Xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cơ quan trong quá trình xây dựng
NTM, cần phải xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan, nhất là những cơ
quan chuyên môn phụ trách và tổ chức chính trị - xã hội để có cơ chế khen
thưởng, kỷ luật hợp lý, kịp thời.
Thành lập văn phòng điều phối cấp huyện được phụ trách bởi những cán
bộ có năng lực chuyên môn là cần thiết. Đây cũng chính là một kênh tiếp
nhận ý kiến đóng góp của người dân trên địa bàn huyện.
Tiếp tục đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật; Đảm bảo nâng tầm
phủ sóng của hệ thống loa phát thanh trên địa bàn các xã để phục vụ công tác
tuyên truyền nâng cao nhận thức của người dân.
Đồng thời, tăng cường giao lưu học hỏi kinh nghiệm xây dựng NTM, có
biện pháp huy động nguồn lực từ phía doanh nghiệp.
Đối với ban lãnh đạo xã, đặc biệt là các tổ chức đoàn thể trong từng
thôn.
Cần đôn đốc, thúc đẩy, tạo động lực cho các hộ nông dân đưa vốn đầu
tư, khoa học kĩ thuật vào sản xuất và mở rộng ngành nghề tạo thêm công ăn
việc làm cho lao động trong xã.
Tổ chức tuyên truyền, phát động phong trào thi đua xây dựng NTM
trong xã; Tổ chức khen thưởng kịp thời cá nhân, tập thể hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ hằng năm.
Quan tâm hơn nữa việc hướng dẫn kiến thức cơ bản về xây dựng NTM
cho Ban ngành phát triển xây dựng NTM, tổ chức học tập kinh nghiệm xây
dựng NTM với xã bạn.
Lồng ghép các chương trình, dự án để thực hiện chương trình; Huy động
các nguồn lực đặc biệt là huy động sự nổ lực đóng góp của người dân đầu tư
xây dựng NTM xã.
104 trang |
Chia sẻ: phamthachthat | Lượt xem: 2214 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Sự tham gia của người dân trong việc xây dựng nông thôn mới trên địa bàn xã Điền hải, huyện Phong điền, tỉnh thừa thiên Huế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
B KTNN 64
Đạ
i h
ọc
K
inh
tế
H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng
Vì vậy, cần phải duy trì hình thức đóng góp tiền mặt và phát huy hơn
nữa sự tham gia của người dân thông qua các hình thức như tận dụng nguyên
vật liệu tại chỗ, đóng góp ngày công lao động và đóng góp ý kiến.
2.2.7. Các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ tham gia của người dân
trong việc xây dựng NTM
Yếu tố từ phía người dân
Vai trò chủ thể của người dân trong xây dựng NTM đang được phát huy,
thể hiện sự đồng tình hưởng ứng trong các hoạt động xây dựng NTM như
hiến đất, hiến tài sản, đóng góp công xây dựng đường GTNT và các công
trình phúc lợi xã hội khác. Người dân ngày càng nhận thức và phát huy được
vai trò của mình, họ tích cực tham gia các hoạt động như tham gia phát triển
kinh tế, tăng thu nhập kinh tế cho hộ gia đình; Xây dựng kết cấu hạ tầng nông
thôn; Giữ gìn an ninh trật tự; Giữ gìn vệ sinh môi trường. Tuy nhiên, người
dân chưa nắm bắt được vai trò cụ thể của mình trong việc tham gia xây dựng
NTM. Do đó, vẫn còn tồn tại một số thực trạng:
Một là, người dân chưa chủ động đóng góp ý kiến một cách thiết thực
vào việc xây dựng NTM. Thường thì tham gia theo phong trào và mang tính
hình thức.
Hai là, người dân vẫn chưa nhận thức được vai trò của mình đối với việc
tham gia xây dựng NTM. Họ cho rằng, đây là chương trình đầu tư của Nhà nước
cho địa phương mình, là việc của cấp trên chứ không phải là việc của mình.
Nhận thức của người dân là yếu tố quan trọng, vì nó có tác động lớn đến
sự tham gia của người dân. Để thay đổi được nhận thức của người dân về vấn
đề này không phải là một sớm một chiều mà đó là cả một quá trình. Và nó cần
sự vào cuộc của toàn hệ thống chính trị, từ tăng cường công tác tuyên truyền
để thay đổi nhận thức của người dân.
Yếu tố hộ gia đình
Khóa luận sẽ tiến hành so sánh mối tương quan giữa độ tuổi và nghề nghiệp
với mức độ quan tâm của người dân đối với việc tham gia xây dựng NTM:
SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 65
Đạ
i h
ọc
K
inh
tế
H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng
Biểu đồ 7: Ảnh hưởng của độ tuổi đến mức độ quan tâm của người dân
trong việc xây dựng NTM
(Nguồn: Số liệu điều tra năm 2016)
Chính sách NTM thường hướng đến người dân, tuy nhiên những người
trẻ và người già thường ít quan tâm đến việc xây dựng NTM. Còn những
người từ độ tuổi từ 35 đến 55 tuổi thường quan tâm nhiều hơn. Vì đa số
những người ở độ tuổi này thường có ý thức cao và hiểu biết nhiều hơn, nên
họ thường quan tâm nhiều hơn đến việc xây dựng NTM. Và họ chính là
những lực lượng nòng cốt, tiên phong trong việc xây dựng NTM.
Biểu đồ 8: Ảnh hưởng của nghề nghiệp đến mức độ quan tâm của người
dân trong việc xây dựng NTM
(Nguồn: Số liệu điều tra năm 2016)
SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 66
Đạ
i h
ọc
K
inh
tế
H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng
Quả biểu đồ trên, chúng ta thấy được CB, CC, VC quan tâm đến việc
xây dựng NTM nhiều nhất, vì tính chất đặc thù của nghề nghiệp, những người
có trình độ học vấn cao thường nhận thức đầy đủ vấn đề hơn thì họ thường
nhiệt tình tham gia vào các hoạt động trong thực thi chính sách NTM hơn.
Tiếp theo đó số người làm nông cũng rất quan tâm đến việc xây dựng NTM vì
họ là người chịu ảnh hưởng nhiều nhất bởi chương trình NTM. Và những
người công nhân, buôn bán cũng quan tâm nhiều đến việc thực thi chính sách,
vì các tác động của chính sách ảnh hưởng đối với nghề nghiệp của họ.
Kết quả cho thấy rằng độ tuổi, nghề nghiệp cũng có ảnh hưởng đến sự
tham gia của người dân. Nhìn chung đa phần người dân đều biết đến chương
trình xây dựng NTM. Người dân biết đến Chương trình thông qua nhiều kênh
khác nhau do đó, số lượng người dân tham gia thực hiện chương trình là khá
cao, bằng nhiều hình thức và mức độ khác nhau.
Ngoài ra, các yếu tố như mức sống, trình độ học vấn, số lượng người
trong hộ,... Cũng có thể ảnh hưởng đến sự tham gia của người dân. Chẳng
hạn, những người có trình độ học vấn cao, nhận thức đầy đủ vấn đề hơn thì họ
thường nhiệt tình tham gia vào các hoạt động trong thực thi chính sách hơn.
Hay những người có mức sống khá và trung bình họ sẽ có điều kiện để tham
gia hơn.
Tuy nhiên, điều này cũng chỉ mang tính tương đối và tùy thuộc vào từng
hoàn cảnh, từng thời điểm thực hiệc các hoạt động của xã. Có trường hợp, số
lượng thanh niên hầu như đi học và đi làm xa nhà khá nhiều, từ đó một lượng
lao động trẻ không có để tham gia xây dựng NTM bị giảm đi một phần.
2.2.8. Những khó khăn, hạn chế và nguyên nhân ảnh hưởng tới sự
tham gia của người dân trong việc xây dựng NTM
2.2.8.1. Khó khăn và hạn chế ảnh hưởng tới sự tham gia của người dân
trong việc xây dựng NTM
Xây dựng NTM là một chương trình tổng thể về xây dựng cơ sở hạ tầng,
phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh, chính trị ở các địa
phương, Nhằm phục vụ cuộc sống người dân nông thôn. Tuy nhiên, sự
SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 67
Đạ
i h
ọc
K
inh
tế
H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng
tham gia của người dân trong thực thi chính sách NTM trên địa bàn huyện
còn nhiều khó khăn và hạn chế.
Một bộ phận cán bộ và nhân dân chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan
trọng, nội dung và ý nghĩa của chương trình. Chỉ khi nào người dân hiểu được
chương trình thực hiện là vì nâng cao chất lượng cuộc sống của chính họ thì
họ mới tích cực, chủ động tham gia. Và chỉ khi nào chính quyền địa phương
hiểu được tầm quan trọng của người dân trong việc thực thi chính sách NTM
thì mới có những hoạt động, những giải pháp hướng đến sự tham gia của
người dân, trong đó người dân đóng vai trò chủ thể. Có như vậy thì chương
trình mới phát huy hiệu quả.
Người dân chưa chủ động đóng góp ý kiến một cách thiết thực vào việc
xây dựng NTM. Vì người dân quen với cách làm “từ trên xuống” nên vẫn còn
dựa dẫm, phụ thuộc vào cán bộ. Và do tâm lý e ngại nên người dân chưa
mạnh dạn đóng góp ý kiến, mặc khác đa số trình độ của người dân còn thấp
nên họ sợ ý kiến của mình nói ra sợ mọi người cười cho. Hoặc cũng có lúc ý
kiến của người dân không trọng tâm nên không được cán bộ công chức thừa
nhận. Từ đó, tạo cho người dân tâm lý là ý kiến của mình cũng thừa nên
không đóng góp. Đây như một vòng tuần hoàn luẩn quẩn. Vậy thì công tác
tuyên truyền làm sao cho người nhận thức được tầm quan trọng của họ trong
xây dựng NTM và người dân xóa bỏ tư tưởng đó.
Người dân thường thì tham gia theo phong trào, khi nào có đợt phát động
thì tham gia, thấy cái gì có lợi mang lại hiểu quả kinh tế thì tham gia nhiệt tình
còn không thì họ dường như không quan tâm đến. Họ chưa hiểu rõ rằng cùng
với việc tham gia đóng góp sức lao động, tiền của, ý kiến vào các hoạt động
thực hiện chính sách là việc tự đầu tư để góp phần nâng cao thu nhập trong các
hoạt động kinh tế, giữ gìn nếp sống văn hóa, chỉnh trang ngõ xóm, giữ vững an
ninh trật tự, Góp phần nâng cao chất lượng đời sống của chính họ.
Người dân chưa nắm bắt được vai trò cụ thể của mình trong việc thực thi
chính sách. Họ cho rằng, đây là chương trình đầu tư của Nhà nước cho địa
SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 68
Đạ
i h
ọc
K
i h
tế
H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng
phương mình, là việc của cấp trên, chứ không phải là việc của mình.
Người dân chưa thực sự tham gia nhiều trong thực thi chính sách, chưa
tham gia lựa chọn thực hiện tiêu chí nào trước, tiêu chí nào sau; Chưa tham
gia lập kế hoạch thực hiện; Chưa tham gia vào việc quyết định mức độ đóng
góp; Chưa tham gia một cách đầy đủ vào các cuộc họp thôn xóm;... Trong khi
đây là những nội dung quan trọng cần có sự tham gia của người dân để hoạt
động triển khai xây dựng NTM sát với thực tiễn, để nói lên được phần nào về
mức độ dân chủ trong thực thi chính sách.
Người dân vẫn còn tồn tại tâm lý trông chờ, ỷ lại vào nguồn vốn từ ngân
sách nhà nước. Sự tham gia của người dân mới tập trung ở khâu huy động
đóng góp vào xây dựng hạ tầng, ngoài ra thiếu tập trung chú trọng về phát
triển sản xuất và nâng cao thu nhập cho người dân. Đồng thời, sự tham gia
của người dân không đồng đều giữa các vùng địa hình trong xã.
Trong đó, các hình thức tham gia tuy đã phong phú, nhưng những hình
thức có thể khai thác ngay tại địa phương như cung cấp vật liệu, dụng cụ, hiến
đất, đóng góp ngày công lao động thì chưa được phát huy hết tiềm năng. Vì
vậy, cần làm tốt công tác tuyên truyền để huy động sự tham gia của người dân
thông qua các hình thức này, nhằm làm giảm bớt gánh nặng về tài chính cho
người dân, đồng thời làm tăng thu nhập cho họ.
Công tác đào tạo, tập huấn cho người dân nông thôn gặp nhiều khó khăn,
trình độ dân trí của người dân thấp, kiến thức về quản lý của cán bộ Ban quản
lý xây dựng NTM còn chưa cao. Trong khi đó một phần tầng lớp thanh niên trí
thức nông thôn được đào tạo không muốn trở về gắn bó xây dựng nông thôn.
Một số hộ khi tham gia các hoạt động trong mô hình NTM chỉ theo kinh
nghiệm của bản thân chứ không theo cơ sở khoa học. Ví dụ như khi họ tham gia
vào việc lập kế hoạch và triển khai thực hiện các mô hình NTM đều theo kinh
nghiệm của họ, đa số các chủ hộ có trình độ văn hóa và trình độ chuyên môn
thấp vì vậy nên năng suất thấp hơn so với dự kiến, hiểu quả kinh tế chưa đạt
mức cao nhất có thể.
SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 69
Đạ
i h
ọc
K
i h
tế
H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng
Tổ chức hoạt động của Ban quản lý xây dựng nông thôn gặp nhiều khó
khăn do kinh phí dành cho các hoạt động xây dựng NTM còn hạn hẹp, trong
khi các hoạt động đề ra lại tốn khá nhiều kinh phí. Những thành viên của Ban
quản lý xây dựng NTM cũng chỉ được trợ cấp một phần nhỏ, điều này cũng
ảnh hưởng đến sự nhiệt tình tham gia đóng góp công sức của bản thân từng
thành viên, của cộng đồng trong công cuộc phát triển làng xã.
Công tác tuyên truyền về xây dựng NTM chưa được thường xuyên, chưa
sát với thực tiễn. Điều này đã dẫn tới nhận thức của nhân dân về ý nghĩa của
chương trình này chưa thực sự đầy đủ. Không ít người dân coi chương trình
xây dựng NTM là cơ hội để có được nguồn đầu tư từ Nhà nước để xây dựng
kết cấu hạ tầng, mà coi nhẹ vai trò chủ thể là người dân.
Như vậy, những khó khăn và hạn chế về sự tham gia của người dân đã
được lồng ghép đánh giá trên các phương diện về mức độ tham gia, nội dung
tham gia, hình thức tham gia và nhận thức của người dân. Trên cơ sở đánh giá
để tìm ra nguyên nhân của những hạn chế, nhằm làm cơ sở cho những giải
pháp ở chương 3.
2.2.8.2. Nguyên nhân ảnh hưởng tới sự tham gia của người dân trong
việc xây dựng NTM
Quá trình huy động sự tham gia của người dân trong thực thi chính sách
NTM trên địa bàn xã Điền Hải gặp phải những khó khăn, hạn chế nhất định,
do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau. Ở phương diện
quản lý nhà nước, có thể thấy những tồn tại trên xuất phát từ những nguyên
nhân chính sau:
Một là, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của trung ương và địa
phương thể hiện nhiều mặt hạn chế như: Còn mang nặng tính áp đặt từ trên
xuống, không phù hợp với thực tế phát triển. Tới nay vẫn còn một số cơ chế
chính sách của Trung ương chậm được ban hành hoặc chậm sửa đổi, bổ
sung để phù hợp với thực tế như: Chính sách cho các vùng đặc thù, cơ chế
lồng ghép các chương trình, dự án trên địa bàn xã; Cơ chế quản lý và thủ tục
vay vốn ngân hàng; Hướng dẫn về quy chế quản lý xây dựng nông thôn,
SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 70
Đạ
i h
ọc
K
inh
tế
H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng
Hai là, công tác tuyên truyền ở cơ sở thiếu các giải pháp tổ chức đa dạng,
phù hợp điều kiện đặc điểm của từng địa bàn, thiếu thường xuyên nên cán bộ
và nhân dân chưa hiểu rõ về tầm quan trọng, nội dung, ý nghĩa của chương
trình. Các hoạt động hưởng ứng phong trào “Chung sức xây dựng NTM” đang
tập trung ở các thôn; Chưa đồng đều, thường xuyên, liên tục giữa các cấp, các
ngành và các địa phương; Chưa gắn tinh thần của phong trào với các hoạt động
thiết thực, cụ thể để đẩy nhanh tiến độ, chất lượng xây dựng NTM.
Ba là, sự tham gia của Mặt trận và các đoàn thể một số địa phương còn
chung chung, thiếu phân công trách nhiệm thực hiện các tiêu chí cụ thể trong
xây dựng NTM.
Bốn là, năng lực của cán bộ phụ trách công tác xây dựng NTM ở các xã
còn hạn chế, làm theo chế độ kiêm nhiệm, chưa bám sát nội dung đề cương
quy hoạch đã được huyện phê duyệt và các chương trình, đề án cũng như
Nghị quyết về phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, huyện, xã do đó chưa tham
mưu tốt cho Ban quản lý các xã triển khai thực hiện tốt nội dung đồ án quy
hoạch của xã.
Năm là, trình độ nhận thức của người dân còn hạn chế. Tổng hợp điều
tra hộ nông dân cho thấy, đa số người dân chủ yếu là học cấp 1, cấp 2, học hết
cấp 3 chiếm tỷ lệ khá thấp hoặc không được đào tạo qua một chương trình
đào tạo sơ cấp nào. Mặt khác, số được đào tạo qua các chương trình sơ cấp,
trung cấp và đại học thì chưa phát huy được khả năng của mình, chưa biết vận
dụng kiến thức vào thực tiễn và cách nhìn nhận vấn đề còn hạn chế.
Sáu là, một bộ phận cán bộ quản lý trình độ chưa cao, chưa có kinh
nghiệm làm việc, trong công tác còn thiếu sự nhiệt tình, sáng tạo, chưa đáp
ứng được nhu cầu trong tiến tình thực hiện dự án. Do đó chất lượng làm việc
chưa cao, chưa tạo được niềm tin trong nhân dân.
Bảy là, do kinh tế của xã phát triển còn chậm nên đã làm ảnh hưởng đến
sự đóng góp của người dân cho các hoạt động trong xây dựng NTM, cũng
như điều kiện của xã để thu hút các nguồn vốn đầu tư.
SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 71
Đạ
i h
ọ
K
inh
tế
H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP
NHẰM NÂNG CAO NHẬN THỨC VÀ TĂNG CƯỜNG
SỰ THAM GIA CỦA NGƯỜI DÂN TRONG XÂY DỰNG NTM
3.1. Định hướng
Tăng cường sự tham gia của người dân và các tổ chức xã hội trong xây
dựng NTM trước hết phải gắn với lợi ích của người dân và các tổ chức xã hội,
thực hiện một cách có hiệu quả chủ trương dân chủ cấp cơ sở và thực thi một
số mô hình. Chỉ thị 30 CT/TW ngày 12 tháng 8 năm 1998 của Trung ương
Đảng về thực hiện dân chủ cấp cơ sở, Nghị định số 79/2003/NĐCP ngày 07
tháng 7 năm 2003 của Chính phủ là cách tiếp cận, đánh giá đúng tình hình ở
cơ sở, thể chế hoá, pháp quy hoá những nội dung, nguyên tắc, phương châm
cho sinh hoạt dân chủ ở nông thôn, Quyết định số 81/2005/QĐTTg ngày
18/4/2005 của Thủ tướng Chính phủ về danh sách hỗ trợ dạy nghề ngắn hạn
cho lao động nông thôn. Đây là cách tiếp cận, là sự đánh giá đúng tình hình
cơ sở; Là hành lang pháp lý cho các hoạt động phát triển nông thôn, nâng cao
dân chủ cấp cơ sở, nhất là nâng cao vai trò, sự tham gia của người dân và các
tổ chức xã hội trong xây dựng và phát triển nông thôn.
Việc tăng cường vai trò của người dân trong xây dựng NTM cấp xã được
thực hiện theo phương châm dựa vào sức lực của người dân địa phương là
chính, Nhà nước hỗ trợ một phần làm động lực để phát huy sự đóng góp của
người dân và cộng đồng.
Các hoạt động cụ thể do chính người dân đề xuất và thiết kế trên cơ sở
bàn bạc dân chủ, công khai và quyết định thông qua cộng đồng. Chính quyền
các cấp chỉ đóng vai trò hướng dẫn kỹ thuật, tổng hợp các đề xuất, kiến nghị,
phê duyệt kế hoạch phát triển và tạo điều kiện thuận lợi cho người dân thực
hiện vai trò làm chủ thông qua cộng đồng.
Các mô hình thí điểm được triển khai phải đảm bảo phát triển nông thôn
bền vững, hài hoà với môi trường, góp phần bảo tồn giá trị truyền thống của
địa phương.
SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 72
Đạ
i h
ọc
K
inh
tế
H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng
Tổ chức các hoạt động tuyên truyền sâu rộng về chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước để vận động người dân tham gia chương trình.
Tăng cường các hoạt động tuyên truyền với nhiều hình thức, qua các
kênh thông tin khác nhau, đa dạng cách tuyên truyền: Phát thanh, truyền hình,
tờ rơi, cataloge, Poster,... Hoặc sự lồng ghép các nội dung trong sinh hoạt câu
lạc bộ của các tổ chức xã hội,...
Thực hiện các biện pháp tuyên truyền tác động và làm thay đổi nhận
thức, trách nhiệm của mỗi người dân và cộng đồng đối với phát triển nông
thôn nhằm khơi dậy phong trào tự vận động phát triển trong cộng đồng dân cư
nông thôn.
Nội dung xây dựng NTM cần phải được xem xét trong chương trình học
bậc phổ thông, nhằm tăng cường nhận thức và tầm quan trọng của việc xây
dựng NTM, giáo dục thế hệ trẻ để tạo động lực về trí và lực trong việc thực
hiện xây dựng NTM thật sự thành công và bền vững.
3.2. Giải pháp
3.2.1. Đối với các cấp chính quyền
Cả lý luận và thực tiễn đều cho thấy chỉ có phát huy vai trò chủ thể của
người dân mới bảo đảm sự thành công trong xây dựng NTM. Để làm được
điều đó, đòi hỏi các cấp chính quyền ở địa phương phải năng động, sáng tạo,
chú ý thực hiện tốt một số giải pháp sau:
Thứ nhất: Tiếp tục hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách tạo điều kiện
cho sự tham gia của người dân
Cần phải linh hoạt, không nên quá cứng nhắc, vì như thế sẽ làm khó cho
người dân, đặc khi người dân muốn vay vốn để mở rộng sản xuất nhưng vốn
vay lại ít không mang lại kết quả cao, vậy nên có những cơ chế chính sách phù
hợp, có thể cho vay theo mục đích của người dân, nếu người dân vay để mở rộng
sản xuất thì cho vay với nguồn vốn cao hơn, và các thủ tục vay cần ngắn gọn,
không quá rườm rà.
SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 73
Đạ
i h
ọc
K
inh
tế
H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng
Các ngân hàng chính sách nên ổn định và giảm lãi suất cho vay, vì hầu
hết người dân muốn vay để sản xuất nhưng lãi suất lại không ổn định, như thế
sẽ tác động tới tâm lý của người dân. Nhưng cũng qua đó cán bộ địa phương
cần có sự khảo sát để những hộ vay sử dụng đúng mục đích, đưa ra những
quy chế cho những hộ vay không đúng mục đích.
Khuyến khích giao cho thôn, bản và cộng đồng dân cư thực hiện những công
trình, dự án gắn liền với lợi ích của họ để nâng cao để nâng cao tính chủ động,
trách nhiệm và vai trò của người dân trong triển khai thực hiện chương trình.
Đúc rút, ban hành cơ chế lồng ghép các nguồn vốn để hỗ trợ nhân dân
thực hiện các nội dung xây dựng NTM thông qua cơ quan thường trực xây
dựng NTM.
Cần có cơ chế thống nhất để giảm chi phí đầu tư trong xây dựng NTM
như: Thiết kế mẫu, phân nhóm công trình để người dân tự tổ chức xây dựng
(Nhà nước chỉ hỗ trợ vật tư).
Đồng thời, trao quyền chủ động cho người dân để góp phần thực hiện có
hiệu quả phương pháp “từ dưới lên”.
Người dân và cộng đồng thôn sẽ tự lựa chọn dự án để triển khai thực
hiện. Lập kế hoạch từ cơ sở, thay cho việc chạy theo thành tích thực hiện theo
các chỉ tiêu không đúng với nhu cầu ưu tiên của người dân; Người dân tự lựa
chọn tiêu chí nào thực hiện trước, tiêu chí nào thực hiện sau. Các tiêu chí
được ưu tiên lựa chọn phải xuất phát từ lợi ích thiết thực của người dân, điều
kiện sống của người dân.
Trong quá trình thiết kế dự án phải có sự tham gia của người dân, người
dân sẽ tự triển khai và giám sát dự án, chính quyền địa phương chỉ được quản lý
mà không có quyền can thiệp. Như vậy người dân sẽ phải tự lực phấn đấu để
thay đổi cuộc sống của chính mình, bên cạnh đó khi nguồn lực có hạn người dân
phải biết huy động từ cộng đồng để đạt hiệu quả cao nhất của dự án.
SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 74
Đạ
i h
ọc
K
i h
tế
H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng
Thứ 2: Đẩy mạnh tuyên truyền nâng cao nhận thức của người dân về vai
trò của họ trong thực thi chính sách NTM
Công tác tuyên truyền phải được chú trọng để xây dựng thành kế hoạch cụ
thể cho từng thời kỳ, cần phải được tiến hành thường xuyên và phải thống nhất
phương châm “Người dân làm, Nhà nước hỗ trợ” thay cho khẩu hiệu “Nhà
nước và nhân dân cùng làm”. Các cơ quan thông tin, báo chí tiếp tục tăng thời
lượng để phổ biến mục tiêu, nội dung các cơ chế chính sách của Chương trình,
rút kinh nghiệm và phổ biến cách làm hay, các mô hình hiệu quả.
Có cơ chế tuyên dương, khen thưởng đối với những cá nhân điển hình,
tôn vinh những đơn vị xuất sắc. Từ đó, tạo ra sự cạnh tranh giữa các đơn vị
trong xã, thúc đẩy sự tham gia của người dân trong đơn vị đó. Nhưng phải có
cơ sở đánh giá, đảm bảo khách quan và công bằng.
Hoạt động tuyên truyền cần phối hợp với các cấp chính quyền địa phương
trong việc thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, làm sao để “dân biết, dân bàn,
dân kiểm tra”. Để huy động tổng hợp sức mạnh của toàn xã hội tham gia đóng
góp sức người, sức của để xây dựng NTM, cần công khai, minh bạch các công
việc. Người dân cần phải được thông tin đầy đủ, đa chiều.
Chẳng hạn, trong việc xây dựng kết cấu hạ tầng, người dân cần biết được
chủ trương của Đảng và Nhà nước thực hiện chương trình này là vì muốn tạo
điều kiện để người dân phát triển kinh tế, nâng cao đời sống của họ. Muốn
làm được điều này, thì cần có sự ủng hộ, tự nguyện đóng góp thêm của nhân
dân, vì nguồn ngân sách còn hạn hẹp. Nhà nước chỉ hỗ trợ một phần, hỗ trợ
kỹ thuật, còn giá trị còn lại của công trình thì người dân cần tự nguyện đóng
góp sức lao động, góp đất để giải phóng mặt bằng, đóng góp một phần kinh
phí, Nếu người dân hiểu kỹ được vấn đề, thì sẽ xoá được tư tưởng trông
chờ, ỷ lại và vui vẻ đóng góp.
Linh hoạt hình thức và phương pháp tuyên truyền để người dân dễ dàng
tiếp cận và hiểu được mục tiêu, ý nghĩa của chính sách, hiểu được vai trò của
họ trong thực thi chính sách NTM.
SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 75
Đạ
i h
ọc
K
inh
tế
H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng
Có nhiều hình thức tuyên truyền khác nhau, tùy thuộc vào tính chất của
đối tượng tiếp nhận, điều kiện cụ thể của mỗi xã mà lựa chọn hình thức phù
hợp và hiệu quả nên áp dụng hình thức thông qua loa phát thanh hay là hội
diễn văn nghệ quần chúng. Mục đích là làm cho người dân thấy được lợi ích
của họ khi thực hiện thành công chính sách, đó là động lực để họ tham gia.
Thứ 3: Phát huy vai trò của Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị -
xã hội trong quá trình huy động sự tham gia của người dân
Để phát huy vai trò của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân trong xây
dựng NTM, mặt trận các đoàn thể phải tham gia vào quá trình xây dựng kế
hoạch lựa chọn tiêu chí, hạng mục ưu tiên và giám sát quá trình thực hiện.
Mặt trận tổ quốc làm tốt công tác tuyên truyền thực hiện tốt việc xây dựng đời
sống văn hóa ở khu dân cư, động viên huy động mọi nguồn lực để xây dựng
các nội dung trong đề án đã được phê duyệt. Đồng thời tham gia giám sát các
công trình xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn.
Hội nông dân chịu trách nhiệm vận động hội viên gương mẫu đi đầu
trong việc xây dựng các mô hình kinh tế như cải tạo vườn tạp, chỉnh trang
vườn hộ, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất hàng hóa có năng
suất chất lượng cao, giám sát các việc thực hiện các chỉ tiêu xây dựng NTM.
Hội Liên hiệp phụ nữ có nhiệm vụ thực hiện tốt cuộc vận động “nuôi con
khỏe, dạy con ngoan”, hội viên giúp nhau xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc
làm, đi đầu trong phong trào chăn nuôi theo hình thức gia trại, làm tốt công
tác vệ sinh môi trường trong từng gia đình hội viên.
Hội Cựu chiến binh có trách nhiệm vận động hội viên gương mẫu đi đầu
trong phong trào xây dựng NTM, làm nồng cốt trong kinh tế trang trại và cải
tạo vườn tạp.
Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, lực lượng xung kích đi đầu
trong phong trào lập thân lập nghiệp bảo vệ Tổ quốc, an ninh trật tự của địa
phương, vận động đoàn viên thanh niên xây dựng bộ mặt nông thôn xanh,
sạch, đẹp từ vườn hộ, ngõ xóm, đường làng.
SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 76
Đạ
i h
ọc
K
i h
tế
H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng
Ngoài ra các tổ chức chính trị cần liên kết với các trung tâm dạy nghề,
các lớp dạy nghề tại xã,... Để đào tạo tay nghề cho người dân, nhằm tạo điều
kiện cho người dân mở rộng cơ hội tìm kiếm việc làm và nâng cao thu nhập.
Cùng với việc ra sức kiện toàn các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương
là việc củng cố và phát triển các tổ chức chính trị - xã hội. Để các tổ chức này
là tổ chức của dân thực sự, đại diện cho họ giám sát các hoạt động của cấp
chính quyền, tổ chức Đảng; Bảo đảm nguyên tắc dân chủ, công khai trong
thôn, xã; Giúp họ định hướng phát triển sản xuất; Giữ gìn bản sắc văn hóa
truyền thống, tình làng nghĩa xóm; Cùng nhau khắc phục những khó khăn
trong cuộc sống hằng ngày, phòng chống các tệ nạn xã hội; Giúp nhau thi đua
làm giàu chính đáng.
Tóm lại, Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội huyện cần
phải thực sự phát huy được vai trò của mình trong quá trình thực thi chính
sách NTM, cùng góp sức với chính quyền các cấp trong huy động sự tham gia
đóng góp ý kiến, đóng góp nguồn lực, nâng cao nhận thức của người dân, tạo
nên khối đại đoàn kết trong dân, từ đó sự tham gia của người dân mới mang
lại ý nghĩa thiết thực.
Thứ 4: Tăng cường đào tạo, tập huấn nâng cao năng lực cho cán bộ cấp
cơ sở
Tổ chức các lớp bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ cơ sở, trong đó nội dung
trước tiên cần tập trung bồi dưỡng là nhấn mạnh tới sự cống hiến và nêu
gương cho quần chúng, tiếp đến là các kỹ năng về thảo luận nhóm, khuyến
nông, khuyến lâm,...
Đổi mới nội dung, hình thức đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ về công tác tư
tưởng, dân vận cho cán bộ ở cơ sở. Ngoài việc tổ chức các lớp tập huấn
nghiệp vụ tại huyện, cần mở các lớp bồi dưỡng chuyên sâu về công tác tư
tưởng, dân vận tại Trường Chính trị tỉnh để nâng cao nghiệp vụ cho đội ngũ
cán bộ ở cơ sở. Nội dung đào tạo, bồi dưỡng chú trọng những kiến thức cơ
bản và kỹ năng thực hành. Quan tâm tổ chức tập huấn chuyên đề, nhất là các
SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 77
Đạ
i h
ọc
K
i h
tế
H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng
chuyên đề về công tác thông tin đối ngoại, ngoại giao nhân dân giúp cán bộ
của các xã có thể tham mưu tốt cho cấp ủy về các hoạt động thông tin đối
ngoại, ngoại giao nhân dân trên địa bàn.
Thường xuyên tổ chức tham quan, trao đổi kinh nghiệm để nâng cao kỹ
năng, nghiệp vụ.
Tiếp tục triển khai có hiệu quả cuộc vận động học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Ngoài ra, lập các hòm thư góp ý để giải đáp cho người dân hiểu hơn về
NTM.
Đặc biệt, chú trọng việc lựa chọn cán bộ cơ sở cũng là khâu quan trọng,
phải là người có uy tín, được nhân dân tín nhiệm, đáp ứng được các tiêu
chuẩn đề ra.
Hệ thống các giải pháp được đưa ra nhằm phát huy sự tham gia của
người dân trên địa bàn huyện xã Điền Hải, không chỉ cần sự nỗ lực của
CQĐP mà cần sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự chung sức, chung
lòng của người dân để xây dựng thành công NTM.
3.2.2. Đối với người dân
Thứ nhất: Nâng cao ý thức của người dân
Người dân có vai trò quan trọng trong quá trình xây dựng NTM. Vì vậy,
việc khuyến khích sự tham gia của người dân vào việc xây dựng NTM ở xã là
rất cần thiết.
Người dân nông thôn chủ yếu là nông dân, do vậy họ vẫn còn tâm lý tự
ti, thậm chí là ỷ lại, ngại va chạm hay né tránh các công việc cộng đồng.
Muốn thay đổi được nhận thức của người dân thì Ban quản lý xây dựng NTM
cần không ngừng tuyên truyền và vận động người dân tham gia vào việc xây
dựng NTM, nói cho người dân hiểu được mục tiêu chủ yếu của việc xây dựng
mô hình là làm tăng thu nhập, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho
chính họ.
SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 78
Đạ
i h
ọc
K
inh
tế
H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng
Tổ chức lồng ghép các chương trình, phong trào của làng xã với chương
trình xây dựng NTM sẽ tăng cường được sự tham gia của người dân. Gắn việc
bảo vệ môi trường, quản lý tài nguyên thiên nhiên; Lồng ghép chương trình
xây dựng làng văn hóa, gia đình văn hóa với phong trào xây dựng NTM trên
địa bàn xã.
Tuy xã đã bầu ra Ban quản lý xây dựng NTM nhưng sự tham gia của
người dân trong các hoạt động là rất cần thiết, như trong công tác kiểm tra,
giám sát, lập kế hoạch nhằm giúp cho việc xây dựng NTM có hiệu quả hơn.
Khuyến khích người dân tham gia đóng góp ý kiến, nói rõ nhu cầu và quan
điểm của họ trong các buổi họp thôn với mục tiêu 100% các hộ đều tham gia
các hoạt động. Nói cách khác, người dân cần phát huy hơn nữa tinh thần tham
gia lập kế hoạch, kiểm tra, giám sát của chính mình để cho các hoạt động
được triển khai và đạt kết quả tốt.
Thứ hai: Nâng cao trình độ dân trí
Xây dựng NTM nhằm thay đổi diện mạo nông thôn và nâng cao thu nhập
của người nông dân không thể thiếu vai trò của tiến bộ khoa học kỹ thuật. Vì
vậy thời gian tới, ngành Nông nghiệp sẽ tiếp tục chú trọng ưu tiên đầu tư cho
tiến bộ khoa học kỹ thuật, góp phần thúc đẩy sự phát triển của Chương trình
xây dựng NTM. Muốn vậy, chúng ta cần quan tâm tới việc nâng cao trình độ
dân trí để người dân có thể nắm bắt được những tiến bộ kỹ thuật mới.
Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo các bậc học,
nhất là giáo dục phổ thông nhằm nâng cao trình độ dân trí, trí thức hoá đội
ngũ cán bộ cơ sở ở địa phương. Song trước hết là đào tạo, nâng cao tay nghề
cho nông dân để họ tự mình sản xuất, kinh doanh trên chính quê hương
mình. Cán bộ xã và cán bộ Ban quản lý cần thường xuyên tổ chức các lớp tập
huấn, chuyển giao tiến bộ KHKT tới bà con nhằm nâng cao trình độ của
người dân trong sản xuất. Nâng cao trình độ của người dân toàn diện, mọi mặt
về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, đào tạo và trang bị các kiến thức, kỹ
năng cơ bản về hoạt động của cộng đồng. Tổ chức cho người dân được đi
SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 79
Đạ
i h
ọc
K
inh
tế
H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng
tham quan học hỏi kinh nghiệm sản xuất kinh doanh ở các địa phương khác.
Khuyến khích người dân tự học hỏi lẫn nhau, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Hội
nông dân xã, trung tâm giáo dục cộng đồng cần chủ động xây dựng kế hoạch
mở các lớp dạy nghề tại địa phương, đề nghị với nhà nước mở các lớp dạy
nghề ngắn hạn tại huyện để nhân dân có điều kiện tham gia học tập nâng cao
trình độ hiểu biết.
Khuyến khích, vận động và phối hợp thực hiện phân luồng giáo dục sau
trung học cơ sở; Tạo cơ hội học tập cho các em học sinh lớp 9 không đủ điều
kiện vào trường trung học phổ thông đi học nghề hoặc bổ túc văn hóa để thực
hiện mục tiêu phổ cập trung học trong độ tuổi.
Đẩy mạnh công tác xã hội hóa giáo dục. Phát huy vai trò của hội khuyến
học, hội phụ huynh học sinh trong giáo dục đạo đức và ý thức học tập của học
sinh; Ngăn chặn các tệ nạn xã hội xâm nhập học đường. Khuyến khích, vận
động các dòng họ, các tổ chức xã hội xây dựng và phát triển quỹ khuyến học.
Xây dựng phong trào thi đua học tập trong con em toàn xã.
Từng hộ gia đình cần tạo điều kiện tốt nhất cho các cháu học sinh có đủ
điều kiện học tập nhằm đưa tỷ lệ các cháu đậu vào các trường Đại học – Cao
đẳng cao hơn. Tạo ra một thế hệ trẻ có tri thức và tài năng để xây dựng quê
hương ngày càng giàu đẹp văn minh.
Để việc xây dựng NTM thành công, đòi hỏi người dân cần phải có ý
thức tự nâng cao trình độ của mình nhằm đưa các hoạt động đi theo đúng kế
hoạch và tiến độ. Vì lợi ích của chính mình và lợi ích của cộng đồng.
Thứ 3: Phát triển kinh tế hộ
Muốn phát triển được kinh tế của hộ trước hết cần phát triển nền kinh tế
chung của xã. Cán bộ Ban quản lý xây dựng NTM cần tuyên truyền, khuyến
khích người dân tham gia vào các buổi tập huấn, chuyển giao tiến bộ khoa
học kỹ thuật áp dụng vào sản xuất. Để nâng cao thu nhập của hộ thì người dân
phải thay đổi hướng sản xuất manh mún, nhỏ lẻ, phân tán, lạc hậu bằng hướng
sản xuất tập trung. Giúp người nông dân thay đổi hướng sản xuất tự cung tự
SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 80
Đạ
i h
ọc
K
inh
tế
H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng
cấp sang hướng sản xuất hàng hóa để thay vì người dân chỉ sản xuất đủ ăn thì
giờ họ đã có của ăn của để. Trước đây, người dân chỉ sử dụng sức người trong
do đó sản xuất chỉ đủ ăn, bây giờ thay bằng việc áp dụng cơ khí hóa, sử dụng
máy móc hiện đại giúp người nông dân tăng năng suất, chất lượng sản phẩm.
Xây dựng kế hoạch sản xuất hàng vụ hàng năm phù hợp, thực hiện tốt
công tác khuyến cáo khuyến nông dự thính dự báo sâu bệnh, dịch bệnh,
phòng chống thiên tai bão lụt, đảm bảo hiệu quả sản xuất kinh doanh của
nông dân. Hình thành đội ngũ khuyến nông viên cơ sở để hướng dẫn giúp đỡ
chuyển giao công nghệ tới tận người dân. Tạo điều kiện cho nông dân được
học nghề để tiếp cận nhanh với việc làm, nhằm đảm bảo sản xuất kinh doanh
có hiệu quả. Định hướng cho nông dân kết hợp lợi ích giữa bốn nhà: Nhà
nước, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp và nhà nông.
Địa phương cần phát huy tiềm năng và thế mạnh của mình nhằm thu
hút các doanh nghiệp đầu tư để phát triển nền kinh tế địa phương từ đó phát
triển kinh tế hộ, thu hút lực lượng lao động trẻ, khỏe có kỹ thuật ở lại xây
dựng quê hương.
Xây dựng và nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng làng, xã sẽ khuyến khích
người dân tham gia vào sản xuất kinh doanh, nâng cao thu nhập của hộ.
Tổ chức các lớp đào tạo nghề, xây dựng và phát triển các làng nghề
truyền thống của địa phương nhằm tạo thêm việc làm và tăng thu nhập cho hộ
gia đình, năng cao mức sống của hộ.
Khi có được những điều kiện thuận lợi, người dân sẽ yên tâm sản xuất
kinh doanh, phát triển kinh tế hộ, đồng thời góp phần phát triển kinh tế của
xã. Điều kiện kinh tế được nâng cao sẽ tạo điều kiện tốt cho người dân tham
gia các hoạt động xây dựng NTM cả về nguồn lực vật chất cũng như nguồn
lực tinh thần.
Thứ 4: Huy động nguồn lực từ dân
Để thực hiện các hoạt động phát triển từ mô hình NTM, ngoài nguồn
kinh phí hỗ trợ, còn có sự đóng góp các nguồn lực của người dân cả về sức
SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 81
Đạ
i h
ọc
K
inh
t
H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng
người lẫn sức của. Cần có các giải pháp nhằm tăng cường sự tham gia của
người dân bằng việc đóng góp sức lao động, do đó sẽ làm giảm nguồn kinh
phí mà người dân phải đóng góp. Người dân là người trực tiếp hưởng lợi từ
các công trình, khi họ đã nhận ra được tầm quan trọng của các hoạt động phát
triển làng, xã thì họ sẽ hưởng ứng ngày càng nhiệt tình hơn.
Nguồn kinh phí được huy động từ dân bao gồm 2 nguồn sau:
- Huy động tại chỗ: Huy động người dân đang sinh sống tại làng, xã
đóng góp cả về sức người lẫn sức của như đóng góp tiền, công lao động, vật
tư tại chỗ,... Vào công tác xây dựng mô hình NTM.
- Huy động từ bà con xa quê: Đây là thành phần người dân trong làng, xã
nhưng đi làm ăn ở nơi xa hoặc thanh niên có trình độ thoát ly ra ngoài làm ăn
gửi tiền về đóng góp cho gia đình và làng xóm.
Để công tác huy động nguồn lực từ người dân vào việc xây dựng NTM
đạt được hiệu quả cao thì những hoạt động của Ban quản lý xây dựng NTM
phải có kế hoạch rõ ràng, cụ thể, khiến người dân tin tưởng vào sự thành công
của mô hình NTM.
Việc cần làm và quan tâm hiện nay là giúp người dân nhận thức rõ vai
trò, tầm quan trọng của mình, cần phải có ý thức tự lập chủ động được nguồn
vốn, không phụ thuộc vào sự hỗ trợ từ bên ngoài.
Nguồn lực của nhân dân là đòn bẩy để các hoạt động được thành công,
họ không chỉ đóng góp sức lao động, tiền của mà họ là người trực tiếp được
hưởng lợi của các hoạt động đó.
Vì vậy, để xây dựng thành công NTM, cần phát huy và huy động nguồn
lực của người dân tham gia nhiệt tình, đem lại những kết quả thắng lợi không
chỉ cho riêng xã Điền Hải mà cho tất cả các địa phương khác trên đất nước
Việt Nam.
SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 82
Đạ
i h
ọc
K
inh
tế
H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng
PHẦN 3: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Có thể khẳng định rằng, qua 5 năm thực hiện mô hình NTM tại xã Điền
Hải đã mang lại những kết quả vượt bậc. Tổng giá trị sản xuất của các ngành
có chiều hướng tăng lên. Cơ cấu kinh tế đã từng bước chuyển dịch theo
hướng sản xuất hàng hóa, tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm thay vào đó là tỷ
trọng ngành phi nông nghiệp tăng lên. Nhờ đó mà đời sống vật chất của người
dân đã được nâng cao rõ rệt, tạo điều kiện cho sản xuất và sinh hoạt được đảm
bảo. Tạo tinh thần hăng say làm việc cho người dân, làm nền tảng để phát
triển kinh tế đất nước sánh vai với các cường quốc năm châu.
Để chính sách NTM đi vào đời sống xã hội một cách thiết thực, cần nâng
cao năng lực và tăng cường hơn nữa vai trò của các chủ thể trong chu trình
chính sách, đó là các cơ quan thực thi chính sách, đó là đối tượng thụ hưởng
chính sách,...Và cần sự tập trung của cả nhà nước và người dân để giải quyết
những vấn đề đang đặt ra trong việc xây dựng NTM.
Sự tham gia của người dân là một nguyên tắc quan trọng trong quản trị
địa phương. Và do đó, nó lại càng có ý ngĩa quan trọng trong việc xây dựng
NTM. Để thực hiện tốt và có hiệu quả chương trình xây dựng NTM, vấn đề
đặt ra là phải phát huy được vai trò chủ thể của người dân.
Thực tế trên địa xã Điền Hải, người dân đã có những chuyển biến bước
đầu về nhận thức, đã có những đóng góp cơ bản trong xây dựng NTM ở địa
phương. Đó là đa phần người dân biết đến chương trình nhưng chưa thực sự
hiểu sâu, người dân tham gia xuyên suốt các nội dung trong xây dựng NTM
nhưng mức độ tham gia thực sự chưa cao và có những hình thức có thể tận
dụng ngay tại địa phương nhưng chưa được phát huy. Do đó, cần đề ra được
các giải pháp để phát huy sự tham gia của người dân trong xây dựng NTM,
góp phần vào sự nghiệp CNH – HĐH đất nước.
SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 83
Đạ
i h
ọc
K
i h
tế
H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng
Vì vậy, cần phải huy động sự tham gia vào cuộc tích cực của cả hệ thống
chính trị và toàn xã hội, phát huy vai trò của cấp Đảng ủy, chính quyền địa
phương và các tổ chức chính trị xã hội; Tuyên truyền nâng cao nhận thức của
người dân; Tăng cường đạo tạo đội ngũ cán bộ cấp cơ sở; Cụ thể hóa, hướng
dẫn sự tham gia và sự chủ động tham gia tích cực của nhân dân là điều kiện
tiên quyết để thực hiện thành công chương trình.
Từ đó, xây dựng nên hình ảnh chính quyền gần dân; Tạo nên sự đồng
lòng, đồng thuận trong dân, quyết tâm thực hiện thắng lợi chính sách NTM.
Bởi khi dân chúng đồng lòng, ủng hộ thì họ sẽ tích cực hành động, hăng hái
và không quản ngại khó khăn như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Dân chúng
đồng lòng, việc gì cũng làm được. Dân chúng không ủng hộ, việc gì cũng
không nên” .
3.2. Kiến nghị
Xây dựng NTM là quá trình lâu dài và liên tục, cần thiết phải xây dựng
một kế hoạch phát triển tổng thể có định hướng dài hạn.Với sự hỗ trợ, chủ
trương và chính sách của Đảng, Nhà nước cùng với sự hỗ từ các tổ chức bên
ngoài về cả mặt tài chính và kỹ thuật thì việc triển khai xây dựng NTM sẽ đáp
ứng tiến độ và kết quả như mong muốn. Qua nghiên cứu tìm hiểu tình hình
thực hiện chủ trương xây dựng NTM tại xã Điền Hải, tôi đưa ra một số kiến
nghị như sau:
3.2.1. Đối với các cấp chính quyền
Đối với Trung ương
Có cơ chế, chính sách đối với việc tăng cường sự tham gia của người dân
trong xây dựng NTM. Tạo điều kiện cho mỗi địa phương linh động trong việc
thực thi chính sách, chủ động trong việc thực hiện các tiêu chí.
Kịp thời tổng kết, đánh giá hiệu quả xây dựng NTM trên cơ sở những
tiêu chí đánh giá hiệu quả cụ thể. Cần có cái nhìn bao quát và đánh giá kịp
thời những tiêu chí nào cần thiết, những tiêu chí nào bất hợp lý để đưa ra điều
chỉnh phù hợp. Những điều chỉnh đó chính là cơ sở góp phần thúc đẩy thực
thi chính sách hoàn thiện hơn.
SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 84
Đạ
i h
ọc
K
inh
tế
H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng
Tăng thời lượng tuyên truyền trên phương tiện thông tin của Trung ương
về xây dựng NTM để thống nhất nhận thức và hành động trong cán bộ và
nhân dân.
Đối với chính quyền huyện
Xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cơ quan trong quá trình xây dựng
NTM, cần phải xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan, nhất là những cơ
quan chuyên môn phụ trách và tổ chức chính trị - xã hội để có cơ chế khen
thưởng, kỷ luật hợp lý, kịp thời.
Thành lập văn phòng điều phối cấp huyện được phụ trách bởi những cán
bộ có năng lực chuyên môn là cần thiết. Đây cũng chính là một kênh tiếp
nhận ý kiến đóng góp của người dân trên địa bàn huyện.
Tiếp tục đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật; Đảm bảo nâng tầm
phủ sóng của hệ thống loa phát thanh trên địa bàn các xã để phục vụ công tác
tuyên truyền nâng cao nhận thức của người dân.
Đồng thời, tăng cường giao lưu học hỏi kinh nghiệm xây dựng NTM, có
biện pháp huy động nguồn lực từ phía doanh nghiệp.
Đối với ban lãnh đạo xã, đặc biệt là các tổ chức đoàn thể trong từng
thôn.
Cần đôn đốc, thúc đẩy, tạo động lực cho các hộ nông dân đưa vốn đầu
tư, khoa học kĩ thuật vào sản xuất và mở rộng ngành nghề tạo thêm công ăn
việc làm cho lao động trong xã.
Tổ chức tuyên truyền, phát động phong trào thi đua xây dựng NTM
trong xã; Tổ chức khen thưởng kịp thời cá nhân, tập thể hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ hằng năm.
Quan tâm hơn nữa việc hướng dẫn kiến thức cơ bản về xây dựng NTM
cho Ban ngành phát triển xây dựng NTM, tổ chức học tập kinh nghiệm xây
dựng NTM với xã bạn.
Lồng ghép các chương trình, dự án để thực hiện chương trình; Huy động
các nguồn lực đặc biệt là huy động sự nổ lực đóng góp của người dân đầu tư
xây dựng NTM xã.
SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 85
Đạ
i h
ọc
K
inh
tế
H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng
Lãnh đạo chỉ đạo toàn diện việc thực hiện xây dựng NTM; Phân công
thành viên phụ trách chịu trách nhiệm kiểm tra, đôn đốc các thôn thực hiện tốt
các quy định về xây dựng, quản lý vốn đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả.
Cần nâng cao trình độ quản lý, các hoạt động phát triển thôn cần khuyến
khích người dân tham gia cả trực tiếp lẫn gián tiếp, đảm bảo tính dân chủ của
người dân; Các khâu trong hoạt động phát triển thôn nên giao trực tiếp công
việc trong khả năng họ có thể làm, giúp giảm chi phí thanh toán, mua nguyên
liệu vật tư và tư vấn bên ngoài.
3.2.2. Đối với người dân
Phát huy vai trò làm chủ của mình trong quá trình xây dựng NTM. Đó là
tích cực tham gia các hoạt động xây dựng NTM như tuyên truyền vận động
mọi người tham gia xây dựng NTM, tự nguyện đóng góp sức người, sức của,
vào xây dựng và quản lý những tài sản công cộng. Cần phải tham gia tích cực
hơn nữa vào công cuộc xây dựng thôn, xóm làng giàu đẹp, các Dự án phát
triển kinh tế.
Mạnh dạn đưa các tiến bộ khoa học vào ứng dụng để tìm ra phương thức
sản xuất phù hợp với địa phương và với điều kiện của từng hộ để mang lại
hiệu quả kinh tế cao.
Tích cực tham gia vào việc gìn giữ, phát huy truyền thống của các làng
nghề truyền thống để tận dụng nguồn lao động nhàn rỗi, tăng thêm thu nhập
cho hộ.
Tuy đã cố gắng nghiên cứu nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau nên
khóa luận không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, rất mong nhận được sự
đóng góp ý kiến của quý thầy cô để đề tài được hoàn thiện hơn.
SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 86
Đạ
i h
ọc
K
inh
tế
H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Đình Thắng - Hoàng Văn Đinh (2002), Giáo trình kinh tế Phát triển
nông thôn, Trường ĐHNN Hà Nội.
2. Mai Thanh Cúc – Quyền Đình Hà (2005), Giáo trình Phát triển nông thôn,
Trường ĐHNN, Hà Nội.
3. Hồ Văn Thông (chủ biên): Thể chế dân chủ và phát triển nông thôn Việt
Nam hiện nay, NXB Chính trị Quốc gia – Hà Nội, 2005.
4. Hoàng Mạnh Quân (2007), Giáo trình lập và quản lý dự án phát triển
nông thôn, Trường ĐHNN, Hà Nội.
5. Vũ Thị Huyền Trang, Một số giải pháp tăng cường sự tham gia của cộng
đồng vào phát triển nông thôn Việt Nam hiện nay, 2010.
6. Nguyễn Thế Kỷ (chủ biên), Cẩm nang hướng dẫn xây dựng nông thôn
mới, NXB Chính trị Quốc gia – Hà Nội, 2015
7. Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 04 tháng 6 năm 2010 của Thủ tướng
chính phủ ban hành Phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây
dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 – 2020.
8. Tuấn Anh (2012), Kinh nghiệm xây dựng nông thôn mới ở một số nước
trên thế giới, Tạp chí Cộng sản.
9. Trần Cẩm Tú (2012), Xây dựng nông thôn mới ở Thái Bình - Kết quả
bước đầu và những bài học kinh nghiệm, Tạp chí Cộng sản.
10. Đoàn Thiện Ngọc Vũ (2014), Nghiên cứu sự tham gia của người dân vào
quá trình lập kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội tại huyện Thăng Bình,
tỉnh Quảng Nam, Học việc Hành chính Quốc gia.
11. Nghị quyết 26/NQ-TW ngày 05 tháng 8 năm 2008 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
12. Đặng Hiếu (31/3/2015), Kinh nghiệm xây dựng nông thôn mới ở Thái
Bình, Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam, Nhân tố mới.
13. Theo TTXVN (24/1/2015), Lấy dân làm “ Gốc” - bài học trong lãnh đạo,
SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 87
Đạ
i h
ọc
K
inh
tế
H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng
chỉ đạo xây dựng nông thôn mới ở huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai, Tạp
chí tuyên giáo.
14.
moi.html
15.
nd-16393.html
SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 88
Đạ
i h
ọc
K
inh
tế
H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng
PHỤ LỤC
Sự tham gia của người dân trong việc xây dựng nông thôn mới trên địa
bàn xã Điền Hải, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế
Xin chào ông (bà), tôi là sinh viên Trường Đại học Kinh tế - Đại học Huế
đang thực hiện thực tập cuối khóa chuyên ngành Kinh tế nông nghiệp. Mong ông
(bà) trả lời những thông tin chính xác nhất về sự tham gia của ông (bà) vào việc xây
dựng NTM.
Thông tin do ông (bà) cung cấp chỉ được sử dụng làm báo cáo thực tập,
những thông tin cá nhân do ông (bà) cung cấp sẽ được giữ bí mật.
Họ và tên người điều tra: Nguyễn Thị Thanh Hà
Thời gian điều tra: Ngày.. thángnăm
Địa điểm điều tra: xã Điền Hải, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế
I. Thông tin về hộ điều tra
1.1 Thông tin về người được phỏng vấn
1. Họ và tên chủ hộ:..
Nam/nữ: .Tuổi:..
2. Địa chỉ: Thôn Số điện thoại:..
3. Trình độ văn hóa lớp .
4. Trình độ chuyên môn
Chưa qua đào tạo Cao đẳng – Đại học
Sơ cấp, trung cấp Trên đại học
SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 89
Đạ
i h
ọc
K
inh
ế
H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng
1.2 Thông tin về hộ gia đình
5. Đặc điểm kinh tế của hộ
Giàu Trung bình
Khá Nghèo
6. Số nhân khẩu của hộ:
Số lao động chính của hộ....................Số lao động nông nghiệp:..
7. Nghề nghiệp của hộ
Làm nông Công nhân
Buôn bán Cán bộ, công chức, viên chức
Nghề khác..
8. Mức thu nhập bình quân /tháng:triệu đồng/hộ.
II. Sự tham gia của người dân trong việc xây dựng nông thôn mới.
9. Ông (bà) có biết được chủ trương chính sách của nhà nước về xây dựng nông
thôn mới ở xã ta không?
Có Không
Nếu có, ông (bà) biết qua kênh thông tin nào?
Từ chính quyền xã
Phương tiện thông tin đại chúng như: Tivi, báo, đài, internet,
Qua các cuộc họp, hội thảo
Tự tìm hiểu
Khác
SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 90
Đạ
i h
ọc
K
inh
tế
H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng
10. Ông (bà) có tham gia xây dựng nông thôn mới không?
Có Không
Nếu có tham gia, thì tham gia bằng hình thức nào?
Đóng góp ý kiến Góp tiền mặt
Đóng góp công lao động Góp vật liệu, dụng cụ tại chỗ
Hiến đất Tham gia tập huấn
Ý kiến khác
11. Mức độ quan tâm của ông (bà) trong việc xây dựng nông thôn mới?
Rất quan tâm Quan tâm vừa phải
Quan tâm Ít hoặc không quan tâm
12. Dưới đây là các mức độ tham gia của người dân trong xây dựng nông thôn mới.
Ông (bà) tham gia ở mức độ nào trong các mức độ dưới đây?
STT Mức độ tham gia của người dân X
1 Tham gia thực sự
2 Tham gia ít
3 Không tham gia
III. Sự tham gia của người dân trong các cuộc hoạt động phát triển thôn
13. Các hoạt động trong chương trình phát triển nông thôn mới gia đình có tham gia
đóng góp không?
Có Không
SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 91
Đạ
i h
ọc
K
inh
tế
H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng
Gia đình tham gia đóp góp vào từng hoạt động sau như thế nào?
Hoạt động
Tham gia lao
động (công)
Đóng góp
tiền (đồng)
Hiến đất
(m2)
1. Xây dựng nhà văn hóa
2. Làm đường giao thông
3. Bảo vệ môi trường
4. Hoạt động khác
14. Vì sao gia đình ông (bà) tham gia đóng góp như trên?
Tham gia tự nguyện Do yêu cầu của thôn
IV. Hiệu quả từ việc xây dựng mô hình nông thôn mới
15. Sau hoạt động nông thôn mới, thu nhập cho gia đình có tăng không?
Có Không
16. Tác động của việc xây dựng nông thôn mới đến địa phương?
Làm đẹp cảnh quang cho xã Đời sống người dân được tăng
cao Có thêm nhiều việc làm Không có tác động gì
17. Tác động của việc xây dựng nông thôn mới đến môi trường?
Tăng ô nhiễm môi trường Số hộ dùng nước sạch tăng
Giảm ô nhiễm môi trường Không có tác động gì
X. Một số đánh giá chung của người dân
18. Cách thực hiện kế hoạch có phù hợp với điều kiện của địa phương, gia đình
không?
Phù hợp Chưa phù hợp
SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 92
Đạ
i h
ọc
Ki
nh
tế
H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng
19. Để chương trình nông thôn mới phát triển, theo ông (bà) cần phải làm gì?
Do dân tự làm Nhà nước tự làm
Kết hợp giữa người dân và hỗ trợ của Nhà nước
20. Ông (bà) có đề xuất hay kiến nghị gì không?
Xin chân thành cảm ơn ông (bà) đã hợp tác!
SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 93
Đạ
i h
ọc
K
inh
tế
H
uế
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- su_tham_gia_cua_nguoi_dan_trong_viec_xay_dung_nong_thon_moi_tren_dia_ban_xa_dien_hai_huyen_phong_die.pdf