 37. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 38. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 39. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 40. Hội đồng nhân dân tỉnh Lào Cai (2011), Báo cáo tình hình tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh Lào Cai nhiệm kỳ 2004 - 2011. 41. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình Quốc gia các bộ môn Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (2004), Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, Nxb Chính trị quốc gia. 42. Nguyễn Dương Hùng (2008), Kiện toàn hệ thống chính trị ở xã nhằm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học. 43. Lê Hữu Nghĩa (2001), "Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của chính quyền cơ sở", Tạp chí Cộng sản, (19), tr. 18-22. 44. Nguyễn Thị Hiền Oanh (2005), Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân ở nước ta hiện nay, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. 45. Nguyễn Quốc Phẩm (2000), Hệ thống chính trị cấp cơ sở và dân chủ hóa đời sống xã hội nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 46. Giàng Seo Phử (2010), “Đồng bào dân tộc thiểu số thực hiện xoá đói, giảm nghèo qua Chương trình 135 giai đoạn II”, Tạp chí Cộng sản, số 816 47. Quốc hội (1992), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, Nxb Sự Thật, Hà Nội. 48. Quốc hội (2003), Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 49. Quốc hội (2003), Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 50. Nguyễn Đức Bình, Trần Ngọc Hiên, Đoàn Trọng Tuyến, Nguyễn Văn Thảo, Trần Xuân Sầm (1999), Đổi mới và tăng cường hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 51. Phan Xuân Sơn (2001), Vai trò đoàn thể nhân dân trong việc đảm bảo dân chủ ở cơ sở (xã) hiện nay, Đề tài khoa học cấp Bộ, Hà Nội. 52. Đỗ Nhật Tân (2007), "Đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền cơ sở", Lý luận chính trị, (6), tr. 67-71. 53. Nguyễn Văn Sáu, Hồ Văn Thông (chủ biên) (2001), Cộng đồng làng xã Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 54. Nguyễn Văn Sáu, Hồ Văn Thông (chủ biên) (2003), Thực hiện Quy chế dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 55. Tỉnh ủy Lào Cai (2006), Đề án nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ xã, phường, thị trấn, thôn bản tỉnh Lào Cai (giai đoạn 2006- 2010). 56. Tỉnh ủy Lào Cai (2010), Đề án quy hoạch và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị tỉnh Lào Cai (giai đoạn 2011- 2015). 57. Trần Hữu Trí (2007), "Tồn tại và không nên tồn tại HĐND cấp nào?", Đại Đoàn kết, (139). 58. Nguyễn Phú Trọng (2011), “Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, hoàn thành tốt các mục tiêu, kế hoạch đặt ra”, Tạp chí Cộng sản, số 829. 59. UB bầu cử đại biểu Quốc hội, khóa XIII và bầu cử HĐND tỉnh Lào Cai (2011), Báo cáo tổng kết công tác bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII và đại biểu HĐND các cấp tỉnh Lào Cai, nhiệm kỳ 2011 - 2016. 60. UBND tỉnh Lào Cai, Ban dân tộc, (2008), Báo cáo công tác dân tộc - tôn giáo năm 2008, phương hướng nhiệm vụ năm 2009. 61. UBND tỉnh Lào Cai (2011), Sơ kết 3 năm thực hiện Chương trình 135 giai đoạn II. 62. Văn phòng Quốc hội (2001), "Đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân", Nghiên cứu lập pháp, (8), tr. 44-50. 63. V.I. Lênin (1977), Toàn tập, tập 39, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 64. V.I. Lênin (1977), Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 65. V.I. Lênin (1979), Toàn tập, tập 42, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 66. Viện Nghiên cứu Khoa học Tổ chức Nhà nước - Bộ Nội Vụ (2004), Hệ thống chính trị cơ sở - Thực trạng và một số giải pháp đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 67. Tô Huy Rứa, Nguyễn Cúc, Trần Khắc Việt (đồng chủ biên) (2003), Giải pháp đổi mới hoạt động của hệ thống chính trị ở các tỉnh miền núi nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docHệ thống chính trị cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Lào Cai.doc
Luận văn liên quan