Xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cơ quan trong quá trình xây dựng
NTM, cần phải xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan, nhất là những cơ
quan chuyên môn phụ trách và tổ chức chính trị - xã hội để có cơ chế khen
thưởng, kỷ luật hợp lý, kịp thời.
Thành lập văn phòng điều phối cấp huyện được phụ trách bởi những cán
bộ có năng lực chuyên môn là cần thiết. Đây cũng chính là một kênh tiếp
nhận ý kiến đóng góp của người dân trên địa bàn huyện.
Tiếp tục đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật; Đảm bảo nâng tầm
phủ sóng của hệ thống loa phát thanh trên địa bàn các xã để phục vụ công tác
tuyên truyền nâng cao nhận thức của người dân.
Đồng thời, tăng cường giao lưu học hỏi kinh nghiệm xây dựng NTM, có
biện pháp huy động nguồn lực từ phía doanh nghiệp.
 Đối với ban lãnh đạo xã, đặc biệt là các tổ chức đoàn thể trong từng
thôn.
Cần đôn đốc, thúc đẩy, tạo động lực cho các hộ nông dân đưa vốn đầu
tư, khoa học kĩ thuật vào sản xuất và mở rộng ngành nghề tạo thêm công ăn
việc làm cho lao động trong xã.
Tổ chức tuyên truyền, phát động phong trào thi đua xây dựng NTM
trong xã; Tổ chức khen thưởng kịp thời cá nhân, tập thể hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ hằng năm.
Quan tâm hơn nữa việc hướng dẫn kiến thức cơ bản về xây dựng NTM
cho Ban ngành phát triển xây dựng NTM, tổ chức học tập kinh nghiệm xây
dựng NTM với xã bạn.
Lồng ghép các chương trình, dự án để thực hiện chương trình; Huy động
các nguồn lực đặc biệt là huy động sự nổ lực đóng góp của người dân đầu tư
xây dựng NTM xã.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 104 trang
104 trang | 
Chia sẻ: phamthachthat | Lượt xem: 2421 | Lượt tải: 4 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Sự tham gia của người dân trong việc xây dựng nông thôn mới trên địa bàn xã Điền hải, huyện Phong điền, tỉnh thừa thiên Huế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
B KTNN 64 
Đạ
i h
ọc
 K
inh
 tế
 H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng 
Vì vậy, cần phải duy trì hình thức đóng góp tiền mặt và phát huy hơn 
nữa sự tham gia của người dân thông qua các hình thức như tận dụng nguyên 
vật liệu tại chỗ, đóng góp ngày công lao động và đóng góp ý kiến. 
2.2.7. Các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ tham gia của người dân 
trong việc xây dựng NTM 
 Yếu tố từ phía người dân 
Vai trò chủ thể của người dân trong xây dựng NTM đang được phát huy, 
thể hiện sự đồng tình hưởng ứng trong các hoạt động xây dựng NTM như 
hiến đất, hiến tài sản, đóng góp công xây dựng đường GTNT và các công 
trình phúc lợi xã hội khác. Người dân ngày càng nhận thức và phát huy được 
vai trò của mình, họ tích cực tham gia các hoạt động như tham gia phát triển 
kinh tế, tăng thu nhập kinh tế cho hộ gia đình; Xây dựng kết cấu hạ tầng nông 
thôn; Giữ gìn an ninh trật tự; Giữ gìn vệ sinh môi trường. Tuy nhiên, người 
dân chưa nắm bắt được vai trò cụ thể của mình trong việc tham gia xây dựng 
NTM. Do đó, vẫn còn tồn tại một số thực trạng: 
Một là, người dân chưa chủ động đóng góp ý kiến một cách thiết thực 
vào việc xây dựng NTM. Thường thì tham gia theo phong trào và mang tính 
hình thức. 
Hai là, người dân vẫn chưa nhận thức được vai trò của mình đối với việc 
tham gia xây dựng NTM. Họ cho rằng, đây là chương trình đầu tư của Nhà nước 
cho địa phương mình, là việc của cấp trên chứ không phải là việc của mình. 
Nhận thức của người dân là yếu tố quan trọng, vì nó có tác động lớn đến 
sự tham gia của người dân. Để thay đổi được nhận thức của người dân về vấn 
đề này không phải là một sớm một chiều mà đó là cả một quá trình. Và nó cần 
sự vào cuộc của toàn hệ thống chính trị, từ tăng cường công tác tuyên truyền 
để thay đổi nhận thức của người dân. 
 Yếu tố hộ gia đình 
Khóa luận sẽ tiến hành so sánh mối tương quan giữa độ tuổi và nghề nghiệp 
với mức độ quan tâm của người dân đối với việc tham gia xây dựng NTM: 
SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 65 
Đạ
i h
ọc
 K
inh
 tế
 H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng 
Biểu đồ 7: Ảnh hưởng của độ tuổi đến mức độ quan tâm của người dân 
trong việc xây dựng NTM 
(Nguồn: Số liệu điều tra năm 2016) 
Chính sách NTM thường hướng đến người dân, tuy nhiên những người 
trẻ và người già thường ít quan tâm đến việc xây dựng NTM. Còn những 
người từ độ tuổi từ 35 đến 55 tuổi thường quan tâm nhiều hơn. Vì đa số 
những người ở độ tuổi này thường có ý thức cao và hiểu biết nhiều hơn, nên 
họ thường quan tâm nhiều hơn đến việc xây dựng NTM. Và họ chính là 
những lực lượng nòng cốt, tiên phong trong việc xây dựng NTM. 
Biểu đồ 8: Ảnh hưởng của nghề nghiệp đến mức độ quan tâm của người 
dân trong việc xây dựng NTM 
(Nguồn: Số liệu điều tra năm 2016) 
SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 66 
Đạ
i h
ọc
 K
inh
 tế
 H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng 
Quả biểu đồ trên, chúng ta thấy được CB, CC, VC quan tâm đến việc 
xây dựng NTM nhiều nhất, vì tính chất đặc thù của nghề nghiệp, những người 
có trình độ học vấn cao thường nhận thức đầy đủ vấn đề hơn thì họ thường 
nhiệt tình tham gia vào các hoạt động trong thực thi chính sách NTM hơn. 
Tiếp theo đó số người làm nông cũng rất quan tâm đến việc xây dựng NTM vì 
họ là người chịu ảnh hưởng nhiều nhất bởi chương trình NTM. Và những 
người công nhân, buôn bán cũng quan tâm nhiều đến việc thực thi chính sách, 
vì các tác động của chính sách ảnh hưởng đối với nghề nghiệp của họ. 
Kết quả cho thấy rằng độ tuổi, nghề nghiệp cũng có ảnh hưởng đến sự 
tham gia của người dân. Nhìn chung đa phần người dân đều biết đến chương 
trình xây dựng NTM. Người dân biết đến Chương trình thông qua nhiều kênh 
khác nhau do đó, số lượng người dân tham gia thực hiện chương trình là khá 
cao, bằng nhiều hình thức và mức độ khác nhau. 
Ngoài ra, các yếu tố như mức sống, trình độ học vấn, số lượng người 
trong hộ,... Cũng có thể ảnh hưởng đến sự tham gia của người dân. Chẳng 
hạn, những người có trình độ học vấn cao, nhận thức đầy đủ vấn đề hơn thì họ 
thường nhiệt tình tham gia vào các hoạt động trong thực thi chính sách hơn. 
Hay những người có mức sống khá và trung bình họ sẽ có điều kiện để tham 
gia hơn. 
Tuy nhiên, điều này cũng chỉ mang tính tương đối và tùy thuộc vào từng 
hoàn cảnh, từng thời điểm thực hiệc các hoạt động của xã. Có trường hợp, số 
lượng thanh niên hầu như đi học và đi làm xa nhà khá nhiều, từ đó một lượng 
lao động trẻ không có để tham gia xây dựng NTM bị giảm đi một phần. 
2.2.8. Những khó khăn, hạn chế và nguyên nhân ảnh hưởng tới sự 
tham gia của người dân trong việc xây dựng NTM 
2.2.8.1. Khó khăn và hạn chế ảnh hưởng tới sự tham gia của người dân 
trong việc xây dựng NTM 
Xây dựng NTM là một chương trình tổng thể về xây dựng cơ sở hạ tầng, 
phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh, chính trị ở các địa 
phương, Nhằm phục vụ cuộc sống người dân nông thôn. Tuy nhiên, sự 
SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 67 
Đạ
i h
ọc
 K
inh
 tế
 H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng 
tham gia của người dân trong thực thi chính sách NTM trên địa bàn huyện 
còn nhiều khó khăn và hạn chế. 
Một bộ phận cán bộ và nhân dân chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan 
trọng, nội dung và ý nghĩa của chương trình. Chỉ khi nào người dân hiểu được 
chương trình thực hiện là vì nâng cao chất lượng cuộc sống của chính họ thì 
họ mới tích cực, chủ động tham gia. Và chỉ khi nào chính quyền địa phương 
hiểu được tầm quan trọng của người dân trong việc thực thi chính sách NTM 
thì mới có những hoạt động, những giải pháp hướng đến sự tham gia của 
người dân, trong đó người dân đóng vai trò chủ thể. Có như vậy thì chương 
trình mới phát huy hiệu quả. 
Người dân chưa chủ động đóng góp ý kiến một cách thiết thực vào việc 
xây dựng NTM. Vì người dân quen với cách làm “từ trên xuống” nên vẫn còn 
dựa dẫm, phụ thuộc vào cán bộ. Và do tâm lý e ngại nên người dân chưa 
mạnh dạn đóng góp ý kiến, mặc khác đa số trình độ của người dân còn thấp 
nên họ sợ ý kiến của mình nói ra sợ mọi người cười cho. Hoặc cũng có lúc ý 
kiến của người dân không trọng tâm nên không được cán bộ công chức thừa 
nhận. Từ đó, tạo cho người dân tâm lý là ý kiến của mình cũng thừa nên 
không đóng góp. Đây như một vòng tuần hoàn luẩn quẩn. Vậy thì công tác 
tuyên truyền làm sao cho người nhận thức được tầm quan trọng của họ trong 
xây dựng NTM và người dân xóa bỏ tư tưởng đó. 
Người dân thường thì tham gia theo phong trào, khi nào có đợt phát động 
thì tham gia, thấy cái gì có lợi mang lại hiểu quả kinh tế thì tham gia nhiệt tình 
còn không thì họ dường như không quan tâm đến. Họ chưa hiểu rõ rằng cùng 
với việc tham gia đóng góp sức lao động, tiền của, ý kiến vào các hoạt động 
thực hiện chính sách là việc tự đầu tư để góp phần nâng cao thu nhập trong các 
hoạt động kinh tế, giữ gìn nếp sống văn hóa, chỉnh trang ngõ xóm, giữ vững an 
ninh trật tự, Góp phần nâng cao chất lượng đời sống của chính họ. 
Người dân chưa nắm bắt được vai trò cụ thể của mình trong việc thực thi 
chính sách. Họ cho rằng, đây là chương trình đầu tư của Nhà nước cho địa 
SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 68 
Đạ
i h
ọc
 K
i h
 tế
 H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng 
phương mình, là việc của cấp trên, chứ không phải là việc của mình. 
Người dân chưa thực sự tham gia nhiều trong thực thi chính sách, chưa 
tham gia lựa chọn thực hiện tiêu chí nào trước, tiêu chí nào sau; Chưa tham 
gia lập kế hoạch thực hiện; Chưa tham gia vào việc quyết định mức độ đóng 
góp; Chưa tham gia một cách đầy đủ vào các cuộc họp thôn xóm;... Trong khi 
đây là những nội dung quan trọng cần có sự tham gia của người dân để hoạt 
động triển khai xây dựng NTM sát với thực tiễn, để nói lên được phần nào về 
mức độ dân chủ trong thực thi chính sách. 
Người dân vẫn còn tồn tại tâm lý trông chờ, ỷ lại vào nguồn vốn từ ngân 
sách nhà nước. Sự tham gia của người dân mới tập trung ở khâu huy động 
đóng góp vào xây dựng hạ tầng, ngoài ra thiếu tập trung chú trọng về phát 
triển sản xuất và nâng cao thu nhập cho người dân. Đồng thời, sự tham gia 
của người dân không đồng đều giữa các vùng địa hình trong xã. 
Trong đó, các hình thức tham gia tuy đã phong phú, nhưng những hình 
thức có thể khai thác ngay tại địa phương như cung cấp vật liệu, dụng cụ, hiến 
đất, đóng góp ngày công lao động thì chưa được phát huy hết tiềm năng. Vì 
vậy, cần làm tốt công tác tuyên truyền để huy động sự tham gia của người dân 
thông qua các hình thức này, nhằm làm giảm bớt gánh nặng về tài chính cho 
người dân, đồng thời làm tăng thu nhập cho họ. 
Công tác đào tạo, tập huấn cho người dân nông thôn gặp nhiều khó khăn, 
trình độ dân trí của người dân thấp, kiến thức về quản lý của cán bộ Ban quản 
lý xây dựng NTM còn chưa cao. Trong khi đó một phần tầng lớp thanh niên trí 
thức nông thôn được đào tạo không muốn trở về gắn bó xây dựng nông thôn. 
Một số hộ khi tham gia các hoạt động trong mô hình NTM chỉ theo kinh 
nghiệm của bản thân chứ không theo cơ sở khoa học. Ví dụ như khi họ tham gia 
vào việc lập kế hoạch và triển khai thực hiện các mô hình NTM đều theo kinh 
nghiệm của họ, đa số các chủ hộ có trình độ văn hóa và trình độ chuyên môn 
thấp vì vậy nên năng suất thấp hơn so với dự kiến, hiểu quả kinh tế chưa đạt 
mức cao nhất có thể. 
SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 69 
Đạ
i h
ọc
 K
i h
 tế
 H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng 
Tổ chức hoạt động của Ban quản lý xây dựng nông thôn gặp nhiều khó 
khăn do kinh phí dành cho các hoạt động xây dựng NTM còn hạn hẹp, trong 
khi các hoạt động đề ra lại tốn khá nhiều kinh phí. Những thành viên của Ban 
quản lý xây dựng NTM cũng chỉ được trợ cấp một phần nhỏ, điều này cũng 
ảnh hưởng đến sự nhiệt tình tham gia đóng góp công sức của bản thân từng 
thành viên, của cộng đồng trong công cuộc phát triển làng xã. 
Công tác tuyên truyền về xây dựng NTM chưa được thường xuyên, chưa 
sát với thực tiễn. Điều này đã dẫn tới nhận thức của nhân dân về ý nghĩa của 
chương trình này chưa thực sự đầy đủ. Không ít người dân coi chương trình 
xây dựng NTM là cơ hội để có được nguồn đầu tư từ Nhà nước để xây dựng 
kết cấu hạ tầng, mà coi nhẹ vai trò chủ thể là người dân. 
Như vậy, những khó khăn và hạn chế về sự tham gia của người dân đã 
được lồng ghép đánh giá trên các phương diện về mức độ tham gia, nội dung 
tham gia, hình thức tham gia và nhận thức của người dân. Trên cơ sở đánh giá 
để tìm ra nguyên nhân của những hạn chế, nhằm làm cơ sở cho những giải 
pháp ở chương 3. 
2.2.8.2. Nguyên nhân ảnh hưởng tới sự tham gia của người dân trong 
việc xây dựng NTM 
Quá trình huy động sự tham gia của người dân trong thực thi chính sách 
NTM trên địa bàn xã Điền Hải gặp phải những khó khăn, hạn chế nhất định, 
do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau. Ở phương diện 
quản lý nhà nước, có thể thấy những tồn tại trên xuất phát từ những nguyên 
nhân chính sau: 
Một là, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của trung ương và địa 
phương thể hiện nhiều mặt hạn chế như: Còn mang nặng tính áp đặt từ trên 
xuống, không phù hợp với thực tế phát triển. Tới nay vẫn còn một số cơ chế 
chính sách của Trung ương chậm được ban hành hoặc chậm sửa đổi, bổ 
sung để phù hợp với thực tế như: Chính sách cho các vùng đặc thù, cơ chế 
lồng ghép các chương trình, dự án trên địa bàn xã; Cơ chế quản lý và thủ tục 
vay vốn ngân hàng; Hướng dẫn về quy chế quản lý xây dựng nông thôn, 
SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 70 
Đạ
i h
ọc
 K
inh
 tế
 H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng 
Hai là, công tác tuyên truyền ở cơ sở thiếu các giải pháp tổ chức đa dạng, 
phù hợp điều kiện đặc điểm của từng địa bàn, thiếu thường xuyên nên cán bộ 
và nhân dân chưa hiểu rõ về tầm quan trọng, nội dung, ý nghĩa của chương 
trình. Các hoạt động hưởng ứng phong trào “Chung sức xây dựng NTM” đang 
tập trung ở các thôn; Chưa đồng đều, thường xuyên, liên tục giữa các cấp, các 
ngành và các địa phương; Chưa gắn tinh thần của phong trào với các hoạt động 
thiết thực, cụ thể để đẩy nhanh tiến độ, chất lượng xây dựng NTM. 
Ba là, sự tham gia của Mặt trận và các đoàn thể một số địa phương còn 
chung chung, thiếu phân công trách nhiệm thực hiện các tiêu chí cụ thể trong 
xây dựng NTM. 
Bốn là, năng lực của cán bộ phụ trách công tác xây dựng NTM ở các xã 
còn hạn chế, làm theo chế độ kiêm nhiệm, chưa bám sát nội dung đề cương 
quy hoạch đã được huyện phê duyệt và các chương trình, đề án cũng như 
Nghị quyết về phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, huyện, xã do đó chưa tham 
mưu tốt cho Ban quản lý các xã triển khai thực hiện tốt nội dung đồ án quy 
hoạch của xã. 
Năm là, trình độ nhận thức của người dân còn hạn chế. Tổng hợp điều 
tra hộ nông dân cho thấy, đa số người dân chủ yếu là học cấp 1, cấp 2, học hết 
cấp 3 chiếm tỷ lệ khá thấp hoặc không được đào tạo qua một chương trình 
đào tạo sơ cấp nào. Mặt khác, số được đào tạo qua các chương trình sơ cấp, 
trung cấp và đại học thì chưa phát huy được khả năng của mình, chưa biết vận 
dụng kiến thức vào thực tiễn và cách nhìn nhận vấn đề còn hạn chế. 
Sáu là, một bộ phận cán bộ quản lý trình độ chưa cao, chưa có kinh 
nghiệm làm việc, trong công tác còn thiếu sự nhiệt tình, sáng tạo, chưa đáp 
ứng được nhu cầu trong tiến tình thực hiện dự án. Do đó chất lượng làm việc 
chưa cao, chưa tạo được niềm tin trong nhân dân. 
Bảy là, do kinh tế của xã phát triển còn chậm nên đã làm ảnh hưởng đến 
sự đóng góp của người dân cho các hoạt động trong xây dựng NTM, cũng 
như điều kiện của xã để thu hút các nguồn vốn đầu tư. 
SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 71 
Đạ
i h
ọ
 K
inh
 tế
 H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng 
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP 
NHẰM NÂNG CAO NHẬN THỨC VÀ TĂNG CƯỜNG 
SỰ THAM GIA CỦA NGƯỜI DÂN TRONG XÂY DỰNG NTM 
3.1. Định hướng 
Tăng cường sự tham gia của người dân và các tổ chức xã hội trong xây 
dựng NTM trước hết phải gắn với lợi ích của người dân và các tổ chức xã hội, 
thực hiện một cách có hiệu quả chủ trương dân chủ cấp cơ sở và thực thi một 
số mô hình. Chỉ thị 30 CT/TW ngày 12 tháng 8 năm 1998 của Trung ương 
Đảng về thực hiện dân chủ cấp cơ sở, Nghị định số 79/2003/NĐCP ngày 07 
tháng 7 năm 2003 của Chính phủ là cách tiếp cận, đánh giá đúng tình hình ở 
cơ sở, thể chế hoá, pháp quy hoá những nội dung, nguyên tắc, phương châm 
cho sinh hoạt dân chủ ở nông thôn, Quyết định số 81/2005/QĐTTg ngày 
18/4/2005 của Thủ tướng Chính phủ về danh sách hỗ trợ dạy nghề ngắn hạn 
cho lao động nông thôn. Đây là cách tiếp cận, là sự đánh giá đúng tình hình 
cơ sở; Là hành lang pháp lý cho các hoạt động phát triển nông thôn, nâng cao 
dân chủ cấp cơ sở, nhất là nâng cao vai trò, sự tham gia của người dân và các 
tổ chức xã hội trong xây dựng và phát triển nông thôn. 
Việc tăng cường vai trò của người dân trong xây dựng NTM cấp xã được 
thực hiện theo phương châm dựa vào sức lực của người dân địa phương là 
chính, Nhà nước hỗ trợ một phần làm động lực để phát huy sự đóng góp của 
người dân và cộng đồng. 
Các hoạt động cụ thể do chính người dân đề xuất và thiết kế trên cơ sở 
bàn bạc dân chủ, công khai và quyết định thông qua cộng đồng. Chính quyền 
các cấp chỉ đóng vai trò hướng dẫn kỹ thuật, tổng hợp các đề xuất, kiến nghị, 
phê duyệt kế hoạch phát triển và tạo điều kiện thuận lợi cho người dân thực 
hiện vai trò làm chủ thông qua cộng đồng. 
Các mô hình thí điểm được triển khai phải đảm bảo phát triển nông thôn 
bền vững, hài hoà với môi trường, góp phần bảo tồn giá trị truyền thống của 
địa phương. 
SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 72 
Đạ
i h
ọc
 K
inh
 tế
 H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng 
Tổ chức các hoạt động tuyên truyền sâu rộng về chủ trương, chính sách 
của Đảng và Nhà nước để vận động người dân tham gia chương trình. 
Tăng cường các hoạt động tuyên truyền với nhiều hình thức, qua các 
kênh thông tin khác nhau, đa dạng cách tuyên truyền: Phát thanh, truyền hình, 
tờ rơi, cataloge, Poster,... Hoặc sự lồng ghép các nội dung trong sinh hoạt câu 
lạc bộ của các tổ chức xã hội,... 
Thực hiện các biện pháp tuyên truyền tác động và làm thay đổi nhận 
thức, trách nhiệm của mỗi người dân và cộng đồng đối với phát triển nông 
thôn nhằm khơi dậy phong trào tự vận động phát triển trong cộng đồng dân cư 
nông thôn. 
Nội dung xây dựng NTM cần phải được xem xét trong chương trình học 
bậc phổ thông, nhằm tăng cường nhận thức và tầm quan trọng của việc xây 
dựng NTM, giáo dục thế hệ trẻ để tạo động lực về trí và lực trong việc thực 
hiện xây dựng NTM thật sự thành công và bền vững. 
3.2. Giải pháp 
3.2.1. Đối với các cấp chính quyền 
Cả lý luận và thực tiễn đều cho thấy chỉ có phát huy vai trò chủ thể của 
người dân mới bảo đảm sự thành công trong xây dựng NTM. Để làm được 
điều đó, đòi hỏi các cấp chính quyền ở địa phương phải năng động, sáng tạo, 
chú ý thực hiện tốt một số giải pháp sau: 
Thứ nhất: Tiếp tục hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách tạo điều kiện 
cho sự tham gia của người dân 
Cần phải linh hoạt, không nên quá cứng nhắc, vì như thế sẽ làm khó cho 
người dân, đặc khi người dân muốn vay vốn để mở rộng sản xuất nhưng vốn 
vay lại ít không mang lại kết quả cao, vậy nên có những cơ chế chính sách phù 
hợp, có thể cho vay theo mục đích của người dân, nếu người dân vay để mở rộng 
sản xuất thì cho vay với nguồn vốn cao hơn, và các thủ tục vay cần ngắn gọn, 
không quá rườm rà. 
SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 73 
Đạ
i h
ọc
 K
inh
 tế
 H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng 
Các ngân hàng chính sách nên ổn định và giảm lãi suất cho vay, vì hầu 
hết người dân muốn vay để sản xuất nhưng lãi suất lại không ổn định, như thế 
sẽ tác động tới tâm lý của người dân. Nhưng cũng qua đó cán bộ địa phương 
cần có sự khảo sát để những hộ vay sử dụng đúng mục đích, đưa ra những 
quy chế cho những hộ vay không đúng mục đích. 
Khuyến khích giao cho thôn, bản và cộng đồng dân cư thực hiện những công 
trình, dự án gắn liền với lợi ích của họ để nâng cao để nâng cao tính chủ động, 
trách nhiệm và vai trò của người dân trong triển khai thực hiện chương trình. 
Đúc rút, ban hành cơ chế lồng ghép các nguồn vốn để hỗ trợ nhân dân 
thực hiện các nội dung xây dựng NTM thông qua cơ quan thường trực xây 
dựng NTM. 
Cần có cơ chế thống nhất để giảm chi phí đầu tư trong xây dựng NTM 
như: Thiết kế mẫu, phân nhóm công trình để người dân tự tổ chức xây dựng 
(Nhà nước chỉ hỗ trợ vật tư). 
Đồng thời, trao quyền chủ động cho người dân để góp phần thực hiện có 
hiệu quả phương pháp “từ dưới lên”. 
Người dân và cộng đồng thôn sẽ tự lựa chọn dự án để triển khai thực 
hiện. Lập kế hoạch từ cơ sở, thay cho việc chạy theo thành tích thực hiện theo 
các chỉ tiêu không đúng với nhu cầu ưu tiên của người dân; Người dân tự lựa 
chọn tiêu chí nào thực hiện trước, tiêu chí nào thực hiện sau. Các tiêu chí 
được ưu tiên lựa chọn phải xuất phát từ lợi ích thiết thực của người dân, điều 
kiện sống của người dân. 
Trong quá trình thiết kế dự án phải có sự tham gia của người dân, người 
dân sẽ tự triển khai và giám sát dự án, chính quyền địa phương chỉ được quản lý 
mà không có quyền can thiệp. Như vậy người dân sẽ phải tự lực phấn đấu để 
thay đổi cuộc sống của chính mình, bên cạnh đó khi nguồn lực có hạn người dân 
phải biết huy động từ cộng đồng để đạt hiệu quả cao nhất của dự án. 
SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 74 
Đạ
i h
ọc
 K
i h
 tế
 H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng 
Thứ 2: Đẩy mạnh tuyên truyền nâng cao nhận thức của người dân về vai 
trò của họ trong thực thi chính sách NTM 
Công tác tuyên truyền phải được chú trọng để xây dựng thành kế hoạch cụ 
thể cho từng thời kỳ, cần phải được tiến hành thường xuyên và phải thống nhất 
phương châm “Người dân làm, Nhà nước hỗ trợ” thay cho khẩu hiệu “Nhà 
nước và nhân dân cùng làm”. Các cơ quan thông tin, báo chí tiếp tục tăng thời 
lượng để phổ biến mục tiêu, nội dung các cơ chế chính sách của Chương trình, 
rút kinh nghiệm và phổ biến cách làm hay, các mô hình hiệu quả. 
Có cơ chế tuyên dương, khen thưởng đối với những cá nhân điển hình, 
tôn vinh những đơn vị xuất sắc. Từ đó, tạo ra sự cạnh tranh giữa các đơn vị 
trong xã, thúc đẩy sự tham gia của người dân trong đơn vị đó. Nhưng phải có 
cơ sở đánh giá, đảm bảo khách quan và công bằng. 
Hoạt động tuyên truyền cần phối hợp với các cấp chính quyền địa phương 
trong việc thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, làm sao để “dân biết, dân bàn, 
dân kiểm tra”. Để huy động tổng hợp sức mạnh của toàn xã hội tham gia đóng 
góp sức người, sức của để xây dựng NTM, cần công khai, minh bạch các công 
việc. Người dân cần phải được thông tin đầy đủ, đa chiều. 
Chẳng hạn, trong việc xây dựng kết cấu hạ tầng, người dân cần biết được 
chủ trương của Đảng và Nhà nước thực hiện chương trình này là vì muốn tạo 
điều kiện để người dân phát triển kinh tế, nâng cao đời sống của họ. Muốn 
làm được điều này, thì cần có sự ủng hộ, tự nguyện đóng góp thêm của nhân 
dân, vì nguồn ngân sách còn hạn hẹp. Nhà nước chỉ hỗ trợ một phần, hỗ trợ 
kỹ thuật, còn giá trị còn lại của công trình thì người dân cần tự nguyện đóng 
góp sức lao động, góp đất để giải phóng mặt bằng, đóng góp một phần kinh 
phí, Nếu người dân hiểu kỹ được vấn đề, thì sẽ xoá được tư tưởng trông 
chờ, ỷ lại và vui vẻ đóng góp. 
Linh hoạt hình thức và phương pháp tuyên truyền để người dân dễ dàng 
tiếp cận và hiểu được mục tiêu, ý nghĩa của chính sách, hiểu được vai trò của 
họ trong thực thi chính sách NTM. 
SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 75 
Đạ
i h
ọc
 K
inh
 tế
 H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng 
Có nhiều hình thức tuyên truyền khác nhau, tùy thuộc vào tính chất của 
đối tượng tiếp nhận, điều kiện cụ thể của mỗi xã mà lựa chọn hình thức phù 
hợp và hiệu quả nên áp dụng hình thức thông qua loa phát thanh hay là hội 
diễn văn nghệ quần chúng. Mục đích là làm cho người dân thấy được lợi ích 
của họ khi thực hiện thành công chính sách, đó là động lực để họ tham gia. 
Thứ 3: Phát huy vai trò của Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị - 
xã hội trong quá trình huy động sự tham gia của người dân 
Để phát huy vai trò của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân trong xây 
dựng NTM, mặt trận các đoàn thể phải tham gia vào quá trình xây dựng kế 
hoạch lựa chọn tiêu chí, hạng mục ưu tiên và giám sát quá trình thực hiện. 
Mặt trận tổ quốc làm tốt công tác tuyên truyền thực hiện tốt việc xây dựng đời 
sống văn hóa ở khu dân cư, động viên huy động mọi nguồn lực để xây dựng 
các nội dung trong đề án đã được phê duyệt. Đồng thời tham gia giám sát các 
công trình xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn. 
Hội nông dân chịu trách nhiệm vận động hội viên gương mẫu đi đầu 
trong việc xây dựng các mô hình kinh tế như cải tạo vườn tạp, chỉnh trang 
vườn hộ, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất hàng hóa có năng 
suất chất lượng cao, giám sát các việc thực hiện các chỉ tiêu xây dựng NTM. 
Hội Liên hiệp phụ nữ có nhiệm vụ thực hiện tốt cuộc vận động “nuôi con 
khỏe, dạy con ngoan”, hội viên giúp nhau xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc 
làm, đi đầu trong phong trào chăn nuôi theo hình thức gia trại, làm tốt công 
tác vệ sinh môi trường trong từng gia đình hội viên. 
Hội Cựu chiến binh có trách nhiệm vận động hội viên gương mẫu đi đầu 
trong phong trào xây dựng NTM, làm nồng cốt trong kinh tế trang trại và cải 
tạo vườn tạp. 
Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, lực lượng xung kích đi đầu 
trong phong trào lập thân lập nghiệp bảo vệ Tổ quốc, an ninh trật tự của địa 
phương, vận động đoàn viên thanh niên xây dựng bộ mặt nông thôn xanh, 
sạch, đẹp từ vườn hộ, ngõ xóm, đường làng. 
SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 76 
Đạ
i h
ọc
 K
i h
 tế
 H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng 
Ngoài ra các tổ chức chính trị cần liên kết với các trung tâm dạy nghề, 
các lớp dạy nghề tại xã,... Để đào tạo tay nghề cho người dân, nhằm tạo điều 
kiện cho người dân mở rộng cơ hội tìm kiếm việc làm và nâng cao thu nhập. 
Cùng với việc ra sức kiện toàn các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương 
là việc củng cố và phát triển các tổ chức chính trị - xã hội. Để các tổ chức này 
là tổ chức của dân thực sự, đại diện cho họ giám sát các hoạt động của cấp 
chính quyền, tổ chức Đảng; Bảo đảm nguyên tắc dân chủ, công khai trong 
thôn, xã; Giúp họ định hướng phát triển sản xuất; Giữ gìn bản sắc văn hóa 
truyền thống, tình làng nghĩa xóm; Cùng nhau khắc phục những khó khăn 
trong cuộc sống hằng ngày, phòng chống các tệ nạn xã hội; Giúp nhau thi đua 
làm giàu chính đáng. 
Tóm lại, Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội huyện cần 
phải thực sự phát huy được vai trò của mình trong quá trình thực thi chính 
sách NTM, cùng góp sức với chính quyền các cấp trong huy động sự tham gia 
đóng góp ý kiến, đóng góp nguồn lực, nâng cao nhận thức của người dân, tạo 
nên khối đại đoàn kết trong dân, từ đó sự tham gia của người dân mới mang 
lại ý nghĩa thiết thực. 
Thứ 4: Tăng cường đào tạo, tập huấn nâng cao năng lực cho cán bộ cấp 
cơ sở 
Tổ chức các lớp bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ cơ sở, trong đó nội dung 
trước tiên cần tập trung bồi dưỡng là nhấn mạnh tới sự cống hiến và nêu 
gương cho quần chúng, tiếp đến là các kỹ năng về thảo luận nhóm, khuyến 
nông, khuyến lâm,... 
Đổi mới nội dung, hình thức đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ về công tác tư 
tưởng, dân vận cho cán bộ ở cơ sở. Ngoài việc tổ chức các lớp tập huấn 
nghiệp vụ tại huyện, cần mở các lớp bồi dưỡng chuyên sâu về công tác tư 
tưởng, dân vận tại Trường Chính trị tỉnh để nâng cao nghiệp vụ cho đội ngũ 
cán bộ ở cơ sở. Nội dung đào tạo, bồi dưỡng chú trọng những kiến thức cơ 
bản và kỹ năng thực hành. Quan tâm tổ chức tập huấn chuyên đề, nhất là các 
SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 77 
Đạ
i h
ọc
 K
i h
 tế
 H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng 
chuyên đề về công tác thông tin đối ngoại, ngoại giao nhân dân giúp cán bộ 
của các xã có thể tham mưu tốt cho cấp ủy về các hoạt động thông tin đối 
ngoại, ngoại giao nhân dân trên địa bàn. 
Thường xuyên tổ chức tham quan, trao đổi kinh nghiệm để nâng cao kỹ 
năng, nghiệp vụ. 
Tiếp tục triển khai có hiệu quả cuộc vận động học tập và làm theo tấm 
gương đạo đức Hồ Chí Minh. 
Ngoài ra, lập các hòm thư góp ý để giải đáp cho người dân hiểu hơn về 
NTM. 
Đặc biệt, chú trọng việc lựa chọn cán bộ cơ sở cũng là khâu quan trọng, 
phải là người có uy tín, được nhân dân tín nhiệm, đáp ứng được các tiêu 
chuẩn đề ra. 
Hệ thống các giải pháp được đưa ra nhằm phát huy sự tham gia của 
người dân trên địa bàn huyện xã Điền Hải, không chỉ cần sự nỗ lực của 
CQĐP mà cần sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự chung sức, chung 
lòng của người dân để xây dựng thành công NTM. 
3.2.2. Đối với người dân 
Thứ nhất: Nâng cao ý thức của người dân 
Người dân có vai trò quan trọng trong quá trình xây dựng NTM. Vì vậy, 
việc khuyến khích sự tham gia của người dân vào việc xây dựng NTM ở xã là 
rất cần thiết. 
Người dân nông thôn chủ yếu là nông dân, do vậy họ vẫn còn tâm lý tự 
ti, thậm chí là ỷ lại, ngại va chạm hay né tránh các công việc cộng đồng. 
Muốn thay đổi được nhận thức của người dân thì Ban quản lý xây dựng NTM 
cần không ngừng tuyên truyền và vận động người dân tham gia vào việc xây 
dựng NTM, nói cho người dân hiểu được mục tiêu chủ yếu của việc xây dựng 
mô hình là làm tăng thu nhập, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho 
chính họ. 
SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 78 
Đạ
i h
ọc
 K
inh
 tế
 H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng 
Tổ chức lồng ghép các chương trình, phong trào của làng xã với chương 
trình xây dựng NTM sẽ tăng cường được sự tham gia của người dân. Gắn việc 
bảo vệ môi trường, quản lý tài nguyên thiên nhiên; Lồng ghép chương trình 
xây dựng làng văn hóa, gia đình văn hóa với phong trào xây dựng NTM trên 
địa bàn xã. 
Tuy xã đã bầu ra Ban quản lý xây dựng NTM nhưng sự tham gia của 
người dân trong các hoạt động là rất cần thiết, như trong công tác kiểm tra, 
giám sát, lập kế hoạch nhằm giúp cho việc xây dựng NTM có hiệu quả hơn. 
Khuyến khích người dân tham gia đóng góp ý kiến, nói rõ nhu cầu và quan 
điểm của họ trong các buổi họp thôn với mục tiêu 100% các hộ đều tham gia 
các hoạt động. Nói cách khác, người dân cần phát huy hơn nữa tinh thần tham 
gia lập kế hoạch, kiểm tra, giám sát của chính mình để cho các hoạt động 
được triển khai và đạt kết quả tốt. 
Thứ hai: Nâng cao trình độ dân trí 
Xây dựng NTM nhằm thay đổi diện mạo nông thôn và nâng cao thu nhập 
của người nông dân không thể thiếu vai trò của tiến bộ khoa học kỹ thuật. Vì 
vậy thời gian tới, ngành Nông nghiệp sẽ tiếp tục chú trọng ưu tiên đầu tư cho 
tiến bộ khoa học kỹ thuật, góp phần thúc đẩy sự phát triển của Chương trình 
xây dựng NTM. Muốn vậy, chúng ta cần quan tâm tới việc nâng cao trình độ 
dân trí để người dân có thể nắm bắt được những tiến bộ kỹ thuật mới. 
Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo các bậc học, 
nhất là giáo dục phổ thông nhằm nâng cao trình độ dân trí, trí thức hoá đội 
ngũ cán bộ cơ sở ở địa phương. Song trước hết là đào tạo, nâng cao tay nghề 
cho nông dân để họ tự mình sản xuất, kinh doanh trên chính quê hương 
mình. Cán bộ xã và cán bộ Ban quản lý cần thường xuyên tổ chức các lớp tập 
huấn, chuyển giao tiến bộ KHKT tới bà con nhằm nâng cao trình độ của 
người dân trong sản xuất. Nâng cao trình độ của người dân toàn diện, mọi mặt 
về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, đào tạo và trang bị các kiến thức, kỹ 
năng cơ bản về hoạt động của cộng đồng. Tổ chức cho người dân được đi 
SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 79 
Đạ
i h
ọc
 K
inh
 tế
 H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng 
tham quan học hỏi kinh nghiệm sản xuất kinh doanh ở các địa phương khác. 
Khuyến khích người dân tự học hỏi lẫn nhau, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Hội 
nông dân xã, trung tâm giáo dục cộng đồng cần chủ động xây dựng kế hoạch 
mở các lớp dạy nghề tại địa phương, đề nghị với nhà nước mở các lớp dạy 
nghề ngắn hạn tại huyện để nhân dân có điều kiện tham gia học tập nâng cao 
trình độ hiểu biết. 
Khuyến khích, vận động và phối hợp thực hiện phân luồng giáo dục sau 
trung học cơ sở; Tạo cơ hội học tập cho các em học sinh lớp 9 không đủ điều 
kiện vào trường trung học phổ thông đi học nghề hoặc bổ túc văn hóa để thực 
hiện mục tiêu phổ cập trung học trong độ tuổi. 
Đẩy mạnh công tác xã hội hóa giáo dục. Phát huy vai trò của hội khuyến 
học, hội phụ huynh học sinh trong giáo dục đạo đức và ý thức học tập của học 
sinh; Ngăn chặn các tệ nạn xã hội xâm nhập học đường. Khuyến khích, vận 
động các dòng họ, các tổ chức xã hội xây dựng và phát triển quỹ khuyến học. 
Xây dựng phong trào thi đua học tập trong con em toàn xã. 
Từng hộ gia đình cần tạo điều kiện tốt nhất cho các cháu học sinh có đủ 
điều kiện học tập nhằm đưa tỷ lệ các cháu đậu vào các trường Đại học – Cao 
đẳng cao hơn. Tạo ra một thế hệ trẻ có tri thức và tài năng để xây dựng quê 
hương ngày càng giàu đẹp văn minh. 
Để việc xây dựng NTM thành công, đòi hỏi người dân cần phải có ý 
thức tự nâng cao trình độ của mình nhằm đưa các hoạt động đi theo đúng kế 
hoạch và tiến độ. Vì lợi ích của chính mình và lợi ích của cộng đồng. 
Thứ 3: Phát triển kinh tế hộ 
Muốn phát triển được kinh tế của hộ trước hết cần phát triển nền kinh tế 
chung của xã. Cán bộ Ban quản lý xây dựng NTM cần tuyên truyền, khuyến 
khích người dân tham gia vào các buổi tập huấn, chuyển giao tiến bộ khoa 
học kỹ thuật áp dụng vào sản xuất. Để nâng cao thu nhập của hộ thì người dân 
phải thay đổi hướng sản xuất manh mún, nhỏ lẻ, phân tán, lạc hậu bằng hướng 
sản xuất tập trung. Giúp người nông dân thay đổi hướng sản xuất tự cung tự 
SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 80 
Đạ
i h
ọc
 K
inh
 tế
 H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng 
cấp sang hướng sản xuất hàng hóa để thay vì người dân chỉ sản xuất đủ ăn thì 
giờ họ đã có của ăn của để. Trước đây, người dân chỉ sử dụng sức người trong 
do đó sản xuất chỉ đủ ăn, bây giờ thay bằng việc áp dụng cơ khí hóa, sử dụng 
máy móc hiện đại giúp người nông dân tăng năng suất, chất lượng sản phẩm. 
Xây dựng kế hoạch sản xuất hàng vụ hàng năm phù hợp, thực hiện tốt 
công tác khuyến cáo khuyến nông dự thính dự báo sâu bệnh, dịch bệnh, 
phòng chống thiên tai bão lụt, đảm bảo hiệu quả sản xuất kinh doanh của 
nông dân. Hình thành đội ngũ khuyến nông viên cơ sở để hướng dẫn giúp đỡ 
chuyển giao công nghệ tới tận người dân. Tạo điều kiện cho nông dân được 
học nghề để tiếp cận nhanh với việc làm, nhằm đảm bảo sản xuất kinh doanh 
có hiệu quả. Định hướng cho nông dân kết hợp lợi ích giữa bốn nhà: Nhà 
nước, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp và nhà nông. 
Địa phương cần phát huy tiềm năng và thế mạnh của mình nhằm thu 
hút các doanh nghiệp đầu tư để phát triển nền kinh tế địa phương từ đó phát 
triển kinh tế hộ, thu hút lực lượng lao động trẻ, khỏe có kỹ thuật ở lại xây 
dựng quê hương. 
Xây dựng và nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng làng, xã sẽ khuyến khích 
người dân tham gia vào sản xuất kinh doanh, nâng cao thu nhập của hộ. 
Tổ chức các lớp đào tạo nghề, xây dựng và phát triển các làng nghề 
truyền thống của địa phương nhằm tạo thêm việc làm và tăng thu nhập cho hộ 
gia đình, năng cao mức sống của hộ. 
Khi có được những điều kiện thuận lợi, người dân sẽ yên tâm sản xuất 
kinh doanh, phát triển kinh tế hộ, đồng thời góp phần phát triển kinh tế của 
xã. Điều kiện kinh tế được nâng cao sẽ tạo điều kiện tốt cho người dân tham 
gia các hoạt động xây dựng NTM cả về nguồn lực vật chất cũng như nguồn 
lực tinh thần. 
Thứ 4: Huy động nguồn lực từ dân 
Để thực hiện các hoạt động phát triển từ mô hình NTM, ngoài nguồn 
kinh phí hỗ trợ, còn có sự đóng góp các nguồn lực của người dân cả về sức 
SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 81 
Đạ
i h
ọc
 K
inh
 t
 H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng 
người lẫn sức của. Cần có các giải pháp nhằm tăng cường sự tham gia của 
người dân bằng việc đóng góp sức lao động, do đó sẽ làm giảm nguồn kinh 
phí mà người dân phải đóng góp. Người dân là người trực tiếp hưởng lợi từ 
các công trình, khi họ đã nhận ra được tầm quan trọng của các hoạt động phát 
triển làng, xã thì họ sẽ hưởng ứng ngày càng nhiệt tình hơn. 
Nguồn kinh phí được huy động từ dân bao gồm 2 nguồn sau: 
- Huy động tại chỗ: Huy động người dân đang sinh sống tại làng, xã 
đóng góp cả về sức người lẫn sức của như đóng góp tiền, công lao động, vật 
tư tại chỗ,... Vào công tác xây dựng mô hình NTM. 
- Huy động từ bà con xa quê: Đây là thành phần người dân trong làng, xã 
nhưng đi làm ăn ở nơi xa hoặc thanh niên có trình độ thoát ly ra ngoài làm ăn 
gửi tiền về đóng góp cho gia đình và làng xóm. 
Để công tác huy động nguồn lực từ người dân vào việc xây dựng NTM 
đạt được hiệu quả cao thì những hoạt động của Ban quản lý xây dựng NTM 
phải có kế hoạch rõ ràng, cụ thể, khiến người dân tin tưởng vào sự thành công 
của mô hình NTM. 
Việc cần làm và quan tâm hiện nay là giúp người dân nhận thức rõ vai 
trò, tầm quan trọng của mình, cần phải có ý thức tự lập chủ động được nguồn 
vốn, không phụ thuộc vào sự hỗ trợ từ bên ngoài. 
Nguồn lực của nhân dân là đòn bẩy để các hoạt động được thành công, 
họ không chỉ đóng góp sức lao động, tiền của mà họ là người trực tiếp được 
hưởng lợi của các hoạt động đó. 
Vì vậy, để xây dựng thành công NTM, cần phát huy và huy động nguồn 
lực của người dân tham gia nhiệt tình, đem lại những kết quả thắng lợi không 
chỉ cho riêng xã Điền Hải mà cho tất cả các địa phương khác trên đất nước 
Việt Nam. 
SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 82 
Đạ
i h
ọc
 K
inh
 tế
 H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng 
PHẦN 3: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 
3.1. Kết luận 
Có thể khẳng định rằng, qua 5 năm thực hiện mô hình NTM tại xã Điền 
Hải đã mang lại những kết quả vượt bậc. Tổng giá trị sản xuất của các ngành 
có chiều hướng tăng lên. Cơ cấu kinh tế đã từng bước chuyển dịch theo 
hướng sản xuất hàng hóa, tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm thay vào đó là tỷ 
trọng ngành phi nông nghiệp tăng lên. Nhờ đó mà đời sống vật chất của người 
dân đã được nâng cao rõ rệt, tạo điều kiện cho sản xuất và sinh hoạt được đảm 
bảo. Tạo tinh thần hăng say làm việc cho người dân, làm nền tảng để phát 
triển kinh tế đất nước sánh vai với các cường quốc năm châu. 
Để chính sách NTM đi vào đời sống xã hội một cách thiết thực, cần nâng 
cao năng lực và tăng cường hơn nữa vai trò của các chủ thể trong chu trình 
chính sách, đó là các cơ quan thực thi chính sách, đó là đối tượng thụ hưởng 
chính sách,...Và cần sự tập trung của cả nhà nước và người dân để giải quyết 
những vấn đề đang đặt ra trong việc xây dựng NTM. 
Sự tham gia của người dân là một nguyên tắc quan trọng trong quản trị 
địa phương. Và do đó, nó lại càng có ý ngĩa quan trọng trong việc xây dựng 
NTM. Để thực hiện tốt và có hiệu quả chương trình xây dựng NTM, vấn đề 
đặt ra là phải phát huy được vai trò chủ thể của người dân. 
Thực tế trên địa xã Điền Hải, người dân đã có những chuyển biến bước 
đầu về nhận thức, đã có những đóng góp cơ bản trong xây dựng NTM ở địa 
phương. Đó là đa phần người dân biết đến chương trình nhưng chưa thực sự 
hiểu sâu, người dân tham gia xuyên suốt các nội dung trong xây dựng NTM 
nhưng mức độ tham gia thực sự chưa cao và có những hình thức có thể tận 
dụng ngay tại địa phương nhưng chưa được phát huy. Do đó, cần đề ra được 
các giải pháp để phát huy sự tham gia của người dân trong xây dựng NTM, 
góp phần vào sự nghiệp CNH – HĐH đất nước. 
SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 83 
Đạ
i h
ọc
 K
i h
 tế
 H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng 
Vì vậy, cần phải huy động sự tham gia vào cuộc tích cực của cả hệ thống 
chính trị và toàn xã hội, phát huy vai trò của cấp Đảng ủy, chính quyền địa 
phương và các tổ chức chính trị xã hội; Tuyên truyền nâng cao nhận thức của 
người dân; Tăng cường đạo tạo đội ngũ cán bộ cấp cơ sở; Cụ thể hóa, hướng 
dẫn sự tham gia và sự chủ động tham gia tích cực của nhân dân là điều kiện 
tiên quyết để thực hiện thành công chương trình. 
Từ đó, xây dựng nên hình ảnh chính quyền gần dân; Tạo nên sự đồng 
lòng, đồng thuận trong dân, quyết tâm thực hiện thắng lợi chính sách NTM. 
Bởi khi dân chúng đồng lòng, ủng hộ thì họ sẽ tích cực hành động, hăng hái 
và không quản ngại khó khăn như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Dân chúng 
đồng lòng, việc gì cũng làm được. Dân chúng không ủng hộ, việc gì cũng 
không nên” . 
3.2. Kiến nghị 
Xây dựng NTM là quá trình lâu dài và liên tục, cần thiết phải xây dựng 
một kế hoạch phát triển tổng thể có định hướng dài hạn.Với sự hỗ trợ, chủ 
trương và chính sách của Đảng, Nhà nước cùng với sự hỗ từ các tổ chức bên 
ngoài về cả mặt tài chính và kỹ thuật thì việc triển khai xây dựng NTM sẽ đáp 
ứng tiến độ và kết quả như mong muốn. Qua nghiên cứu tìm hiểu tình hình 
thực hiện chủ trương xây dựng NTM tại xã Điền Hải, tôi đưa ra một số kiến 
nghị như sau: 
3.2.1. Đối với các cấp chính quyền 
 Đối với Trung ương 
Có cơ chế, chính sách đối với việc tăng cường sự tham gia của người dân 
trong xây dựng NTM. Tạo điều kiện cho mỗi địa phương linh động trong việc 
thực thi chính sách, chủ động trong việc thực hiện các tiêu chí. 
Kịp thời tổng kết, đánh giá hiệu quả xây dựng NTM trên cơ sở những 
tiêu chí đánh giá hiệu quả cụ thể. Cần có cái nhìn bao quát và đánh giá kịp 
thời những tiêu chí nào cần thiết, những tiêu chí nào bất hợp lý để đưa ra điều 
chỉnh phù hợp. Những điều chỉnh đó chính là cơ sở góp phần thúc đẩy thực 
thi chính sách hoàn thiện hơn. 
SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 84 
Đạ
i h
ọc
 K
inh
 tế
 H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng 
Tăng thời lượng tuyên truyền trên phương tiện thông tin của Trung ương 
về xây dựng NTM để thống nhất nhận thức và hành động trong cán bộ và 
nhân dân. 
 Đối với chính quyền huyện 
Xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cơ quan trong quá trình xây dựng 
NTM, cần phải xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan, nhất là những cơ 
quan chuyên môn phụ trách và tổ chức chính trị - xã hội để có cơ chế khen 
thưởng, kỷ luật hợp lý, kịp thời. 
Thành lập văn phòng điều phối cấp huyện được phụ trách bởi những cán 
bộ có năng lực chuyên môn là cần thiết. Đây cũng chính là một kênh tiếp 
nhận ý kiến đóng góp của người dân trên địa bàn huyện. 
Tiếp tục đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật; Đảm bảo nâng tầm 
phủ sóng của hệ thống loa phát thanh trên địa bàn các xã để phục vụ công tác 
tuyên truyền nâng cao nhận thức của người dân. 
Đồng thời, tăng cường giao lưu học hỏi kinh nghiệm xây dựng NTM, có 
biện pháp huy động nguồn lực từ phía doanh nghiệp. 
 Đối với ban lãnh đạo xã, đặc biệt là các tổ chức đoàn thể trong từng 
thôn. 
Cần đôn đốc, thúc đẩy, tạo động lực cho các hộ nông dân đưa vốn đầu 
tư, khoa học kĩ thuật vào sản xuất và mở rộng ngành nghề tạo thêm công ăn 
việc làm cho lao động trong xã. 
Tổ chức tuyên truyền, phát động phong trào thi đua xây dựng NTM 
trong xã; Tổ chức khen thưởng kịp thời cá nhân, tập thể hoàn thành xuất sắc 
nhiệm vụ hằng năm. 
Quan tâm hơn nữa việc hướng dẫn kiến thức cơ bản về xây dựng NTM 
cho Ban ngành phát triển xây dựng NTM, tổ chức học tập kinh nghiệm xây 
dựng NTM với xã bạn. 
Lồng ghép các chương trình, dự án để thực hiện chương trình; Huy động 
các nguồn lực đặc biệt là huy động sự nổ lực đóng góp của người dân đầu tư 
xây dựng NTM xã. 
SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 85 
Đạ
i h
ọc
 K
inh
 tế
 H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng 
Lãnh đạo chỉ đạo toàn diện việc thực hiện xây dựng NTM; Phân công 
thành viên phụ trách chịu trách nhiệm kiểm tra, đôn đốc các thôn thực hiện tốt 
các quy định về xây dựng, quản lý vốn đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả. 
Cần nâng cao trình độ quản lý, các hoạt động phát triển thôn cần khuyến 
khích người dân tham gia cả trực tiếp lẫn gián tiếp, đảm bảo tính dân chủ của 
người dân; Các khâu trong hoạt động phát triển thôn nên giao trực tiếp công 
việc trong khả năng họ có thể làm, giúp giảm chi phí thanh toán, mua nguyên 
liệu vật tư và tư vấn bên ngoài. 
3.2.2. Đối với người dân 
Phát huy vai trò làm chủ của mình trong quá trình xây dựng NTM. Đó là 
tích cực tham gia các hoạt động xây dựng NTM như tuyên truyền vận động 
mọi người tham gia xây dựng NTM, tự nguyện đóng góp sức người, sức của, 
vào xây dựng và quản lý những tài sản công cộng. Cần phải tham gia tích cực 
hơn nữa vào công cuộc xây dựng thôn, xóm làng giàu đẹp, các Dự án phát 
triển kinh tế. 
Mạnh dạn đưa các tiến bộ khoa học vào ứng dụng để tìm ra phương thức 
sản xuất phù hợp với địa phương và với điều kiện của từng hộ để mang lại 
hiệu quả kinh tế cao. 
Tích cực tham gia vào việc gìn giữ, phát huy truyền thống của các làng 
nghề truyền thống để tận dụng nguồn lao động nhàn rỗi, tăng thêm thu nhập 
cho hộ. 
Tuy đã cố gắng nghiên cứu nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau nên 
khóa luận không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, rất mong nhận được sự 
đóng góp ý kiến của quý thầy cô để đề tài được hoàn thiện hơn. 
SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 86 
Đạ
i h
ọc
 K
inh
 tế
 H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Vũ Đình Thắng - Hoàng Văn Đinh (2002), Giáo trình kinh tế Phát triển 
nông thôn, Trường ĐHNN Hà Nội. 
2. Mai Thanh Cúc – Quyền Đình Hà (2005), Giáo trình Phát triển nông thôn, 
Trường ĐHNN, Hà Nội. 
3. Hồ Văn Thông (chủ biên): Thể chế dân chủ và phát triển nông thôn Việt 
Nam hiện nay, NXB Chính trị Quốc gia – Hà Nội, 2005. 
4. Hoàng Mạnh Quân (2007), Giáo trình lập và quản lý dự án phát triển 
nông thôn, Trường ĐHNN, Hà Nội. 
5. Vũ Thị Huyền Trang, Một số giải pháp tăng cường sự tham gia của cộng 
đồng vào phát triển nông thôn Việt Nam hiện nay, 2010. 
6. Nguyễn Thế Kỷ (chủ biên), Cẩm nang hướng dẫn xây dựng nông thôn 
mới, NXB Chính trị Quốc gia – Hà Nội, 2015 
7. Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 04 tháng 6 năm 2010 của Thủ tướng 
chính phủ ban hành Phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây 
dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 – 2020. 
8. Tuấn Anh (2012), Kinh nghiệm xây dựng nông thôn mới ở một số nước 
trên thế giới, Tạp chí Cộng sản. 
9. Trần Cẩm Tú (2012), Xây dựng nông thôn mới ở Thái Bình - Kết quả 
bước đầu và những bài học kinh nghiệm, Tạp chí Cộng sản. 
10. Đoàn Thiện Ngọc Vũ (2014), Nghiên cứu sự tham gia của người dân vào 
quá trình lập kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội tại huyện Thăng Bình, 
tỉnh Quảng Nam, Học việc Hành chính Quốc gia. 
11. Nghị quyết 26/NQ-TW ngày 05 tháng 8 năm 2008 của Ban Chấp hành 
Trung ương Đảng Khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. 
12. Đặng Hiếu (31/3/2015), Kinh nghiệm xây dựng nông thôn mới ở Thái 
Bình, Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam, Nhân tố mới. 
13. Theo TTXVN (24/1/2015), Lấy dân làm “ Gốc” - bài học trong lãnh đạo, 
SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 87 
Đạ
i h
ọc
 K
inh
 tế
 H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng 
chỉ đạo xây dựng nông thôn mới ở huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai, Tạp 
chí tuyên giáo. 
14. 
moi.html 
15. 
nd-16393.html 
SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 88 
Đạ
i h
ọc
 K
inh
 tế
 H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng 
PHỤ LỤC 
Sự tham gia của người dân trong việc xây dựng nông thôn mới trên địa 
bàn xã Điền Hải, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế 
Xin chào ông (bà), tôi là sinh viên Trường Đại học Kinh tế - Đại học Huế 
đang thực hiện thực tập cuối khóa chuyên ngành Kinh tế nông nghiệp. Mong ông 
(bà) trả lời những thông tin chính xác nhất về sự tham gia của ông (bà) vào việc xây 
dựng NTM. 
Thông tin do ông (bà) cung cấp chỉ được sử dụng làm báo cáo thực tập, 
những thông tin cá nhân do ông (bà) cung cấp sẽ được giữ bí mật. 
Họ và tên người điều tra: Nguyễn Thị Thanh Hà 
Thời gian điều tra: Ngày.. thángnăm 
Địa điểm điều tra: xã Điền Hải, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế 
I. Thông tin về hộ điều tra 
1.1 Thông tin về người được phỏng vấn 
1. Họ và tên chủ hộ:.. 
Nam/nữ: .Tuổi:.. 
2. Địa chỉ: Thôn Số điện thoại:.. 
3. Trình độ văn hóa lớp . 
4. Trình độ chuyên môn 
Chưa qua đào tạo Cao đẳng – Đại học 
 Sơ cấp, trung cấp Trên đại học 
SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 89 
Đạ
i h
ọc
 K
inh
 ế
 H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng 
1.2 Thông tin về hộ gia đình 
5. Đặc điểm kinh tế của hộ 
 Giàu Trung bình 
 Khá Nghèo 
6. Số nhân khẩu của hộ: 
Số lao động chính của hộ....................Số lao động nông nghiệp:.. 
7. Nghề nghiệp của hộ 
 Làm nông Công nhân 
 Buôn bán Cán bộ, công chức, viên chức 
Nghề khác.. 
8. Mức thu nhập bình quân /tháng:triệu đồng/hộ. 
II. Sự tham gia của người dân trong việc xây dựng nông thôn mới. 
9. Ông (bà) có biết được chủ trương chính sách của nhà nước về xây dựng nông 
thôn mới ở xã ta không? 
 Có Không 
Nếu có, ông (bà) biết qua kênh thông tin nào? 
Từ chính quyền xã 
Phương tiện thông tin đại chúng như: Tivi, báo, đài, internet, 
 Qua các cuộc họp, hội thảo 
 Tự tìm hiểu 
 Khác 
SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 90 
Đạ
i h
ọc
 K
inh
 tế
 H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng 
10. Ông (bà) có tham gia xây dựng nông thôn mới không? 
 Có Không 
Nếu có tham gia, thì tham gia bằng hình thức nào? 
 Đóng góp ý kiến Góp tiền mặt 
 Đóng góp công lao động Góp vật liệu, dụng cụ tại chỗ 
 Hiến đất Tham gia tập huấn 
Ý kiến khác 
11. Mức độ quan tâm của ông (bà) trong việc xây dựng nông thôn mới? 
 Rất quan tâm Quan tâm vừa phải 
 Quan tâm Ít hoặc không quan tâm 
12. Dưới đây là các mức độ tham gia của người dân trong xây dựng nông thôn mới. 
Ông (bà) tham gia ở mức độ nào trong các mức độ dưới đây? 
STT Mức độ tham gia của người dân X 
1 Tham gia thực sự 
2 Tham gia ít 
3 Không tham gia 
III. Sự tham gia của người dân trong các cuộc hoạt động phát triển thôn 
13. Các hoạt động trong chương trình phát triển nông thôn mới gia đình có tham gia 
đóng góp không? 
Có Không 
SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 91 
Đạ
i h
ọc
 K
inh
 tế
 H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng 
Gia đình tham gia đóp góp vào từng hoạt động sau như thế nào? 
Hoạt động 
Tham gia lao 
động (công) 
Đóng góp 
tiền (đồng) 
Hiến đất 
(m2) 
1. Xây dựng nhà văn hóa 
2. Làm đường giao thông 
3. Bảo vệ môi trường 
4. Hoạt động khác 
14. Vì sao gia đình ông (bà) tham gia đóng góp như trên? 
Tham gia tự nguyện Do yêu cầu của thôn 
IV. Hiệu quả từ việc xây dựng mô hình nông thôn mới 
15. Sau hoạt động nông thôn mới, thu nhập cho gia đình có tăng không? 
 Có Không 
16. Tác động của việc xây dựng nông thôn mới đến địa phương? 
Làm đẹp cảnh quang cho xã Đời sống người dân được tăng 
cao Có thêm nhiều việc làm Không có tác động gì 
17. Tác động của việc xây dựng nông thôn mới đến môi trường? 
Tăng ô nhiễm môi trường Số hộ dùng nước sạch tăng 
Giảm ô nhiễm môi trường Không có tác động gì 
X. Một số đánh giá chung của người dân 
18. Cách thực hiện kế hoạch có phù hợp với điều kiện của địa phương, gia đình 
không? 
Phù hợp Chưa phù hợp 
SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 92 
Đạ
i h
ọc
Ki
nh
 tế
 H
uế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Trương Quang Dũng 
19. Để chương trình nông thôn mới phát triển, theo ông (bà) cần phải làm gì? 
 Do dân tự làm Nhà nước tự làm 
 Kết hợp giữa người dân và hỗ trợ của Nhà nước 
 20. Ông (bà) có đề xuất hay kiến nghị gì không? 
Xin chân thành cảm ơn ông (bà) đã hợp tác! 
SVTH: Nguyễn Thị Thanh Hà – Lớp: K46B KTNN 93 
Đạ
i h
ọc
 K
inh
 tế
 H
uế
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 su_tham_gia_cua_nguoi_dan_trong_viec_xay_dung_nong_thon_moi_tren_dia_ban_xa_dien_hai_huyen_phong_die.pdf su_tham_gia_cua_nguoi_dan_trong_viec_xay_dung_nong_thon_moi_tren_dia_ban_xa_dien_hai_huyen_phong_die.pdf