MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU . 1
1. Đặt vấn đề. 1
2. Mục tiêu nghiên cứu. 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. . 2
4. Phương pháp nghiên cứu. . 3
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài . 4
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LAO ĐỘNG VÀ VIỆC LÀM. 5
1.1. Cơ sở lý thuyết . 5
1.1.1. Các khái niệm có liên quan . 5
1.1.2. Mối liên kết giữa hai khu vực . 7
1.1.3. Lý thuyết về các yếu tố kéo và đẩy tham gia hoạt động phi nông nghiệp của
nông dân . 9
1.1.4. Mô hình kinh tế hộ nông dân với hoạt động phi nông nghiệp 10
1.2. Các nghiên cứu thực nghiệm 19
1.2.1. Nghiên cứu 1 .19
1.2.2. Nghiên cứu 2 .19
1.2.3. Nghiên cứu 3 .20
1.2.4. Nghiên cứu 4 21
1.3. Kinh Nghiệm giải quyết việc làm nông thôn của các nước 22
1.3.1. Trung Quốc 22
1.3.2. Hàn Quốc .23
1.4. Mô hình nghiên cứu đề nghị 25
CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN LAO ĐỘNG – VIỆC LÀM VÙNG NÔNG THÔN HUYỆN
TAM NÔNG GIAI ĐOẠN 2005-2006 . . 28
2.1. Tổng quan về kinh tế của huyện Tam Nông 28
2.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên 28
2.1.2. Tình hình kinh tế của huyện 29
2.2. Thực trạng nguồn lao động nông thôn của huyện Tam Nông 30
2.2.1. Tình hình dân số và lao động 30
2.2.2. Chất lượng nguồn lao động 32
2.2.3. Cơ cấu lao động nghề nghiệp 34
2.2.4. Di cư lao động 35
2.3. Khả năng tạo việc làm 36
2.3.1. Khả năng tạo việc làm nông nghiệp 36
2.3.2. Khả năng tạo việc làm phi nông nghiệp 37
2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tham gia hoạt động phi nông nghiệp của
lao động 39
2.4.1. Nhóm nhân tố thuộc về bản thân người lao động .40
2.4.2. Nhóm nhân tố thuộc về gia đình người lao động 43
2.4.3. Nhóm nhân tố thuộc về cộng đồng 47
Kết luận 49
CHƯƠNG 3: KIỂM ĐỊNH CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC LÀM PHI NÔNG
NGHIỆP. 51
3.1. Mô hình kinh tế lượng xác định các nhân tố tác động đến việc làm làm phi nông
nghiệp . 51
3.1.1. Xây dựng mô hình .51
3.1.2. Số liệu dùng trong phân tích mô hình 56
3.2. Kết quả mô hình và ý nghĩa phân tích 56
3.2.1. Nhóm nhân tố về đặc điểm cá nhân người lao động 57
3.2.2. Nhóm nhân tố về đặc điểm gia đình người lao động .59
3.2.3. Nhóm nhân tố về đặc điểm cộng đồng 61
Kết luận 61
KẾT LUẬN VÀ CÁC ĐỀ SUẤT CHÍNH SÁCH 63
1. Kết luận rút ra từ nghiên cứu 63
2. Các đề xuất chính sách 64
3. Hạn chế của nghiên cứu .66
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Cơ cấu kinh tế của huyện qua các năm 2001, 2005, 2006 .29
Bảng 2.2. Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số .30
Bảng 2.3. Lao động, việc làm của huyện Tam Nông năm 2006 .31
Bảng 2.4. Cơ cấu lao động theo trình độ văn hóa huyện Tam Nông năm 2006 .32
Bảng 2.5. Cơ cấu lao động theo trình độ chuyên môn huyện Tam Nông năm 2006 33
Bảng 2.6. Đặc điểm về tuổi và giới tính của lao động 40
Bảng 2.7. Trình độ học vấn và học nghề của lao động .42
Bảng 2.8. Phân loại hộ nghề nghiệp 43
Bảng 2.9. Đặc điểm về qui mô gia đình và đất sản xuất theo hộ nghề nghiệp .44
Bảng 2.10.Đặc điểm về thu nhập và nông nhàn của gia đình theo hộ nghề nghiệp .46
Bảng 3.1. Các biến số sử dụng trong mô hình 55
Bảng 3.2. Kết quả ước lượng với các biến đặc điểm của người lao động 57
Bảng 3.3. Kết quả ước lượng mô hình với các biến đặc điểm gia đình 59
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 1.1. Mối liên kết giữa khu vực nông nghiệp và phi nông nghiệp 8
Hình 1.2. Phân bổ thời gian của hộ nông dân với hoạt động phi nông nghiệp .14
Hình 1.3. Phân bổ thời gian của hộ nông dân không có hoạt động phi nông nghiệp .16
Hình 1.4. Nhân tố quyết định của hoạt động phi nông nghiệp .17
DANH MỤC SƠ ĐỒ
Sơ đồ 1.1. Tóm lược mô hình nghiên cứu .27
DANH MỤC CÁC HỘP
Hộp 1. Những người trẻ tuổi thường đi khỏi quê vào mùa nước nổi 31
Hộp 2. Học nghề đã khó, theo nghề đã học còn khó hơn 33
Hộp 3. Vào mùa vụ họ lại bỏ làm đi gặt lúa mướn .47
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề.
Việc làm luôn là vấn đề bức xúc của xã hội, với sự phát triển nhanh của các
nền kinh tế, nó đã không ngừng được tạo ra nhưng cũng không ít những việc làm bị
mất đi. Sự mai một của một số các việc làm thường xảy ra ở nông thôn, những vùng
đất mà người dân sống dựa vào sản xuất nông nghiệp, khai thác tài nguyên thiên
nhiên là chính. Những làng nghề truyền thống hay những mặt hàng thủ công không
theo kịp sự phát triển của nền kinh tế hiện đại dần biến mất.
Trong giai đoạn hiện nay, sự thay đổi về cơ cấu kinh tế trong nông thôn cùng
với công nghiệp hoá và hiện đại hoá sản xuất nông nghiệp là một tất yếu để phát triển
kinh tế. Nhưng với diện tích đất có giới hạn, tỷ lệ tăng dân số ở nông thôn lại cao và
trình độ dân trí còn thấp đã làm cho người dân sống ở nông thôn ngày càng khó tìm
được việc làm khi họ bị tách khỏi những lao động phổ thông trong nông nghiệp.
Riêng với huyện Tam Nông tỉnh Đồng Tháp - là một vùng trũng của Đồng
Tháp Mười - trong một năm có năm đến sáu tháng nước nổi, gần 90 % dân số sống ở
nông thôn với nghề nông là chính, thì vấn đề việc làm cho người lao động là một bài
toán nan giải đặt ra cho người dân cũng như các cấp chính quyền địa phương. Sự dư
thừa lao động và thiếu việc làm nhất là vào mùa lũ trở thành một trong những lực cản
chính cho sự nghiệp xóa đói giảm nghèo, phát triển giáo dục, nâng cao dân trí và là
mầm móng phát sinh tệ nạn xã hội.
Nhận thấy nhu cầu việc làm ở nông thôn là rất cấp thiết, nhà nước đã có những
chính sách nhằm tạo việc làm, chuyển dịch cơ cấu lao động cho nông thôn nói chung
và cho huyện Tam Nông Tỉnh Đồng Tháp nói riêng. Bên cạnh đó còn có các dự án hỗ
trợ của các tổ chức phi chính phủ nhằm tạo việc làm cho người lao động nghèo.
Những chính sách và dự án tập trung vào: đào tạo nghề, khuyến khích phát triển làng
nghề, phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, cung cấp tín dụng. Nhưng đối với người
dân sống ở vùng lũ, tạo thêm việc làm và khả năng tự tạo việc làm cho người lao động
lại có những đặc trưng riêng biệt mà khi tiếp nhận các chính sách hay các chương
trình việc làm nông thôn chung phải có những thay đổi linh hoạt phù hợp với điều
kiện địa lý và năng lực của người dân.Vì vậy, nghiên cứu về lao động - việc làm cho
người lao động theo khía cạnh hộ gia đình là cần thiết. Thứ nhất, làm rõ đặc điểm lao
động – việc làm ở nông thôn vùng lũ. Thứ hai, Tìm ra những nhân tố tác động đến sự
tham gia hoạt động phi nông nghiệp của người lao động nhằm định hướng chính sách
thúc đẩy việc chuyển dịch cơ cấu lao động (từ lao động nông nghiệp sang lao động
phi nông nghiệp) diễn ra nhanh chóng.
Cùng với khuynh hướng chung của chính sách nhà nước là chuyển dịch cơ cấu
lao động, nghiên cứu sẽ tập trung vào phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến cơ hội tham
gia việc làm phi nông nghiệp cho người dân vùng lũ huyện Tam Nông tỉnh Đồng
Tháp.
2. Mục tiêu nghiên cứu.
Xuất phát từ nhu cầu việc làm ở nông thôn vùng lũ của huyện Tam Nông đề tài
sẽ tập trung nghiên cứu các vấn đề cụ thể sau :
- Xác định các nhân tố tác động đến cơ hội tham gia việc làm phi nông nghiệp
của người lao động.
- Gợi ý chính sách tác động tạo cơ hội việc làm cho người lao động.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu: là người dân trong độ tuổi lao động và có khả năng lao
động. Độ tuổi lao động được xác định người từ 15 tuổi trở lên
- Phạm vi nghiên cứu: vùng nông thôn huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp. Hai
xã được chọn đại diện lấy mẫu để thực hiện nghiên cứu là xã Tân Công Sính
và xã Phú Hiệp. Xã Tân Công Sính có đường giao thông không thuận tiện, diện
tích đất tự nhiên lớn nhất huyện, mật độ dân số thưa, vùng ngập lụt sâu, nghèo.
Xã Phú Hiệp có đường giao thông thuận tiện, diện tích đất vừa, mật độ dân số
cao, vùng ngập lụt.
- Thời gian nghiên cứu: nghiên cứu được thực hiện trong khoảng thời gian là 07
tháng. Bắt đầu từ tháng 12 năm 2006 và kết thúc nghiên cứu vào tháng 07 năm
2007.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp phân tích định tính
Phương pháp phân tích định tính bao gồm: phương pháp chuyên gia và phỏng
vấn sâu.
ã Phương pháp chuyên gia
Ở cấp huyện, tham vấn trực tiếp phó chánh văn phòng phụ trách kinh tế Ủy
ban huyện Tam Nông, hội trưởng và hội phó hội phụ nữ huyện, phó phòng công
thương huyện, Trưởng phòng và phó phòng nội vụ lao động thương binh xã hội
huyện.
Ở cấp xã, tham vấn trực tiếp phó chủ tịch phụ trách kinh tế xã Tân Công Sính,
xã Phú Hiệp. Phỏng vấn nhóm các cán bộ phụ trách hội phụ nữ, hội nông dân, đoàn
thanh niên của hai xã Tân Công Sính và Phú Hiệp.
Ngoài ra, tham vấn trực tiếp hai chủ tổ hợp sản xuất có thu hút lao động của
hai xã vùng nghiên cứu.
ã Phương pháp phỏng vấn sâu
Phỏng vấn trực tiếp 80 lao động trong độ tuổi lao động ở hai xã đại diện vùng
nông thôn của huyện. Các lao động được phỏng vấn trực tiếp bằng bảng câu hỏi và
ngẫu nhiên. Số mẫu ở mỗi xã được tính dựa trên số hộ dân vào năm 2006, xã Tân
Công Sính có 1.109 hộ và xã Phú Hiệp có 1736 hộ dân. Như vậy, tổng thể quan sát là
2845 hộ trong đó Phú hiệp chiếm 61,01% tổng thể quan sát nên với số mẫu tương ứng
cần được phỏng vấn là 49 mẫu, còn lại xã Tân Công Sính chiếm 38,98% nên tương
ứng với số mẫu cần được phỏng vấn là 31 mẫu.
4.2. Phương pháp phân tích định lượng
ã Phương pháp thống kê mô tả
Sau khi điều tra thực tế và tham vấn ý kiến chuyên gia các số liệu và các thông
tin thu thập được về đặc điểm lao động của hai xã khảo sát sẽ được thống kê kết hợp
phân tích nhằm đưa ra những đánh giá định tính về mức độ, xu hướng, tính chất và
mối quan hệ giữa các biến số. Phương pháp này sử dụng phần mềm hỗ trợ Excel.
ã Phương pháp phân tích hồi qui
Dùng mô hình probit (logit) và phần mềm kinh tế lượng chuyên dụng Eview để
xác định mức độ tác động của các yếu tố ảnh hưởng đến cơ hội làm việc phi nông
nghiệp của người lao động nông thôn vùng lũ.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu.
Kết quả nghiên cứu của đề tài mang đến một số ý nghĩa sau:
- Hiểu rõ đặc điểm lao động vùng lũ và những nhu cầu thực tế của người lao
động trên cơ sở đó có những gợi ý chính sách tác động phù hợp với nhu cầu
thực sự của người lao động.
- Gợi ý chính sách phù hợp góp phần thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu lao
động, phát triển kinh tế địa phương.
74 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3591 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Kiểm định các nhân tố ảnh hướng đến việc làm phi nông nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ài ra, các lao động trẻ thường theo học các lớp nghề và số lao động này
cũng có thể góp phần nâng cao số người tham gia hoạt động phi nông nghiệp ở địa
phương hoặc cũng có thể không làm thay đổi con số này nhiều. Bởi vì, lao động sau
khi học nghề sẽ có hai trường hợp xảy ra: trường hợp 1, lao động tìm được việc làm
phù hợp tại địa phương thì điều này sẽ giúp tỷ lệ lao động tham gia hoạt động phi
nông nghiệp tăng lên và giải quyết việc làm cho lao động. Trường hợp 2, nếu lao
động học nghề không tìm được công việc phù hợp tại địa phương mà theo nghề di cư
đi nơi khác thì tác động của việc học nghề chỉ là giải quyết việc làm cho lao động.
Nếu đứng trên khía cạnh giải quyết việc làm, bỏ qua các tác động xã hội của di cư thì
cả hai trường hợp đều mang lại lợi ích thiết thực cho lao động và gia đình của họ.
Thực tế cho thấy, lao động nông thôn ở huyện có học nghề thường là đi làm ở nơi
khác vì ở địa phương việc làm phi nông nghiệp đa phần là việc làm tự tạo trong khi
47
rất ít việc làm thuê phi nông nghiệp, hay làm công ăn lương. Vì vậy, khi phỏng vấn số
lao động ở địa phương thì có thể số lao động có học nghề không sát với thực tế.
Bảng 2.7. Trình độ học vấn và học nghề của lao động.
Đơn vị Tổng Nam Nữ
Làm việc phi nông nghiệp người 19 7 12
Giáo dục (bình quân) lớp 6 9 5
Học nghề người 8 2 6
Làm nông nghiệp người 60 38 22
Giáo dục (bình quân) lớp 5 6 4
Học nghề người 6 4 2
(Nguồn: tổng hợp từ điều tra thực tế của tác giả)
Nhìn chung, trình độ học vấn bình quân của lao động tham gia hoạt động phi
nông nghiệp cao hơn lao động nông nghiệp. Có sự khác biệt rất rõ ở trình độ học vấn
của Nam và Nữ lao động phi nông nghiệp, còn lao động trong nông nghiệp thì sự
khác biệt về trình độ học vấn không nhiều lắm nhưng trình độ học vấn của nam vẫn
cao hơn của nữ. Ngược với trình độ học vấn, trong học nghề thì tỷ lệ nữ lại chiếm ưu
thế cả về số lượng người học và số người tham gia hoạt động phi nông nghiệp theo
nghề đã học. Điều này gợi ý rằng những chính sách về mở các lớp nghề cần chú trọng
đến các lớp nghề cho lao động nữ.
Cũng có thể còn những nhân tố khác xuất phát từ bản thân người lao động như
khả năng thích ứng công việc hay kỹ luật của lao động khi tham gia hoạt động phi
nông nghiệp, mức độ siêng năng, hứng thú với công việc…Tất cả những nhân tố kể
trên ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng tham gia hoạt động phi nông nghiệp của lao
động. Nhưng những nhân tố này rất khó nhận thấy và đo lường khi phỏng vấn người
lao động, thêm vào đó tác động để cải thiện những nhân tố này rất khó vì vậy nghiên
cứu bỏ qua chúng.
48
2.4.2. Nhóm nhân tố về đặc điểm gia đình người lao động.
Trình độ của chủ gia đình hay truyền thống việc làm trong gia đình ở nông
thôn có tác động rất lớn đến định hướng và sự chọn lựa nghề nghiệp của những lao
động trong gia đình. Nó sẽ có tác động thúc đẩy tham gia hoạt động phi nông nghiệp
nếu gia đình có nghề hay đã và đang tham gia làm việc phi nông nghiệp. Xét trên góc
độ nghề nghiệp của hộ gia đình, vùng khảo sát có ba loại hộ nghề nghiệp:
Bảng 2.8. Phân loại hộ nghề nghiệp.
Hộ nghề nghiệp Số hộ Tỷ lệ (%)
Hộ thuần nông 50 63,29
Trong đó làm thuê nông nghiệp 11 -
Hộ hỗn hợp 20 25,31
Hộ phi nông 9 11,39
Tổng số hộ 79 100
( Nguồn: Tổng hợp từ điều tra thực tế của tác giả)
Các nhóm hộ trong bảng trên được phân loại dựa vào liệt kê tên việc làm của
các thành viên trong gia đình lấy từ bảng câu hỏi phỏng vấn trực tiếp lao động. Theo
đó, nhóm hộ thuần nông bao gồm trồng trọt và chăn nuôi; nhóm hộ hỗn hợp là những
hộ vừa có thành viên trong gia đình tham gia hoạt động nông nghiệp và phi nông
nghiệp; nhóm hộ phi nông là những hộ có thành viên trong gia đình tham gia hoàn
toàn vào hoạt động phi nông. Bảng 2.8 cho thấy hộ thuần nông chiếm tỷ lệ đáng kể
63,29%, hộ phi nông chiếm tỷ lệ thấp 11,39%, còn lại là 20% hộ thuộc nhóm hỗn
hợp. Điều này phản ánh thực tế việc làm phi nông nghiệp tại địa phương là quá ít
Đối với các hộ nghèo không có đất, có ít đất hoặc đông con thì khả năng không
có đất sản xuất và sức ép về nuôi sống gia đình cũng có thể thúc đẩy họ tham gia hoạt
động phi nông nghiệp. Các cán bộ ở xã cho biết có gần 30% hộ dân sống tại hai xã
khảo sát không sở hữu đất sản xuất, những người trong độ tuổi lao động ở những hộ
này rất dễ chuyển từ làm thuê nông nghiệp sang làm phi nông nghiệp nếu họ có cơ
49
hội. Thực tế điều tra cho thấy, trong 60 lao động làm nông nghiệp thì có đến 15 lao
động làm thuê chiếm 25%. Vậy, những lao động đang tham gia hoạt động phi nông
nghiệp ở đây có phải chịu sức ép về qui mô gia đình và đất sản xuất không?
Bảng 2.9. Đặc điểm về qui mô gia đình và đất sản xuất theo hộ nghề nghiệp
Hộ thuần nông Hộ hỗn hợp Hộ phi nông
Qui mô gia đình (người)
Lớn nhất 6 6 7
Trung bình 4,05 4 3,94
Nhỏ nhất 1 3 2
Qui mô đất ( ha)
Lớn nhất 7,8* 1,8 0
Trung bình 1,69* 1,18 0
Nhỏ nhất 0,5* 0 0
(* Qui mô đất của những hộ thuần nông có đất sản xuất)
( Nguồn: Tổng hợp từ điều tra thực tế)
Trong thực tế, qui mô gia đình bình quân của các hộ thuần nông lại có phần
nhỉnh hơn các hộ phi nông và hỗn hợp. Trường hợp cá biệt một hộ gia đình có 7 thành
viên, đây là hộ có qui mô lớn nhất trong tổng số điều tra và hộ này có số thành viên
tham gia hoạt động phi nông nghiệp là 5. Cùng với qui mô gia đình, số người làm việc
trong hộ ít hay có ít việc làm nông nghiệp trong hộ cũng có tác động thúc đẩy tham
gia tìm kiếm việc làm phi nông nghiệp. Nhưng với yếu tố về qui mô gia đình thì chưa
thể kết luận qui mô gia đình lớn là áp lực lao động tham gia hoạt động phi nông
nghiệp mà còn phải kể đến qui mô đất sản xuất. Bảng 2.9 cho thấy qui mô đất sản
xuất của các hộ thuần nông có đất sản xuất là tương đối nhiều so với hai nhóm hộ
nghề còn lại. Từ đó có thể lý giải việc tham gia hoạt động nông nghiệp của các lao
động trong vùng là: (1) do truyền thống làm nghề nông của gia đình và do gia đình có
50
đất sản xuất nhiều, nó thể hiện ở con số đất sản xuất của những hộ thuần nông là khá
lớn trung bình 1,69 ha nên việc đi tìm một nghề gì khác để làm là không hấp dẫn đối
với họ; (2) hay do gia đình quá nghèo không có đất sản xuất, không có vốn để tự tạo
việc làm, thiếu kiến thức trong định hướng nghề nghiệp cho con cái. Như thế cái
nghèo đã gắn chặt họ với lao động nông nghiệp và nhất là lao động làm thuê nông
nghiệp.
Đối với các hộ nghề hỗn hợp, áp lực về đất sản xuất và số người trong gia
đình có thể xảy ra, bình quân mỗi hộ có 1,18 ha, một số hộ cũng không có đất sản
xuất nhưng họ định làm thuê nông nghiệp hoặc thuê đất để sản xuất. Còn các hộ nghề
phi nông nghiệp thì không hộ nào có đất sản xuất, điều này cũng chưa hoàn toàn
chính xác bởi vì không loại trừ trường hợp họ có đất sản xuất nhưng không trực tiếp
sản xuất và cũng không muốn cho biết. Nếu bỏ qua trường hợp thông tin bị bỏ sót thì
không có đất sản xuất là áp lực thúc đẩy những hộ này tham gia hoạt động phi nông
nghiệp (các yếu tố khác không đổi).
Lao động trong các hộ gia đình có đất sản xuất và đang sản xuất nông nghiệp
cũng có khả năng chuyển sang hoạt động phi nông nghiệp khi họ có vốn tiết kiệm từ
sản xuất nông nghiệp. Không nhất thiết là có sự chuyển dịch hoàn toàn sang hoạt
động phi nông nghiệp, nhưng việc định hướng cho con cái trong gia đình hay chia sẽ
rủi ro trong sản xuất nông nghiệp thì rất có thể. Vì vậy, những hộ thuộc dạng này sẽ
làm tăng số hộ thuộc nhóm hộ nghề nghiệp hỗn hợp.
Một đặc điểm quan trọng trong sản xuất nông nghiệp của vùng là sản xuất
mang tính chất mùa vụ đây cũng là nguyên nhân dẫn đến thời gian nhàn rỗi nhiều của
lao động, vì vậy nếu có cơ hội lao động sẽ làm thêm những việc khác trong thời gian
này. Vấn đề đặc ra ở đây là liệu có những việc làm phi nông nghiệp nào phù hợp để
lao động tham gia trong thời gian nhàn rỗi của mùa vụ không? Vấn đề nông nhàn đặc
ra câu hỏi vô cùng hóc búa cho mọi người trong công cuộc giải quyết việc làm nông
thôn và xóa đói giảm nghèo.
51
Bảng dưới đây sẽ cho chúng ta biết thu nhập bình quân từ nông nghiệp và thời
gian nông nhàn của các gia đình của lao động vùng nghiên cứu:
Bảng 2.10. Đặc điểm về thu nhập và nông nhàn của gia đình theo hộ nghề nghiệp.
Hộ thuần nông
( tự làm)
Hộ thuần nông
(làm thuê)
Hộ hỗn hợp Hộ phi nông
Thu nhập nông
nghiệp bình quân
(1000 đ)
647,7 282,5 416,72 0
Nông nhàn bình
quân (giờ)
7,01 8,41 6,01 4
( Nguồn: tổng hợp từ số liệu điều tra thực tế của tác giả)
Các hộ thuần nông có đất sản xuất và sử dụng lao động của gia đình là có thu
nhập nông nghiệp cao nhất, hộ thuần nông làm thuê có thu nhập từ nông nghiệp rất
thấp bình quân 282,5 nghìn đồng/tháng. Nếu bỏ qua các hộ thuần nông làm thuê thì
thu nhập nông nghiệp của các hộ có tham gia lao động phi nông nghiệp thấp hơn so
với các hộ thuần nông. Nó nói lên rằng đối với vùng nông thôn này những hộ có thu
nhập nông nghiệp thấp hay nói cách khác những hộ có ít đất sản xuất là những hộ
tham gia vào hoạt động phi nông nghiệp.
Thời gian nông nhàn của các hộ thuần nông lớn hơn rất nhiều so với các hộ có
tham gia hoạt động phi nông nghiệp. Nó phản ánh tình trạng thiếu việc làm trầm trọng
trong thời gian nông nhàn của lao động. Ở vùng nông thôn này những hộ có thu nhập
nông nghiệp thấp hay nói cách khác những hộ có ít đất sản xuất là những hộ tham gia
vào hoạt động nông nghiệp.
Thu nhập ngoài lao động cũng có tác động làm cho lao động trong hộ thuần
nông không muốn tìm thêm việc làm phi nông nghiệp. Thu nhập ngoài lao động được
kể đến ở đây bao gồm các khoản tiền cho, tặng của người thân; tiền cho thuê tài sản;
tiền gửi tiết kiệm. Khi có thêm thu nhập này thì áp lực về chi tiêu trong gia đình được
giảm nhẹ, do đó người lao động ít có mong muốn tìm thêm việc làm trong thời gian
52
rảnh. Nhưng tác động này không phổ biến, trong 79 hộ được phỏng vấn chỉ có 4 hộ có
thêm thu nhập ngoài lao động chiếm tỷ lệ 5%.
2.4.3. Nhóm nhân tố về đặc điểm cộng đồng.
Nhóm nhân tố này tác động khá lớn đến việc người lao động có tham gia vào
hoạt động phi nông nghiệp, với điều kiện về vị trí địa lý – kinh tế thuận lợi và có
những chính sách tác động tốt thì cơ hội về việc làm phi nông nghiệp sẽ nhiều hơn.
Nếu ở trong vùng có khu công nghiệp, nhà máy chế biến thì điều hiển nhiên là những
lao động ở vùng này có khả năng tham gia lao động phi nông nghiệp dưới dạng công
nhân hay lao động làm công ăn lương nhiều hơn.
Điều kiện giao thông hiện nay của các vùng nông thôn ở huyện đã thuận tiện
hơn rất nhiều so với trước đây. Các khu dân cư đều đã có đường giao thông nông thôn
nối liền với trục lộ chính của xã. Mặc dù vậy, các nhà máy chế biến hay làng nghề thủ
công không có ở hai xã khảo sát. Tại thị trấn Tràm Chim cách vùng khảo sát khoảng
10 km – 15 km có hai tổ hợp (1) sản xuất gia công hàng lục bình và (2) thêu gia công
có thu hút lao động ở hai xã khảo sát. Khâu vận chuyển không gặp khó khăn gì,
nhưng thị trường tiêu thụ sản phẩm và giá gia công đã có phần nào ảnh hưởng đến
quyết định tham gia của lao động.
Hộp 3. Mào mùa vụ họ lại bỏ làm đi gặt lúa mướn.
Chị Trần Lệ Uyên chủ một tổ hợp đan gia công sản phẩm lục bình cho biết
có mấy xã gần thị trấn lao động có thời gia nhàn rỗi và đã được học lớp nghề rồi
thì hay ra tổ hợp của chị để nhận hàng về đan. Nhưng họ đan không thường
xuyên, do tới mùa vụ số thì ra đồng làm tiếp nhà, số khác đi gặt lúa mướn một
ngày thu nhập khá hơn ngồi đan lục bình. Vì vậy tới mùa vụ là không dám lãnh
hàng nhiều sợ làm không kịp để giao.
( Nguồn: điều tra thực tế của tác giả)
53
Tổ hợp sản xuất có tại đây vẫn còn là một tổ hợp nhỏ nhận gia công lại của
một đầu mối khác, tổ hợp này chưa đủ khả năng và thông tin của các công ty sản xuất
và xuất khẩu trực tiếp để liên hệ sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Điều này dẫn đến giá
gia công các mặt hàng thấp do phải qua nhiều trung gian, bình quân mỗi lao động
lành nghề và khéo tay có được 15.000 đ – 20.000 đ/ngày (một ngày làm 10 đến 12
giờ), những lao động bình thường có thể kiếm được 10.000 đ – 12.000 đ/ngày chưa kể
sản phẩm bị lỗi trả về. Như vậy sau khi trừ đi chi phí vận chuyển giao nhận nguyên
liệu và thành phẩm thì thu nhập của lao động còn lại không nhiều do đó các lao động
không muốn theo nghề rất nhiều. Khi được hỏi đến mức thu nhập khi tham gia hoạt
động phi nông nghiệp theo như mong muốn của người lao động bao nhiêu thì họ sẽ
tham gia, khoảng trung bình được đưa ra là từ 17.000 đ - 20.000 đ/ngày. Đây là mức
thu nhập được đưa ra bởi các phụ nữ đã từng học nghề đan gia công sản phẩm lục
bình và thêu gia công cho biết. Còn đối với lao động trẻ mong muốn tìm được việc
làm công ăn lương trong các nhà máy chế biến hay may mặc thì: “Nếu đi làm công
nhân ngoài thị trấn có lương một tháng 800.000 đ – 900.000 đ thì làm êm rồi…” lời
tâm sự của một lao động ở xã Tân Công Sính.
Sự hiện diện của những nhà máy tại vùng khảo sát là chưa có, các nhà máy
chế biến tập trung ở gần thị trấn và một số xã có địa thế thuận lợi. Do đó, khi lao động
muốn tìm việc làm công ăn lương trong khu vực phi nông nghiệp thì thông tin về
tuyển dụng lao động đối với người tìm việc ở nông thôn là hết sức cần thiết. Lao động
lấy thông tin về tuyển dụng chủ yếu thông qua bà con, bạn bè, hàng xóm và từ giới
thiệu của các cán bộ phụ nữ, đoàn thanh niên ở xã. Điều này ảnh hưởng rất nhiều đến
quyết định tham gia hoạt động phi nông nghiệp của lao động, nếu thị trường lao động
nông thôn hoạt động tốt hơn, nguồn thông tin trên thị trường lao động nhanh và phong
phú sẽ tạo cơ hội rất lớn cho lao động tham gia hoạt động phi nông nghiệp.
Mong muốn tìm việc làm của người lao động vùng nông thôn này rất lớn, trong
số 79 người được phỏng vấn, có đến 63 người (chiếm 79,74%) muốn tìm việc làm
chính thức và việc làm thêm cho bản thân hay cho lao động trong gia đình. Những
54
việc được mong muốn tìm như: buôn bán chiếm 36,5%, công nhân 23,8%, làm hàng
gia công 23,8%, còn lại là các việc như văn phòng, chăn nuôi và làm thuê phi nông
nghiệp (tổng hợp từ điều tra thực tế của tác giả). Như vậy mong muốn tìm được việc
làm phi nông nghiệp của lao động vùng này chiếm đến 90,5%, một con số khá lớn.
Để phần nào đáp ứng được mong muốn về việc làm của người lao động vùng
này, việc phân tích các nhân tố tác động đến quyết định tham gia hoạt động phi nông
nghiệp cho chúng ta thấy khá rõ về đặc điểm bản thân và gia đình của lao động cũng
như điều kiện kinh tế của một nông thôn – vùng lũ điển hình ở đồng bằng Sông Cửu
Long.
Kết luận
Qua tổng quan về tình hình kinh tế - xã hội và các đặc điểm cá nhân, gia đình
cũng như khả năng tạo việc làm của vùng nông thôn huyện Tam Nông đã cho thấy tác
động của các nhóm nhân tố như sau:
Nhóm nhân tố thuộc về đặc điểm bản thân người lao động: cho thấy có sự khác
biệt rõ nét trong tham gia hoạt động phi nông nghiệp của lao động nam và nữ. Các lao
động nữ có khả năng tham gia hoạt động phi nông nghiệp nhiều hơn lao động nam và
đặc biệt là những lao động nữ trẻ (tuổi bình quân 34 tuổi). Trong khi lao động nam
tham gia hoạt động phi nông nghiệp tại địa phương thường trên 40 tuổi. Ngoài ra,
trình độ học vấn và học nghề cũng có tác động tốt đến khả năng tham gia hoạt động
phi nông nghiệp của lao động. Những lao động tham gia hoạt động phi nông nghiệp
có học vấn trung bình cao hơn những lao động tham gia hoạt động nông nghiệp.
Trong học vấn và học nghề cũng có sự khác biệt giữa lao động nam và lao động nữ,
trình độ học vấn bình quân của lao động nam ở cả hai khu vực phi nông nghiệp và
nông nghiệp đều cao hơn của lao động nữ.
Nhóm nhân tố thuộc về đặc điểm gia đình của lao động: qui mô gia đình không
thể hiện rõ nét tác động của nó đến khả năng tham gia hoạt động phi nông nghiệp của
lao động. Nhưng đối với qui mô đất sản xuất thì tác động được thể hiện rõ nét, các gia
đình không có đất sản xuất là những hộ tham gia hoạt động phi nông nghiệp, những
55
hộ thuần nông là những hộ gia đình có đất sản xuất bình quân cao nhất. Vậy, có thể
nói rằng đất sản xuất càng ít thì hộ gia đình có nhiều khả năng tham gia hoạt động phi
nông nghiệp. Bên cạnh đó, thu nhập nông nghiệp có tác động tương tự qui mô đất sản
xuất, nghĩa là thu nhập từ nông nghiệp của các hộ gia đình càng cao thì lao động trong
gia đình lại ít tham gia vào hoạt động phi nông nghiệp. Đặc biệt có một số hộ làm
thuê nông nghiệp thì thu nhập từ nông nghiệp thấp, thời gian nông nhàn lớn nhưng họ
không tham gia hoạt động phi nông nghiệp với lý do là không có việc để làm. Ngoài
ra, thu nhập ngoài lao động cũng chưa thể hiện được tác động của nó.
Nhóm nhân tố thuộc về cộng đồng: từ thể hiện thời gian nông nhàn quá lớn của
lao động nông thôn vùng này cho thấy khả năng tạo việc làm phi nông nghiệp của
vùng còn quá kém. Bằng chứng là số tổ hợp sản xuất có thu hút lao động của vùng có
qui mô nhỏ và quá ít. Điều này dẫn đến kết quả là thông tin về việc làm tại địa
phương cũng ít. Riêng đường giao thông cũng khá thuận lợi cho thông thương hàng
hóa và đi lại của lao động trong vùng.
Nhìn chung, do phát triển kinh tế của vùng còn chậm nên khả năng tạo việc
làm của vùng còn kém dẫn đến một số các nhân tố của cộng đồng và của gia đình
chưa thể phát huy tác động. Nhưng những nhân tố thuộc về đặc điểm cá nhân của lao
động đã thể hiện rõ nét tác động của từng nhân tố riêng biệt.
56
CHƯƠNG 3
KIỂM ĐỊNH CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC
LÀM PHI NÔNG NGHIỆP.
Chương 3 phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến việc làm phi nông nghiệp của
người lao động qua mô hình kinh tế lượng gồm các phần: (1) xây dựng mô hình kinh
tế lượng về các nhân tố tác động đến việc làm phi nông nghiệp của người lao động.
(2) ước lượng mô hình và phân tích kết quả đạt được của mô hình.
3.1. Mô hình kinh tế lượng xác định các nhân tố tác động đến việc làm phi nông
nghiệp.
3.1.1. Xây dựng mô hình.
Trong khung lý thuyết đã phân tích, mô hình liên kết hai khu vực cho thấy có
sự dịch chuyển qua lại giữa hai khu vực nông nghiệp và phi nông nghiệp. Một số
nhân tố có tác dụng thúc đẩy hay cản trở lao động chuyển dịch từ khu vực nông
nghiệp sang khu vực phi nông nghiệp, mô hình kinh tế hộ được sử dụng để phân tích
về các nhân tố tác động đến quyết định tham gia vào hoạt động phi nông nghiệp của
hộ gia đình. Trong mô hình kinh tế hộ, phương trình (1.28) thể hiện sự tham gia của
hộ nông nghiệp vào các hoạt động phi nông nghiệp :
i*(Hn,,Zn,Hf, Zh,T,V) ≡ wn(Hn, Zn)-w0(Zf,Hf,p,Zh,T,V)
Giá trị của i* không quan sát được trực tiếp, nhưng có thể nhận biết được nó, i*
có thể là dương hoặc không dương phụ thuộc vào hoạt động nông nghiệp và phi nông
nghiệp, đặc tính của hộ, cá nhân người lao động và của cộng đồng nơi người lao động
sinh sống.
i* = i* ( Hn, Zn, Hf, Zh, T, V, P) (3.1)
Phương trình 3.1 có thể được thể hiện dưới dạng tuyến tính rút gọn như sau:
i* = Xβ + ε (3.2)
57
Trong đó i* là biến phụ thuộc có giá trị 0 (không tham gia hoạt động phi nông
nghiệp) và 1 (có tham gia hoạt động phi nông nghiệp), X là biến giải thích, β là vectơ
tham số và ε là sai số.
Mô hình hồi qui Probit được xây dựng để ước lượng phương trình trên. Probit
là một hàm phi tuyến cho phép xác định mức độ tác động của các yếu tố Xi tới xác
suất xuất hiện của hiện tượng i khi X đã xảy ra. Trong mô hình tham gia hoạt động
phi nông nghiệp, hàm probit bao gồm vế trái là biến phụ thuộc có giá trị 0 nếu lao
động không tham gia hoạt động phi nông nghiệp và bằng 1 nếu lao động có tham gia.
P(i*=1 ⎢Xs) = f (đặc điểm bản thân người lao động, đặc điểm hộ gia đình, đặc điểm
cộng đồng)
P = β0 + β1TUOI + β2GIAODUC + β3HOCNGHE + β4GIOITINH + β5GIADINH +
β6TLLAMVIEC + β7THUNHAPNN + β8THUNHAPK + β9NONGNHAN +
β10GIAO THONG + β11TTVIECLAM + β12TOHOPSX (3.3)
Trong mô hình tuyến tính trên P là biến phụ thuộc, nhận giá trị là 1 nếu người
lao động tham gia hoạt động phi nông nghiệp, nhận giá trị là 0 nếu người lao động
không tham gia hoạt động phi nông nghiệp. Vế phải của mô hình bao gồm 3 nhóm
biến khác nhau:
(1) Nhóm đặc điểm bản thân người lao động bao gồm các biến : tuổi, giáo dục,
học nghề, giới tính.
• TUOI là tuổi người lao động tính theo năm, được xác định từ 15-60. Biến
TUOI được mong đợi là có tác động thúc đẩy tham gia hoạt động phi nông
nghiệp khi người lao động là trẻ còn ở mức tuổi ngoài 40 thì có thể động
lực tham gia hoạt động phi nông nghiệp của người lao động sẽ giảm đi. Do
đó, TUOI có thể có tác động “đẩy” hoặc “ kéo” .
• GIAODUC là biến giáo dục được tính bằng tổng số năm đi học của người
lao động kể cả những năm học ở bậc trung cấp, cao đẳng, đại học, thạc sĩ.
GIAODUC được mong đợi là góp phần thúc đẩy sự tham gia của người lao
58
động vào hoạt động phi nông nghiệp. Số năm đi học càng cao thì khả năng
tham gia hoạt động phi nông nghiệp càng lớn. Bên cạnh giáo dục của bản
thân lao động thì giáo dục của chủ hộ cũng rất quan trọng đối với việc định
hướng nghề nghiệp và trình độ của lao động trong gia đình, nhưng khi xem
xét đến chất lượng của lao động nghiên cứu tạm thời bỏ qua quan hệ này.
• HOCNGHE là biến học nghề, nó được đưa vào mô hình nhằm xác định
xem những lớp dạy nghề ngắn hạn từ 01 tháng đến 06 tháng có tác động
như thế nào đến sự tham gia hoạt động phi nông nghiệp, tạo việc làm. Nếu
lao động có tham gia học nghề là 1, nếu không có tham gia học nghề là 0.
• GIOITINH là biến giới tính được đưa vào mô hình để xem có sự khác biệt
về giới trong cơ hội lao động phi nông nghiệp không. Biến sẽ nhận giá trị 1
nếu lao động là nam, nhận giá trị 0 nếu lao động là nữ.
(2) Nhóm biến đặc điểm hộ gia đình bao gồm các biến số về thành viên của hộ gia
đình, tỷ lệ làm việc, thu nhập từ nông nghiệp, thu nhập khác và thời gian nông
nhàn của hộ gia đình. Nhân tố về qui mô đất sản xuất không được đưa vào mô
hình định lượng vì nhân tố này cùng với nhân tố thu nhập từ nông nghiệp có
quan hệ chặt chẽ với nhau, hiển nhiên đất sản xuất nhiều thì thu nhập từ nông
nghiệp sẽ nhiều do đó chọn biến thu nhập từ nông nghiệp đại diện.
• THANHVIEN là số người trong gia đình và TLLAMVIEC là số người có
tham gia lao động và có thu nhập. Hai biến này được đưa vào mô hình để
xác định qui mô gia đình có ảnh hưởng như thế nào đến việc tham gia hoạt
động phi nông nghiệp của người lao động. Nếu qui mô hộ gia đình lớn thì
sự chuyên môn hóa của từng lao động sẽ cao hơn và sẽ có lao động muốn
tham gia hoạt động phi nông nghiệp. Tương tự, nếu tỷ lệ ăn theo trong gia
đình cao thì sức ép về thu nhập và chi tiêu sẽ khiến lao động trong gia đình
muốn tham gia thêm vào hoạt động phi nông nghiệp. Hai biến này đều
được mong đợi có tác động dương.
59
• THUNHAPKHAC là thu nhập từ các khoản tiền gửi tiết kiệm, tiền được
biếu tặng hay cho thuê tài sản, đất đai. Biến này được mong đợi là có tác
động âm đến việc tham gia hoạt động phi nông nghiệp của lao động, vì
khoản thu nhập này cao sẽ làm giảm sức ép về chi tiêu trong gia đình.
• THUNHAPNN là thu nhập nông nghiệp của hộ, thu nhập này có hai ý
nghĩa: (1) nó có thể là lực cản người lao động chuyển sang phi nông
nghiệp, nghĩa là thu nhập càng cao thì người lao động ít chuyển sang phi
nông nghiệp hơn; (2) nó có thể là lực đẩy người lao động chuyển sang phi
nông nghiệp, thu nhập nông nghiệp cao hơn sẽ tạo điều kiện để đầu tư cho
hoạt động phi nông nghiệp. THUNHAPNN được tính là thu nhập bình quân
từ hoạt động nông nghiệp của hộ / người trong hộ.
• NONGNHAN là biến thể hiện thời gian dư thừa của hộ gia đình bình
quân/người. Biến này được tính bằng tổng thời gian sẵn có trừ đi thời gian
nghĩ ngơi (bình quân 10 giờ/người/ngày) và thời gian làm việc nhà (bình
quân 3 giờ/người/ngày) trừ đi thời gian lao động nông nghiệp và phi nông
nghiệp. Thực tế, việc tính toán biến này có thể không chính xác do số liệu
không đầy đủ và độ chính xác khi hỏi các hộ gia đình, tuy vậy biến này
được sử dụng như một lượng gần đúng xác định thời gian nông nhàn. Giả
thiết cần kiểm định là thời gian nông nhàn càng cao thì việc mong muốn
tham gia hoạt động phi nông nghiệp càng lớn.
(3) Nhóm biến về cộng đồng: bao gồm các biến tổ hợp sản xuất, giao thông, thông
tin việc làm.
• TOHOPSX là số tổ hợp sản xuất hoặc nhà máy trong bán kính 10 Km thu
hút lao động ở xã. Kỳ vọng là số nhà máy hay tổ hợp sản xuất càng nhiều
thì số lao động tham gia hoạt động phi nông nghiệp càng lớn.
• GIAOTHONG nếu xã có đường giao thông lớn, có tuyến xe khách hoặc xe
buýt chạy qua thì nhận giá trị là 1, nếu không có thì nhận giá trị là 0. Giao
60
thông thuận tiện cho việc đi lại tạo điều kiện tốt cho lao động tham gia các
hoạt động phi nông nghiệp ở các nơi khác ngoài xã đang sinh sống.
• TTVIECLAM nếu lao động biết nơi giới thiệu việc làm ở xã hay có nguồn
thông tin về việc làm phi nông nghiệp từ người thân, bà con hàng xóm hay
bất cứ nguồn thông tin nào khác về việc làm phi nông nghiệp để chọn lựa
thì nhận giá trị 1, nếu lao động không có cơ hội hoặc không biết nguồn
thông tin về việc làm phi nông nghiệp thì nhận giá trị 0. Biến này thể hiện
thông tin trên thị trường lao động nông thôn, nếu thông tin đầy đủ thì chúng
ta có thể mong đợi xác suất tham gia hoạt động phi nông nghiệp càng lớn.
Bảng 3.1. Các biến số sử dụng trong mô hình.
TÊN BIẾN Ý NGHĨA/ CÁCH TÍNH
DẤU
(mong
đợi)
GIOITINH Giới tính của lao động, nam =1, nữ = 0 ?
TUOI Tuổi của lao động +/-
GIAODUC Số năm học +
HOCNGHE Lao động có học nghề = 1, không có tham gia =0 +
GIADINH Số người trong hộ gia đình +
TLLAMVIEC Số người làm việc / số người trong hộ gia đình +
THUNHAPNN Thu nhập bình quân/người từ hoạt động nông nghiệp
(1000 đ)
+/-
THUNHAPK Thu nhập từ hoạt động phi sản xuất +/-
NONGNHAN Thời gian nhàn rỗi của lao động (bình quân/ người) +/-
GIAOTHONG Xã có đường giao thông có tuyến xe buýt hay xe khách đi
qua không, có =1, không =0 +
TOHOPSX Số tổ hợp sản xuất có thu hút lao động của xã trong bán
kính 10 km. +
TTVIECLAM Nguồn thông tin việc làm của lao động, có = 1, không có
= 0
+
61
Trong các biến được xác định trên đây có những biến được kỳ vọng có thể tác
động bằng những chương trình, chính sách nhằm thúc đẩy sự tham gia họat động phi
nông nghiệp cho người lao động như: GIAODUC, HOCNGHE, GIAOTHONG,
TOHOPSX, TTVIECLAM.
3.1.2 Số liệu dùng trong phân tích mô hình.
Số liệu sử dụng phân tích mô hình được tác giả tự thu thập thông qua bảng câu
hỏi (xem phụ lục 4) vào ngày 10/03/07 và ngày 15/03/07 tại hai xã Tân Công Sính và
xã Phú hiệp huyện Tam Nông. Cỡ mẫu điều tra 83 mẫu, trong đó có 04 mẫu bị hỏng:
1 mẫu hỏng là ở xã Tân Công Sính và 03 mẫu hỏng là ở xã Phú Hiệp. Cỡ mẫu cuối
cùng sử dụng cho phân tích mô hình là 79 mẫu.
3.2. Kết quả của mô hình và ý nghĩa phân tích.
Kết quả của mô hình được phân tích theo từng biến và nhóm biến. Như đã
phân tích trong phần xây dựng mô hình có ba nhóm biến giải thích cho sự tham gia
của người lao động vào hoạt động phi nông nghiệp: (1) nhóm biến về đặc điểm cá
nhân của người lao động; (2) nhóm biến về đặc điểm gia đình của người lao động
đang sống; (3) nhóm biến về cộng đồng nơi mà gia đình đó đang sống.
Mô hình được xây dựng gồm 12 biến như trong phương trình (3.3), sau khi
kiểm định đa cộng tuyến bằng ma trận tương quan nhận thấy biến GIAOTHONG và
biến TOHOPSX có hệ số tương quan khá cao r = 0,973649 vì vậy biến giao thông
được loại khỏi mô hình ước lượng. Mô hình được ước lượng hai lần, ước lượng lần
đầu kết quả cho thấy có 3 biến số không có ý nghĩa thống kê đó là biến
TLLAMVIEC, biến THUNHAPK và biến TOHOPSX (xem kết quả ước lượng ở phụ
lục 3 trang 71), mô hình được ước lượng lại lần hai sau khi bỏ đi các biến không có ý
nghĩa thống kê. Mô hình ước lượng cuối cùng với 8 biến có hệ số Pseudo R2 =
McFadden R2 = 0,596645, điều này cho thấy mô hình có mức độ phù hợp ở mức chấp
nhận được. Mức độ giải thích của các biến khá tốt, mặc dù với hệ số McFadden R2
62
như trên thể hiện còn có những biến giải thích khác tác động đến sự tham gia việc làm
phi nông nghiệp mà mô hình chưa đề cập đến.
Theo đánh giá ban đầu về kết quả mô hình thì cả ba nhóm biến số trên đều có
tác động đến quyết định tham gia hoạt động phi nông nghiệp của lao động nông thôn,
tuy nhiên mỗi nhóm biến có hình thức, qui mô tác động và vai trò của các nhóm biến
số có sự khác nhau nhất định. Dưới đây sẽ phân tích từng nhóm nhân tố riêng biệt.
3.2.1. Nhóm nhân tố về đặc điểm cá nhân người lao động.
Đánh giá chung trong số bốn nhân tố thể hiện đặc điểm cá nhân người lao động
bao gồm: giới tính, tuổi, giáo dục và học nghề thì biến giới tính và học nghề có đóng
góp nhiều hơn so với hai nhân tố còn lại. Đóng góp này được thể hiện qua hệ số của
các biến giới tính và học nghề có giá trị tuyệt đối cao và mức ý nghĩa thống kê cao
dưới 2,5%.
Bảng 3.2. Kết quả ước lượng với các biến đặc điểm của người lao động.
Tên biến Hệ số Sai số chuẩn Thống kê Z
Mức ý nghĩa
thống kê p.
GIOITINH -1.748370 0.572556 -3.053624 0.0023
TUOI 0.039089 0.024067 1.624164 0.1043
GIAODUC 0.289135 0.071244 4.058373 0.0000
HOCNGHE 1.275985 0.559340 2.281232 0.0225
(Nguồn: phân tích định lượng của tác giả)
Biến giới tính của người lao động (GIOITINH) được đưa vào mô hình với mục
đích xem xét có sự phân biệt về giới nào không khi lao động tham gia hoạt động phi
nông nghiệp ở vùng nông thôn này. Kết quả cho thấy có sự khác biệt về khả năng
tham gia hoạt động phi nông nghiệp của lao động theo giới do biến GIOITINH có ý
nghĩa thống kê cao và đóng góp khá nhiều so với các biến khác trong nhóm. Hệ số hồi
qui của biến GIOITINH mang dấu âm có nghĩa là nam giới có khả năng tham gia hoạt
63
động phi nông nghiệp thấp hơn so với nữ giới. Sự phân biệt về giới càng rõ hơn khi
lần lượt xét các tác động của những biến tuổi, giáo dục và học nghề. Cho dù tác động
của biến nào đi nữa thì lao động nữ cũng đều có khả năng tham gia hoạt động phi
nông nghiệp nhiều hơn lao động nam. Điều này phản ánh đúng thực tế về cơ cấu việc
làm phi nông nghiệp ở vùng này, ngoại trừ một số hộ buôn bán ở chợ trung tâm của
xã và vài nhà máy xây sát nhỏ còn lại chủ yếu là những nghề buôn bán nhỏ, lẽ hay
may, thêu và làm gia công các sản phẩm thủ công mỹ nghệ. Những công việc này phù
hợp với lao động nữ hơn lao động nam. Kết quả này cũng phản ánh truyền thống gắn
bó với đồng ruộng của lao động nam trong vùng, có rất ít lao động nam tham gia vào
những hoạt động phi nông nghiệp hoặc không có việc làm phi nông nghiệp đáp ứng
nhu cầu việc làm cho lao động nam.
Xét về tuổi của lao động, biến TUOI có giá trị dương cho thấy tuổi của người
lao động có quan hệ thuận với khả năng tham gia hoạt động phi nông nghiệp. Nghĩa là
tuổi càng cao càng có khả năng tham gia hoạt động phi nông nghiệp hơn. Nhưng biến
TUOI có tác động không lớn, thể hiện ở hệ số hồi qui không cao so với các hệ số của
những biến còn lại và mức ý nghĩa thống kê không cao ở mức 10 %. Điều này có thể
do lao động trẻ không tìm được việc làm phi nông nghiệp tại địa phương nên đi các
vùng khác làm việc sau khi học nghề, cùng với đặc thù về việc làm và sự tham gia lao
động phi nông nghiệp nhiều hơn của giới nữ.
Biến GIAODUC là biến có ý nghĩa thống kê rất cao và có ý nghĩa nhất trong
các biến thuộc nhóm nhân tố về bản thân lao động. Trình độ học vấn có ảnh hưởng
tích cực đến khả năng tham gia hoạt động phi nông nghiệp của lao động do hệ số của
biến GIAODUC có giá trị dương và ý nghĩa thống kê cao. Mặc dù vậy tác động tích
cực này không lớn do hệ số hồi qui thấp so với hai biến GIOITINH và biến
HOCNGHE trong cùng nhóm.
HOCNGHE là một biến giả thể hiện người lao động đã từng tham gia lớp học
nghề kể cả ngắn hạn (1-3 tuần) và dài hạn (1-6 tháng). Tác động của biến này cũng
tương tự như biến giáo dục, hệ số hồi qui mang dấu dương và rất lớn trong mô hình
64
thể hiện nó sẽ có tác động lớn đến quyết định tham gia hoạt động phi nông nghiệp của
lao động nhất là lao động có học nghề. Điều này phản ánh thực trạng dạy nghề ở vùng
nông thôn này còn yếu kém cả về chất lượng lẫn số lượng. Lao động được đào tạo
một cách qua loa, tay nghề không vững, nghề được đào tạo chưa nhiều.
3.3.2. Nhóm nhân tố về đặc điểm gia đình.
Trong mô hình các nhân tố về đặc điểm gia đình có khả năng ảnh hưởng đến
quyết định tham gia hoạt động phi nông nghiệp nông thôn bao gồm: (1) qui mô gia
đình (GIADINH); (2) số người trong độ tuổi lao động áo việc làm trong gia đình
(TLLAMVIEC); (3) thu nhập từ hoạt động nông nghiệp bình quân đầu người trong
gia đình (THUNHAPNN);(4) thu nhập ngoài lao động của gia đình (THUNHAPK);
(5) thời gian nông nhàn (NONGNHAN) của những người trong độ tuổi lao động
trong gia đình.
Kết quả ước lượng mô hình lần 1 cho thấy biến TLLAMVIEC hoàn toàn
không có ý nghĩa thống kê, biến THUNHAPK có ý nghĩa thống kê rất thấp gần 14%.
Do đó, hai biến này không có tác động đến quyết định tham gia việc làm phi nông
nghiệp của lao động nông thôn nơi đây. Vì vậy hai biến này được loại khỏi mô hình.
Kết quả ước lượng lần 2 đối với nhóm nhân tố thuộc về đặc điểm gia đình của lao
động được thể hiện như sau:
Bảng 3.3. Kết quả ước lượng mô hình với các biến đặc điểm gia đình
Tên biến Hệ số Sai số chuẩn Thống kê Z Mức ý nghĩa
thống kê p
GIADINH -0.634848 0.233519 -2.718614 0.0066
THUNHAPNN -0.005399 0.001378 -3.917176 0.0001
NONGNHAN -0.450799 0.147376 -3.058831 0.0022
(Nguồn: phân tích định lượng của tác giả)
65
Biến GIADINH thể hiện số thành viên trong gia đình, theo mô hình lý thuyết
thì qui mô gia đình lớn sẽ là lực đẩy đối với lao động nông thôn tham gia hoạt động
phi nông nghiệp. Nhưng trong phần phân tích định tính ở mục 2.4.2 của chương 2 đã
cho chúng ta thấy ở vùng nông thôn này qui mô gia đình lớn thường là những gia đình
không có tham gia hoạt động phi nông nghiệp. Phân tích định lượng đã khẳng định
hơn nữa kết luận về tác động của qui mô gia đình trong mục 2.4.2 ở chương 2, Hệ số
hồi qui của biến GIADINH mang dấu âm và có ý nghĩa thống kê cao cho thấy qui mô
gia đình càng lớn thì khả năng tham gia hoạt động phi nông nghiệp của lao động trong
gia đình càng thấp. Biến GIADINH có tác động mạnh nhất trong các biến thuộc nhóm
đặc điểm gia đình của lao động.
Thu nhập trong nông nghiệp của gia đình người lao động thể hiện bằng biến
THUNHAPNN. Kết quả ước lượng cho thấy biến THUNNHAPNN có giá trị âm và
có ý nghĩa thống kê cao ở mức 1%, điều này có nghĩa là thu nhập nông nghiệp bình
quân đầu người của gia đình càng cao thì càng làm giảm khả năng tham gia sản xuất
phi nông nghiệp. Xét về mức độ tác động thì biến THUNHAPNN không có tác động
lớn bằng chứng là giá trị tuyệt đối hệ số hồi qui của biến này là rất nhỏ và là hệ số
thấp nhất trong các biến cùng nhóm. Nhìn chung, tác động âm và có ý nghĩa thống kê
cao của biến THUNHAPNN cho thấy một thực tế là ngoài yếu tố tâm lý “an toàn” và
tập tục truyền thống “cha truyền con nối” của nông dân còn có tính ổn định cũng như
lợi ích của hoạt động phi nông nghiệp vẫn chưa đủ ở mức vượt trội so với nông
nghiệp khiến người lao động bỏ sản xuất nông nghiệp tham gia vào sản xuất phi nông
nghiệp.
Thời gian nông nhàn của lao động trong gia đình được đưa vào mô hình qua
biến NONGNHAN. Kết quả cho thấy biến nông nhàn có giá trị âm và có ý nghĩa
thống kê rất cao ở mức 1%, có nghĩa là thời gian nông nhàn càng cao thì người lao
động càng ít tham gia vào hoạt động phi nông nghiệp. Điều này lại một lần nữa khẳng
định có quá ít việc làm phi nông nghiệp để người lao động tham gia ở vùng nông thôn
này.
66
3.3.3. Nhóm nhân tố thuộc về cộng đồng.
Nhóm nhân tố thuộc về cộng đồng theo mô hình ban đầu xây dựng bao gồm ba
nhân tố: (1) giao thông; (2) thông tin việc làm; (3) số tổ hợp sản xuất. Do biến giao
thông và biến tổ hợp sản xuất có tương quan cao vì vậy biến giao thông đã được loại
khỏi mô hình ước lượng. Kết quả ước lượng lần 1 cho thấy biến TOHOPSX có ý
nghĩa thống kê không cao ở mức 20%, có nghĩa là đối với vùng nông thôn này số tổ
hợp sản xuất có thu hút lao động của vùng không có tác động đến lao động phi nông
nghiệp của người dân.
Nguồn thông tin về việc làm của lao động là một biến giả, nếu lao động có
được những nguồn cung cấp thông tin về việc làm thì nhận giá trị 1 nếu không nguồn
thông tin thì nhận giá trị 0. Nó được thể hiện qua biến TTVIECLAM, có kết quả
không như mong đợi. Kết quả ước lượng cho thấy biến TTVIECLAM có tác động âm
và có mức ý nghĩa thống kê cao ở mức 1%, vậy là lao động có nguồn thông tin về
việc làm thì khả năng tham gia hoạt động phi nông nghiệp lại giảm. Điều này phản
ánh thực tế có thể xảy ra là do: (1) chất lượng nguồn thông tin không tốt; (2) có thể là
thông tin việc làm phi nông nghiệp mà lao động nhận được đa số là không phù hợp
với nhu cầu về việc làm phi nông nghiệp mà lao động mong muốn, thực tế đã cho
thấy đa phần việc làm công ăn lương thuộc lĩnh vực phi nông nghiệp ở địa phương là
rất hiếm và hầu như không có. Do đó, các nguồn thông tin về việc làm có được phải ở
ngoài địa phương và lao động không muốn đi làm xa nên xảy ra hiện tượng tác động
âm của biến TTVIECLAM.
Kết luận
Trong chương này mô hình probit sử dụng để phân tích các nhân tố tác động
quyết định tham gia hoạt động phi nông nghiệp của lao động. Kết quả phân tích ước
lượng cho thấy có nhiều nhân tố khác nhau giải thích cho sự tham gia hoạt động phi
nông nghiệp của lao động nông thôn. Đóng góp của các nhân tố này cho khả năng
tham gia hoạt động phi nông nghiệp của lao động là khác nhau theo thời gian.Ở một
thời điểm và qui mô nhất định thì có thể nó là nhân tố đẩy song ở thời điểm và qui mô
67
khác nó trở thành nhân tố cản trở việc tham gia phi nông nghiệp của lao động. Vì vậy,
khó có một chính sách nào đó có tác động tới việc thúc đẩy lao động tham gia hoạt
động phi nông nghiệp trong cả một thời gian dài.
Đánh giá riêng cho từng nhóm nhân tố, kết quả phân tích cho thấy:
- Nhóm nhân tố về bản thân lao động: nhóm nhân tố này có tác động mạnh đến
quyết định tham gia hoạt động phi nông nghiệp của lao động. Kết quả gợi ý
rằng trong thời điểm hiện tại các chính sách tạo việc làm phi nông nghiệp cho
lao động vùng này tập trung vào giải quyết việc làm cho giới nữ. Trong khi
biến tuổi lại cho thấy rằng hiện tại lao động tham gia phi nông nghiệp càng
nhiều khi tuổi càng lớn, do những lao động trẻ tuổi không tìm được việc làm
phi nông nghiệp phù hợp ở địa phương. Ngoài ra, giáo dục và học nghề cũng
có ảnh hưởng tích cực đến quyết định tham gia hoạt động phi nông nghiệp của
lao động trong vùng.
- Nhóm nhân tố về gia đình người lao động: tại thời điểm nghiên cứu nhóm nhân
tố này đều có tác động âm đến quyết định tham gia hoạt động phi nông nghiệp.
Điều này thể hiện sự nghèo khó và thiếu việc làm trong vùng nông thôn này rất
trầm trọng. Thực tế này gợi ý cần có chính sách kết hợp về dân số và tạo thêm
việc làm phi nông nghiệp cho vùng, một cách cụ thể và nhanh chóng nhằm
giảm nghèo và tạo cơ hội tham gia hoạt động phi nông nghiệp cho lao động
nông thôn.
- Nhóm nhân tố về cộng đồng: ở thời điểm nghiên cứu nhân tố về tổ hợp sản
xuất hay số nhà máy sản xuất không có tác động đến khả năng tham gia hoạt
động phi nông nghiệp của lao động, bởi vì các tổ hợp sản xuất với qui mô nhỏ,
đơn đặc hang thực hiện qua nhiều trung gian làm giảm giá gia công sản phẩm.
Nếu khắc phục được vấn đề này thì có thể biến số tổ hợp sản xuất sẽ có đóng
góp nhiều cho khả năng tham gia hoạt động phi nông nghiệp của lao động
trong vùng. Biến thông tin việc làm có tác động âm đến quyết định của lao
động thể hiện nguồn thông tin chưa tốt hay việc làm không phù hợp.
68
KẾT LUẬN VÀ CÁC GỢI Ý CHÍNH SÁCH
Trên cơ sở toàn bộ vấn đề đã phân tích trong 2 chương trước sẽ rút ra những
khám phá của nghiên cứu và đề xuất chính sách tạo việc làm, thúc đẩy lao động nông
thôn trong vùng tham gia lao động phi nông nghiệp ngày càng nhiều.
1. Các kết luận rút ra từ nghiên cứu.
Bằng số liệu điều tra thực tế kết hợp phân tích thống kê mô tả và mô hình kinh
tế lượng nghiên cứu đã chỉ ra ba nhóm tác động chính đối với khả năng tham gia hoạt
động phi nông nghiệp của lao động nông thôn huyện Tam Nông tỉnh Đồng Tháp: (i)
nhóm các nhân tố liên quan đến bản thân lao động; (ii) nhóm các nhân tố liên quan
đến đặc điểm của gia đình người lao động; (iii) nhóm các nhân tố liên quan đến đặc
điểm địa phương của người lao động. Tác động của một số nhân tố chủ yếu trong các
nhóm nhân tố này thể hiện như sau:
- Giới tính của lao động có tác động nhiều đến khả năng tham gia hoạt động phi
nông nghiệp của lao động trong vùng. Tác động của yếu tố này thể hiện nữ giới
có khả năng tham gia hoạt động phi nông nghiệp tại địa phương cao hơn nam
giới, họ tham gia dưới các hình thức việc làm tự tạo như buôn bán, may, thuê
hay việc làm hàng gia công tại nhà.
- Trình độ giáo dục ảnh hưởng đến khả năng tham gia việc làm phi nông nghiệp,
xu hướng chung là trình độ giáo dục của lao động càng cao thì khả năng tham
hoạt động phi nông nghiệp càng lớn. Bên cạnh đó học nghề cũng có tác động
rất lớn thúc đẩy lao động tham gia hoạt động phi nông nghiệp và đặc biệt đối
với lao động nữ thì học nghề có tác động mạnh hơn lao động nam.
- Các biến thuộc nhóm nhân tố gia đình đều có tác động ngược chiều đối với khả
năng tham gia hoạt động phi nông nghiệp. Điều này do sự nghèo khó, thiếu
69
vốn, thiếu đất sản xuất và thậm chí là thiếu việc làm cho lao động trong vùng
dẫn đến thời gian nông nhàn khá lớn nhưng không làm việc gì thêm được.
- Thông tin việc làm có tác động khá lớn đến khả năng tham gia hoạt động phi
nông nghiệp của lao động, nhưng là tác động ngược chiều. Lao động có biết
nguồn cung cấp thông tin về việc làm phi nông nghiệp nhưng khả năng tham
gia rất ít do chất lượng nguồn thông tin kém và việc làm không phù hợp.
- Các nhà máy, tổ hợp sản xuất chưa thể hiện tác động rõ nét đối với vùng
nghiên cứu trong hiện tại nhưng sự xuất hiện và phát triển của chúng sẽ có tác
động tích cực đến khả năng tham gia hoạt động phi nông nghiệp của người lao
động.
2. Các đề xuất chính sách.
Kết quả nghiên cứu về các nhân tố tác động đến khả năng tham gia hoạt phi
nông nghiệp của lao động nông thôn huyện Tam Nông có ý nghĩa to lớn trong đề nghị
chính sách tạo việc làm cho lao động trong vùng. Trên cơ sở này, các chính sách được
tác giả đề xuất dưới đây theo hướng tạo cơ hội và nâng cao khả năng cho lao động
tham gia việc làm phi nông nghiệp:
(1). Xuất phát từ tác động của nhân tố trình độ giáo dục và học nghề trong quá
trình tham gia hoạt động phi nông nghiệp của lao động trong vùng nghiên
cứu, chất lượng của lực lượng lao động nông thôn vùng này cần được nâng
cao hơn nữa để lao động có thể tự nắm bắt cơ hội tham gia làm việc phi nông
nghiệp:
- Tăng đầu tư để cũng cố hệ thống trường lớp và giáo viên. Các phòng
học phải được xây dựng kiên cố để đảm bảo hoạt động giáo dục
trong mùa lũ. Có chính sách ưu đãi giáo viên về các xã để giải tỏa
tình trạng thiếu giáo viên ở những vùng nông thôn này.
- Mở các lớp bổ túc văn hóa về tận các xã tạo điều kiện thuận tiện cho
lao động nâng cao trình độ.
70
- Mở các khóa tập huấn ngắn hạn nâng cao năng lực kinh doanh và
tiếp cận thị trường cho các chủ cơ sở kinh doanh và những người có
ý muốn kinh doanh sau này tại địa phương.
- Xây dựng chiến lược và kế hoạch cụ thể về đào tạo nghề cho lao
động, đặc biệt chú trọng những nghề có ý nghĩa thiết thực với phát
triển kinh tế của huyện. Riêng đào tạo nghề để tham gia khu vực
công nghiệp (làm việc ở huyện hay đi làm ở nơi khác) thì không
những chú ý đến nội dung và kỹ năng mà còn phải chú trọng rèn
luyện tác phong công nghiệp và ý thức kỹ luật của lao động.
- Các lớp nghề tạo nguồn cung lao động cho các cơ sở sản xuất gia
công tại địa phương nên chú trọng đến nghề đào tạo cho lao động nữ
(2). Hoàn thiện và phát huy hơn nữa chính sách khuyến khích đầu tư, phát triển
các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các vùng trong huyện. Đặc biệt tạo điều kiện
thuận lợi để các khu công nghiệp, cụm công nghiệp và các chi nhánh của các
công ty có lợi thế về khai thác vùng nguyên liệu ở địa phương. Thực hiện hỗ
trợ kết nối thị trường cho những tổ hợp sản xuất nhằm giúp những tổ hợp sản
xuất thủ công tại địa phương phát triển bền vững
(3). Phát triển du lịch sinh thái ở vườn quốc gia Tràm Chim và khu du lịch hồ rừng
Phú Cường. Tăng cường quảng bá hình ảnh hai khu du lịch này cả trong
nước lẫn nước ngoài thông qua tờ rơi, mạng internet.
(4). Tại các xã có một tổ hay ít nhất là một cán bộ chuyên trách về tìm và cung cấp
thông tin việc làm phù hợp cho lao động. Hình thức này phát triển theo
hướng lâu dài sẽ trở thành trung tâm giới thiệu tìm việc làm cho lao động ở
xã.
(5). Chính sách kế hoạch hóa gia đình cũng góp phần làm hạn chế lực cản của qui
mô gia đình tạo điều kiện lao động tiếp cận nhiều hơn với giáo dục và khả
năng tham gia làm việc phi nông nghiệp theo đó tăng lên.
71
(6). Sự quan tâm và hỗ trợ lao động tìm việc làm của các cấp chính quyền thông
qua các chính sách về xuất khẩu lao động, thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa,
phát triển kinh tế địa phương góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho lao động
tham gia vào khu vực phi nông nghiệp.
3. Hạn chế của nghiên cứu.
Mặc dù đã cố gắng rất nhiều nhưng nghiên cứu không tránh khỏi những hạn
chế:
- Số mẫu điều tra chưa rãi đều ở các xã vùng nông thôn mà chỉ tập trung ở hai xã
Phú Hiệp và Tân Công Sính. Nếu số mẫu lấy được ở 3 đến 5 xã thì tính đại
diện của số liệu sẽ thuyết phục hơn. Thêm vào đó số lượng mẫu là 79 mẫu, cả
hai điều này có thể là nguyên nhân chính dẫn đến mô hình ước lượng phải loại
bỏ một số biến giải thích do không có ý nghĩa thống kê hay có tương quan cao.
- Không thu thập được số liệu về các lao động trẻ có học nghề và đi làm ở nơi
khác để chứng minh thuyết phục hơn rằng việc làm phi nông nghiệp ở vùng
nông thôn này không đáp ứng được nhu cầu việc làm cho giới trẻ và thiếu trầm
trọng.
- Nghiên cứu chưa tìm hiểu hết được những tổ hợp sản xuất hay nhà máy có thu
hút lao động ở vùng nghiên cứu điều này dẫn đến không có ý nghĩa trong tác
động của biến này đến khả năng tham gia việc làm phi nông nghiệp của lao
động.
72
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TIẾNG VIỆT
1. Lê Xuân Bá, Nguyễn Mạnh Hải, Trần Toàn Thắng, Vũ xuân Nguyệt Hồng,
Lưu Đức Khải (2006), “Các yếu tố tác động đến quá trình chuyển dịch cơ cấu
lao động nông thôn Việt Nam”, Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương,
Hà Nội.
2. Trần Thanh Bình (2002), “Sự cần thiết về nâng cao chất lượng lao động nông
thôn trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Tạp chí nông nghiệp và
phát triển nông thôn, 06/2006, (06), trang 467- 469.
3. Trần Văn Chánh (1996), “Từ điển kinh tế thương mại Anh – Việt giản yếu”,
Nxb trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
4. Ngô Thế Chi, Nguyễn Văn Dần (2003), “Phân tích giải pháp tài chính giải
quyết việc làm trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”, Nxb Thống kê, Hà
Nội.
5. Phạm Đức Chính (2005), “Thị trường lao động cơ sở lý luận và thực tiễn ở
Việt Nam”, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Cục thống kê Đồng Tháp (2006), “Niên giám thống kê năm 2005”.
7. Cục thống kê Đồng Tháp, phòng thống kê huyện Tam Nông (2006), “Niên
giám thống kê năm 2005 huyện Tam Nông”.
8. Cục thống kê Đồng Tháp, phòng thống kê huyện Tam Nông (2005), “Niên
giám thống kê năm 2004 huyện Tam Nông”.
9. GTZ (2003), “Phát triển kinh tế địa phương”, hội thảo phát triển kinh tế khu
vực, Cần Thơ.
10. George J.Bortas (2000), “Kinh tế lao động”, Trường đại học kinh tế Tp. HCM,
Tp. HCM.
73
11. Đỗ Thiên Kính (1999), “Tác động của chuyển đổi cơ cấu lao động nghề
nghiệp xã hội đến phân tầng mức sống”, Nxb nông nghiệp, Hà Nội.
12. Ngân hàng phát triển châu Á- đại diện thường trú tại Việt Nam (2006), “Thị
trường lao động nông thôn và vấn đề di cư”, báo cáo nghiên cứu, Hà Nội.
13. Chu Tiến Quang (2001), “Việc làm ở nông thôn thực trạng và giải pháp”, Nxb
nông nghiệp, Hà Nội.
14. Trần Võ Hùng Sơn, Nguyễn Tấn Khuyên, Trần Tiến Khai, Trương Quang
Hùng, Nguyễn Thanh Triều, Trần Nguyễn Minh Ái, Phạm Khánh Nam (2001),
“Cơ cấu kinh tế vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu long hiện trạng và định
hướng phát triển”, khoa Kinh tế Phát triển, Đại học kinh tế TP.HCM.
15. Đặng Kim Sơn, Hoàng Thu Hòa (2002), “Một số vấn đề về phát triển nông
nghiệp và nông thôn”, Nxb Hà Nội, Hà Nội.
16. Nguyễn Quốc Tế (2003), “Vấn đề phân bổ và sử dụng nguồn lao động theo
vùng và hướng giải quyết việc làm ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”, NXb
thống kê, Tp. Hồ Chí Minh.
17. Hà Thị Phương Tiến, Hà Quang Ngọc (2000), “Lao động nữ di cư tự do nông
thôn thành thị”, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Ủy ban nhân dân xã Tân Công Sính (2007), “Báo cáo thực hiện nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội – an ninh quốc phòng năm 2006”, huyện Tam Nông.
19. Ủy Ban nhân dân xã Phú Hiệp (2007), “Báo cáo thực hiện nhiệm vụ kinh tế -xã
hội – an ninh quốc phòng năm 2006”, huyện Tam Nông.
20. Ủy ban nhân dân huyện Tam Nông (2007), “Báo cáo thực hiện nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội – an ninh quốc phòng năm 2006”, huyện Tam Nông.
21. Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp, ban chỉ đạo điều tra thực trạng việc làm và
thất nghiệp (2006), “Việc làm và thất nghiệp tỉnh Đồng Tháp”, Đồng Tháp.
TIẾNG ANH
22. Pfluger,W (2000), “ The rural nonfarm sector, characteristics, importance,
policy”, World Bank Worshop on Nonfarm sector.
74
23. Reardon.T.,A.Gordon, P.Lanjouw and H.Sandee (2000), “The rural nonfarm
sector: further question for research”, World Bank Workshop on nonfarm
sector.
24. Reardon,T.,S.Haggblade and P.Hazell (2002), “Strategies for stimulating
poverty alleviating growth in the rural nonfarm economy in developing
countries”, EPTD discussion paper No92.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Kiểm định các nhân tố ảnh hướng đến việc làm phi nông nghiệp.pdf