Tính cấp thiết của đề tài
Hội nghị thường niên của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) lần thứ 44, một sự kiện lớn của khu vực Châu Á đã diễn ra từ ngày 3 đến ngày 6 tháng 5 năm 2011. Với sự tham gia của gần 4.000 đại biểu và tinh thần làm việc khẩn trương, Hội nghị ADB lần thứ 44 đã hoàn thành các chương trình nghị sự đề ra như là việc quyết định phương hướng hoạt động của ADB trong thời gian tới vì mục tiêu hợp tác và phát triển, đồng thời tăng cường quan hệ giữa ADB với các nước thành viên cũng như các đối tác phát triển và các bên liên quan khác. Mặc dù Việt Nam đã là thành viên của ADB từ lâu, nhưng mối quan hệ này bị đình trệ do ảnh hưởng của cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Bước vào thời kì mới, kỷ nguyên của toàn cầu hoá, Việt Nam nối lại quan hệ với rất nhiều quốc gia có thể chế chính trị khác nhau, và các tổ chức quốc tế lớn trong đó có ADB. Quan hệ giữa Việt Nam và ADB ngày càng trở thành mối quan tâm lớn trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội của đất nước bởi nước ta ngày càng thấy được vai trò, lợi ích đem lại từ mối quan hệ đó. Về phía ADB, mối quan hệ này là phù hợp với mục tiêu và phương hướng hoạt động. Còn về phía Việt Nam, quan hệ với ADB mang lại những cơ hội và thử thách để phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Vì vậy, nước ta cần có cái nhìn tổng quát về mối quan hệ này trong thời gian qua, có những đánh giá chính xác về những thành tựu và những tồn tại của mối quan hệ Việt Nam - ADB để từ đó có thể đặt ra phương hướng phát triển, thúc đẩy mối quan hệ này.
LỜI NÓI ĐẦU 1
MỤC LỤC 2
DANH MỤC BẢNG BIỂU 4
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT. 5
PHẦN MỞ ĐẦU 6
PHẦN NỘI DUNG LUẬN VĂN 8
CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ CỦA QUAN HỆ VIỆT NAM - ADB. 8
I.1. Giới thiệu khái quát về ADB. 8
I.1.1. Quá trình thành lập và phát triển. 8
I.1.2. Mục tiêu và cơ cấu tổ chức. 8
I.1.3. Phương thức hoạt động của ADB. 9
I.2. Khái quát về nền kinh tế Việt Nam 12
I.2.1. Quá trình hình thành và phát triển nền kinh tế Việt Nam 12
I.2.2. Nhu cầu về vốn để công nghiệp hoá, hiện đại hóa. 21
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG QUAN HỆ VIỆT NAM - ADB. 25
II.1. Quá trình Việt Nam gia nhập ADB. 25
II.2. Quan hệ Việt Nam – ADB. 25
II.2.1. Dự án phát triển hạ tầng nông thôn bền vững tại các tỉnh miền núi phía Bắc 34
II.2.2. Dự án Phát triển Du lịch Mê Kông. 39
II.2.4. Đánh giá hợp tác Việt Nam – ADB. 44
CHƯƠNG III. GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUAN HỆ VIỆT NAM - ADB. 52
III.1. Triển vọng quan hệ Việt Nam - ADB. 52
III.2. Giải pháp nâng cao mối quan hệ. 53
III.2.1. Nâng cao uy tín quốc gia. 53
III.2.2. Hoàn thiện thể chế. 54
III.2.3. Nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước. 55
III.2.4. Tăng cường công tác đào tạo cán bộ quản lý và công nhân. 56
III.2.5. Xây dựng và hiện đại hoá các kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội 57
PHẦN KẾT LUẬN 58
DANH MỤC THAM KHẢO 60
65 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2762 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận ngoại giao: Thực trạng và giải pháp nhằm tăng cường quan hệ Việt Nam - Adb, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
in the North Provinces: Viet Nam, Soc Rep of,
ngày truy cập 01/05/2011
Nó cũng sẽ góp phần tăng năng suất nông nghiệp, thu nhập tăng, đa dạng hoá các cơ hội việc làm thông qua tăng đầu tư tư nhân tại các khu vực bị cô lập, cũng như việc đến trường của trẻ em và giảm khối lượng công việc của phụ nữ và trẻ em gái. Xóa đói giảm nghèo của người dân tộc thiểu số ở các tỉnh đạt được thông qua tiếp cận tốt hơn với thị trường, tiếp cận với các dịch vụ cải thiện xã hội, gia tăng kết nối đến tiểu khu vực trung tâm thương mại và quản lý xã hội cũng như cải thiện môi trường. Cải thiện đời sống và phát triển con người thông qua hướng ưu tiên phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện còn có những hạn chế do sự thiếu năng lực của tỉnh, huyện và xã để áp dụng kế hoạch từ dưới lên và thực hiện bằng cách sử dụng định hướng phát triển cộng đồng. Cộng đồng dân tộc thiểu số tham gia khó khăn do hạn chế về ngôn ngữ, đặc biệt là ở phụ nữ.
Về vấn đề cơ sở hạ tầng
Các tiểu dự án thuộc dự án phát triển hạ tầng nông thôn bền vững tại các tỉnh miền núi phía Bắc (SRIDP) sẽ bao gồm phục hồi cơ sở hạ tầng nông thôn và giải quyết tình trạng đói nghèo ở khu vực phía Bắc. Chúng được thực hiện bằng cách sử dụng kinh phí của Trung ương do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn điều hành. Việc xác định các tiểu dự án sử dụng phương pháp tiếp cận áp dụng các tiêu chí mà tập trung vào tác động quan trọng của đói nghèo cũng như các tiêu chuẩn môi trường và tái định cư. Tiểu dự án sẽ bao gồm các công trình dân dụng đầu tư vào đường xá nông thôn và phục hồi thị trường, tiến hành công tác thuỷ lợi và cải tạo bờ sông, thành lập và phục hồi chức năng của các nguồn cung cấp nước nông thôn, thành lập thị trường nông thôn. Chức năng tư vấn quốc gia của Chính phủ nghiên cứu tính khả thi và biện pháp bảo vệ các đánh giá của các tiểu dự án. Tư vấn quản lý dự án bao gồm các chuyên gia môi trường quốc tế và quốc gia được tuyển dụng để xem xét nội dung của các phân tích cho 45 tiểu dự án theo ước tính. Ngoài ra, các tiểu dự án cũng cần đảm bảo người nghèo tham gia bình đẳng hưởng lợi ích từ các khoản đầu tư. Đây có thể bao gồm hỗ trợ cho nhóm người sử dụng nước, khuyến nông ở các tiểu dự án thủy lợi, nâng cao nhận thức cho người tiêu dùng ở các tiểu dự án tiếp thị, nâng cao nhận thức về an toàn đường bộ dọc theo sự sắp xếp, phục hồi…
Ngoài các tiểu dự án cơ sở hạ tầng, SRIDP có hai thành phần thêm: nâng cao năng lực của cán bộ cơ quan và quản lý thực hiện dự án hỗ trợ. Các thành phần xây dựng năng lực chủ yếu để giải quyết nhu cầu năng lực địa phương về kỹ thuật lập kế hoạch để xác định tiểu dự án và quản lý cơ sở hạ tầng nông thôn, bảo vệ xã hội và môi trường, nâng cao nhận thức thay đổi khí hậu. Hoạt động xây dựng năng lực sẽ được thực hiện bằng cách hướng dẫn các nhân viên tham gia trực tiếp với thực hiện tiểu dự án và gửi đến các nhân viên có liên quan từ tất cả các cơ quan bao gồm cả các Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. Thực hiện dự án hỗ trợ quản lý sẽ được hướng vào các cơ cấu quản lý trong các tỉnh tham gia cũng như quốc gia. Theo thành phần này, chi phí nhân viên tăng, xe thiết bị và chi phí điều hành văn phòng sẽ được đáp ứng và các dịch vụ tư vấn thực hoạt động để duy trì các tiêu chuẩn cơ sở hạ tầng và hỗ trợ Chính phủ trong việc thực hiện nghĩa vụ báo cáo của mình.
- Đường giao thông nông thôn: SRIDP sẽ tài trợ phục hồi chức năng của tuyến đường xã đến huyện và liên xã để cải thiện mối quan hệ giữa cấp độ cao hơn (các tuyến đường tỉnh và quốc gia) và cấp dưới xã đến các thôn, đường liên thôn. Các công trình có thể bao gồm cải thiện bề mặt, cải tiến hệ thống thoát nước và cải thiện sự ổn định. Ngoài ra, việc thực hiện các công trình còn cần tính đến sự biến đổi khí hậu và thay đổi địa chất cùng với các chi phí bảo dưỡng đi kèm.
- Thủy lợi, thoát nước và ổn định bờ sông: Các tiểu dự án sẽ bao gồm phục hồi chức năng của hệ thống thủy lợi và ổn định công trình bờ sông mà thực hiện theo các tiêu chuẩn. Đầu tư đủ điều kiện bao gồm phục hồi chức năng của công trình đầu, dọc theo các kênh mương thủy lợi tiểu học và trung học, việc xây dựng cơ cấu quản lý nước, phục hồi chức năng của thành hồ chứa, và thiết lập và kè sông phục hồi đề án thuỷ lợi mới không được coi là tiểu dự án đủ điều kiện.
- Cấp nước nông thôn: Những tiểu dự án sẽ bao gồm việc thành lập và phục hồi chức năng cấp nước quy mô vừa hoặc các hồ chứa, trạm bơm, mạng lưới cung cấp nước dựa trên nhu cầu cộng đồng.
- Thị trường nông thôn: Việc thành lập mới, hoặc phục hồi của thị trường cấp xã bao gồm các điều chỉnh để bố trí thị trường, sàn bê tông, xây dựng các khu mái cho các quầy hàng ở chợ, hệ thống thoát nước cải thiện và các cơ sở quản lý chất thải và bãi đỗ xe cải tiến để giảm thiểu tác động môi trường và nâng cao hiệu quả và điều kiện cho thương mại.
Trong tổng chi phí cho cơ sở hạ tầng nông thôn 70% các khoản vay của ADB trong dự án này được phân bổ cho giao thông nông thôn, 20% cho tưới tiêu, 5% để ổn định bờ sông, còn lại 5% cho các tiểu dự án cung cấp nước sạch nông thôn. Các tiểu dự án mà có thể dẫn đến một số tác động môi trường bất lợi được sàng lọc ra là không đủ điều kiện.
Về vấn đề giới tính
Phân tích về vấn đề giới cho thấy trong các tỉnh phía Bắc, nhiều phụ nữ sống trong nghèo đói hơn nam giới. Nhìn chung, 45% phụ nữ nghèo, so với 38% của nam giới, trong khi 58% phụ nữ làm chủ hộ gia đình nghèo.ADB, Sustainable Rural Infrastructure Development Project in Northern Moutain Provinces - Gender Action Plans, ngày truy cập 02/05/2011
Đại đa số phụ nữ là nông dân nhưng ngoài hoạt động kinh tế này, phụ nữ chịu trách nhiệm phần lớn công việc nội trợ. Phụ nữ phải làm việc nhiều hơn nam giới từ 10 đến 12 giờ một tuần. Phụ nữ khó tham gia vào hoạt động cộng đồng vì thời gian rảnh rỗi ít ỏi và chịu ảnh hưởng của định kiến cũ. Vì thế, phụ nữ ở các tỉnh phía Bắc hiểu biết ít về các tiểu dự án và không thể tham gia vào công tác quản lý. Ở các dân tộc thiểu số, phụ nữ phải đối mặt với thành kiến, tình trạng bị cô lập và thường xuyên phải đối mặt với các rào cản văn hóa cao khiến họ bị hạn chế đưa ra những quyết định. Gần như tất cả các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên của người chồng. Điều này giới hạn thu nhập của phụ nữ do không có vốn đảm bảo cho làm ăn. Tỷ lệ nhiễm HIV ở nữ giới cao hơn đáng kể so với nam giới. Cứ 100.000 người thì có 232,9 phụ nữ ở phía Đông Bắc nhiễm HIV trong năm 2007 và tăng nhanh trong các nhóm nguy cơ cao. ADB, Sustainable Rural Infrastructure Development Project in Northern Moutain Provinces - Gender Action Plans, ngày truy cập 02/05/2011
Mặc dù hoạt động của dự án đặt ra một nguy cơ tối thiểu tăng tỷ lệ nhiễm HIV, các phân tích về giới cho thấy kiến thức về HIV/AIDS là rất thấp trong khu vực dự án và phụ nữ biết ít về phòng chống HIV hơn nam giới. Các vấn đề về giới trong phát triển giao thông nông thôn bao gồm sự cần thiết để đảm bảo việc làm và thu nhập phát sinh các hoạt động nâng cao, cả trong quá trình xây dựng tiểu dự án và sau đó cũng giành cho cả nữ giới và nam giới. Các biện pháp được đưa ra nhằm ngăn chặn sự lây lan của tình dục, buôn bán người và cho phép phụ nữ tối đa hóa các cơ hội mới mang lại bởi các kết nối giao thông. Phụ nữ cần được ra quyết định vấn đề nước tưới cho nông nghiệp để đảm bảo quyền lợi của phụ nữ và để đảm bảo rằng sản xuất cây trồng không thêm những gánh nặng lao phụ nữ trong thời kỳ chuẩn bị đất và thu hoạch. Vấn đề chủ yếu trong việc cung cấp nước sinh hoạt bao gồm đảm bảo rằng các hộ gia đình phụ nữ làm chủ có thể đủ khả năng tiếp cận với nguồn cung cấp nước tăng cường và sự cần thiết phải cung cấp thông tin và đào tạo về việc xử lý nước thải và phòng bệnh.
Các hoạt động giúp phụ nữ đối mặt với những khó khăn trên bao gồm:
- Đánh giá tác động xã hội bao gồm: phân tích giới tính dẫn đến kế hoạch hành động về giới cho mỗi tiểu dự án.
- Một chuyên gia về giới sẽ được đưa vào đội tư vấn cho vay để giám sát tất cả các hoạt động liên quan đến giới tính.
- Mỗi dự án sẽ có một chuyên gia bảo vệ đảm bảo việc thu thập và phân tích theo giới tính.
- Có một đại diện của Hội Phụ nữ xã trong Hội đồng giám sát.
- 50% thành viên trong các nhóm người dùng nước tiểu dự án địa phương và ban quản lý thị trường.
- Hướng dẫn cho phụ nữ để họ tham gia trong việc quyết định dự án.
- Dự án đảm bảo rằng dịch vụ khuyến nông được thiết kế đặc biệt cung cấp cho phụ nữ.
- Các Hội đồng giám sát sẽ giám sát các nhà thầu cung cấp lương bình đẳng cho nam giới và nữ giới, cho công việc của các loại bằng nhau, điều kiện làm việc an toàn cho cả nam và nữ công nhân và các nhà thầu không sử dụng lao động trẻ em.
- Hỗ trợ nâng cao nhận thức HIV/AIDS trong các lĩnh vực tiểu dự án bằng cách phối hợp với các sáng kiến liên tục.
II.2.2. Dự án Phát triển Du lịch Mê Kông
Dự án nhằm mục tiêu xóa đói giảm nghèo, góp phần tăng trưởng kinh tế và việc làm, thúc đẩy việc bảo tồn các di sản thiên nhiên và văn hóa. Mục tiêu cụ thể của dự án là thúc đẩy du lịch bền vững tại các lưu vực sông Cửu Long thông qua những cải thiện cơ sở hạ tầng với sự tham gia của khu vực tư nhân và hợp tác tiểu vùng. Dự án sẽ bao gồm bốn phần:
- Phần A: cải thiện cơ sở hạ tầng du lịch liên quan.
- Phần B: hỗ trợ người nghèo, cộng đồng phát triển du lịch.
- Phần C: tiểu khu vực hợp tác về du lịch bền vững.
- Phần D: thực hiện hỗ trợ và tăng cường thể chế.
Dự án can thiệp vào vấn đề đói nghèo theo tiêu chí phân loại địa lý. Lợi ích đáng kể sẽ tích luỹ cho người nghèo và các cơ hội để giảm nghèo được tạo ra bởi dự án thông qua cơ hội việc làm tăng và tăng trưởng kinh tế. 39,8% dân số trong khu vực dự án là người nghèo, bao gồm 42,8% ở Lào, 38,5% ở Campuchia, và 34,5% ở Việt Nam. GMS: Mekong Tourism Development Project : Viet Nam,Soc Rep of,
ngày truy cập 03/05/2011
Việc cải thiện điều kiện môi trường ở các khu đô thị của Siem Reap ở Campuchia và núi Sam và Tiền Giang ở Việt Nam sẽ củng cố ngành du lịch tại những khu vực, tăng cơ hội việc làm cho người nghèo ở những khu vực và giúp cải thiện chất lượng cuộc sống cho các đô thị nghèo. Các nghiên cứu trong tháng 10/2001 chứng minh rằng, ở cấp làng, khoảng 42% thu nhập của tất cả là từ du lịch sinh thái. Các khoản thu nhập đó được bắt nguồn bao gồm bán rừng sản xuất, chế biến thực phẩm, bán hàng thủ công mỹ nghệ, và các dịch vụ cho khách du lịch bao gồm hướng dẫn và mát xa truyền thống. Theo kết quả của sự gia tăng trong thu nhập hộ gia đình, cá nhân cũng như các quỹ thôn đã cải thiện tổng thể an ninh lương thực của các khu vực dự án. Quỹ làng sẽ cho phép việc tạo ra của các ngân hàng gạo mà từ đó các hộ nghèo có thể vay và trả lại trong thời gian tốt hơn. Quỹ làng có thể được dùng để phát triển cơ sở hạ tầng làng như các trường học. Cá nhân hộ gia đình sẽ được hưởng lợi bằng cách cải thiện chi tiêu của họ để mua quần áo, chăn mền, thuốc men, đầu tư thiết bị nông nghiệp và tiết kiệm hộ gia đình. Ngành công nghiệp du lịch đặc biệt quan trọng đối với phụ nữ. Tỷ lệ phụ nữ làm việc trong các nhà hàng, khách sạn và dịch vụ du lịch khác là cao hơn trong các dự án khác, đặc biệt sẽ có lợi cho phụ nữ thông qua các cơ hội việc làm tăng lên trong lĩnh vực du lịch. Sự tham gia của phụ nữ vào Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam là quan trọng. Điều này sẽ giúp đảm bảo rằng việc thực hiện và phát triển về giới có hiệu quả và được lồng ghép trong các vấn đề phát triển du lịch. Ở cấp tỉnh, một kế hoạch hành động về giới được chuẩn bị với sự giúp đỡ của các cố vấn xã hội và các cố vấn phát triển du lịch dựa vào cộng đồng. Các kế hoạch này sẽ được phù hợp với chính sách của ADB về phát triển giới. Chúng sẽ phản ánh tất cả các hoạt động liên quan đến việc thúc đẩy sự tham gia bình đẳng của phụ nữ trong phát triển du lịch và lợi ích. Dự án được phân loại là môi trường thể loại B. Một số tiểu dự án cơ sở hạ tầng được đề xuất có thể có một số tác động môi trường tiêu cực phát sinh từ việc xây dựng và hoạt động. Tuy nhiên, các tác động tiêu cực được giảm thiểu tới mức chấp nhận thông qua thiết kế thích hợp và thực hiện các biện pháp giảm nhẹ bao gồm trong các tiểu dự án phù hợp với yêu cầu môi trường của ADB và những áp dụng ở cấp quốc gia và cấp tỉnh.
- Lợi ích kinh tế
Dự án sẽ mang lại lợi ích kinh tế như là khuyến khích phát triển du lịch bền vững ở các nước vùng hạ lưu sông Cửu Long. Mạng lưới du lịch trong khu vực dự án sẽ tăng do số lượng gia tăng của du khách, ở lại lâu hơn và chi tiêu du lịch tăng lên trong 10 năm đầu tiên sau khi hoàn thành dự án dự kiến sẽ thu được 129 triệu USD. Mekong Tourism Development Project - Social Impact Assessment, ngày truy cập 02/05/2011
Du lịch tăng trưởng bền vững sẽ tăng thu nhập ngoại hối,hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, và tạo cơ hội việc làm mới.
- Lợi ích tài chính
Việc thành lập các cơ chế phục hồi và cải cách thể chế sẽ làm tăng doanh thu tài chính từ sân bay, hệ thống thoát nước, cầu cảng sông và đường nhỏ tới các điểm đến du lịch. Một phần đáng kể trong những lợi ích tài chính sẽ đến từ các khách du lịch đến thăm các khu vực dự án. Điều này sẽ đảm bảo tính bền vững và tăng chất lượng dịch vụ, thiết lập cơ sở cho việc cải thiện hơn nữa khả năng tiếp cận và hấp dẫn của điểm đến du lịch.
- Lợi ích môi trường
Dự án sẽ góp phần cải thiện điều kiện môi trường ở một số khu vực đô thị, mở rộng hệ thống thoát nước và mở rộng phạm vi bãi thải. Ở nông thôn, dự án sẽ tạo điều kiện cho việc bảo tồn môi trường tự nhiên của tiểu vùng. Nó sẽ tạo thu nhập cho người dân địa phương ở các vùng bị cô lập từ đó giảm việc phá rừng. Ngoài ra, các chương trình nhận thức và đào tạo cho cộng đồng địa phương về mối quan hệ giữa du lịch và bảo tồn môi trường được thực hiện.
- Tác động xã hội
Những cải tiến cơ sở hạ tầng liên quan đến du lịch sẽ mang lại lợi ích lớn xã hội cho cư dân trong và xung quanh khu vực đô thị, khách du lịch trong nước và quốc tế và ngành du lịch. Nâng cấp đường giao thông sẽ tạo điều kiện cho sự di chuyển của dân cư và hàng hóa. Việc phục hồi sân bay và cải tạo các con sông khuyến khích du lịch hơn. Cơ hội việc làm tăng lên và thu nhập cao hơn. Việc cung cấp hiệu quả xử lý nước thải và hệ thống xử lý nước thải tương tự như vậy sẽ nâng cao chất lượng sức khỏe và cuộc sống nói chung của người dân cư trú. Gánh nặng của phụ nữ trong nhiều hộ gia đình cótrẻ em sẽ được thuyên giảm nhờ vào việc cải thiện sức khỏe trẻ em thu được từ hệ thống thoát nước và xử lý chất thải hiệu quả hơn. Cơ sở vật chất tốt hơn tại các cửa khẩu sẽ tạo thuận lợi cho sự di chuyển của lao động nhập cư và khách du lịch địa phương và góp phần vào sự phát triển của nền kinh tế khu vực rộng lớn hơn.
II.2.3. Dự án kết nối khu vực trung tâm đồng bằng sông Cửu Long
Mục đích của dự án này là cung cấp các nguồn lực cần thiết để chuẩn bị dự án giảm nhẹ sau đó và xác định đầy đủ về tái định cư, xã hội và các vấn đề bảo vệ khác phát sinh từ dự án. Chính phủ Việt Nam đã yêu cầu ADB xem xét tài trợ một dự án để xây dựng hai cây cầu lớn bắc qua sông Mekong ở Cao Lãnh, Vàm Cống ở miền Nam Việt Nam, các dự án là một phần của đường cao tốc phía Nam nối trung tâm đồng bằng sông Cửu Long đến vùng ven biển khu vực phía Nam, tại đó sát nhập với khu vực tiểu vùng sông Mê Kông. Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam dựa chủ yếu vào công nghiệp chế biến xuất khẩu và du lịch. Từ 2003 đến 2007, GDP Việt Nam tăng bình quân 8% /năm và xuất khẩu cũng tăng trưởng trung bình khoảng 20%/ năm. Các khu vực đồng bằng sông Cửu Long là trung tâm công nghiệp lớn thứ ba sau thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Hoạt động của khu vực đồng bằng sông Cửu Long dựa chủ yếu vào ngành công nghiệp - nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Sản xuất công nghiệp ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long đã tăng tốc trong những năm gần đây, từ tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm 13% trong giai đoạn 2000-2004 với một tốc độ tăng trưởng 24% trong giai đoạn năm 2004-2005. Để phát triển trong tương lai, Việt Nam cần có cơ sở hạ tầng giao thông hiệu quả với công suất đủ để đáp ứng nhu cầu mở rộng. Từ năm 2000 đến năm 2005, lưu lượng hành khách tăng trưởng với tốc độ trung bình khoảng 11%/năm và hàng hóa với tốc độ trung bình khoảng 12%/ năm. Chính phủ Việt Nam đang nhanh chóng nâng cấp và mở rộng cơ sở hạ tầng giao thông vận tải chiến lược Việt Nam, đặc biệt là đường cao tốc, đường sắt, cầu cảng để duy trì tăng trưởng kinh tế. Kết quả là đầu tư cơ sở hạ tầng giao thông tăng khoảng 12%/năm về giá cố định từ năm 2000 đến năm 2006. Chiến lược của ADB cho ngành giao thông vận tải tại Việt Nam giải quyết bốn vấn đề chính trong lĩnh vực giao thông vận tải:
- Hiệu quả thấp dẫn đến chi phí vận chuyển cao.
- Sự thiếu bền vững của công trình do tài chính không đủ và lập kế hoạch bảo dưỡng yếu kém.
- Vấn đề tắc nghẽn giao thông ngày càng tăng.
- Tăng sự an toàn giao thông.
Các dự án xây dựng bao gồm:
- Hai cây cầu cao với chiều dài 4.000 mét để qua các kênh.
- 28 cây số đường nối giữa hai cầu.
- Các trung tâm thu phí sử dụng cầu. Tương tự như cầu Mỹ Thuận, Chính phủ thu phí sử dụng đường bộ tại các cửa cầu mới để giúp trang trải các chi phí xây dựng và duy trì các cây cầu. Khu vực này là nơi sinh sống của một số lượng đáng kể của người Khmer, một nhóm thiểu số đòi hỏi sự chú ý đặc biệt trong thiết kế dự án. Đồng bằng sông Cửu Long là một môi trường dễ bị tổn thương và quản lý môi trường phải được đặt đúng chỗ trong quá trình thiết kế và xây dựng để đảm bảo rằng các dòng nước tự nhiên không bị cản trở trong hoặc sau khi xây dựng và xáo trộn môi trường biển được giảm thiểu trong quá trình xây dựng. Giải quyết các vấn đề đa dạng sẽ yêu cầu phân tích sâu rộng để xây dựng một dự án tối ưu lợi ích Việt Nam như một toàn bộ và đời sống dân cư trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long nói riêng. Tổng chi phí của dự án khoảng 1triệu USD. Chính phủ Việt Nam đã yêu cầu ADB tài trợ 800.000 USD lấy từ JSF thuộc Chính phủ Nhật Bản. Còn lại, Chính phủ Việt Nam tài trợ 200.000 USD hỗ trợ hậu cần địa phương, cán bộ đối tác và các chi phí khác. Cơ quan quản lý cho dự án là Bộ Giao thông vận tải. Một công ty tư vấn kỹ thuật quốc tế của ADB đánh giá kỹ thuật và chất lượng rồi lựa chọn dựa trên chi phí với tỷ lệ đánh giá kỹ thuật 80% và đánh giá tài chính 20%. Các chuyên gia tư vấn xem xét, phát triển các dự án tiếp theo và chuẩn bị các tài liệu cần thiết để thực hiện dự án bao gồm các tài liệu đấu thầu thiết kế xây dựng hợp đồng cho hai cầu, đánh giá tác động môi trường, một kế hoạch tái định cư đầy đủ, một kế hoạch phát triển dân tộc thiểu số, và các văn bản dự thảo cần thiết để phê duyệt dự án.
II.2.4. Đánh giá hợp tác Việt Nam – ADB
Những thành tựu của quan hệ Việt Nam - ADB
Kể từ năm 1993, khi ADB nối lại hoạt động tại Việt Nam, cho đến tháng 3/2011, ADB phê duyệt cho Chính phủ Việt Nam 114 khoản vay trị giá 9,09 tỷ USD, một khoản bảo lãnh trị giá 325 triệu USD, 255 dự án hỗ trợ kỹ thuật, trị giá 199,5 triệu USD và 26 dự án tài trợ khác trị giá 150,1 triệu USD. Quan hệ Việt Nam và ADB, ngày truy cập 02/04/2011
Việt Nam cũng tham gia vào các dự án hỗ trợ kỹ thuật của ADB dành cho tiểu vùng sông Mê Kông. Hiện nay, Việt Nam là một trong những thành viên nhận nhiều nguồn tài trợ nhất từ Quỹ phát triển châu Á (ADF) và cũng là một nước được ADB cung cấp đáng kể các khoản vay thông thường (OCR). Những tác động của hỗ trợ từ ADB đối với quá trình phát triển của Việt Nam là khá lớn. Việc áp dụng phương pháp quản trị dựa trên kết quả trong CSP gần đây nhất của ADB sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc đánh giá một cách khách quan hơn và đem lại kết quả phát triển, hiệu quả cao hơn nữa cho Việt Nam trên con đường phát triển tương lai.
Thành tựu của Việt Nam trong việc xoá đói giảm nghèo đã được Chủ tịch ADB đánh giá cao. Việt Nam đã nhanh chóng giảm nghèo, cải thiện mức sống trong suốt hai thập kỷ qua và đã trở thành quốc gia có thu nhập trung bình. ADB hoàn toàn ủng hộ nỗ lực phát triển bền vững của Việt Nam. Theo đánh giá của Chủ tịch ADB, Việt Nam là một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất ở châu Á trong 20 năm qua nhờ vào xuất khẩu, đầu tư nước ngoài và một khu vực tư nhân đang lớn mạnh. Và một trong những thành tựu quan trọng nhất mà Việt Nam đã đạt được là tốc độ giảm đáng kể tỷ lệ nghèo từ trên 58% vào năm 1993 xuống chỉ còn khoảng 10% vào cuối năm 2010.An Hạ, Chủ tịch ADB: Việt Nam đã giảm nghèo thành công, ngày truy cập 20/04/2011
Tuy nhiên nước ta vẫn còn phải đối mặt với nhiều thách thức phía trước, trong đó có thách thức của "bẫy thu nhập trung bình". Mặc dù tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh trong những năm gần đây rõ ràng đã đem lại một mức sống cao hơn cho người dân Việt Nam nhưng vẫn còn hàng triệu người vẫn chưa tiếp cận được với các dịch vụ cần thiết.
Việt Nam đã nhanh chóng phục hồi từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2009 với một gói kích thích kinh tế có hiệu quả. Năm 2008, tốc độ tăng trưởng của Việt Nam đạt 6,51%, đến năm 2009, trong khi các nước tăng trưởng âm thì Việt Nam vẫn tăng trưởng dương (5,32%). Năm 2010, Việt Nam đã bước vào đà phục hồi tăng trưởng với 6,78%, nhưng diễn biến của thế giới đã tác động rất mạnh vào Việt Nam như giá xăng dầu tăng, lương thực tăng 36%. An Hạ, Lạm phát cao không chỉ diễn ra ở các nước mới nổi, ngày truy cập 22/04/2011
Hợp tác và hội nhập khu vực đóng một vai trò đáng kể trong tốc độ phát triển nhanh của Việt Nam. Chính phủ Việt Nam đã thúc đẩy hợp tác chặt chẽ sâu rộng hơn với các nước láng giềng, đặc biệt thông qua Chương trình Hợp tác Kinh tế Tiểu vùng Mê Kông mở rộng do ADB hỗ trợ. Chương trình GMS đã trở thành một ví dụ cho hợp tác khu vực và Việt Nam là một đối tác tích cực.
Trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng, nhờ có những hỗ trợ từ ADB, Việt Nam đã xây dựng được các công trình giao thông quan trọng như dự án đường cao tốc huyết mạch Hà Nội - Lạng Sơn, hành lang kinh tế Đông Tây, đường nối giữa Hà Nội và Phnôm Pênh… Điều này cũng đã góp phần đẩy nhanh quá trình xóa đói giảm nghèo, tạo công ăn việc làm, thúc đẩy phát triển kinh tế tại các khu vực này.
ADB cũng tài trợ phát triển lĩnh vực năng lượng như phát triển thủy điện, nhiệt điện, tái tạo năng lượng, khí sinh học, hệ thống truyền tải điện... yếu tố then chốt cho sự phát triển kinh tế quốc gia.
Thông qua việc nâng cao khả năng tiếp cận thị trường và các đầu vào sản xuất, đa dạng hóa các loại cây trồng có giá trị cao và cải tiến các thông lệ quản lý nguồn nước, ADB đã giúp tăng năng suất nông nghiệp và thu nhập nông dân ở các vùng nông thôn Việt Nam.
ADB cũng đã có tác động đối với các lĩnh vực xã hội, chẳng hạn như trong lĩnh vực y tế dự phòng, kiểm soát dịch bệnh xuyên biên giới, giáo dục trung học và giáo dục chuyên nghiệp. ADB đã trợ giúp Chính phủ nâng cao chất lượng của các cán bộ nhà nước thông qua các chương trình đào tạo và hiện đại hóa quản lý nhà nước và hỗ trợ những nỗ lực của Chính phủ chống tham nhũng và hướng đến bình đẳng giới. ADB cũng góp phần thay đổi căn bản lĩnh vực hành chính công từ mô hình quản trị dựa trên đầu vào sang mô hình quản trị dựa trên hiệu quả công việc.
Thành tựu gần đấy nhất là Việt Nam đã tổ chức thành công Hội nghị thường niên (HNTN) của ADB lần thứ 44 diễn ra ở Hà Nội từ ngày 3-6/5/2011. Hội nghị thường niên của ADB là một sự kiện quốc tế đặc biệt quan trọng vì vậy, việc tổ chức thành công hội nghị sẽ tăng cường vai trò, uy tín và vị trí của Việt Nam, mở ra khả năng, cơ hội mới cho Việt Nam trong việc tổ chức, điều hành các sự kiện lớn mang tầm cỡ quốc tế trong tương lai. Hội nghị này cũng tạo cơ hội cho nước chủ nhà tăng cường hiểu biết và nâng cao nhận thức của về quan hệ giữa các nước thành viên và ADB và các lợi ích mà người dân được hưởng từ các dự án do ADB cung cấp. ADB lựa chọn Việt Nam để tổ chức HNTN lần thứ 44 bởi Việt Nam là một trong những thành viên tích cực của ADB. Mặt khác, theo đánh giá của ADB thì Việt Nam đã đạt được các thành tựu kinh tế quan trọng. Từ một nước có thu nhập thấp Việt Nam đã vươn lên trở thành quốc gia có mức thu nhập trung bình thấp, đạt được nhiều thành tựu trong công cuộc xóa đói giảm nghèo - lĩnh vực ADB đặc biệt quan tâm và coi đó là sứ mệnh chủ yếu trong hoạt động. Bên cạnh đó, năng lực, cơ sở vật chất, kinh nghiệm tổ chức hội nghị quốc tế của Việt Nam hội đủ mọi điều kiện để tổ chức sự kiện này. Nhằm quyết tâm đảm bảo đáp ứng các yêu cầu cũng như tiến độ chuẩn bị và tổ chức thành công HNTN của ADB lần thứ 44, Chính phủ Việt Nam đã thành lập ban chỉ đạo và các tiểu ban chuyên trách về nội dung, vật chất, hậu cần, an ninh, y tế, lễ tân, tuyên truyền - văn hóa…
Báo cáo “Đánh giá chương trình hỗ trợ quốc gia dành cho Việt Nam” được công bố năm 2009 đã kết luận: Các chương trình và chiến lược hỗ trợ mà ADB tiến hành ở Việt Nam giai đoạn 1999-2008 được đánh giá là thành công dựa trên những kết quả mà nó mang lại. Quan hệ Việt Nam và ADB, NCHH, ngày truy cập 05/04/2011
Nhìn chung, ADB được coi là một đối tác tốt của Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Việt Nam bày tỏ sự hài lòng với sự hợp tác này. Ông Ayumi Konishi, Giám đốc ADB tại Việt Nam tin tưởng rằng các dự án do ADB tài trợ đã đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế - xã hội tại Việt Nam, tiêu biểu là tăng trưởng kinh tế nhanh cùng với xóa đói giảm nghèo. Việt Nam là một trong số ít các nước đã kết hợp thành công tăng trưởng kinh tế đi đôi với xóa đói giảm nghèo. Mặc dù những trợ giúp tài chính của ADB chỉ chiếm một phần khiêm tốn trong chi tiêu của Chính phủ Việt Nam nhưng ADB là một đối tác đáng tin cậy nhiều năm qua. Cụ thể ADB đã giúp Việt Nam khắc phục những yếu kém trong cơ sở hạ tầng, nâng cao năng lực thể chế, đảm bảo cho quá trình chuyển đổi kinh tế của Việt Nam đi đúng hướng. ADB đã đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế và nâng cao mức sống của người dân Việt Nam thông qua việc hỗ trợ phát triển xã hội, bảo vệ, khai thác và tái tạo hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường...
Những tồn tại của quan hệ Việt Nam - ADB
Mặc dù 95% các dự án hoàn thành được đánh giá thành công nhưng tiến độ vẫn chậm. Hầu hết các dự án đã hoàn thiện vẫn còn tồn tại sự chậm trễ trong khâu thực hiện còn những yếu kém và quản lý lỏng lẻo. Nếu các dự án được hoàn thành theo đúng kế hoạch ban đầu, chúng sẽ mang lại lợi ích cho người dân sớm hơn. Với tình hình lạm phát tại Việt Nam, các dự án cũng phải chịu chi phí cao hơn. Để giữ nguyên ngân sách ban đầu, những dự án này cũng phải chịu áp lực giảm quy mô ở mức độ nhất định. Nguyên nhân của sự thiếu hiệu quả nữa liên quan tới quy trình mua sắm hàng hóa tại Việt Nam. Tại Việt Nam, các dự án thường được chia thành các gói mua sắm nhỏ và kết quả là gây nên lãng phí đáng kể trong khâu thực hiện dự án. Nếu các gói mua sắm được tập hợp lại và gọi thầu ít hơn, các dự án tại Việt Nam có thể được thực hiện nhanh hơn với chi phí thấp hơn. Tại Việt Nam, hầu hết các dự án bị chậm trễ ở giai đoạn đầu. Trong ba năm đầu thực hiện dự án có rất ít vốn được giải ngân. Tính trung bình thời gian thực hiện dự án là 3,2 năm với số vốn 6 tỉ USD trong danh mục cho vay hiện tại của ADB tại Việt Nam thì chỉ có 1 tỉ USD được giải ngân. Theo Vietnamplus, ADB góp mặt trong những lĩnh vực trọng yếu của kinh tế - xã hội, ngày truy cập 20/04/2011
Nói cách khác, 5 tỉ USD vẫn để không và phải chờ giải ngân. Mức giải ngân hiện tại vẫn còn rất thấp so với những gì Việt Nam có thể làm được để thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội.
Cuộc khủng hoảng kinh tế và tài chính thế giới năm 2009 cũng làm giảm đi dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài lên các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Giai đoạn 2003 – 2007 là những năm đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đạt được sự tăng trưởng liên tục. Xu hướng này được hỗ trợ bởi sự tăng trưởng vững chắc của kinh tế thế giới, xu hướng tự do hoá trong chính sách đầu tư của Chính phủ nước ta và chiến lược quốc tế hoá hoạt động của hàng loạt công ty xuyên quốc gia. Tuy nhiên con số này đã giảm xuống 15% năm 2008 và giảm mạnh hơn trong năm 2009. TS. Vũ Quốc Huy - TS. Lê Văn Chiến, Một số đánh giá về tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế và tài chính hiện nay đến dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới, Những vấn đề Kinh tế và Chính trị thế giới Số 89(160), 2009, trang 14
Trong đà giảm sút của kinh tế thế giới, tín dụng bị thắt chặt và lợi nhuận của các công ty bị giảm sút, nhiều công ty đã phải thông báo kế hoạch cắt giảm sản lượng, cắt giảm nhân công và ngừng hoạt động đầu tư.
Bảng 1 Dòng FDI theo khu vực và nền kinh tế 2007 - 2008
Khu vực/Nền kinh tế
Dòng FDI
2007
2008
Tăng trưởng (%)
Thế giới
1.940,9
1.658,5
-14,5
Các nước phát triển
1.341,8
1.001,8
-25,3
Châu Âu
920,9
559,1
-39,3
Mỹ
232,8
320,9
37,8
Nhật Bản
22,5
19,0
-15,6
Các nước đang phát triển
512,2
549,1
7,2
Châu Phi
53,5
72,0
34,7
Mỹ La Tinh & vùng Caribe
127,3
139,3
9,4
Châu Á và châu Đại Dương
331,4
337,8
1,9
Tây Á
71,5
61,4
-14,2
Nam, Đông & Đông Nam Á
258,7
275,2
6,4
Các nền kinh tế chuyển đổi
86,9
107,6
23,8
Tác động khủng hoảng kinh tế thế giới đối với Việt Nam tuy chưa phải là quá lớn nhưng nền kinh tế nước ta vẫn chịu ảnh hưởng của hậu khủng hoảng. Đó là vấn đề hoạt động sản xuất, kinh doanh chưa trở lại bình thường, tỷ lệ thất nghiệp và lạm phát ở mức cao. Theo TS. Justin Lin, nhà kinh tế hàng đầu của Ngân hàng Thế giới đánh giá “Cuộc khủng hoảng đã ảnh hưởng sâu sắc đến hầu như tất cả các nền kinh tế thế giới, và mặc dù tốc độ tăng trưởng đã trở lại, nhiều tiến bộ trong cuộc chiến chống đói nghèo đã bị mất. Thềm nhiều điều kiện khó khăn quốc tế trong những năm tới có nghĩa là các nước đang phát triển sẽ phải chú trọng nhiều hơn cho việc cải thiện điều kiện kinh tế trong nước để đạt được phương thức tăng trưởng có thể xoá đói nghèo một cách lâu bền”. TS. Vũ Quốc Huy - TS. Lê Văn Chiến, Một số đánh giá về tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế và tài chính hiện nay đến dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới, Những vấn đề Kinh tế và Chính trị thế giới Số 89(160), 2009, trang 14
Một vấn đề nữa không kém phần quan trọng làm ảnh hưởng đến sự hợp tác của ADB và Việt Nam, đó là kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội của ta chưa đáp ứng được những yêu cầu từ phía ADB, khiến cho việc thi công các dự khó khăn. Các quốc gia kém phát triển đã lạc hậu so với các nước phát triển về rất nhiều phương diện và do vậy phương diện nào cũng thấy cần phải có đầu tư phát triển. Võ Đại Lược, Một số vấn đề và giải pháp phát triển kinh tế, Những vấn đề Kinh tế thế giới Số 11(115), 2005, trang 57
Thực tế phát triển của thế giới cho thấy trong tất cả những phương diện đó, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội có một tầm quan trọng đặc biệt, vì toàn bộ sự phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia phụ thuộc trước hết vào kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Các nước kém phát triển có thể phải xây dựng và hiện đại hoá kết cấu hạ tầng bằng kinh tế - xã hội đi trước một bước nhờ vào nguồn viện trợ phát triển của các nước phát triển, cũng như sự tích luỹ ban đầu của quốc gia. Việt Nam trong quá trình đổi mới đã chú trọng đầu tư xây dựng và hiện đại hoá các kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, và đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Song kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội của Việt Nam đến nay vẫn chưa được xây dựng thích ứng với yêu cầu phát triển. Việt Nam chưa có cảng trung chuyển quốc tế, chưa có đường cao tốc hiện đại ra các cảng biển và sân bay quốc tế, chưa có đường sắt hiện đại, sân bay quốc tế nhỏ bé, các thiết chế kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế chưa sâu rộng… Định hướng đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng của Việt Nam còn phân tán, chưa tập trung vào những lĩnh vực quan trọng nhất. Đây là nguyên nhân rất quan trọng làm cho chi phí kinh doanh ở Việt Nam còn cao hơn khu vực. Vì thế mà giảm sút tính cạnh tranh của Việt Nam với các quốc gia khác.
CHƯƠNG III. GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUAN HỆ VIỆT NAM - ADB
III.1. Triển vọng quan hệ Việt Nam - ADB
Khi các lực thúc đẩy chính của CSP vẫn còn hợp lệ, Việt Nam vẫn có nhu cầu cải thiện việc thực hiện các hỗ trợ đang tiếp diễn và hợp tác giải quyết các vấn đề đang nổi lên, đặc biệt là giảm thiểu các tác động xấu của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu trong năm 2008 và năm 2009.
Vì Việt Nam là một trong những nước dễ bị ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, ADB đang chuẩn bị để hỗ trợ thực hiện Chương trình quốc gia của chính phủ cùng với các đối tác phát triển khác, và hỗ trợ liên quan đến biến đổi khí hậu sẽ được lồng ghép.
Với việc Việt Nam trở thành một nền kinh tế thu nhập trung bình, đất nước đang chuẩn bị các SEDP mới, giai đoạn 2011-2015 và song song với đó, ADB đang chuẩn bị các CPS cho cùng thời kỳ. Nhận thức được chuyển đổi nhanh chóng của đất nước ta, những nỗ lực đang được thực hiện để cho phép ADB hỗ trợ nước ta đạt được nhanh và bền vững sự phát triển kinh tế xã hội, giải quyết các "bẫy thu nhập trung bình." Với việc công nhận rằng các chính sách ưu tiên trước mắt của chính phủ là ổn định kinh tế vĩ mô, ADB đang tích cực tham gia vào đối thoại chính sách về quản lý kinh tế vĩ mô, đồng thời hỗ trợ những nỗ lực của chính phủ để cải thiện quản trị doanh nghiệp và hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước. Để tạo điều kiện phát triển cơ sở hạ tầng nhanh chóng, ADB đang hỗ trợ chính phủ phát triển một chương trình thí điểm nhằm thúc đẩy quan hệ đối tác công-tư. Việt Nam cần chú trọng nhiều hơn vào việc nâng cao hiệu quả của nền kinh tế để trở thành một phần của khu vực và toàn cầu. Những triển vọng mối quan hệ này nhằm hình thành cơ sở của CPS 2011-2015 đối với Việt Nam để nhất quán với SEDP của chính phủ Việt Nam cũng như với các khuôn khổ chiến lược của ADB dài hạn đến năm 2020.NgheĐọc ngữ âm
Việt Nam sẽ là một trong những nước nhận lớn nhất của ADF với 736 triệu USD cho giai đoạn 2011-2012. OCR cũng được tích cực sử dụng cho các dự án với mức giá cao hơn, chẳng hạn như cơ sở hạ tầng có mức phân bổ khoảng 1 tỷ USD vào năm 2011. Tuy nhiên, nhu cầu về OCR vẫn còn cao hơn, và dự kiến sẽ vẫn cao trong trung hạn. ADB sẽ tăng cường nỗ lực hướng tới huy động nguồn lực lớn hơn, bao gồm cả đồng tài trợ và sử dụng bảo lãnh hoặc các nhạc cụ khác. Trong vòng 5 năm tới, để duy trì tốc độ tăng trưởng 7%-8%/năm, Việt Nam cần khoảng 16 tỉ USD/năm để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu, Tạp chí Cộng sản điện tử, Hội nghị thường niên ADB lần thứ 44 thành công tốt đẹp: Đề cao vai trò của nước chủ nhà Việt Nam, ngày truy câp 04/05/2011
trong khi nguồn vốn từ FDI, ODA cũng như ngân sách nhà nước không thể đủ. Vì vậy, mở cửa cho hình thức “Đối tác công - tư” (PPP) sẽ không chỉ giúp hiện thực hóa khả năng thúc đẩy nguồn vốn vào những dự án công cộng thiết yếu, mà còn giúp Việt Nam giảm nợ công. Việt Nam đã trở thành nước có mức thu nhập trung bình nên những khoản vay ưu đãi và viện trợ đang dần bị cắt giảm và mức độ ưu đãi về lãi suất cũng thay đổi. Trong khi đó, các nguồn tài chính truyền thống như phát hành trái phiếu Chính phủ, vốn vay nước ngoài và vốn ODA đều làm phát sinh nợ quốc gia. Vì vậy, thúc đẩy việc đầu tư theo hình thức PPP vào các dự án cơ sở hạ tầng thiết yếu sẽ không chỉ là mang lại lợi ích về nguồn vốn mà còn là trình độ công nghệ, kinh nghiệm quản lý tiên tiến của khu vực tư nhân, qua đó nâng cao hiệu quả đầu tư và nhất là kiểm soát nợ công trong hạn mức an toàn.
III.2. Giải pháp nâng cao mối quan hệ
III.2.1. Nâng cao uy tín quốc gia
Các biện pháp này có tác dụng tích cực giúp kêu gọi nguồn đầu tư của ADB vào đất nước thông qua việc truyền tải những thông tin tốt đẹp của Việt Nam tới ADB. Các biện pháp nâng cao hình ảnh của Việt Nam được sử dụng cả trong thị trường trong nước lẫn thị trường nước ngoài nhằm cung cấp cho nhà đầu tư thông tin về kế hoạch đầu tư của Việt Nam, các chính sách và chế độ đãi ngộ, các thủ tục và yêu cầu khi đầu tư cũng như những tiến bộ, thành tựu mà ta đã đạt được. Có như vậy mới rút ngắn được khoảng cách giữa nhận thức của ADB với thực tế những gì đang diễn ra ở Việt Nam. Các hoạt động xây dựng hình ảnh bao gồm sử dụng các phương tiện truyền thông như: website, video, sách giới thiệu, tờ rơi, tổ chức các buổi giới thiệu ngắn và quảng cáo... Tuy nhiên có một điều khi thực hiện là không dừng lại quá lâu ở giai đoạn xây dựng hình ảnh. Theo đánh giá, Việt Nam tuy thu hút đầu tư nhưng vẫn chưa thực sự tạo dựng được một hình ảnh ấn tượng trên trường quốc tế.
III.2.2. Hoàn thiện thể chế
Trước hết công tác hoàn thiện thể chế phải theo hướng đổi mới tư duy kinh tế trên cơ sở các nguyên tắc của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Những đạo luật nào được soạn thảo theo đúng các nguyên tắc này thì chúng đã đi vào cuộc sống và phát huy hiệu quả rõ rệt, chẳng hạn như: Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư nước ngoài…Nhưng có không ít đạo luật đã không mấy phát huy tác dụng, như Luật phá sản từ khi ban hành đến nay đã có rất ít doanh nghiệp phá sản theo luật; Luật đất đai đã sửa nhiều lần, nhưng thị trường đất đai vẫn chưa thể vận hành theo luật…Các cam kết quốc tế song phương và đa phương của Việt Nam có thể được xem là những chuẩn mực, các luật kinh tế của các nước có nền kinh tế thị trường đã phát triển và hoàn thiện cũng là những căn cứ hết sức quan trọng để ta có thể tham khảo. Những điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể của nước ta cũng là một yếu tố để xem xét và xây dựng các điều luật cho phù hợp. Việc hoàn thiện các thể chế phù hợp với kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế phải là việc làm thường xuyên.
Thứ hai, hoàn thiện hệ thống luật pháp theo những cam kết quốc tế để đảm bảo một môi trường pháp lý ổn định. Chương trình sửa đổi và ban hành luật pháp mới của Việt Nam hiện là khá đồ sộ, nhưng có thể sẽ chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập quốc tế nếu chương trình này không có tính dự báo, không tính tới những cam kết mà Việt Nam sẽ ký kết. Võ Đại Lược, Một số vấn đề và giải pháp phát triển kinh tế, Những vấn đề Kinh tế thế giới Số 11(115), 2005, trang 53
Mặt khác, cần có sự đổi mới cách làm luật theo hướng chuyên môn hơn, phải có tri thức, thông tin, và chuyên nghiệp hơn; tập trung nguồn lực phù hợp cho việc soạn thảo luật pháp kể cả về tài chính và nhân lực.
Phải đảm bảo tính cụ thể, rõ ràng, nhất quán của luật pháp và chính sách. Giải pháp này đòi hỏi sự rà soát nghiêm túc các văn bản đầu tư, đánh giá tính khả thi của dự án. Trên cơ sở đó có thể bãi bỏ những quy định không còn phù hợp và bổ sung những văn bản mới tuân thủ các nguyên tắc đã đặt ra.
Phải có sự thống nhất quy định đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài phù hợp với thông lệ quốc tế, cho nên cần xây dựng văn bản hướng dẫn các địa phương và doanh nghiệp về lộ trình cam kết mở cửa đầu tư nước ngoài, về các thủ tục đầu tư của ADB.
Cuối cùng là cần tạo hành lang pháp lý ổn định bình đẳng đối với mọi đối tượng đầu tư. Tất cả các hoạt động đều phải dựa trên luật, tránh tình trạng trùng lặp bất hợp lý, làm mất thời gian và cơ hội của các chủ thể đầu tư.
III.2.3. Nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước
Việc chỉ đạo điều hành tập trung, thống nhất của Chính phủ cùng với công tác thực hiện nghiêm túc quy định của các Bộ, Ngành và địa phương sẽ góp phần thúc đẩy hiệu quả của các dự án đầu tư từ phía ADB.
Quy trình ban hành các văn bản pháp quy nhằm ngăn chặn việc ban hành các văn bản trái quy định hoặc không thực hiện nghiêm túc quy định của Chính phủ về đầu tư cần nhanh chóng được hoàn thiện.
Nhà nước cần công khai hoá các quy định về giải quyết thủ tục hành chính, có chế tài bồi thường phí tổn do sai trái mà các cơ quan có thẩm quyền gây ra. Đồng thời ngăn chặn và xử lý nghiêm các hiện tượng sách nhiễu, tham nhũng của các quan chức nhà nước. Thực hiện công tác rà soát và bãi bỏ các loại giấy phép con nhằm đơn giản hoá thủ tục đầu tư, mở rộng diện áp dụng hình thức đăng ký giấy phép đầu tư.
Nhà nước cần xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ, Ngành và UBND các tỉnh, thành phố trong hoạt động đầu tư, phân rõ trách nhiệm của mỗi cơ quan, đơn vị trong việc quản lý.
III.2.4. Tăng cường công tác đào tạo cán bộ quản lý và công nhân
Trong các hoạt động hợp tác đầu tư, công tác tổ chức cán bộ đặc biệt quan trọng vì cán bộ vừa tham gia hoạch định chính sách vừa vận dụng luật pháp để xử lý công việc hàng ngày. Một lợi thế của Việt Nam là nguồn nhân lực, nhưng nguồn nhân lực có trình độ quản lý và tay nghề cao còn rất thiếu. Theo thống kê chỉ có gần 30% lực lượng lao động đã qua đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực cũng chưa cao, chưa đồng đều và sử dụng chưa hiệu quả. Trong các quan hệ hợp tác, cán bộ quản lý Việt Nam đóng vai trò quan trọng nhằm bảo vệ lợi ích của bên Việt Nam, của người lao động Việt Nam, đảm bảo hoạt động theo đúng quy định của pháp luật. Nhà nước cần chú trọng đến công tác đào tạo, nâng cao phẩm chất chính trị đạo đức, năng lực chuyên môn, nghĩa vụ và quyền lợi của cán bộ. Bên cạnh đó cần tổ chức đào tạo cán bộ và công nhân làm việc trong các dự án hợp tác với ADB cho phù hợp nhu cầu và triển vọng sử dụng thực tế số lao động này. Cuối cùng Việt Nam cần có chính sách đón đầu trong giáo dục đào tạo nhân lực, xây dựng những trung tâm đào tạo cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề để phục vụ cho các hoạt động hợp tác với ADB.
III.2.5. Xây dựng và hiện đại hoá các kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
Việc phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật không chỉ tăng sự hấp dẫn cho môi trường đầu tư nói chung mà còn tạo điều kiện tăng thu hút vốn nước ngoài ngay tại lĩnh vực xây dựng hạ tầng nói riêng. Trong thời gian qua, Chính phủ Việt Nam đã mở rộng quy hoạch, hình thành nhiều khu công nghiệp hơn, đó là cơ sở ban đầu trong việc nâng cấp hạ tầng để phục vụ cho công tác thu hút đầu tư. Nhiệm vụ trọng tâm do đó được đề ra là thu hút đầu tư để lấp đầy các khu công nghiệp nhằm phát huy hiệu quả của chúng, góp phần phát triển kinh tế xã hội.
Để tạo thuận lợi cho việc thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp cần ban hành các quy chế mới như quy chế về công nghệ cao, chính sách ưu đãi đầu tư công nghệ cao, đảm bảo các công trình hạ tầng như đường sá, giao thông, năng lượng được đầy đủ. Đồng thời thiết lập những chính sách hỗ trợ giảm chi phí đầu vào tạo điều kiện cho các hoạt động đầu tư.
Cơ sở hạ tầng còn thể hiện ở cấu trúc thị trường đồng bộ như thị trường tài chính, thị trường lao động và thị trường nguyên vật liệu. Ngoài ra còn cần cải thiện chất lượng hệ thống dịch vụ hiện tại và phát triển hệ thống dịch vụ rộng khắp, đa dạng và có chất lượng cao như y tế, giáo dục, dịch vụ tài chính, quảng cáo để tăng sức hấp dẫn cho môi trường đầu tư.
PHẦN KẾT LUẬN
Trải qua gần nửa thế kỷ xây dựng và phát triển quan hệ Việt Nam – ADB, nền kinh tế - xã hội của đất nước ta đã được cải thiện trên các lĩnh vực như: Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Công nghiệp và thương mại, Du lịch, Giáo dục, Giao thông vận tải…Có thể dễ dàng nhận thấy những điểm sáng trong mối quan hệ này như là Việt Nam đã đẩy nhanh tiến độ xoá đói giảm nghèo, giảm bớt chênh lệch giữa thành thị và nông thôn, khả năng đẩy lùi lạm phát trong bối cảnh kinh tế toàn cầu rơi vào khủng hoảng và giải quyết từng bước những hậu quả kéo theo của nó. Mối quan hệ này đi cùng với các sự hợp tác với WB, WTO, IMF, ASEAN đã giúp Việt Nam trở thành quốc gia nhận được nhiều sự hỗ trợ và đầu tư từ bên ngoài trong khu vực Đông Nam Á. Tuy nhiên vẫn còn có những khó khăn xuất phát từ cả hai bên và từ bối cảnh tác động vào như là sự chậm trễ cung cấp vốn của ADB hay vấn đề quản lý dự án đạt hiệu quả thấp từ phía Việt Nam và sự khủng hoảng kinh tế trên thế giới,... Để giải quyết những tổn tại đang cản trợ mối quan hệ phát triển, chúng ta cần sử dụng triển vọng làm tham chiếu rồi vạch ra các phương hướng cải thiện bộ máy quản lý cấp trung ương và địa phương, nâng cao trình độ cán bộ, sửa đổi những quy định pháp luật chưa đáp ứng thực tiễn hoạt động đầu tư, và không ngừng xây dựng hình ảnh một đất nước chính trị xã hội ổn định, nhiều ưu đãi cho nhà đầu tư. Các giải pháp này chỉ là những gợi ý để thúc đẩy mối quan hệ Việt Nam – ADB nói riêng và các mối quan hệ trên thế giới nói chung, việc áp dụng chúng còn cần sự linh hoạt và điều chỉnh hợp của Chính phủ, ngoài ra chúng còn phụ thuộc vào sự thay đổi của hoàn cảnh. Về phía Việt Nam, nhà nước ta mong muốn tiếp tục nhận được những hỗ trợ của ADB, và đồng thời, sau sự thành công của Hội nghị thường niên ADB lần thứ 44 tại Hà Nội vừa qua, ông Haruhiko Kudora, Chủ tịch Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) bày tỏ tin tưởng với các biện pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội sẽ phát huy hiệu quả, tiếp tục đưa Việt Nam phát triển nhanh và bền vững, khẳng định, ADB tiếp tục tăng các khoản vay ưu đãi cho Việt Nam, nhất là các dự án về môi trường, hạ tầng giao thông, xóa đói giảm nghèo... Đây là tín hiệu tốt cho một mối quan hệ phát triển lâu dài và bền vững, phù hợp với xu hướng chung của quốc tế. Trong giai đoạn từ 2000 đến nay, hoạt động thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam đã đạt được những con số ấn tượng và triển vọng về khả năng thu hút nguồn vốn này cho những năm sắp tới là rất lớn. Tuy nhiên, trước những thay đổi khó lường trước được trong mối quan hệ kinh tế quốc tế cũng như tình hình khủng hoảng kinh tế thế giới như hiện nay, Việt Nam sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn để tiếp tục duy trì và phát huy khả năng thu hút thêm nguồn đầu tư từ ADB. Nhiệm vụ này rất khó thực hiện song với những tín hiệu lạc quan về sự hồi phục kinh tế thế giới hiện nay và quyết tâm thực hiện chủ trương đã đề ra trong các kỳ Đại hội Đảng, chúng ta hoàn toàn tự tin vào tương lai của mối quan hệ này.
DANH MỤC THAM KHẢO
Tài liệu Tiếng Việt
- Tài liệu sách:
Đào Xuân Sâm – Vũ Quốc Tuấn, Đổi mới ở Việt Nam: Nhớ lại và suy ngẫm, Nxb Tri thức, Việt Nam, 2008, trang 14.
Nguyễn Trí Dĩnh - Phạm Thị Quý, Lịch sử kinh tế, Nxb Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội, 2004, trang 335.
Nguyễn Trọng Xuân, Đầu tư trực tiếp nước ngoài với công cuộc HĐH - CNH ở Việt Nam, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn QG - Viện kinh tế học, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2002.
Phạm Minh Chính – Vương Quân Hoàng, Kinh tế Việt Nam thăng trầm và đột phá, Nxb Chính trị quốc gia, Việt Nam, 2009.
TS. Nguyễn Anh Tuấn - TS. Nguyễn Văn Lịch, Giáo trình kinh tế Đối ngoại Việt Nam, Bộ Ngoại Giao - Học viện Quan hệ quốc tế, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005.
TS. Nguyễn Anh Tuấn, Giáo trình Quan hệ kinh tế Quốc tế, Bộ Ngoại giao - Học viện Quan hệ quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006.
TS. Vũ Quốc Huy - TS. Lê Văn Chiến, Một số đánh giá về tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế và tài chính hiện nay đến dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới, Những vấn đề Kinh tế và Chính trị thế giới Số 89(160), 2009, trang 14.
Võ Đại Lược, Một số vấn đề và giải pháp phát triển kinh tế, Những vấn đề Kinh tế thế giới Số 11(115), 2005, trang 57.
- Tài liệu báo, tạp chí:
David Dapice, Những thách thức của sự phát triển nhanh và bền vững ở Việt Nam, Nghiên cứ kinh tế số 338, 2006.
Đỗ Kim Chung, Vấn đề nông dân, nông nghiệp, nông thôn trong sự nghiệp CNH -HĐH hiện nay: quan điểm và những định hướng chính sách, Nghiên cứu kinh tế số 380, 2010.
Vũ Thị Vịnh, Tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo ở Việt Nam, thành tựu và thách thức, Nghiên cứu kinh tế số 368, 2009.
- Trang web Tiếng Việt:
ADB, Đánh giá giữa kỳ Chiến lược và Chương trình quốc gia 2007- 2011, www.adb.org/.../VietNamese/csp/.../CSP-Midterm-Review-2007-2010-vn.pdf, trang 6, ngày truy cập 15/04/2011.
ADB, Quan hệ Việt Nam và ADB, ngày truy cập 11/04/2011.
An Hạ, Chủ tịch ADB: Việt Nam đã giảm nghèo thành công, ngày truy cập 20/04/2011.
An Hạ, Lạm phát cao không chỉ diễn ra ở các nước mới nổi, ngày truy cập 22/04/2011.
Ngành năng lượng thiếu vốn, ngày truy cập 04/04/2011.
Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam, Quan hệ Việt Nam - ADB, ngày truy cập 03/04/2011.
Quan hệ Việt Nam - ADB, ngày truy cập 11/04/2011.
Quan hệ Việt Nam và ADB, ngày truy cập 02/04/2011.
Quan hệ Việt Nam và ADB, NCHH, ngày truy cập 05/04/2011.
Tạp chí Cộng sản điện tử, Hội nghị thường niên ADB lần thứ 44 thành công tốt đẹp: Đề cao vai trò của nước chủ nhà Việt Nam, ngày truy câp 04/05/2011.
Theo Vietnamplus, ADB góp mặt trong những lĩnh vực trọng yếu của kinh tế - xã hội, ngày truy cập 20/04/2011.
Trần Xuân Tình, Hơn 80% làng nghề tiểu thủ công nghiệp thiếu vốn, TTXVN, ngày truy cập 23/03/2011
Tài liệu Tiếng Anh:
- Tài liệu sách:
David Dapice, Vietnam's Economy: Sucess Story or Weird Dualism? A swot Analysis, Havard University, 2003.
Theodore Shabad, Economic Developments in North Vietnam, Pacific Affair, 33(1), 1958, trang 36 - 53.
United Nations Conference on Trade and Development, Investment Policy Review of Vietnam, 2008.
United Nations, World Economic Situation and Propects 2009- Global Outlook, New York, 2009.
- Trang web Tiếng Anh:
ADB, ADB in Asia and the Pacific Region, ngày truy cập 05/04/2011.
ADB, Sustainable Rural Infrastructure Development Project in Northern Moutain Provinces - Gender Action Plans, ngày truy cập 02/05/2011.
Autralian Governmnet The Treasury, Australia and the international finacial institutions, ngày truy cập 20/03/2011.
ADB, GSM: Mekong Tourism Development Project: Viet Nam, Soc Rep of,
ngày truy cập 03/05/2011
ADB, Mekong Tourism Development Project - Social Impact Assessment, ngày truy cập 02/05/2011.
ADB, Sustainable Rural Infrastructure Development Project in the North Provinces: Viet Nam, Soc Rep of , ngày truy cập 01/05/2011
Tài liệu Tiếng Anh:
- Tài liệu sách:
David Dapice, Vietnam's Economy: Sucess Story or Weird Dualism? A swot Analysis, Havard University, 2003.
Theodore Shabad, Economic Developments in North Vietnam, Pacific Affair, 33(1), 1958, trang 36 - 53.
United Nations Conference on Trade and Development, Investment Policy Review of Vietnam, 2008.
United Nations, World Economic Situation and Propects 2009- Global Outlook, New York, 2009.
- Trang web Tiếng Anh:
ADB, ADB in Asia and the Pacific Region, ngày truy cập 05/04/2011.
ADB, Sustainable Rural Infrastructure Development Project in Northern Moutain Provinces - Gender Action Plans, ngày truy cập 02/05/2011.
Autralian Governmnet The Treasury, Australia and the international finacial institutions, ngày truy cập 20/03/2011.
ADB, GSM: Mekong Tourism Development Project: Viet Nam, Soc Rep of,
ngày truy cập 03/05/2011
ADB, Mekong Tourism Development Project - Social Impact Assessment, ngày truy cập 02/05/2011.
ADB, Sustainable Rural Infrastructure Development Project in the North Provinces: Viet Nam, Soc Rep of , ngày truy cập 01/05/2011
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Khóa luận ngoại giao- Thực trạng và giải pháp nhằm tăng cường quan hệ việt nam - adb.doc