Hiệp định thương mại Việt – Mỹ - Cơ hội và thách thức đối với hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Mỹ

Lời nói đầu Dệt may được xem là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn trong nền kinh tế nước ta (giá trị xuất khẩu đừng thứ hai sau dầu thô). Trong những năm qua (đặc biệt là từ năm 1995) mặc dù kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt nam liên tục tăng trưởng mạnh, song những khó khăn thách thức còn nhiều. Do vậy để dạt được mục tiêu xuất khẩu theo quy hoạch tổng thể của ngành dệt may Việt nam đến năm 2005 khoảng 4 tỉ USD cả năm 2010 là khoảng 7 tỉ USD đòi hỏi ngành phải duy trì và đạt được mức tăng trưởng liên tục 14%/năm. Hiệp định thương mại Việt nam-Hoa kỳ có hiệu lực, hàng hoá xuất khẩu Việt nam sang Mỹ sẽ được hưởng quy chế thương mại bình thường (NTR). Đó là một điều kiện thuận lợi cho ngành dệt may phát triển. Tuy nhiên là thách thức không nhỏ đối với việc xuất khẩu hàng dệt may Việt nam sang thị trường Hoa kỳ. Dó là những vấn đề cấp bách đòi hỏi chúng ta phải xem xét kỹ lưỡng những cơ hội và thách thức cho hàng dệt may Việt nam khi xâm nhập vào thị trường Hoa kỳ mà hiệp định thương mại Việt nam-Hoa kỳ mang lại. Xuất phát rừ những vấn đề lý luận trên và những kiến thức đã được học, em quyết định chọn đề tài " Hiệp định thương mại Việt – Mỹ. Cơ hội và thách thức đối với hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Mỹ" để nghiên cứu. Mục lục Trang Lời nói đầu 1 Nội dung 2 Chương 1: Những quy định pháp lý đối với việc nhập khẩu hàng dệt may của Hoa Kỳ 2 1. Những cơ quan liên quan tới hoạt động xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Hoa Kỳ 2 2. Luật điều tiết nhập khẩu hàng dệt may vào thị trường Hoa Kỳ 3 2.1 Quy định chung hiệp định đa sợi - MFA 3 2.2 Quy định hệ thống hạn ngạch hàng dệt may hk 4 2.3 Các loại thuế đánh vào hàng dệt may nhập khẩu 5 3. Quy chế về nhãn mác hàng dệt may 6 4. Quy định xuất sứ hàng dệt may 7 Chương 2 : Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Hoa Kỳ trong thời gian qua 8 1. Thực trạng ngành dệt may Hoa Kỳ 8 2. Đánh giá chung về vị trí xuất khẩu hàng dệt may trong cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu nói chung của Việt Nam trong những năm qua và trong thời gian tới 9 3. Tình hình xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Hoa Kỳ trước khi hiệp định Việt Nam - Hoa Kỳ có hiệu lực 11 4. Tác động của hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ tới hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Hoa Kỳ 12 5. Đánh giá ảnh hưởng của hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ đối với các Doanh nghiệp dệt may Việt Nam khi xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ 14 5.1 Cơ hội của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam 14 5.1.1 Cơ hội được tiếp cận thị trường lớn và hấp dẫn nhất 14 5.1.2 Cơ hội thu hút vốn đầu tư phát triển ngành công nghiệp dệt may 16 5.1.3 Cơ hội việc làm, nâng cao chất lượng lao động 17 5.2 Thách thức của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam 18 5.2.1 Về tiêu chuẩn chất lượng hàng dệt may Việt Nam 18 5.2.2 Cạnh tranh khốc liệt tại thị trường Mỹ 20 5.2.3 Quan hệ thương mại trở nên phức tạp 22 Chương 3: Đánh giá chung, triển vọng phát triển và một số giải pháp chiến lược 24 1. Đánh giá chung về triển vọng phát triển 24 2. Giải pháp chiến lược 27 Kết luận 30 Tài liệu tham khảo 31 Mục lục 33

doc33 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3080 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hiệp định thương mại Việt – Mỹ - Cơ hội và thách thức đối với hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iên hiệp định đa sợi. 2.2. Quy định hệ thống hạn ngạch hàng dệt may Hoa kỳ. Tính đến năm 1998 Hoa kỳ đã ký hiệp định song phương với 45 nước, trong đó có 37 nước là thành viên của WTO và hiệp định này được xây dưng trên cơ sở thương lượng với thời hạn có hiệu lực từ 3-6 năm. Về cơ bản, mức quota nhập khẩu hàng dệt may vào thị trường Hoa kỳ sẽ được xác định dựa trên cơ sở giá trị hay khối lượng hàng dệt may đã được đưa vào Hoa kỳ tại thời điểm đàm phán. Nếu khối lượng hàng dệt đưa vào Hoa kỳ đạt 100.000tá sản phẩm thì Hải quan của Hoa kỳ bắt đầu theo dõi và khi khối lượng nâng đến 200.000tá sản phẩm thì Chính phủ Hoa kỳ sẽ chính thức đề nghị đàm phán để xác định hạn ngạch nhập khẩu. Như vậy, để Việt nam có thể nhận được hạn ngạch nhập khẩu lớn thì trong 1-2 năm đầu kể từ khi hiệp định có hiệu lực các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm dệt may phải nỗ lực tối đa để đưa khối lượng hàng hoá lớn sang thị trường này. Trên thực tế ở Mỹ khi đã thoả thuận các hiệp định về hàng dệt may song phương thì không áp dụng hạn ngạch. Tuy nhiên Chính phủ Mỹ có quyền đơn phương áp đặt hạn ngạch trong những trường hợp nhất định. Có hai loại hạn ngạch: Hạn ngạch tuyệt đối- Absolute quota. áp dụng cho một lượng hàng hoá nhất định được nhập khẩu vào Mỹ trong một giai đoạn nhất định. Mỹ áp dung hạn ngạch tuỳ theo từng Quốc gia. Trong trường hợp nhập khẩu qua hạn ngạch thì phần vượt quá sẽ được giữ lại trong kho ngoại quan và chờ cho tới gia hạn ngạch trong thời gian tới hoặc phải được huỷ bỏ dưới sự chứng kiến của hải quan. Thông thường các hiệp định thương mại có xu thế mở rộng hạn ngạch. Hạn ngạch thuế là áp dụng một mức thuế ưu đãi cho một lượng nhất định các sản phẩm dệt may nhập khẩu vào Mỹ. Trong thời gian có hiệu lực của hạn ngạch, người ta không giới hạn lượng hàng nhập khẩu nhưng vượt quá số lượng cho phép trong hạn ngạch sẽ chịu một mức thuế cao hơn. Giấy phép nhập khẩu hàng dệt (visa liciense hàng dệt) là việc các quốc gia xuất khẩu hàng vào Mỹ phải xác nhập trên hoá đơn hay giấy phép xuất khẩu về hàng hoá của mình. Điều này được sử dụng để hạn chế việc hàng hoá nhập khẩu vào Mỹ không xác định rõ chủ sở hữu. Visa có thể áp dụng cho hàng có hạn ngạch hoặc không có hạn ngạch. Tuỳ vào nước xuất khẩu mà hàng hoá có hạn ngạch sẽ được áp dung đồng thời với visa hay không. Có visa cũng không phải là điều kiện đủ để hàng hoá có thể vào thị trường Mỹ. Trong trường hợp hết hạn ngạch thì mặc dù hàng có visa vẫn phải chờ cho tới khi hạn ngạch được mở tiếp ELVIS- Electronic Visa information System là hệ thốnng quản lý visa bằng điện tử của dịch vụ hải quan Mỹ với các sản phẩm dệt nhất định xuất khẩu sang Mỹ. 2.3. Các loại thuế đánh vào hàng dệt may nhập khẩu. Các loại thuế đánh vào hàng dệt may nhập khẩu được quy định trong bảng thuế HTS (Hamonized Taiff System) của Mỹ. HTS phân loại hàng hoá thành mã 6 chữ số. Bảng thuế xuất nhập khẩu của Hoa kỳ được chia thành 2 cột thuế suất: Cột 1 áp dụng đối với những nước đã được nhận chế độ tối huệ quốc-MFN. Cột này được chia thành 2 cột thuế suất phổ thông áp dụng đối với các nước được hưởng MFN đơn thuần và cột thuế suất ưu đãi hơn áp dụng đối với các nước được áp dụng MFN đồng thời lại được hưởng chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập-GSP; cột 2 áp dụng đối với các nước chưa được hưởng chế độ MFN. Thuế suất tại cột này thường cao hơn rất nhiều so với cột 1 vì nó được quy định từ năm 1930 tại đạo luật thuế nhập khẩu Smooth-Hawley nhằm bảo hộ ở mức cao sản xuất trong nước. Định giá tính thuế nhập khẩu hàng hoá-Nguyên tắc chung là đánh thuế theo giá giao dịch, nhưng giá giao dịch ở đây không phải là giá trên hoá đơn mà phải cộng nhiều chi phí khác như: tiền đóng gói, tiền hoa hồng cho trung gian (nếu người mua phải trả), tiền máy móc thiết bị của các nhà nhập khẩu mua cấp cho nhà sản xuất để giúp đỡ nhà sản xuất làm ra được món hàng cần đặt, tiền lệ phí bản quyền, tiền thưởng thêm cho người bán (nếu có)… Ngoài ra giá giao dịch để đánh thuế không tính phí vận chuyển và phí bảo hiểm lô hàng. Tuy nhiên, có nhiều trường hợp không nhập khẩuác định được giá giao dịch hoặc Hải quan Hoa kỳ không chấp nhận giá giao dịch để xác định thuế thì khi đó Hải quan Hoa kỳ sẽ phải dùng các nguyên tắc định giá khác như: định giá theo món hàng giống hệt tương tự; tính suy ngược (lấy giá bán lẻ trên thị trường trừ đi các chi phí để tính giá nhập khẩu; xác định giá thành (tính các chi phí để sản xuất ra món hàng để auy ra giá gần với giá nhập khẩu). 3. Quy chế về nhãn mác hàng dệt may: ở Mỹ có hai bộ luật quy định về nhãn mác hàng là TFPIA- Textile Fiber Product Labeling Act và WPLA- Wool Products Labeling Act. Hai bộ luật này được áp dung cho hầu hết các sản phẩm dệt may nhập khẩu vào Mỹ với một số quy định cụ thể như sau: Phân biệt tỉ trọng các loại sợi trong sản phẩm. Những loại sợi nào có tỷ trọng>5% thì phải được ghi rõ tỷ trọng từng loại và đề ra là “other liber” ở cuối, các loại sợi có có tỷ trọng nhỏ hơn hoặc bằng 5% sẽ được đề là “other libers”. Tên nhà sản xuất hoặc số hiệu đăng ký tại FTC cho những thành viên tham gia phân phối và buôn bán thành phẩm. Thương hiệu phải được đăng ký tại cơ quan sáng chế Mỹ (USPO-US patent office). Quy định ghi tên quốc gia sản xuất hay gia công sản phẩm được quy định trong điều luật về chứng thực sản phẩm dệt TPIA- Textile Products Indentifycation Act. Đối với những lô hàng nhập khẩu vào Mỹ có gía trị từ 500USD trở lên phải tuân thủ những điều kiện sau: liệt kê tên các loại sợi cấu thành sản phẩm (thường ghi tên loại sợi có tỷ trọng từ 5% trở lên); tỷ trọng các loại sợi cấu thành; tên quốc gia đăng ký theo FTC hoặc theo mục 3 của TFPIA; tên của quốc gia sản xuất hay gia công sản phẩm đó. Riêng đối với các sản phẩm len dạ thì co quy định riêng trong WPLA. Theo đó các sản phẩm len dạ phải ghi rõ: tỷ trọng các loại sợi và len cụ thể cho len, len tái sinh, sợi có tỷ trọng > 5% và tổng tỷ trọng của các laọi sợi còn lại; trọng lượng tối đa của sản phẩm và tên quốc gia sản xuất hay gia công sản phẩm. 4. Quy định xuất xứ hàng dệt may. Trong trường hợp sản phẩm được sản xuất hoặc gia công từ một quốc gia duy nhất, trên bao gói sản phẩm phải ghi rõ: số và nhãn mác đăng ký, tên quốc gia sản xuất hay gia công sản phẩm đó, thành phần cấu tạo và phẩm chất, ngày xuất khẩu. Trong trường hợp sản phẩm được hình thành từ nhiếu quốc gia, các thông tin yêu cầu là: số và nhãn mác đăng ký xác nhận việc sản xuất hay gia công, tên quốc gia gia công hoặc sản xuất, ngày xuất khẩu và nguyên liệu sử dụng. Những quy định bắt buộc cho các sản phẩm dệt may không chịu kiểm soát của điều 204 FFA- Flamable Fabric Act là: số nhãn mác đăng ký, miêu tả thành phần cấu tạo và phẩm chất, nguồn gốc xuất xứ của hàng. Có một quy định đặc biệt là hàng hoá gốc từ Hoa Kỳ đưa sang nước khác sắp xếp lại, gia công thêm, đóng gói khi nhập khẩu cho phần nguyên liệu có gốc Hoa Kỳ sẽ không phải đóng thuế nhập khẩu tài nguyên. Dựa vào quy định này một số nước nhận vải cắt sẵn của từ các công ty của Hoa Kỳ cung cấp may thành quần áo rồi xuất khẩu trở lại cho Hoa Kỳ chỉ phải chịu thếu đối với phần phí gia công. Chương 2 : Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ trong thời gian qua. 1.Thực trạng ngành dệt may Mỹ. Ngành dệt may đang là một trong những ngành kinh doanh khó khăn của Mỹ, vấn đề tài chính đang là nỗi lo lớn nhất của ngành. Các nhà phân tích cho rằng sự suy giảm của của ngành dệt may Mỹ liên quan đến các vấn đề cơ bản như: giá sản phẩm giảm, kinh tế suy thoái, lạm phát. Giá bông giảm xuống tới múc thấp nhất kể từ 15 năm nay, cộng với chi phí lao động ở nước ngoài giảm đang ảnh hưởng tới sức cạnh tranh cảu ngành dệt may Mỹ. Các hãng dệt tên tuổi của Mỹ như Wespoint Stevens Inc, Galey & Lord Inc, Burlington Industries IC và Cone Mills-Crop đều thông bó thua lỗ hàng quý gần đây vá dự kiến còn thua lỗ trong những tháng cuối năm. Kinh tế suy thoái là một trong những lý do chính dẫn đến sự thua lỗ này. Ngoài ra các công ty dệt lớn như Galey & Lord Inc và Cone phụ thuộc gián tiếp vào thời trang. Nếu các công ty như Levisstravss giảm thu nhập thì mức tiêu thụ vải Denim của hị sẽ giảm đi. Kinh doanh sa sút nên các công ty đều cso xu hướng giảm đầu tư, ngừng các kế hoạch mở rộng. Vì vậy ngành dệt may Mỹ đang đi xuống. Các thống đốc của 4 Bang sản xuất dệt lớn nhất Mỹ đã kiến nghị tổng thống George W.Bush ra luật thương mại và các kế hoạch khác nhằm chống lại cái gọi là khủng hoảng sâu rộng trong ngành dệt Mỹ. Theo chính quyền của Bang này thì những nỗ lục của ngành dệt may Mỹ trong việc hiện đại hóa và duy trì sức cạnh tranh đã bị lu mờ bởi làn sóng hàng nhập khẩu từ châu á với giá rẻ vào Mỹ trong những năm gần đây. Họ đã yêu cầo ngành dệt may Mỹ, giống như ngành thép, hãy hành động chống lại cuộc khủng hoảng sống còn này. Bao gồm cả việc hãy ra các đạo luật, các nguyên tắc chống mậu dịch phi pháp và cấm nhập từ những nước sử dụng lao động trẻ em (vi phạm SA 8000). Hiệp hội các nhà sản xuất hàng dệt Mỹ gần đây đã khởi xướng chiến dịch chống lại sự cạnh tranh từ phía nước ngoài. Họ cho rằng việc tiền tệ Châu á giảm đã làm giảm trung bình 40% chi phí hàng dệt may của các nước Châu á xuất sang Mỹ. Vải vóc và quần áo nhập lậu cũng đang là vấn đề đáng lo ngại với ngành dệt Mỹ. Hiệp hội ước tính hàng dệt may nhập lậu từ Châu á vào Mỹ mỗi năm lên tới 500 triệu USD, làm cho 600 ngàn người lao động trong ngành dệt Mỹ mất việc trong 12 tháng qua. Phần lớn vải nhập lậu vào Mỹ đến từ Trung Quốc. Và vì vậy Bộ thương mại Mỹ đề nghị ngành Hải quan giải quyết triệt để vấn đề này. Cho đên nay triển vọng của ngành dệt may Mỹ vẫn còn mờ mịt. Nhiều người cho rằng giai đoạn tồi tệ nhất của ngành vẫn chưa qua. 2. Đánh giá chung về vị trí xuất khẩu hàng dệt may trong cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu nói chung của Việt Nam trong những năm qua và trong thời gian tới. Từ năm 1993, xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam bắt đầu khởi sắc. Nếu như những năm đầu của thập kỷ 90 xuất khẩu dệt may mới ở những vị trí cuối của những mặt hàng xuất khẩu thì đến cuối năm 1996, 1997 đã vươn lên vị trí số 1 trong danh sách các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam. Và đến năm 1998 đã lùi xuống vị trí số 2, nhường cho mặt hàng dầu thô, xuất khẩu dệt may có ý nghĩa rất quan trọng là giải quyết được nhiều việc làm và phù hợp với đặc điểm phát triển kinh tế của Việt Nam hiện nay. Chính vì vậy có thể chọn lựa hàng dệt may để đưa mặt hàng này vào danh mục những mặt hàng xuất khẩu chiến lược của Việt Nam trong những năm tới. Hiện nay, mặt hàng dệt may chiếm tỷ trọng từ 20%-25% trong cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu nói chung. Theo số liệu thống kê thì giá trị xuất khẩu hàng dệt may từ năm 1995 tăng với tốc độ nhanh, cụ thể được thể hiện theo biểu đồ sau : Biểu đồ 1: Giá trị xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam (Đơn vị : Triệu USD) 2600 1975 1747 1892 1593 1440 1130 (*Theo thống kê của Tổng Công ty Dệt may Tạp chí Kinh tế và phát triển số 68, năm 2003) Như vậy trong cơ cấu xuất khẩu chung thì dự kiến nhóm hàng công nghiệp (Điện tử, dệt may, giày dép) sẽ phải nâng tỷ trọng lên đạt trên 40% vào năm 2010 trong cơ cấu xuất khẩu chung. Trong đó Chính Phủ rất kỳ vọng vào ngành dệt may, nếu các doanh nghiệp biết tận dụng lợi thế của mình chắc chắn năm 2005 kim ngạch xuất khẩu dệt may Việt Nam sẽ đạt 4-5 tỷ USD và đến năm 2010 là 7-8 tỷ USD. Theo số liệu thống kê đến nay cả nước có 822 doanh nghiệp dệt may, trong đó doanh nghiệp quốc doanh là 231, doanh nghiệp ngoài quốc doanh là 270 và doanh nghiệp có vốn đầu tư nứoc ngoài là 211 và có năng lực như sau: -Về thiết bị: Có 1.050.000 cọc kéo sợi, 14.000 máy dệt vải, 450 máy dệt kim và 190.000 máy may. -Về lao động: Thu hút khoảng 1.600.000.000 lao động, chiếm 25% lực lượng lao động công nghiệp. Về thu hút đầu tư nước ngoài: Tính đến nay có khoảng 180 dự án sợi-dệt-nhuộm-đan-len-may mặc còn có hiệu lực với số vốn đăng ký đạt gần 1,85 tỷ USD trong đó có 130 dự án đã đi vào hoạt động, tạo việc làm cho trên 50.000 lao động trực tiếp và hàng ngàn lao động gián tiếp. Các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đã chiếm trên 30% giá trị sản lượng hàng dệt và trên 25% gí trị sản lượng hàng may mặc của cả nước. 3.Tình hình xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Hoa Kỳ trước khi hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ có hiệu lực. Mỹ là thị trường tiềm năng với sức mua lớn và đa dạng về sản phẩm dệt may. Châu á là khu vực xuất khẩu hàng may mặc lớn nhất sang thị trường Mỹ, tổng giá trị xuất khẩu năm 1999 là 30,8 tỷ USD chiếm 55% tổng chi phí nhập khẩu của Mỹ cho mặt hàng này. Có thể nói yếu tố quan trọng nhất giúp cho hàng may mặc của các nước đang phát triển thiết lập và củng cố vị trí vững chắc của họ trên thị trường Mỹ là nhờ lợi thế chi phí nhân công thấp nên lợi thế này đã góp phần làm cho chi phí sản xuất hàng may mặc của các quốc gia này thấp hơn tương đối so với các sản phẩm sản xuất tại Mỹ. Đây cũng chính là một yếu tố quan trọng đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc Việt Nam khi xem xét quyết định tiếp cận và thâm nhập thị trường đầy hấp dẫn này. Tuy nhiên hiện tại Việt Nam đang phải đối diện với sự cạnh tranh gay gắt từ các quốc gia khác đặc biệt là Trung Quốc. Các sản phẩm dệt may của Trung Quốc khi xuất sang Mỹ phải chịu áp dụng hạn ngạch tuy nhiên họ lại được hưởng chế độ MFN trong nhiều năm nay, thuận lợi hơn khi nước này chính thức là thành viên của tổ chức Thương mại Thế giới WTO. Điều này làm tăng lợi thế cạnh tranh nhờ giá rẻ của các sản phẩm Trung Quốc. Khi hiệp định Việt Nam – Hoa Kỳ chưa có hiệu lực thì mặc dù Hoa Kỳ không áp dụng hạn ngạch đối với hàng dệt may Việt Nam nhưng áp dụng mức thuế phi MFN làm cho giá cả hàng dệt may Việt Nam cao hơn và kém tính cạnh tranh. (Mức thuế phi MFN cho hàng dệt may thường cao gấp 2,5 lần mức thuế xuất MFN. Bảng 1: Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Mỹ. (Đơn vị:1000USD) Năm Loại hàng 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Hàng dệt Hàng may mặc Tổng Tốc độ tăng trưởng(%) 0,11 2,45 2.56 1,78 15,09 16,87 559 3,59 20,0 23,6 39,9 5,326 20,602 25,928 9,75 5,035 21,34726,4 1,97 5,83 28,97 34,7 31,44 6,212 31,253 37,456 7,95 (* Nguồn:Bộ thương mại Mỹ. Tạp chí Kinh tế và phát triển tháng 11/2001) Như vậy mặc dù sản phẩm dệt may Việt Nam đã bắt đầu tìm thấy hy vọng trên thị trường Mỹ nhưng kết quả bảng trên cho thấy nó chưa có được vị trí vững chắc trên thị trường đầy hấp dẫn này. Năm 2001 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường này đạt 48 triệu USD. Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ đã được ký kết đã mở ra triển vọng mới cho quan hệ thương mại hai nước, dỡ bỏ sự phân biệt đối sử với hàng hoá Việt Nam khi thâm nhập thị trường Mỹ, hạ thấp hàng rào thuế quan xuống mức bình thường. Như vậy hàng dệt may Việt Nam, một trong những mặt hàng xuất khẩu mũi nhọn sẽ có cơ hội tiếo cận và cạnh tranh bình đẳng trên thị trường Mỹ. 4. Tác động của hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ tới hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Hoa Kỳ. Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ không chỉ đưa lại những cơ hội trực tiếp cho việc xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường Mỹ như thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế của Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp của Việt Nam tiếp cận một thị trường lớn nhất thế giới, hàng hoá của Việt Nam sẽ được hưởng các mức thuế ưu đãi góp phần tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ, và phát triển thương mại toàn diện cả về bề rộng và chiều sâu mà còn tác động gián tiếp đến hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ trong dài hạn như tăng năng lực và khả năng xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Bảng 2: Thuế nhập khẩu hàng dệt may vào Mỹ Tên sản phẩm Thuế suất % Thuế MFN Thuế phi MFN Sản phẩm may mặc 13,4% 68,5% Sản phẩm dệt 10,3% 55,1% (*Nguồn: Bộ thương mại Mỹ. Tạp chí Phát triển kinh tế tháng 5/2002.) Nhìn chung xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào cả hai khu vực thị trường có sử dụng hạn ngạch và phi hạn ngạch có tăng nhưng chưa tương xứng với Việt Nam. Về mặt hàng sản xuất theo phương thức gia công vẫn là chủ yếu và gia công xuất khẩu thường có xu hướng biến động từ 15%-20%/năm nên đã giảm sút đáng kể kim ngạch xuất khẩu của hàng dệt may. Nguyên phụ liệu cho hàng dệt may nước ta chủ yếu vẫn phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu nên luôn thiếu sự chủ động trong đầu vào. Chất lượng nguyên phụ liệu sản xuất trong nước còn kém. Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ có hiệu lực vào ngày 10-12-2001 là cơ hội bằng vàng cho ngành dệt may Việt Nam. Hiệp định có hiệu lực và thịo trường được mở rộng cho phép hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ được hưởng quy chế tối huệ quốc (MFN hoặc NTR) và có khả năng phía Mỹ sẽ dành cho Việt Nam quy chế thuế quan ưu đãi phổ cập- GSP với thuế xuất 0%. Đây là cơ hội tiên quyết để hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Mỹ mà không bị hạn ngạch hoặc giấy phép nhập khẩu của Chính Phủ Mỹ đang áp dụng đối với các nước khác, lợi thế này chỉ có thể kéo dài trong vòng một năm kể từ khi hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ có hiệu lực. Song nếu biết tận dụng thì các doanh nghiệp dệt may Việt Nam có thể đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường này. Các điều kiện trên đã được chứng minh bởi hiệu quả của nó trong 3 quý đầu của năm 2002 (hiệu quả của ngay sau khi hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ có hiệu lực ngày 10-12-2001) và cũng được dự báo ngay sau 1 năm thực hiện hiệp định. Chủ tịch hội dệt may Việt Nam ông Lê Quốc Ân dự báo ngay năm đầu tiên sau khi hhiệp địnhtm Việt Nam-Hoa Kỳ có hiệu lực kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ sẽ gia tăng tương đương 800triệu USD, gấp 16 lần so với năm 2001 là 48 triệu USD. Mức tăng trưởng trên hoàn toàn trong tầm tay bởi vì chỉ riêng 9 tháng đầu năm giá trị xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào Mỹ đạt 480 triệu USD, và đến hết tháng 10 năm 2002 con số này là 620 triệu USD. Lượng xuất khẩu sang thị trường Mỹ là 25%, cao nhất là thị trường EU 40%. Trong năm nay dự tính tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam đạt 2,5 tỷ USD, cao hơn mục tiêu là 2,4 tỷ USD. Một so sánh khác, ông Theresa Quesso, chuyên viên thuế quan phân ban dệt may tại cửa khẩu Los Angeles, dự kiến nguồn hàng khổng lồ từ Việt Nam sang sẽ thâm nhập thị trường Mỹ"Khi Camphuchia khởi động Thương mại với Mỹ trên quy chế quan hệ Thương mại bình thường - NTR, đã diễn ra một sự bùng nổ hàng dệt may nhập khẩu từ Camphuachia vào thị trường Mỹ, từ 7,7 (Triệu USD) năm 1996-1997 lên 171 (Triệu USD) năm 1997-1998, tức là gấp 22 lần. So với Camphuchia hàng dệt may Việt Nam có nhiều ưu thế". 5. Đánh giá ảnh hưởng của hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ đối với các doanh nghiệp dệt may Việt Nam khi xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ. 5.1. Cơ hội của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. 5.1.1 Cơ hội được tiếp cận thị trường Mỹ lớn nhất và hấp dẫn nhất. Mỹ là một trong những nước có sức tiêu thụ hàng may mặc lớn nhất thế giới. Hiện nay dân số khoảng 270 triệu người, tổng sản phẩm quốc nội lên tới 10.000 tỷ USD/năm, trong đó 80% dành cho tiêu dùng, Mỹ là nước có nền kinh tế mạnh nhất, là thị trường có sức mua lớn nhất thế giới. Nền kinh tế Mỹ tăng trưởng ổn định trong thập kỷ 90 và những năm qua. Thanh thiếu niên Mỹ hiện nay đang trở thành lực lượng tiêu dùng quan trong ở Mỹ. Lứa tuổi thanh niên hiện nay có thu nhập cao hơn, chi tiêu nhiều hơn so với trước đây, và tỷ lệ dành cho mua sắm quần áo cũng rất lớn. Lứa tuổi này trú trọng đến quần áo hợp thời trang và “đồ hiệu”, đồng thời, họ cũng rất nhanh chónh thích hợp với kiểu bán hàng mới trên mạng, tạo ra cơ hội cho các doanh nghiệp ban hàng qua internet. Lứa tuổi từ 45 trở lên chiếm 34% tổng dân số Mỹ, và dự đoán sẽ tăng lên vào năm 2005. Những người thuộc lứa tuổi này có xu hướng dành tỷ lệ chi tiêu lớn hơn cho mua nhà, chi phí học đại học của con cái và các khoản tiết kiệm khi về hưu. Sự cắt giảm tỷ lệ chi tiêu cho mua sắm quần áo buộc họ phải tìm những sản phẩm một mặt vẫn đáp ứng được nhữnh giá trị mà họ mong muốn, nhưng quan trọng hơn nó phù hợp với khoản tiền đã dự định chi tiêu. Mặc dù vậy họ vẫn là nhóm người chi một tỷ lệ rất lớn trong tổng mức tiêu thụ quần áo. Sự gia tăng số lượng người ở lứa tuổi 45 trở lên cũng là một dấu hiệu lớn cho các nhà sản xuất may mặc. Nhóm người tiêu dùng này ít quan tâm tới thời trang và chú ý nhiều hơn đến sự thoải mái và tiện dụng, phù hợp với lối sống và sinh hoạt của họ. Một xu hướng đang làm thay đổi về nhu cầu may mặc là người tiêu dùng có ít thời gian đến cửa hàng hơn trước. Xu hướng này làm tăng thị phần của các loại quần áo và hàng trang trí (như rèm, thảm… ) bán qua thư và internet. Một yếu tố nữa phải kể đến là sự thay đổi các quy định trong công sở và thói quen làm việc. Gần đây ngày, có nhiều công ty chấp nhận cho nhân viên của họ mặc áo tự do thay vì mặc đồng phục, cùng với sự gia tăng số lượng người làm việc tại nhà, cũng tạo ra sự thay đổi trong ngành sản xuất quần áo. Xu hướng mặc quần áo theo phong các tự do đã làm tăng nhu cầu đối với các loại quần áo thường, áo thể thao, sơ mi ngắn tay mặc thường, áo thun. Xu hướng này được dự báo sẽ còn phát triển. Năm 2000 Mỹ nhập khẩu 78,2 tỷ USD, chiếm 20% tổng số nhập khẩu hàng dệt may trên toàn thế giới. Do tác động của xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế Mỹ, ngành may mặc của nước này mất dần lợi thế so sánh. Đó là những điều kiện thuận lợi để ngành dệt may Việt Nam thâm nhập một thị trường hấp dẫn nhất thế giới này. 5.1.2. Cơ hộ thu hút vốn đầu tư phát triển ngành công nghiệp dệt may. Cơ hội lớn nhất là thông qua việc thục hiện các cam kết trong hiệp định, chúng ta có điều kiện hoàn thiện hệ thống pháp luật chính sách nhằm tạo lập môi trường đầu tư có tính hấp dẫn và cạnh tranh so với các nước trong khu vực. Các doanh nghiệp nước ngoài tìm thấy nguyên vật liệu hoặc nhân công rẻ ở nước ta, giúp cho họ giảm chi phí và giá thành sản phẩm, từ đó làm tăng khả năng cạnh tranh. Việc tăng cường thu hút đầu tư và chuyển giao công nghệ từ Mỹ và các nước tạo điều kiện để Việt Nam nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành. Nhiều nước và trước hết là các nước trong khu vực như Hàn Quốc, Nhật, Thái Lan… sẽ tăng cường đầu tư vào Việt Nam nhằm tạo dựng lợi thế so sánh. So với các ngành khác, vốn đầu tư để đổi mới thiết bị trong ngành dệt may nói chung tăng khá nhanh, đặc biệt là đối với ngành dệt may. Hiện nay tổng số vốn đầu tư của VINATEX đạt 4000 tỷ đồng. Tuy nhiên so với nhu cầu thì còn rất thấp. Trong 10 năm tới so với tính toán của các nhà kinh tế thì đầu tư cho ngành dệt may Việt Nam phải đạt ở mức 2-4 tỷ USD mới đạt được nhưng mục tiêu tăng tốc mà Chính Phủ đặt ra. Để thực hiện được mức đàu tư này cần phải huy động từ nhiều nguồn vốn, trong đó hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ có hiệu lặc tạo ra một điều kiện hết sức thuận lợi nhằm thu hút vốn từ các nha đầu tư và các tổ chức tín dụng nước ngoài cho hoạt động đầu tư và phát triển ngành dệt may. Nguồn vốn vay tập trung phát triển nguyên phụ liệu cho ngành, đặc biệt là cây bông vải, các hoá chất, thuốc nhuộm, các chất phụ trợ cho ngành dệt, phụ liệu cho ngành may, các sản phẩm dệt sử dụng cho ngành công nghiệp. Các sản phẩm dệt hiện nay chưa sản xuất được như, xơ sợi tổng hợp, vải kỹ thuật… Phát triển ngành dệt thành các cụm tập trung nằm trong khu chức năng nhằm giảm chi phí xây dựng cơ sở hạ tầng, giải quyết xử lý môi trường tập trung. Ngành may cần phát triển rộng khắp đến các vung thị trấn, thị tứ, những khu đông dân cư, nhằm kết hợp chiến lược phát triển ngành với sự nghiệp chức năng hoá hiện đại hóa nông thôn. Để làm được điều này thì phải cần một lượng vốn không nhỏ. 5.1.3 Cơ hội việc làm , nâng cao chất lượng lao động. Do đặc thù của ngành công nghiệp dệt may là sử dụng nhiều lao động. Do vậy, khi ngành dệt may phát triển sẽ tạo ra nhiều điều kiện để giải quyết một lượng lớn người lao động, đặc biệt là người lao động nhàn rỗi ở nông thôn, nhằm mục tiêu chức năng chức năng hoá nông thôn. Khi hiệp định thực thi sẽ tạo điều kiện cho xuất khẩu, kích thích việc chuyển giao công nghệ, giúp cho người lao động tiếp cận được với trình độn quản lý tiên tiến, phong cách làm việc khoa học và hiện đại. Khi xuất khẩu tăng sẽ tạo điều kiện mở rộng sản xuất, đa dạng hoá ngành nghề, tăng cơ hội việc làm. Hiện nay ngành dệt may thu hút được khoảng 1,6 triệu lao động, chiếm khoảng 26% lựclượng lao động công nghiệp, ngoài ra còn hàng ngàn lao động gián tiếp. Mục tiêu chiến luợc đến năm 2010 ngành dệt may thu hút 2,5-3 triệu. Phát triển nguồn nhân lực, đây là yếu tố then chốt, quyết định một phần quan trọng đến thành công của chiến lược phát triển ngành dệt may Việt Nam. Có 4 giải pháp để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đó là: Huy động nguồn nhân lực từ các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hiệu quả để bổ xung cho các đơn vị gặp khó khăn. Mở rộng và nâng cao chất lượng đào tạo trong và ngoài nước tại các trường đại học, cao đẳng, day nghề, tổ chức các khoá liên kết đào tạo, đầu tư cho các trường dạy nghề thuộc công ty, dành một phần kinh phí thích đáng để tổ chức đào tạo nước ngoài… Cập nhật những tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ thông qua các công trình, dự án đầu tư. Có thể thuê các nhà quản lý, chuyên gia kỹ thuật nước ngoài để giải quyết khó khăn cho một số công ty, hoặc quản lý các dự án mới. Nguồn nhân lực tốt là một đảm bảo cho sự phát triển lây dài và bền vững. Vì vậy dể đáp ứng nguồn nhân lực có tay nghề cho ngành dệt may đến năm 2010 là hết sức cần thiết và cấp bách, là một vấn đề lớn và khó khăn đối với các doanh nghiệp dệt may và các trường đào tạo dạy nghề và quản lý. Ngành dệt may cần một đội ngũ lớn các công nhân lành nghề, cán bộ quản lý, kỹ sư thực hành, nhà thiết kế thời trang, thiết kế mẫu mã cho đến giám đốc doanh nghiệp và cán bộ quản lý cao cấp. Do vậy còn phải có biện pháp đào tạo thích hợp để đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của thị trường (có thể thông qua các biện pháp trên). Để xây dựng năng lực đào tạo công nhân và cán bộ, Mỹ có thoả thuận với Việt Nam về lĩnh vực này, nhằm tạo ra một lợi thế của Việt Nam về nguồn nhân lực, giúp cho họ có đủ khả năng để các doanh nghiệp đi vào các mặt hàng có giá trị cao. Nhưng trước mắt buộc các doanh nghiệp phải thực hiện cho được 3 tiêu chuẩn: hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000; hệ thống quản lý chất lượng môi trường ISO 14000 và hệ thống tiêu chuẩn trách nhiệm xã hỗi SA 8000, mà yếu tố quyết định là nguồn nhân lực. 5.2.Thách thức của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. 5.2.1 Về tiêu chuẩn chất lượng của hàng dệt may Việt Nam. Ba yếu tố quyết định kảh năng cạnh tranh là chất lượng, giá cả và “nghệ thuật bán hàng”, trong đó chất lượng được coi là yếu tố quan trọng. Thiết bị ngành dệt đã được đổi mới khoảng 40-50%, trình độ tự động hoá chỉ đạt ở mức trung bình, còn nhiều công đoạn thủ công nên chất lượng sản phẩm không ổn định. Đặc biệt trình độ công nghệ dệt còn lạc hậu so với các nước tiên tiến trong khu vực khỏng 10-15 năm. Ngành mong đổi mới được khá hơn khoảng 90-95% số thiết bị. Tuy vậy, khả năng tự động hoá trong quá trình sản xuất chỉ đạt ở mức trung bình. Công nghệ cắt may còn lạc hậu. Năng lực thiết kế thời trang, tạo mẫu mốt, thiết kế thời trang còn quá yếu, công nghệ tạo mẫu mốt, thiết kế thời trang của Việt Nam còn đang ở giai đoạn bước đầu, chưa định hình được bản sắc, khả năng cạnh tranh cả trong thị trường trong nước và quốc tế đều hạn chế. Chất lượng phụ còn là một khái niệm tương đối. Ngoài ra do giá nguyên phụ liệu như bông sơ, hoá chất, thuốc nhuộm.. ngoại nhập còn quá cao, chất lượng không ổn định cộng vơi ta chưa chủ động được hoàn toàn nguồn đầu vào này làm cho chất lượng sản phẩm đôi khi không thống nhất, kịp thời, giá thành nguyên vật liệu dẫn đến đội giá thành của sản phẩm. Giá sản phẩm dệt may của chúng ta thường cao hơn giá cùng loại của các nước trong khu vực khoảng 10-15%. Để giảm giá các nhà sản xuất cần tiến hành cải tiến hệ thống quản lý, dây truyền sản xuất, nâng cao tay nghề kỹ thuật vận hành và sử lý công việc của người lao động nhằm tăng năng suất đông thời áp dụng các biện pháp khác nhau để tiết kiệm mọi loại dư phí sản xuất. So với 10 năm trước đây “nghệ thuật bán hàng” của chúng ta đã khá hơn rất nhiều. Song vẫn là điểm yếu so với các nước trong khu vực. Đội ngũ tiếp xúc thương mại, tiếp thị, hệ thống nhân viên bán hàng còn yếu cả về chất lượng lẫn số lượng. Rất nhiều doanh nghiệp chưa thiết lập được mạng lưới trao đổi thong tin, hệ thống phân phối cả trong nước và trên thế giới, đặc biệt là thị trường Mỹ, một thị trường tiềm năng hấp dẫn nhưng cũng khá khó tính về chất lượng. Hạn chế này đã ảnh hưởng đến khả năng phản ứng nhanh, khả năng xoay chuyển tình thế của các doanh nghiệp. Để giải quyết vấn đề này, các doanh nghiệp cần sớm xây dựng đội ngũ bán hàng tiếp thị có kỹ năng cao. Thiết lập văn phòng đại diện tại Mỹ, tổ chức các hội trợ nhằm giới thiệu sản phẩm. Thị trường Mỹ đòi hỏi chất lượng rất gay gắt (đáp ứng tiêu chuẩn +/-ISO 9000, SA 8000…) nhưng hiện nay nhiếu doanh nghiệp dệt may nước ta không đáop ứng được yêu cầu này. Một số doanh nghiệp xuất khẩu sang Mỹ chủ yếu là mặt hàng sơ chế cấp thấp, giá trị gia tăng không cao. Trình độ công nghệ không cao nên chất lượng hàng hoá cong thấp và không đồng đều. Các mặt hàng lại không đa dang về kiểu dáng, mẫu mã. Do vậy sản phẩm của những doanh nghiệp này chưa hấp đãn được người tiêu dùng Mỹ, và trong nhiều trờng hợp không vượt qua được các tiêu chuẩn kiểm định nghiêm ngặt. Đó là một nhược điểm lớn mà cần phải có các biện pháp khắc phục kịp thời để đạt được mục tiêu xuất khẩu mà ngành đặt ra. 5.2.2.Cạnh tranh khốc liệt tại thị trường Mỹ. Ngành may gia công sẽ nhường chỗ cho ngành may cao cấp với các nhãn hiệu nổi tiếng và nhân công có tay nghề cao. Vì thế có thể đánh giá Mỹ là mảnh đất lý tưởng vag là thị trường đầy tiềm năng đối với các nước sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may chức năng trong đó có Việt Nam. Trước hết là các thành viên của ASIAN đặc biệt là 6 thành viên cũ. Các nước này có lợi thế là có sẵn thị trường tiêu thụ, giá thành sản xuất cũng không cao lằm. Các nước này hầu hết là tự túc được nguyên liệu và các phụ kiện có chất lượng cao, giá trị tài sản cố định đã được khấu hao nhiều năm nên giá thành sản phẩm giảm. Hơng nữa hang dệt may của các nước ASIAN đã có nhiều nhãn hiệu quen thuộc, có uy tín trên thị trường thế giới. Philipin vốn đã nổi tiếng trên thế giới về sản phẩm may mặc có chất lượng cao. Thời gian giao hàng đúng hạn, giá cả cạnh tranh, nhất là những mặt hàng thêu ren bằng tay. Đặc biệt là quần áo trẻ em, quần áo phụ nữ của Philippin đã nổi tiếng trên thị trường Mỹ từ nhiều năm nay vàe chất lượng cao. Còn ngành dệt may của Singapore đã phát triển đến hình thức kép tức là họ chỉ sản xuất những đơn đặt hàng phức tạp, còn những đăn đặt hàng đơn giản thì họ chuyển giao cho các nước có gia nhân công rẻ hơn trong khu vực. Bảng3: Hệ số lợi thế so sánh giữa các nước ASIAN. Tên quốc gia Sợi, chỉ, vải, dệt Quần áo Indonesia Malaysia Philipines Singapore ThaiLan ViệtNam 1,6 0,4 0,4 0,2 1,2 1,8 2,1 1,4 4,4 0,5 2,2 3,1 (* Nguồn: Báo cáo của WB, đánh giá tác động của Việt Nam gia nhập AFTA. Tạp chí phát triển kinh tế tháng 5/2002.) Ngoài ra chúng ta phải kể đến các đối thủ cạnh tranh “nặng cân tai thị trường Mỹ là Trung Quốc, Mexico, Đài Loan, Hồng Kông, Hàn Quốc, Canada, các nước vùng Caribe và một số quốc gia EU. Một đối thủ cạnh tranh nguy hiểm nhất đối với ngành dệt may Việt Nam chính là Trung Quốc. Nước này vốn đã sản xuất và xuất khẩu tơ lụa từ hàng nghìn năm nay, hiện là nhà cung cấp lớn nhất thế giới về vải lụa tơ tằm (chiếm 2/3 tổng sản lượng của thế giới). Ngay từ năm 1998, Trung Quốc đã xuất khẩu tới 40 tỷ USD hàng dệt may. Trung Quốc có lợi thế giá nhân công rẻ lại tự túc được nguyên liệu do có diện tích trồng bông lớn và có truyền thống về ngành dệt từ lâu đời. So với Việt Nam, giá cả lao động trong ngành dệt may ở Trung Quốc rẻ hơn (tiền lương ngành dệt may Trung Quốc bình quân 45USD/người/tháng, ở Việt Nam 79USD/người/tháng). Nên ngay tại thị trường Việt Nam hàng lậu của Trung Quốc đã tràn ngập. Bên cạnh đó, Trung Quốc đã được hưởng quy chế tối huệ quốc của Mỹ tè nhiều năm nay nên đã chiếm lĩnh được thị trường quan trọng này. Ngay cả vào thị trường Nga, tuy gia nhập thị trường Mỹ muộn nhưng hàng Trung Quốc ngày càng chiếm ưu thế, tiến liên tục, chất lượng tốt hơn và giá cả phải chăng, dễ chấp nhận, Hơn nữa Trung Quốc đã trở thành thành viên của WTO lại càng có nhiều điều kiện để chiếm lĩnh thị trường dệt may thế giới. Theo tính toán của các nhà kinh tế, chỉ làm thành viên của WTO đã làm cho kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Trung Quốc tăng lên 24 tỷ USD trong 5 năm tới. Các nước Nics cũng là đối thủ quan trọng trong sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may trên thế giới, nhưng do giá đất, giá nhân công nhgày cang đắt nên xu hướng chung là chuyển về những nước có chi phí thấp hơn như Trung Quốc, và các nước ASIAN. Bên cạnh đó, ấn Độ cũng là nhà sản xuất tơ lụa có tiếng mà các doanh nghiệp Việt Nam phải tính đến khi tham gia thị trường Mỹ. Và chính các doanh nghiệp dệt may của Mỹ cũng là một đối thủ của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam khi xuất khẩu sang thị trường này. Do chưa phải là thành viên của WTO nên hàng dệt may Việt Nam đang chịu hai bất lợi so với các nước xuất khẩu là thành vên của WTO: còn bị hạn chế bằng hạn ngạch theo các hiệp định song phương-kể cả sau năm 2004 (thời điểm chế độ kiểm soát nhập khẩu hàng dệt may bằng hạn ngạch được bãi bỏ hoàn toàn cho các nước thành viên WTO). Chịu thuế suất cao hơn ở nhiều thị trường, do các nước phát triển sẽ tăng cường hàng rào phi thuế quan khác để hạn chế bớt việc nhậo khẩu từ những quốc gia đang phát triển. Do vậy, từ cơ sở của hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ, đích đến sắp tới phải là gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. Có như vậy mới tăng được khả năng xuất khẩu sản phẩm dệt may với số lượng lứon trong tương lai. 5.2.3. Quan hệ thương mại trở lên phức tạp. Mỹ là nước có hệ thống pháp luật phức tạp nhưng chặt chẽ và khắt khe thuộc loại hàng đầu trên thế giới. Do tính nghiêm ngặt của luật pháp Mỹ nên các doanh nghiệp Việt Nam quen kiểu làm ăn chụp giật, luồn lách sẽ dễ mắc sai lầm, và phải trả giá đắt khi kinh doanh với Mỹ, các chức năng Việt Nam cần tìm hiểu công cụ, chính sách thương mại của Mỹ, nắm vững các đạo luật về môi trường, luật chống độc quyền, luật chống phá giá, luật về trách nhiệm sản phẩm, luật thuế bù giá, luật về nhãn hiệu hàng hoá và phát minh sáng chế…Tuy nhiên Việt Nam đã hưởng mức thuế suất theo quy chế NTR nhưng việc thâm nhập thị trường Mỹ vẫn có thể bị hạn chế bởi vô số trở ngại phi thuế quan khác. Việc áp dụng chế độ cấp hạn ngạch đối với hàng dệt may làm hạn chế tốc độ tăng trưởng của hàng dệt may Việt Nam. Quan hệ kinh tế-thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ còn chịu ảnh hưởng của những yếu tố chính trị bất lợi do một số thế lực thù địch ở Mỹ tạo ra. Dẫn chứng là gần đây đồng thời phê chuẩn phê chuẩn hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ, Hạ viện Mỹ đã thông qua cái gọi là “đạo luật nhân quyền Việt Nam”, gần đây hiệp hội cá da trơn Mỹ đã kiện Việt Nam bán phá giá cá Cha, Basa và không công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường thực sự. Đó là những minh chứng cho thấy quan hệ thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ ngày càng trở nên phức tạp, đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam cần phải tỉnh táo, xem xét để tránh bị động trong hoạt động thương mại nói chung và hoạt động xuất khẩu hàng dệt may nói riêng. Chương 3 : Đánh giá chung, triển vọng phát triển và một số giải pháp chiến lược. 1.Đánh giá chung và triển vọng pháp triển. Việc ký hiệp định song phương hoặc đa phương của Chính phủ chỉ có tác dụng “tạo hành lang pháp lý môi trường thuận lợi”. Vấn đề cốt lõi vẫn là sự nỗ lực của các doanh nghiệp nhằm tạo ra những sản phẩm có sức cạnh tranh (về chất lượng, giá cả). Tuy nhiên trong thời gian trước mắt doanh nghiệp cần sự hỗ trợ của Nhà nước từ chính sách ưu đãi đầu tư, trợ giúp xuất khẩu, mở thị trường mới và sản phẩm mới. Điều quan trọng đối với từng doanh nghiệp dệt may là phải xác định được đúng sản phẩm mũi nhọn có thế mạnh để đầu tư công nghệ mới gắn với thị trường theo lộ trình hội nhập sản phẩm dệt may đến năm 2005,2010. Ngày 24-4-2001 Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt chiến lược phát triển hang dệt may Việt Nam đến năm 2010 với các cơ chế chính sách cởi mở cho ngành dệt may phát triển. Hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ (BTA) có hiệu lực từ ngày 10-12-2001 là cơ hội bằng vàng cho ngnàh dệt may Việt Nam. Hiệp định BTA có hiệu lực và thị trường được mở rộng sẽ cho phép hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ được hưởng quy chế tối huệ quốc (MFN hoặc NTR) và có khả năng phía Mỹ sẽ dành cho Việt Nam quy chế thuế quan ưu đãi phổ cập-GSP với thuế suất 0%. Đây là cơ hội tiên quyết để hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Mỹ mà không bị hạn chế bởi hạn ngạch hoặc giấy phép nhập khẩu của Chính phủ Mỹ đang áp dụng với các nước khác, lợi thế này chỉ có thể kéo dài trong 1 năm kể từ khi hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ có hiệu lực. Song nếu biết tận dụng thì doanh nghiệp dệt may Việt Nam có thể đẩy mạnh xuất khẩu hang dệt may sang thị trường này Bảng 4: Các chỉ tiêu phát triển ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010 Chỉ tiêu Đơn vị tính Đến năm 2005 Đến năm 2010 1. sản xuất - Bông sơ tấn 30.000 80.000 - Xơ sợi tổng hợp tấn 60.000 120.000 - Sợi các loại tấn 150.000 30.000 - Vải lụa thành phẩm triệu m2 8000 1.400 - Dệt kim triệu sản phẩm 300 500 - May mặc triệu sản phẩm 780 1.500 2. Kim ngạch xuất khẩu triệu USD 4000-5000 8000-9000 3. Sử dụng lao động triệu người 2,5 – 3 4 - 4,5 4. Tỷ lệ giá trị sử dụng nguyên phụ lệu nội % >50% >75% 5. Nhu cầu vốn đầu tư phát triển tỷ đồng 35.000 30.000 Vốn đầu tư mở rộng tỷ đồng 23.200 20.000 Vốn đầu tư chiều sâu tỷ đồng 11.800 10.000 Trong đó VINATEX tỷ đồng 12.500 9.500 6. Vốn đầu tư phát triển bông tỷ đồng 1.500 (*Nguồn: VINATEX. Tạp chí phát triển kinh tế tháng 5/2002.) Lợi thế của ngành dệt may nước ta, đặc biệt là ngành dệt may xuất khẩu đang có lợi thế cần phải nhanh chóng tận dụng thời cơ đó để khai thác. So với các nước ASIAN, Việt Nam có đội ngũ lao động trình độ văn hoá khá, có khả năng tiếp thu nhanh khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại. Cơ hội quý báu để hàng dệt may Việt Nam thâm nhập vào thị trường Mỹ kể rừ sau sự kiện 11/9, nhiều đơn đặt hàng dệt may của Việt Nam từ những nước đạo hồi có kim ngạch xuất khẩu lớn đang được dịch chuyển sang những nước có tình hình chính trị ổn định như Trung Quốc, Việt Nam. Các tập đoàn lớn của Mỹ như: JC Penny, Nike đã chính thức đặt mối quan hệ với các doanh nghiệp dệt may Việt Nam may quần áo thể thao xuất khẩu sang Mỹ. Đồng thời các nhà đầu tư nước ngoài sẽ tập trung triển khai nhanh các dự án dệt may tại Việt Nam. Có thể nói đây là tín hiệu đáng mừng cho ngành dệt may Việt Nam. Tuy nhiên bên cạnh những cơ hội, ngành dệt may Việt Nam phải đối mặt với những thách thức lớn cần phải quan tâm là: Sức cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam còn thấp khi tiến hành hội nhập thị trường khu vực và thế giới. Một trong những nguyên nhân dẫn tới hiện tượng trên là hầu hết các loại chi phí cho một đơn vị sản phẩm cao từ 15-20% nên giá thành của sản phẩm dệt may chưa cạnh tranh được với Trung Quốc, Banglades, Parkistan. Năng suất lao động của ngành dệt may Việt Nam nhìn cung chỉ bằng 2/3 so với mức trung bình của các nước ASIAN, là do hoạt động kỹ năng của người lao động không đồng đều nen dẫn đến năng suất lao động thấp. Các chi phí về nguyên phụ liệu đều cao do công nghệ lạc hậu, mức tiêu hao lớn, hệ thống cung cấp đầu vào chưa kiểm soát chặt chẽ, chi phí trùn gian cao nên giá thành cao làm giảm khả năng cạnh tranh của hang dệt may Việt Nam. Theo lịch trình giảm thuế quan theo hiệp định về ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) cho khu vực mậu dịch tự do ASIAN (AFTA) nhiều mặt hang hiện nay đang được bảo hộ bằng thuế suất cao như sợi 20%, vải 40%, may 50% sẽ có sự cắt giảm liên tục tương đối nhanh còn 5% vào năm 2006. Thách thức lớn nhất và cũng là mối quan tâm lớn nhất hiện nay của Chính phủ cũng như các doanh nghiệp dệt may Việt Nam chính là sự đối mặt không chỉ là sự cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu sang các nước ASIAN mà ngay cả trên thị trường Việt Nam khi bắt đầu từ năm 2003 phải bỏ cả hạn ngạch định lượng nhập khẩu và từ 1/6/2006 bỏ toàn bộ các biện pháp phi bảo hộ bằng thuế quan. Theo hiệp định về hàng dệt may ATC, các nước chức năng phát triển như Mỹ, các nước EU, Canada sẽ bỏ dần hạn ngạch nhập khẩu hàng dệt may của các nước thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO) theo lộ trình vạch sẵn: giai đoạn 2002-2004 bỏ tiếp đựot 3: 18% (đợt 1: 16%, đợt 2: 17%) hạn ngạch so với năm 1990 và đến 31-12-2004 sẽ bỏ hết số hạn ngạch còn lại và điều này xảy ra, hầu hết các đối thủ cạnh tranh xuất khẩu dệt may lớn của Việt Nam như Trung Quốc gia nhập WTO sẽ có nhiều điểm thuận lợin nước ta. Phần lớn nguyên phụ liệu cho may xuất khẩu còn phải nhập khẩu, dẫn đến phần giá trị gia trăng thu về quá thấp chưa tương xứng với tiềm năng và không thuận lợi cho việc sản xuất khu đi bộ theo hình thức FOB. Công tác thiết kế mẫu mốt còn yếu, chưa được chú trọng, mặc dù nước ta có một đội ngũ các nhà thiết kế mẫu trẻ, giàu năng lực, thế nhưng mẫu mã thiết kế chưa thực sự đi vào cuộc sống, chủ yếu còn nặng về phần trình diễn, còn thời trang hàng ngày phần lớn lại được sưu tầm từ các catalogue nước ngoài, khâu thiết kế còn nhiều hạn chế, mẫu mã nghèo nàn, chưa xây dựng được thương hiệu mang nét đặc trưng và tầm cỡ quốc tế, và đó cũng là một trong những nguyên nhân khiến hàng dệt may Việt Nam dù có ưu thế nhưng vẫn chưa thể tự chủ để phát triển và hội nhập với thương trường quốc tế. Hầu hết các doanh nghiệp dệt may chưa có kinh nghiệm và thụ động trong hoạt động tiếp thị, chưa có chiến lược tiếp thị đối với hàng dệt may Việt Nam. Công tác xuc tiến thương mại chưa kết hợp khai thác sử dụng triệt để 4 công cụ: quảng cáo, xúc tiến bán hàng, bán hàng trực tiếp và tuyên truyền. 2.Một số giải pháp chiến lược. Dù trước mắt còn nhiều khó khăn bất lợi nhưng cần khẳng định rằng trong tương lai gần khả năng xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam vào thị trường Mỹ là rất lớn. Do vậy, ngay từ bây giờ các công ty sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam cần thực hiện một số giải pháp chiến lược để hướng tới và thâm nhập vào thị trường Mỹ. Theo đó, các giải pháp hàng đầu là: đổi mới và sử dụng công nghệ tiên tiến, sắp xếp lại quá trình sản xuất và quản lý theo hướng gọn nhẹ, linh hoạt, đào tạo nâng cao kỹ năng quản lý; tổ chức hệ thống thông tin kịp thời về nhu cầu và phát hiện nhu cầu mới trên thị trường, mà một trong các phương pháp tiếp cận là ngay từ bây giờ, các doanh nghiệp cần đẩy mạnh tiến độ tham gia thương mại điện tử, tiếp thị sản phẩm, chủ động trong khâu vận chuyển, đơn giản hoá mọi thủ tục, lành mạnh hoá tài chính, thiết lập đầu mối thương mại và chuẩn bị đối tác kinh doanh trên thị trường Mỹ. Theo các chuyên gia kinh tế, để tối ưu hoá lợi nhuận từ xuất khẩu, các doanh nghiệp cần tìm kiếm các hợp đồng để trở thành nhà thầu cung cấp thay vì làm gia công, ký hợp đông thầu cung cấp cho các công ty bán lẻ sẽ là phương án tối ưu đối với các nhà thầu xuất khẩu Việt Nam. Xu hướng tìm nguồn cung ứng từ nước ngoài của các công ty bán lẻ và chuyển dịch sản xuất sang các nước có chi phí nhân cônng thấp của các nhà sản xuất Mỹ hiện nay sẽ là một cơ hội tốt để các doanh nghiệp Việt Nam tìm kiếm đối tác và tiếp cận thị trường Mỹ dễ hơn, các cơ quan quản lý Nhà nước, hiệp hội các nhà sản xuất hàng may mặc Việt Nam cần có vai trò tích cực hơn nữa trong việc hỗ trợ cung cấp thông tin và tìm kiếm thị trường, giới thiệu đối tác cho các doanh nghiệp. Hiệp hội cần đóng vai trò cơ quan điều phối, trên cơ sở tự nguyện, điều tiết số lượng và mức giá cả giữa các doanh nghiệp xuất khẩu để tránh tình trạng cạnh tranh nội bộ, gây hại cho chính các doanh nghiệp. Trên thực tế, hiện nay nhiều công ty dệt may Việt Nam đã có những chương trình tăng tốc độ đầu tư để chuẩn bị nguồn hàng, nhằm khi có những thời cơ thuận lợi sẽ có đủ số lượng hàng đáp ứng kịp thời cho thị trường Mỹ. Đặc biệt có một số công ty thuộc tổng công ty dệt may Việt Nam như: Dệt Thành Công, dệt Việt Thắng, May Thăng Long, dệt Hà Nội, dệt Thắng Lợi… đã chấp nhận bán vào Mỹ với giá hoà vốn, thậm trí chịu lỗ một chút nhằm tạo hệ thống bán hàng, uy tín, chiếm lĩnh thị trường. Tổng công ty dệt may Việt Nam cũng đang tích cực xây dựng kế hoạch tiếp thị vào thị trường Mỹ với 5 chương trình cụ thể gồm: Tích cực củng cố, quy hoạch và đầu tư thêm các dây truyền sản xuất sản phẩm xuất khẩu sang Mỹ, liên doanh liên kết với các đối tác nước ngoài đã quen làm ăn trên thị trường Mỹ để sản xuất hang xuất khẩu sang Mỹ, tích cực tìm kiếm khách hàng và xây dựng hệ thống xuất khẩu đi Mỹ một cách nhanh chóng và hiệu quả, xây dựng trang web nhằm tiếp thị và thu nhập thông tin thị trường Mỹ, tổ chức các đoàn doanh nghiệp Việt Nam qua Mỹ nhằm xuc tiến, chào hàng và mở rộng quan hệ với các đối tác Mỹ. Ngoài ra, tổng công ty cũng xác định những mặt hàng có ưu thế cạnh tranh vào Mỹ, xây dựng các tiêu chuẩn quốc tế như SA 8000 ISO 14000 và nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ kinh doanh nhằm chuyển đổi từ may gia công sang bán FOB để tránh nhiều rủi ro. Ngoài sự nỗ lực của các doanh nghiệp trong toàn ngành thì ván đề quan trong nhất là vai trò của Chính phủ. Theo đó Chính phủ nên khuyến khích, hỗ trợ vốn cho vay với lãi suất thấp đối với các công ty mạnh dạn xâm nhập thị trường Mỹ nhằm xây dựng hệ thống phân phối và mở rộng thị trường tiêu thụ nhằm tạo điều kiện tiền đề tốt cho sự tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu và khẳng định tên tuổi, uy tín cùng sức mạnh cạnh tranh mạnh mẽ của hàng dệt may tại thị trường Mỹ nói riêng và thị trường quốc tế nói chung. Kết luận Trong tiến trình hội nhập kinh tế khu vưc và quốc tế, hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ là một điều kiện quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân nói chung và đối với ngành dệt may nói riêng. Hiệp định là một điều kiện thuận lợi cho ngành dệt may Việt Nam có thể tăng tốc và phát triển, nhưng bên cạnh đó là những khó khăn không nhỏ mà ngành gặp phải. Do vậy, đòi hỏi ngành dệt may phải có những chính sách thích hợp từ phía Chính phủ cũng như là từ chính sách các doanh nghiệp. Tìm kiếm, nắm bắt thông tin, có sự phân tích đánh giá thông tin, nhằm đề ra các giải pháp giúp ngành dệt may chủ động trong tiến trình hội nhập chung này, vấn đề pháp lý sẽ trở nên thuận lợi hơn khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO). Tài liệu tham khảo 1. Luật sư, TS luật : Phan Đăng Thư. Hiệp định giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam – Hợp chủng quốc Hoa kỳ về quan hệ thương mại : Thời cơ và thách thức.NXB Công An Nhân Dân – 2002 2. Dự án viện STAR-Việt nam và Viện quản lý kinh tế trung ương. Đánh giá tác động kinh tế của Hiệp định thương mại song phương Việt Nam – Hoa kỳ.(Báo cáo kinh tế năm 2002).NXB Chính trị Quốc gia- Hà nội 2003. 3. Đan Tuấn Anh (Trường ĐH TM) : Giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường Quốc tế. Tạp chí Kinh tế và phát triển, số 68/ 2003. 4. TS. Đỗ Đức Bình (Trường ĐH KTQD) : Hiệp định thương mại Việt – Mỹ và tác động đến hoạt động xuất khẩu của Việt Nam. Tạp chí Kinh tê và phát triển, số 53/2001. 5. PGS.TS.Nguyễn Duy Bột (Trường ĐH KTQD) : Cơ sở pháp lý cho hàng nhập khẩu, hàng dệt may vào Hoa kỳ. Tạp chí Kinh tế và phát triển, số 60/2002. 6. Lê Phương Dung : Sự dụng hiệu quả Hiệp định hàng dệt may Việt – Mỹ. Tạp chí Thương mại, số 19/2003. 7. Vũ Bá Định : Để tiếp cận thị trường hàng dệt may Mỹ. Tạp chí Kinh tế và phát triển,số 61/ 2002. 8. Kim Hiển : Ngành dệt may Việt Nam chuẩn bị cho thời kỳ hậu Quota. Tạp chí Thương mại, số 3+4+5/2004. 9. Trọng Hổ : Những thách thức còn đó đối với xuất khẩu năm 2004. Tạp chí Thương mại, số 7/2004. 10. Hoàng Văn Khánh : Không nên đấu thầu hạn ngạch hàng dệt may vào thị trường Hoa kỳ. Tạp chí Thương mại, số 32/ 2003. 11. Nguyễn Duy Nghĩa : Làm gì để xuất khẩu năm 2004 tăng 12%. Tạp chí Thương mại, số 3+4+5/2004. 12. Phan Tư : Phân bổ hạn ngạch dệt may sang Hoa kỳ các doanh nghiệp còn nhiều bức xúc. Tạp chí Thương mại, số 26/2003. 13. Th.S. Đàm Quang Vinh : Triển Vọng quan hệ thương mại Việt – Mỹ và việc thúc đảy xuât khẩu hàng dệt may sang Mỹ. Tạp chí Kinh tế và phát triển, số 36/ 2000. 14. Phóng Viên : Những điều lưu ý trong việc thực hiện hạn ngạch hàng dệt may xuấtkhẩu vào Hoa kỳ năm 2003. Tạp chí Thương mại, số 22/2003. Mục lục Trang Lời nói đầu 1 Nội dung 2 Chương 1: Những quy định pháp lý đối với việc nhập khẩu hàng dệt may của Hoa Kỳ 2 1. Những cơ quan liên quan tới hoạt động xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Hoa Kỳ 2 2. Luật điều tiết nhập khẩu hàng dệt may vào thị trường Hoa Kỳ 3 2.1 Quy định chung hiệp định đa sợi - MFA 3 2.2 Quy định hệ thống hạn ngạch hàng dệt may hk 4 2.3 Các loại thuế đánh vào hàng dệt may nhập khẩu 5 3. Quy chế về nhãn mác hàng dệt may 6 4. Quy định xuất sứ hàng dệt may 7 Chương 2 : Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Hoa Kỳ trong thời gian qua 8 1. Thực trạng ngành dệt may Hoa Kỳ 8 2. Đánh giá chung về vị trí xuất khẩu hàng dệt may trong cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu nói chung của Việt Nam trong những năm qua và trong thời gian tới 9 3. Tình hình xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Hoa Kỳ trước khi hiệp định Việt Nam - Hoa Kỳ có hiệu lực 11 4. Tác động của hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ tới hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Hoa Kỳ 12 5. Đánh giá ảnh hưởng của hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ đối với các Doanh nghiệp dệt may Việt Nam khi xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ 14 5.1 Cơ hội của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam 14 5.1.1 Cơ hội được tiếp cận thị trường lớn và hấp dẫn nhất 14 5.1.2 Cơ hội thu hút vốn đầu tư phát triển ngành công nghiệp dệt may 16 5.1.3 Cơ hội việc làm, nâng cao chất lượng lao động 17 5.2 Thách thức của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam 18 5.2.1 Về tiêu chuẩn chất lượng hàng dệt may Việt Nam 18 5.2.2 Cạnh tranh khốc liệt tại thị trường Mỹ 20 5.2.3 Quan hệ thương mại trở nên phức tạp 22 Chương 3: Đánh giá chung, triển vọng phát triển và một số giải pháp chiến lược 24 1. Đánh giá chung về triển vọng phát triển 24 2. Giải pháp chiến lược 27 Kết luận 30 Tài liệu tham khảo 31 Mục lục 33

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docHiệp định thương mại Việt – Mỹ Cơ hội và thách thức đối với hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Mỹ.Doc
Luận văn liên quan