TÓM TẮT ĐỀ TÀI
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Theo thông lệ quốc tế cũng như thực tiễn ở Việt Nam, mục tiêu của chính sách
tiền tệ là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát, ổn định tiền tệ và rộng
hơn là góp phần tạo công ăn việc làm, giải quyết một số vấn đề xã hội.
Từ năm 2003 đến năm 2006, lạm phát vẫn diễn ra tại Việt Nam nhưng theo nhận
định các chuyên gia thì đây chỉ là một thứ chất “bôi trơn” cho mục tiêu tăng
trưởng kinh tế. Đến năm 2007, lạm phát diễn ra nhanh chóng mà không dự báo
hay có thể kìm lại được. Nó trở thành một mối quan tâm mà bất kì ai cũng nhắc
đến khi gặp nhau. Nó tác động đến mọi mặt của đời sống mà hậu quả để lại quá to
lớn khó có thể bù đắp.
Năm 2008 diễn tiếp trong bối cảnh lạm phát đang dần trở nên cao trào. Vấn đề lạm
phát không còn là của riêng ai mà là của toàn xã hội, chung tay hợp sức, hợp tác
cùng Chính phủ và các cán bộ điều hành chính sách là một điều tất yếu để vượt
qua giai đoạn khó khăn này. Khắc phục, ngăn chặn lạm phát là điều cần làm ngay
bây giờ chứ không thể chần chừ được nữa.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU:
Đề tài “Kiểm soát lạm phát tại Việt Nam thông qua chính sách tiền tệ” với mục
đích hệ thống lại các đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam và thực trạng lạm phát tại
Việt Nam diễn ra trong thời gian qua nhằm trên cơ sở đó đưa ra các đề xuất, biện
pháp kiểm soát lạm phát để đáp ứng mục tiêu tăng trưởng kinh tế, phát triển đất
nước mà Quốc hội đã đề ra.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ NGUỒN TÀI LIỆU:
 Đề tài sử dụng các biện pháp nghiên cứu sau để thu thập tài liệu rồi
tổng hợp lại để đưa ra cách nhìn tổng quan nhất, hợp lý nhất trong khả năng người
viết:
 Phương pháp tổng hợp: Thu thập và sử dụng có hiệu quả các tài liệu
 Phương pháp phân tích: Được sử dụng để làm rõ, củng cố vững chắc
hơn các luận điểm cũng như để các luận điểm được trình bày một cách khoa học
 Phương pháp logic, so sánh: Giúp cho cấu trúc vấn đề đưa ra sẽ đi
theo một thứ tự hợp lý, thông qua đó sẽ làm sáng tỏ nội dung.
 Nguồn tài liệu chủ yếu của đề tài chính là các bài viết từ các báo
điện tử và các website của các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực kinh tế có liên
quan đến vấn đề mà đề tài đề cập.
4. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU:
Ngoài phần dẫn luận, kết luận, tài liệu tham khảo, mục lục theo quy định
của một đề tài nghiên cứu khoa học, kết cấu của đề tài bao gồm ba chương:
CHƯƠNG I: Tổng quan về chính sách tiền tệ và lạm phát trong nền kinh tế.
CHƯƠNG II: Tình hình lạm phát và thực thi chính sách tiền tệ tại Việt Nam
nhằm mục tiêu kiểm soát lạm phát trong thời gian qua.
CHƯƠNG III: Một số đề xuất cho chính sách tiền tệ có hiệu quả trong mục tiêu
kiềm chế lạm phát đối với nền kinh tế Việt Nam.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 74 trang
74 trang | 
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4289 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Kiểm soát lạm phát tại Việt Nam thông qua chính sách tiền tệ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mạnh việc thực hiện các chương trình mục 
tiêu quốc gia, các giải pháp hỗ trợ khác đối với các vùng khó khăn, vùng bị thiên tai. 
Điều quan trọng cần chú ý là phải xây dựng cơ chế và kiểm tra việc thực thi, bảo đảm 
nguồn hỗ trợ của nhà nước đến đúng đối tượng, không bị thất thoát, tham nhũng. 
Trang 51 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Sách, luận văn và báo tham khảo: 
1. Nguyễn Quốc Bảo, Kiểm soát lạm phát ở Việt Nam, Luận văn Thạc Sĩ, 
2004. 
2. Kinh tế 2006 – 2007 Việt Nam và Thế giới, Thời báo Kinh tế Việt Nam, 
2007 
3. Vụ trưởng Vụ chính sách tiền tệ Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Ngọc 
Bảo, Năm nhóm giải pháp chống lạm phát, báo Tuổi trẻ, số ra ngày 
21/2/2008 
4. Chống lạm phát phải như chữa cháy, báo Tuổi trẻ, số ra ngày 1/3/2008 
5. Cần rà soát các dự án lớn sử dụng vốn Nhà nước, báo Tuổi trẻ, số ra 
ngày 4/3/2008 
6. Tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, báo Tuổi trẻ, số ra 
ngày 16/3/2008 
7. TS. Lê Đăng Doanh, Để kiềm chế lạm phát nên cắt giảm 15-30% số 
công trình đầu tư, báo Tuổi trẻ, số ra ngày 20/3/2008 
8. Bảo đảm an sinh xã hội, đẩy mạnh xuất khẩu, báo Tuổi trẻ, số ra ngày 
9/4/2008 
9. Đề nghị hạ chỉ tiêu tăng trưởng xuống 7%, báo Tuổi trẻ, số ra ngày 
23/4/2008 
Website: 
www.vnn.vn (Báo điện tử VietNamNet) 
Trang 52 
1. Tín dụng “nóng”: Tăng trưởng đã vượt “chỉ giới đỏ” 
2. Tất cả các tổ chức tín dụng phải tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc: ngày 
28/6/2004 
3. Lạm phát tăng ảnh hưởng xấu đến người nghèo: ngày 17/9/2007 
4. Tín dụng vượt ngưỡng an toàn, ngày 9/11/2007 
5. Lạm phát tăng cao, lúng túng trước dòng vốn ngoại lớn: ngày 
26/12/2007 
6. Lý giải một nguyên nhân lạm phát 2007: ngày 28/12/2007 
7. Tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc tại các ngân hàng: ngày 17/1/2008 
8. Việt Nam đang nhập khẩu lạm phát: ngày 22/2/2008 
www.vneconomy.vn (Báo điện tử - Thời báo Kinh tế Việt Nam) 
1. Tăng trưởng của Việt Nam có thực sự nhanh và bền vững?: ngày 
31/1/2008 
2. VND “mạnh” lên trước USD: “Sốc” hay từ từ? 
3. Tăng dự trữ bắt buộc: các Ngân hàng nói gì? 
4. Tăng dự trữ bắt buộc, khởi đầu chính sách tiền tệ thắt chặt 
5. Thị trường bất động sản: Bong bóng bắt đầu xì hơi 
www.vnexpress.net (Tin nhanh Việt Nam) 
1. Lạm phát cao, xét lại nguyên nhân cung tiền 
2. Các giải pháp thắt chặt tiền tệ: “Sốc” quá liều? 
3. Ai đang gánh chi phí chống lạm phát? 
4. Nới biên độ tỷ giá ảnh hưởng thế nào đến lạm phát? 
www6.thanhnien.com.vn (Diễn đàn Hội liên hiệp Thanh niên Việt Nam) 
1. Lãi suất VND: Căng như dây đàn 
2. Lãi suất tăng cao và hàng loạt tác động không mong đợi 
3. USD biến động 
Trang 53 
PHỤ LỤC 
Chính Sách Tiền Tệ Việt Nam Đã Áp Dụng Trong Giai Đoạn 2003 – 2007: 
- Giai đoạn 2002 – 2003: 
Từ tháng 8/2003, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quyết định giảm đáng kể lãi suất tái 
cấp vốn từ 6.0%/năm, xuống 5.0%/năm; lãi suất tái chiết khấu từ 5.0%/năm xuống 
4.2%/năm; tỷ lệ dự trữ bắt buộc cả nội tệ, ngoại tệ có mức giảm 0.5% – 1.0% so với 
mức thực hiện trước đó. 
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã làm việc với bốn Ngân hàng Thương mại Nhà 
nước, chiếm 70% thị phần huy động vốn và cho vay, để bàn biện pháp giảm lãi suất 
trên thị trường. Qua cuộc họp với Ngân hàng Nhà nước, các Ngân hàng Thương mại 
này đã cắt giảm lãi suất huy động vốn kỳ hạn ngắn. riêng Ngân hàng Nông nghiệp và 
Phát triển Nông thôn Việt Nam chiếm tới 25 thị phần huy động vốn và cho vay trong 
toàn quốc còn quyết định giảm cả lãi suất điều hành vốn trong hệ thống của mình, 
đồng thời giảm mức lãi suất mà các chi nhánh đi vay các Ngân hàng Thương mại 
khác. 
Hiệp hội Ngân hàng cũng đã vào cuộc bằng việc tổ chức cuộc họp với bốn Ngân hàng 
Thương mại Nhà nước và Ngân hàng Nhà nước để bàn biện pháp hạ mặt bằng lãi suất 
trong nền kinh tế, thống nhất phương pháp hoạt động của các Ngân hàng nhằm đảm 
bảo lợi ích chung trong toàn hệ thống, đến hiệu quả của nền kinh tế và lợi ích của 
từng tổ chức tín dụng. Cuộc họp đã thống nhất các Ngân hàng Thương mại lấy mức 
lãi suất huy động vốn kỳ hạn 6 tháng làm lãi suất cơ bản giữa các Ngân hàng hội viên; 
đồng thời thường xuyên thông báo cho nhau việc thay đổi các mức lãi suất của mình 
thông qua Hiệp hội Ngân hàng. 
Các biện pháp kể trên đã thể hiện sự chủ động của Ngân hàng Nhà nước sử dụng đúng 
các công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ và tôn trọng tính quy luật về lãi suất, phản 
ánh cung cầu vốn trong nền kinh tế theo cơ chế thị trường, đồng thời thúc đẩy sự hợp 
tác giữa các thành viên của Hiệp hội Ngân hàng trong khi vẫn tôn trọng tính tự chủ 
trong hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng Thương mại. kết quả là lãi suất huy 
động vốn kỳ hạn ngắn đã giảm xuống. 
Đến cuối tháng 8 năm 2003 có một nghịch lý là trong khi lãi suất huy động vốn ngắn 
hạn giảm xuống, thì lãi suất huy động vốn và cho vay trung và dài hạn vẫn đứng ở 
mức cao, thậm chí ở một số Ngân hàng Thương mại còn có xu hướng tăng lên. Chẳng 
hạn tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn lãi suất trái phiếu kỳ hạn 5 
Trang 54 
năm vẫn duy trì ở mức 9.17%/năm cho năm đầu tiên, lãi suất huy động vốn kỳ hạn 24 
tháng của Ngân hàng Thương mại cổ phần Phương Nam, cho khoản tiền gửi từ 50 
triệu đồng trở lên tới 0.785%/tháng (tương đương 9.42%/năm)… Một thực tế đáng 
quan tâm nữa là lãi suất huy động vốn của Ngân hàng Thương mại này tương đương 
hoặc cao hơn lãi suất cho vay của Ngân hàng Thương mại khác. bởi vậy, nếu các 
Ngân hàng Thương mại cứ tăng lãi suất trung và dài hạn lên, thì vốn từ Ngân hàng có 
lãi suất thấp hơn sẽ chạy sang Ngân hàng có lãi suất cao hơn và nếu phát hành trái 
phiếu Chính phủ và trái phiếu đô thị với lãi suất cao, thì chủ yếu hút vốn từ các Ngân 
hàng Thương mại đầu tư vào đó, ảnh hưởng đến việc cho vay vốn trung và dài hạn 
của Ngân hàng cho khách hàng và các dự án. Thực trạng này cho thấy thị trường liên 
ngân hàng chưa phát triển, chưa có tác dụng điều hòa lãi suất trong nền kinh tế. từ đó 
đòi hỏi Ngân hàng Thương mại phải có các giải pháp để điều hành chính sách tiền tệ 
phù hợp. 
Công cụ nghiệp vụ thị trường mở: 
Ngày 12/7/2000, Ngân hàng Thương mại Việt Nam chính thức đưa công cụ nghiệp vụ 
thị trường mở vào hoạt động, đây là một sự chuyển biến quan trọng trong điều hành 
chính sách tiền tệ của Ngân hàng Thương mại, từ sử dụng công cụ trực tiếp sang sử 
dụng các công cụ gián tiếp theo tín hiệu của thị trường, phù hợp với thông lệ quốc tế. 
Qua hơn hai năm triển khai thực hiện, đến nay đã có 22 tổ chức tín dụng được cấp 
giấy chứng nhận là thành viên nghiệp vụ thị trường mở trong đó có 4 Ngân hàng 
Thương mại quốc doanh, 10 Ngân hàng Thương mại cổ phần, 1 Ngân hàng liên 
doanh, 5 chi nhánh Ngân hàng Nước ngoài, 1 công ty tài chính và quỹ tín dụng nhân 
dân Trung ương. 
Từ tháng 5 năm 2002 nghiệp vụ thị trường mở được đưa vào giao dịch hàng tuần, quy 
mô và doanh số ngày càng tăng, lãi suất ngày càng linh hoạt. trong các hình thức giao 
dịch của nghiệp vụ thị trường mở thì việc Ngân hàng Thương mại mua các giấy tờ có 
giá là chủ yếu (Ngân hàng Nhà nước bơm tiền ra); chiếm tỷ lệ khoảng từ 71% lên trên 
90%. Như vậy, đây chính là một “kênh” quan trọng của Ngân hàng Nhà nước nhằm 
thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ. 
Trong thực tế, với sự cố gắng của Ngân hàng Nhà nước mặc dù nghiệp vụ thị trường 
mở đã hoạt động ổn định, và Ngân hàng Nhà nước đã có những thành công bước đầu 
trong việc đưa công cụ mới vào điều hành chính sách tiền tệ, nhằm tác động tới vốn 
khả dụng của các tổ chức tín dụng, nhưng với thực trạng quy mô thị trường nhỏ, nhiều 
phiên giao dịch của thị trường không có thành viên nào đăng ký giao dịch, thị trường 
Trang 55 
mở hầu như chỉ là sân riêng của các Ngân hàng Thương mại quốc doanh lớn còn các 
Ngân hàng Thương mại cổ phần vốn ít, Ngân hàng liên doanh, chi nhánh Ngân hàng 
Nước ngoài ít vốn nội tệ hầu như đứng ngoài điều này cho thấy việc vận hành nghiệp 
vụ thị trường mở chưa thông suốt, lãi suất trên thị trường mở ít có tác động đến lãi 
suất trên thị trường. Do đó cần phải có giải pháp điều chỉnh hoạt động thị trường mở, 
phát triển thị trường này để trong thời gian tới nó sẽ thực sự trở thành công cụ điều 
hành chính sách tiền tệ. 
Các công cụ khác: 
- Lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu: Như đã biết trước đây là cửa sổ chiết 
khấu rất quan trọng để tăng hoặc giảm khả năng cho vay của các Ngân hàng Thương 
mại làm tăng hoặc giảm lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế. Trong thời gian vừa qua 
lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu đã được Ngân hàng Nhà nước áp dụng 
phù hợp với diễn biến trên thị trường tiền tệ quá nóng từ tháng 8 năm 2003, Ngân 
hàng máy móc đã quyết định giảm đáng kể lãi suất tái cấp vốn từ 6.0%/năm xuống 
5.0%/năm; lãi suất tái chiết khấu từ 5.0%/năm xuống 4.2%/năm (quyết định 
833/2003/QĐ-NHNN) đây là một quyết định kịp thời đã góp phần hạ nhiệt cơn sốt lãi 
suất trên thị trường trong mấy tháng gần đây. 
- Dự trữ bắt buộc: Ngân hàng Trung ương sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc để tác 
động đến lượng tiền cung ứng ra qua việc tác động đến cơ chế tạo tiền gửi của các 
Ngân hàng Thương mại và tác động đến lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng. 
Trong thời gian qua, tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi nội tệ vẫn được giữ nguyên 
ở mức thấp trong hơn 2 năm qua, 2% đối với Ngân hàng Nhà nước và Ngân hàng Phát 
triển Nông thôn Việt Nam, 3% đối với các tổ chức tín dụng đô thị khác. Tỷ lệ dự trữ 
bắt buộc đối với tiền gửi ngoại tệ cũng được điều chỉnh giảm từ 12% xuống còn 8%, 
thực hiện từ tháng 4 năm 2002 và giảm tiếp xuống 5% thực hiện từ tháng 12 năm 
2002. Tuy nhiên, động thái này đã ít ảnh hưởng đến lãi suất thị trường. 
- Công cụ tỷ giá: Ngân hàng Nhà nước đã linh hoạt trong sử dụng công cụ này. Từ 
1/7/2002 Ngân hàng Nhà nước quyết định nới lỏng biên độ quy định tỷ giá của các tổ 
chức tín dụng trong giao dịch mua bán ngoại tệ đối với khách hàng, quyết định này đã 
giảm dần những quy định mang tính chất hành chính can thiệp vào quyền tự chủ kinh 
doanh của các tổ chức tín dụng. Ngày 13/9/2003 Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã 
ra quyết định 958/2002/QĐ-NHNN về quản lý ngoại hối đối với việc mua bán chứng 
khoán cùa các tổ chức, cá nhân nước ngoài tại trung tâm giao dịch chứng khoán. Từ 
tháng 10 năm 2002 Ngân hàng Nhà nước đã có quy định mới về trạng thái ngoại tệ 
Trang 56 
đối với các Ngân hàng Thương mại… Cùng với việc ban hành các chính sách nói 
trên, Ngân hàng Nhà nước vẫn duy trì và vận hành có hiệu quả hoạt động của thị 
trường ngoại tệ, liên ngân hàng, thực hiện nghiệp vụ Swap trong giao dịch hoán đổi 
ngoại tệ lấy đồng Việt Nam giữa Ngân hàng Thương mại với Ngân hàng Nhà nước. 
Với các biện pháp trên, thị trường ngoại hối Việt Nam trong thời gian qua tương đối 
ổn định, tỷ giá biến động không nhiều góp phần ổn định tiền tệ, ổn định kinh tế. 
- Giai đoạn 2003 – 2004: 
Từ tình hình thực tiễn của năm 2003 và mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của năm 
2004 theo chỉ tiêu Quốc hội phê duyệt, ngay từ đầu năm Ngân hàng Nhà nước đã xác 
định mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ một cách kinh hoạt, thận trọng, nâng cao 
vai trò điều tiết và kiểm soát tiền tệ nhằm ổn định tiền tệ, góp phần ổn định kinh tế vĩ 
mô, góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế từ 7.5%-8.0% và lạm phát dưới 
5%. 
Năm 2004 có thể nói là năm có nhiều diễn biến ảnh hưởng đến điều hành chính sách 
tiền tệ, cụ thể là: 
- Giá dầu thô và một số mặt hàng nguyên liệu, lương thực trên thế giới tăng cao 
nhưng không ảnh hưởng nhiều đến tăng trưởng kinh tế thế giới (tốc độ tăng trưởng 
kinh tế cao hơn năm 2003). Tuy nhiên, sự gia tăng khó lường về giá cả các mặt hàng 
nêu trên có tác động đẩy mức giá trong nước tăng cao, ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt 
động sản xuất kinh doanh trong nước, qua đó đặt ra những khó khăn và thách thức đối 
với việc thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ. 
- Đồng đôla Mỹ mất giá so với một số ngoại tệ mạnh và các đồng tiền trong khu vực 
đã tạo thuận lợi nhất định cho việc thực hiện mục tiêu ổn định tỷ giá của Việt Nam. 
Tuy nhiên xu hướng tăng lãi suất của đồng đôla Mỹ trong 6 tháng cuối năm có những 
tác động đến việc thực hiện mục tiêu ổn định lãi suất của Việt Nam. 
- Sự tăng trưởng cao của kinh tế thế giới đặc biệt là của các nước đối tác thương mại 
chính của Việt Nam thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam và tăng nguồn vốn 
đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, qua đó góp phần cải thiện cán cân thanh 
toán. 
- Thiên tai, dịch cúm gia cầm trong nước, việc điều chỉnh tăng giá một số mặt hàng 
nguyên nhiên liệu đầu vào là những nhân tố chính đẩy chỉ số giá tiêu dùng tăng cao 
trong đó lương thực phẩm là nhóm hàng có quyền số lớn nhất 47.9%, có mức tăng cao 
nhất trong rổ hàng hóa tính chỉ số giá tiêu dùng. 
Trang 57 
- Sự trầm lắng của thị trường bất động sản so với các năm trước do tác động của Luật 
đất đai 2003 và giá bất động sản ở mức cao… góp phần tạo nhân tố ổn định cho thị 
trường tiền tệ. 
Trước diễn biến chỉ số giá tiêu dùng có xu hướng tăng mạnh trong những tháng đầu 
năm, Ngân hàng Nhà nước đã kịp thời phân tích tìm ra nguyên nhân tăng giá chủ yếu 
là do tác động từ bên cung. Trong khi đó mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2004 đặt 
ra ở mức cao 7.5%-8.0%, thị trường vốn chưa thực sự phát triển, tín dụng Ngân hàng 
vẫn đóng vai trò chủ yếu trong việc đáp ứng vốn cho tăng trưởng kinh tế. 
Vì vậy, từ tháng 3/2004 Ngân hàng Nhà nước đã kịp thời điều chỉnh mục tiêu điều 
hành chính sách tiền tệ theo hướng thận trọng hơn nhằm ổn định tiền tệ, ổn định lãi 
suất, ổn định tỷ giá góp phần kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Cụ thể là: 
giữ nguyên lãi suất cơ bản ở mức 7.5%/năm, lãi suất tái cấp vốn 5%/năm, lãi suất tái 
chiết khấu 3%/năm. các công cụ khác được điều tiết linh hoạt, cụ thể: 
- Về công cụ dự trữ bắt buộc: Trước bối cảnh chỉ số giá tiêu dùng những tháng đầu 
năm tăng cao, để thực hiện mục tiêu ổn định tiền tệ góp phần tăng trưởng kinh tế, từ 
tháng 7/2004, Ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với 
các loại tiền gửi dưới 24 tháng bằng VND và ngoại tệ (Quyết định số 796/QĐ-NHNN 
ngày 25/6/2004). cụ thể, đối với tiền gửi VND không kỳ hạn và có kỳ hạn đến dưới 
12 tháng tăng từ 2% lên 5%, riêng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn 
Việt Nam tăng từ 1.5% lên 4%, Ngân hàng Thương mại cổ phần Nông thôn và Quỹ 
tín dụng nhân dân Trung ương tăng từ 1% lên 2%. Đối với tiền gửi bằng VND kỳ hạn 
từ 12 tháng đến dưới 24 tháng tăng từ 1% lên 2%. Đối với tiền gửi ngoại tệ không kỳ 
hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng tăng từ 4% lên 8%, loại từ 12 tháng đến dưới 24 tháng 
tăng từ 1% lên 2%. 
Đồng thời, để khuyến khích các tổ chức tín dụng sử dụng vốn có hiệu quả, tránh tăng 
lãi suất dẫn đến dư thừa vốn VND, Ngân hàng Nhà nước đã thay đổi phương thức trả 
lãi đối với tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng VND (Quyết định số 923/QĐ-NHNN ngày 
20/7/2004). Theo đó, đối với dự trữ bắt buộc bằng VND, Ngân hàng Nhà nước chỉ trả 
lãi cho tiền gửi dự trữ bắt buộc (1.2%/năm) mà không trả lãi cho phần tiền gửi dự trữ 
bắt buộc vượt. 
- Về nghiệp vụ thị trường mở: Trong năm 2004 nghệip vụ thị trường mở đã được tăng 
cường sử dụng như một công cụ chủ yếu trong điều tiết tiền tệ theo mục tiêu chính 
sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước thông qua việc bơm/hút vốn khả dụng của tổ 
Trang 58 
chức tín dụng với thời hạn ngắn từ 7-60 ngày. Tổng doanh số giao dịch của năm 2004 
đạt 61.936 tỷ đồng, bằng khoảng 3 lần tổng doanh số giao dịch của năm 2003. 
Doanh số giao dịch bình quân một phiên năm 2004 khoảng 504 tỷ đồng, bằng 2.5 lần 
doanh số giao dịch bính quân một phiên năm 2003. Cá biệt có phiên khối lượng giao 
dịch trên 3.400 tỷ đồng, cao hơn nhiều so với khối lượng giao dịch tối đa 1.500 tỷ 
đồng của năm 2003. 
Về thành viên tham gia thị trường mở năm 2004, sự tham gia của các thành viên mới 
như Ngân hàng Thương mại cổ phần Kỹ thương, Ngân hàng Thương mại cổ phần Á 
châu, Ngân hàng Liên doanh VID-Public, chi nhánh Ngân hàng Nước ngoài Citibank 
đã chứng tỏ các tổ chức tín dụng có sự quan tâm hơn đối với nghiệp vụ thị trường mở. 
Để hỗ trợ kịp thời vốn khả dụng cho các tổ chức tín dụng và ổn định thị trường tiền tệ, 
từ 1/11/2004 Ngân hàng Nhà nước đã tăng định kỳ giao dịch các phiên nghiệp vụ thị 
trường mở lên 3 phiên/tuần và đặc biệt trong các dịp giáp Tết, các phiên giao dịch thị 
trường mở được tổ chức hàng ngày. 
Từ 15/12/2004, việc Ngân hàng Nhà nước áp dụng công nghệ trang web trong đặt 
thầu và đấu thầu đã tạo thuận lợi cho các thành viên tham gia thị trường (giảm chi phí 
đầu tư ban đầu do không phải cài đặt phần mềm). 
Như vậy, năm 2004 cùng với việc duy trì ổn định các mức lãi suất do Ngân hàng Nhà 
nước công bố như lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, Ngân hàng Nhà nước đã sẵn 
sàng hỗ trợ thanh khoản với chi phí thấp qua các kênh nhất là nghiệp vụ thị trường 
mở, đã góp phần duy trì ổn định lãi suất thị trường và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. 
- Điều hành tỷ giá: Trong năm 2004, Ngân hàng Nhà nước đã điều hành tỷ giá linh 
hoạt sát với cung cầu thị trường, phát huy lợi thế cho hoạt động xuất khẩu mà vẫn 
không để hoạt động nhập khẩu gặp khó khăn. Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước đã can 
thiệp trên thị trường ngoại hối vào những thời điểm thích hợp, góp phần ổn định tỷ giá 
và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động thanh toán quốc tế. Bên cạnh đó, Ngân hàng 
Nhà nước cũng không ngừng hoàn thiện các công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá như 
chỉnh sửa các quy định về tỷ giá kỳ hạn theo hướng ngày càng tự do hóa để chu 
chuyển ngoại tệ đạt đến trạng thái cân bằng, tạo điều kiện thông thoáng về giao dịch 
hoán đổi. 
Về cơ bản, cơ chế điều hành tỷ giá đã đảm bảo một ngang giá trung tâm dịch chuyển 
trong vùng ngang giá tiền tệ dựa trên quan hệ đầu tư, thương mại của Việt Nam và 
của các nước, tách rời neo buộc của VND vào USD để tiến đến gắn kết một rổ tiền tệ. 
Cùng với các giải pháp điều hành công cụ chính sách tiền tệ nêu trên, tỷ giá cũng 
Trang 59 
được duy trì ổn định (tỷ giá trên thị trường liên Ngân hàng tăng 0.84%). Việc duy trì 
ổn định tỷ giá đã tác động mạnh đến tâm lý của người dân và nhà đầu tư, hạn chế 
chuyển dịch từ VND sang ngoại tệ. Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện 
tốt vai trò người mua bán cuối cùng trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, đáp ứng 
kịp thời và đầy đủ các nhu cầu về ngoại tệ của nền kinh tế. Thêm vào đó, lượng kiều 
hối tăng mạnh hơn so với năm 2003 đã góp phần giữ được ổn định tỷ giá. 
- Giai đoạn 2004 – 2005: 
Trong kỳ họp thứ 5 của Quốc hội giữa năm 2004, hội đồng chính sách tiền tệ của 
Chính phủ đã công bố: Trong bối cảnh 5 tháng đầu năm giá cả đã tăng ở mức 6.3%, 
đây là vấn đề quan trọng phải xem xét nguyên nhân từ đầu để sớm có ngay biện pháp 
khắc phục vì mức tăng này vượt nhiều so với mục tiêu kiểm soát của Nhà nước, ảnh 
hưởng tới nhiều mặt sản xuất cũng như sinh hoạt trong cuộc sống. Nhưng khi đánh 
giá vấn đề lạm phát, giá cả phải tôn trọng những nguyên tắc thị trường và các quy luật 
hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam. Trên thực tế quý III, quý IV năm 2004 đã kiểm 
soát được lạm phát ở mức 5%. Và bởi vì, mặt bằng giá của năm 2004 đã cao, khả 
năng tiếp tục tăng cao nữa khó xảy ra. Ngay cả những biến động về giá dầu mỏ, dù 
khó dự báo nhưng sẽ không có những biến động có thể tạo thành cú sốc ảnh hưởng 
đến kinh tế. Hay những tác động rải rác của dịch cúm gia cầm vẫn còn, nhưng sẽ khó 
bùng phát trên diện rộng nên không ảnh hưởng nhiều tới mức tăng giá lương thực, 
thực phẩm. Vì vậy, tốc độ tăng của lạm phát ở năm 2005 sẽ ở mức vừa phải, không 
vượt quá tầm kiểm soát hoặc mức tăng trưởng, có thể dưới 1-2%. 
Về chính sách tiền tệ, Nhà nước sẽ vẫn thực hiện bình thường các chính sách đã đề ra 
từ đầu năm 2005, có bổ sung một số giải pháp nhưng thực sự không làm thay đổi 
mạnh các chủ trương tiền tệ. Trong năm 2004 tình hình cũng vậy, thay đổi đáng kể 
nhất chỉ là tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên một chút vào tháng 7. Những biện pháp cơ 
bản vẫn giữ nguyên, việc duy trì tỷ lệ tăng trưởng tín dụng 25% không phải giữa năm 
mới đưa ra, đó là kế hoạch từ đầu năm. 
Tương tự, tỷ giá hối đoái sẽ giữ tương đối ổn định, đây cũng là “chuyện” tuyên bố hồi 
đầu năm. Tỷ giá đến cuối năm 2004, trên thị trường liên ngân hàng chỉ là 0.7%, trên 
thị trường tự do chỉ 0.3%. Điều này đã làm dịu bớt tác động xấu của hàng nhập khẩu. 
Ngoài ra, Chính phủ chủ trương không mua dự trữ ngoại tệ nếu thị trường không thực 
sự thừa, và sẵn sàng bán đi để đáp ứng nhu cầu nếu cung cầu căng thẳng và không gây 
khan hiếm giả tạo. Việc tăng lãi suất cũng sẽ khó được tính đến vì sẽ ảnh hưởng đến 
Trang 60 
tăng trưởng, lại không có lợi cho tâm lý nhân dân, doanh nghiệp. Vì vậy, cuối cùng, 
chỉ cần thực hiện các biện pháp điều hành vĩ mô mà đã “giữ” được như tình hình quý 
III, quý IV thì hoàn toàn có thể kiểm soát được lạm phát, duy trì được mức tăng 
trưởng bền vững. 
Trong năm 2004, lãi suất có xu hướng tăng lên, nhưng nhẹ, lãi suất VND tăng khoảng 
0.3 - 0.6%. Lãi suất ngoại tệ phụ thuộc nhiều vào lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang 
Mỹ và thị trường quốc tế nên đã có tăng lên vào giai đoạn cuối năm và xu hướng điều 
chỉnh lãi suất của Cục dự trữ Liên bang Mỹ là rõ rệt. Đến năm 2005, để đáp ứng được 
yêu cầu tăng trưởng kinh tế là 8.5% thì một trong những kênh huy động vốn qua Ngân 
hàng và vẫn là kênh chủ yếu làm cho cầu về vốn tín dụng tăng lên. Theo nguyên tắc 
thị trường, cầu tăng thì lãi suất – giá đồng vốn – sẽ tăng. Đồng thời, trong năm 2004 
lạm phát tăng tương đối cao so với mục tiêu đề ra. Từ đó tác động đến tâm lý người 
dân trong việc cân nhắc đầu tư vào đồng tiền nào cho có lợi. Sự chuyển dịch nhất định 
từ VND sang USD đã thể hiện nhưng không gây đảo lộn lắm về luồng vốn vì tỷ trọng 
huy động USD trong tổng lượng tiền gửi của dân cư năm 2004 vẫn thấp hơn những 
năm trước đó; và nhất là đồng USD xuống giá vào cuối năm và tỷ giá đồng USD gần 
như không thay đổi so với đầu năm cũng đã ngăn chặn được xu hướng chuyển dịch 
đó. VND tuy có hiện tượng tăng giá mạnh trong 6 tháng đầu năm, nhưng kể từ quý 
II/2004, mức độ tăng giá đã thấp hơn nhiều so với lãi suất Ngân hàng. Do đó, xu 
hướng tăng tiền gửi nội tệ lại tiếp tục trở lại. Và tính cả năm 2004, việc huy động 
VND cũng đã tăng 22% so với đầu năm. Do đó, nếu điều hành chính sách vĩ mô năm 
2005 không tốt thì sẽ có sự cân nhắc và chuyển dịch đồng tiền nhất định. 
Nói tóm lại, về xu hướng lãi suất, lãi suất tiền gửi lẫn lãi suất cho vay sẽ tăng lên, 
nhưng tăng lên ít chứ không nhiều. Ngày 15/1/2005 Ngân hàng Nhà nước nâng lãi 
suất tái chiết khấu và tái cấp vốn lên 0.5%; lãi suất tái chiết khấu sẽ là 5.5% và lãi suất 
tái cấp vốn là 3.5%, nhằm khẳng định các Ngân hàng phải đáp ứng nhu cầu vốn của 
mình bằng việc huy động nhiều hơn vốn của dân cư, doanh nghiệp, giảm bớt chỗ dựa 
vào nguồn cho vay tái cấp vốn của Ngân hàng. 
Về lãi suất cơ bản, do lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước không phải dùng để 
điều chỉnh lượng tiền tái cấp vốn, cũng không phải quyết định cho vay của các tổ 
chức tín dụng. lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước là lãi suất cho vay đối với 
khách hàng tốt nhất, rủi ro ít nhất, dự án hiệu quả nhất. vì trong năm 2004 có nhiều 
diễn biến nhạy cảm. Giá cả tăng, nhu cầu tín dụng cho nền kinh tế cũng tăng và nếu 
tùy tiện để lãi suất tăng theo một cách không cần thiết thì có thể gây khó khăn cho 
Trang 61 
tăng trưởng và tạo ra làn sóng cạnh tranh lãi suất để huy động vốn, từ đó đẩy mặt 
hàng lãi suất lên cao quá mức cần thiết. Do đó, trong năm 2005, Ngân hàng Nhà nước 
sẽ đưa ra một lãi suất cơ bản đúng hơn, phù hợp hơn với Ngân hàng Trung ương. bởi 
vì hiện nay, các Ngân hàng Trung ương dùng lãi suất cơ bản không phải là của Ngân 
hàng Nhà nước Việt Nam công bố mà thường dùng lãi suất trên thị trường liên ngân 
hàng của Ngân hàng Trung ương làm lãi suất cơ bản. 
Nhìn chung trong năm 2005, giá trị đối ngoại của đồng tiền Việt Nam ổn định, sự thay 
đổi so với đôla Mỹ chỉ xoay quanh mức 1%. Về đối nội, mục tiêu kiểm soát mức tăng 
giá dưới 6.5% như Quốc hội đã quyết là thực hiện được. Dự trữ ngoại hối không đến 
nỗi quá mỏng. Việc điều chỉnh lãi suất cơ bản được xem xét thận trọng, mặt bằng lãi 
suất khá hợp lý. Các Ngân hàng nếu cần vốn có khả năng tăng lãi suất huy động, 
nhưng không cạnh tranh bằng tăng lãi suất. Ngân hàng Nhà nước sẵn sàng cho vay tái 
cấp vốn trong khuôn khổ luật pháp. Trong năm 2005 các Ngân hàng cũng thực hiện 
tốt công tác an toàn giao dịch. Các ngân hàng muốn mở chi nhánh thì chi nhánh đó 
phải nối mạng trực tiếp với Hội sở. Các ngân hàng phải áp dụng chuẩn mới về phân 
loại nợ. Gia hạn nợ là quyền của tổ chức tín dụng nợ, không phải xin. Nợ đã gia hạn 
phải chuyển sang nợ quá hạn. Ngân hàng trích dự phòng rủi ro ngay khi cho vay, 
không phải cuối năm có lãi mới trích. 
- Giai đoạn 2005 – 2006: 
Có thể nói năm 2005 là năm mà nước ta đạt được nhiều thành tựu đáng kể: Năm 2005 
là năm đầu tiên kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt và vượt ngưỡng 30 tỷ USD, lớn 
gấp đôi so với năm 2001. Mức xuất khẩu cao nhất mà kế hoạch 2001-2005 đề ra cho 
năm 2005 là 30.4 tỷ USD, mà thực tế đạt trên 32 tỷ USD. Xuất khẩu lao động tiếp tục 
gia tăng về số lượng rộng mở về thị trường. Lượng kiều hối gửi về năm 2005 đạt gần 
4 tỷ USD, lớn gấp 1.2 lần tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thực hiện trong 
năm 2005. 
Với sự ra đời trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội và sự góp mặt ngày càng đông 
các doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa và các nhà đầu tư nước ngoài, thị trường 
chứng khóan Việt Nam đang bước sang trang mới. Đặc biệt, lần đầu tiên trái phiếu 
Chính phủ Việt Nam được thị trường tài chính quốc tế chào đón, với tổng giá trị 750 
triệu USD trái phiếu đã được bán hết rất nhanh với lãi suất khá thấp. Năm 2005 còn là 
năm thượng đỉnh thu hút vốn FDI và ODA (khoảng 5.8 tỷ USD vốn FDI, cao nhất từ 
Trang 62 
1997 đến nay và 3.74 tỷ USD vốn ODA được cam kết là mức cao nhất kể từ trước tới 
nay). 
Chính nhờ GDP năm 2005 ước tăng 8.4% so với năm 2004 mà tăng trưởng GDP bình 
quân của thời kỳ kế hoạch 2001-2005 đạt 7.5%/năm. Ngoài yếu tố năng động, sáng 
tạo trong công tác lãnh đạo, điều hành của các cấp chính quyền và doanh nghiệp, phải 
kể đến yếu tố vốn đầu tư. Năm 2005 thực hiện vốn đầu tư phát triển toàn xã hội đạt 
mức cao chưa từng có, bằng 36.8% GDP. Đó là nỗ lực to lớn của toàn dân, trong khi 
GDP bình quân đầu người năm 2005 mới đạt khoảng 640 USD, thuộc nhóm nghèo 
nhất của thế giới. Tuy vậy, chất lượng cuộc sống của nhân dân thời gian qua không 
ngừng được cải thiện, đặc biệt là đời sống đồng bào vùng sâu, vùng xa. Đó chính là 
bằng chứng có giá trị thuyết phục nhất để các tổ chức quốc tế, các nhà đầu tư nước 
ngoài hướng mạnh tới Việt Nam. 
Tiếp theo những kết quả đã đạt được trong năm 2005, tình hình trong năm 2006 cũng 
diễn ra trong bối cảnh khá sô đông, và cụ thể như sau: 
Giá vàng trên thị trường trong nước và thị trường thế giới biến động mạnh, tác động 
nhất định đến một bộ phận dân cư, cũng như tiết kiệm, chi tiêu và đầu tư của họ. Giá 
dầu thô, cùng với nó là giá xăng dầu trong 6 tháng đầu năm 2006 biến động mạnh. Lãi 
suất chủ đạo USD của Cục dự trữ Liên bang Mỹ - FED trong 6 tháng đầu năm liên tục 
được điều chỉnh tăng cao lên tới 5.25%, cao nhất trong vòng 5 năm qua kể từ tháng 1-
2001. Theo đó, lãi suất trên thị trường thế giới tăng cao trong 6 tháng đầu năm và ổn 
định trong những tháng cuối năm. Đồng đôla Mỹ có xu hướng mất giá so với Euro và 
một số đồng tiền chủ chốt khác. Đồng Nhân dân tệ của Trung Quốc tăng giá. Việt 
Nam chính thức trở thành thành viên của WTO. Thiên tai, dịch bệnh đối với mùa 
màng và gia súc xảy ra ở nhiều nơi. Giá bán lẻ xăng dầu trong nước, giá một số mặt 
hàng biến động mạnh. 
Những diễn biến vĩ mô nói trên ảnh hưởng không nhỏ đến điều hành chính sách tiền 
tệ và hoạt động Ngân hàng. Song với nghệ thuật điều hành chính sách tiền tệ thận 
trọng và linh hoạt, hệ thống Ngân hàng tiếp tục đổi mới mạnh mẽ theo yêu cầu hội 
nhập và an toàn, nên trong năm 2006, điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động Ngân 
hàng ở nước ta đã đóng góp vai trò hàng đầu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đạt 
8.17%/năm, chỉ số tăng giá tiêu dùng CPI dừng ở mức 6.6% so với mức tăng 8.4% 
của năm 2005, khoảng 1.6 triệu người được tạo việc làm mới… Bên cạnh đó đồng 
tiền Việt Nam ổn định, tỷ giá VND/USD chỉ tăng 1.0%, hệ thống Ngân hàng phát 
Trang 63 
triển vững chắc lên một trình độ mới, uy tín trong nước và trên thị trường tài chính 
quốc tế ngày càng được nâng cao. 
Do đó, ta có thể điểm qua một số các công cụ mà Chính phủ đã áp dụng để điều hành 
chính sách tiền tệ như sau: 
Lãi suất có xu hướng biến đổi trái chiều: Các loại lãi suất do Ngân hàng Nhà nước 
Việt Nam công bố giữ ổn định trong suốt cả năm 2006. Lãi suất cơ bản duy trì ở mức 
8.25%/năm, lãi suất tái cấp vốn 6.5%/năm và lãi suất chiết khấu 4.5%/năm. Song lãi 
suất một số thị trường do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam điều hành thì lại giảm 
mạnh. Lãi suất thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc Nhà nước giảm từ 6.3%/năm 
thời điểm đầu tháng 1-2006 xuống còn 3.35%/năm thời điểm giữa tháng 12-2006, lãi 
suất nghiệp vụ thị trường mở cũng giảm từ 6.0%/năm thời điểm đầu năm xuống còn 
0.90%/năm trong tháng 12-2006. Trong khi đó lãi suất huy động vốn và lãi suất cho 
vay của các Ngân hàng Thương mại trên thị trường thì tăng khá. 
Về lãi suất huy động vốn ngoại tệ: Trong 6 tháng đầu năm 2006, FED thực hiện 4 lần 
điều chỉnh tăng lãi suất chủ đạo từ mức 4.25%/năm trong tháng 12-2005, lần lượt và 
từ tháng 6-2006 tăng lên mức 5.25%/năm. Mức lãi suất này được giữ ổn định cho đến 
hết năm 2006. Phù hợp với diễn biến trên thị trường quốc tế, lãi suất huy động vốn 
USD của các Ngân hàng Thương mại trong nước cũng thường xuyên được điều chỉnh 
tăng lên, từ mức cao nhất 4.0%/năm thời điểm đầu năm, đến cuối năm 2006 tăng lên 
5.0%-5.2%/năm. Cá biệt Ngân hàng Công thương Việt Nam phát hành trái phiếu USD 
ở mức 5.5%/năm. 
Về lãi suất cho vay vốn bằng ngoại tệ: cũng được điều chỉnh tăng, nhưng tăng chậm 
hơn so với lãi suất huy động vốn. Thời điểm tháng 12-2006, lãi suất cho vay vốn USD 
cộng cả phí phổ biến ở mức 6.0%/năm, cao nhất cũng không vượt quá 7.5%/năm. 
Về lãi suất huy động vốn nội tệ - đồng Việt Nam: thì tăng khá, tăng mạnh nhất là khối 
Ngân hàng Thương mại cổ phần. Bình quân lãi suất huy động vốn nội tệ trong năm 
2006 tăng 0.8%-10%/năm. Thời điểm tháng 12-2006, lãi suất huy động vốn nội tệ cao 
nhất lên tới 0.90%/tháng, tương đương 10.8%/năm. Mức lãi suất hấp dẫn này thuộc về 
nhiều Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở, một số Ngân hàng Thương mại cổ phần và Sở 
giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam. 
Về lãi suất cho vay vốn bằng nội tệ: cũng tăng chậm hơn so với lãi suất huy động vốn 
nội tệ, mức tăng bình quân chỉ có 0.5%-0.6%/năm. Thời điểm tháng 12-2006 lãi suất 
cho vay cao nhất là 1.35%-1.40%/tháng. Mức lãi suất cho vay phổ biến là 1.1%/tháng. 
Trang 64 
Tỷ giá ổn định, dù đôla Mỹ biến động mạnh: Trên thị trường quốc tế, đồng đôla Mỹ 
có sự biến động mạnh theo chiều hướng giảm giá so với các đồng tiền chủ chốt khác. 
Chính phủ Trung Quốc điều chỉnh theo hướng tăng giá đồng Nhân dân tệ. Giá vàng 
cũng biến động mạnh. Tuy nhiên tỷ giá giữa đồng Việt Nam so với USD trên thị 
trường liên ngân hàng chỉ tăng 1.36%. 
Tỷ giá trên thị trường giao dịch giữa các Ngân hàng Thương mại và khách hàng tương 
đối ổn định, chỉ tăng khoảng 0.88% trong cả năm 2006. Trong khi đó tỷ giá trên thị 
trường tự do có biến động lớn hơn, nhưng mức tăng cả năm 2006 cũng chỉ dừng ở tỷ 
lệ 1.0%. Trên cả ba thị trường, tỷ giá lần đầu tiên vượt qua ngưỡng 16000VND/USD. 
Riêng tỷ giá trên thị trường tự do đầu tháng 1-2006 dao động quanh mức 
15.980VND/USD, trong tháng 12-2006 dao động quanh mức 16.100VND/USD. Tuy 
nhiên cá biệt có thời điểm trong năm 2006 tỷ giá VND/USD trên thị trường tự do ở 
nước ta lên tới mức đỉnh điểm 17.200VND/USD vào ngày 9-5-2006, so với mức 
trước đó chưa vượt mức 16.000VND/USD và sau thời điểm đó lại giảm mạnh và dao 
động quanh mức 16.100VND/USD cho đến cuối năm 2006. 
Để ổn định tỷ giá, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục duy trì tỷ lệ biên độ giao dịch trong 
mua bán ngoại tệ của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng được giữ ổn định như 
các năm trước đây là +/-0.25% và từ đầu năm 2007 được nới rộng tăng lên +/-0.5%. 
Bên cạnh đó Ngân hàng Nhà nước chủ động sẵn mua bán can thiệp trên thị trường 
ngoại tệ liên ngân hàng, thông qua đó tăng cường Quỹ dự trữ ngoại tệ quốc gia lên 2.5 
tỷ USD so với mức 2.0 tỷ USD của năm 2005, tương đương khoảng 12 tuần nhập 
khẩu. 
Tỷ giá ổn định còn được hỗ trợ bởi quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường cải 
thiện. Mặc dù thâm hụt cán cân thương mại ước tính cả năm 2006 lên tới khoảng 5 tỷ 
USD do kim ngạch nhập khẩu tăng nhanh và lớn hơn nhiều kim ngạch xuất khẩu, 
nhưng do thặng dư cán cân vốn, nên thâm hụt cán cân vãng lai hầu như không còn. 
tính chung cán cân thanh toán tổng thể năm 2006 thặng dư khoảng 3.4 tỷ USD, 1.3 tỷ 
USD so với mức thặng dư của năm 2006 là 2.1 tỷ USD. Nguyên nhân chủ yếu là do 
nguồn thu ngoại tệ từ kiều hối ước tính cả năm 2006 đạt khoảng 4.2 tỷ USD, trong đó 
khoảng 80% được chuyển qua kênh Ngân hàng. Nguồn thu từ khách du lịch quốc tế 
và người nước ngoài đến Việt Nam học tập, công tác, làm việc… cũng tăng nhanh. 
Nguồn vốn ngoại tệ nước ngoài chuyển vào đầu tư chứng khoán trên thị trường chính 
thức và thị trường phi tập trung, để mua cổ phiếu tăng vốn của các doanh nghiệp cổ 
phần. Số vốn ngoại tệ đó được chuyển sang đồng Việt Nam. Nhìn chung thị trường 
Trang 65 
chứng khoán và thị trường cổ phiếu giao dịch OTC phát triển, một lượng vốn đáng kể 
trước đây nằm dưới dạng ngoại tệ nay được chuyển sang đồng Việt Nam để đầu tư 
vào cổ phiếu và chứng khoán. Quỹ dự trữ ngoại tệ quốc gia được tăng cường, đạt 13 
tỷ USD, tương đương khoảng trên 20 tuần nhập khẩu. Tỷ giá ổn định tạo thuận lợi 
cho cả nhập khẩu, xuất khẩu và vay nợ nước ngoài. Đồng thời hạn chế tình trạng đôla 
hóa. 
Ổn định tỷ lệ dự trữ bắt buộc: Theo mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ được đặt ra 
từ đầu năm, trong năm 2006, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiếp tục giữ ổn định tỷ lệ 
dự trữ bắt buộc đối với cả tiền gửi nội tệ và ngoại tệ. Mặc dù là trong 6 tháng đầu năm 
lãi suất tiền gửi ngoại tệ tăng khá và lên mức cao, một số dự đoán cho rằng Ngân hàng 
Nhà nước sẽ tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc tiền gửi ngoại tệ để kiềm chế các Ngân hàng 
Thương mại tăng cường huy động vốn ngoại tệ vì lo ngại tình trạng đôla hóa tài sản 
nợ trong hệ thống Ngân hàng. Song Ngân hàng Nhà nước vẫn kiên trì, giữ nguyên tỷ 
lệ tiền gửi dự trữ bắt buộc cả nội tệ và ngoại tệ như năm 2005, tạo khoảng cách nhất 
định so với lãi suất tiền gửi nội tệ, hạn chế tình trạng dịch chuyển từ đồng Việt Nam 
sang USD do lãi suất USD tăng khá và hấp dẫn. 
Đấu thầu tín phiếu kho bạc thành công: Năm 2006 được đánh giá là thành công cao 
của thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc. Bởi vì trong điều kiện tốc độ tăng trưởng 
huy động vốn của các Ngân hàng Thương mại tăng nhanh hơn nhiều nước trước, các 
kỳ hạn vốn huy động đa dạng hơn và chiến lược đa dạng danh mục tài sản cầm cố, 
phân tán rủi ro, nên thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc Nhà nước được các Ngân 
hàng Thương mại, nhất là các Ngân hàng Thương mại Nhà nước sử dụng nhiều hơn, 
với tần suất và khối lượng lớn hơn. Do đó, trong năm 2006 hầu hết các phiên đấu thầu 
tín phiếu kho bạc có kết quả trúng thầu và trúng thầu với khối lượng lớn. Cũng do nhu 
cầu mua tín phiếu kho bạc Nhà nước của các Ngân hàng Thương mại tăng lên, nên lãi 
suất trúng thầu có xu hướng giảm và giảm nhanh càng về các phiên cuối năm. Nó cho 
thấy một nghịch lý là lãi suất huy động vốn trên thị trường của các Ngân hàng 
Thương mại có xu hướng nóng lên thì lãi suất trúng thầu tín phiếu kho bạc lại giảm 
thấp. Cũng chính do nhu cầu mua tín phiếu lớn, nên mới đến đầu tháng 11-2006, kế 
hoạch phát hành tín phiếu kho bạc Nhà nước qua đấu thầu tại Ngân hàng Nhà nước đã 
hoàn thành kế hoạch cả năm. Tính tổng cộng trong năm 2006, Ngân hàng Nhà nước tổ 
chức được 52 phiên đấu thầu tín phiếu kho bạc Nhà nước, với tổng khối lượng tín 
phiếu trúng thầu là 22.075 tỷ đồng, lãi suất trúng thầu giảm từ 6.3%/năm trong thời 
điểm đầu năm, xuống còn 3.35% trong tháng 11 và 12/2006. 
Trang 66 
Cùng với thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc, thị trường mở cũng được các Ngân 
hàng Thương mại sử dụng thường xuyên. Do chiến lược linh hoạt sử dụng vốn và 
kinh doanh vốn một cách có hiệu quả, nên khi có nhu cầu vốn cho thanh toán, các 
Ngân hàng Thương mại đã đem giấy tờ có giá đến giao dịch trên thị trường mở để bán 
lại cho Ngân hàng Nhà nước. Khối lượng giao dịch của nghiệp vụ thị trường mở năm 
2006 cũng tăng cao so với năm 2005 và lãi suất trúng thầu cũng giảm thấp. Tổng khối 
lượng trúng thầu Ngân hàng Nhà nước mua vào tín phiếu và cung ứng vốn khả dụng 
cho các Ngân hàng Thương mại là 26.332 tỷ đồng; trong khi đó khối lượng trúng thầu 
Ngân hàng Nhà nước bán ra tín phiếu và thu hồi vốn về là 86.302 tỷ đồng. Lãi suất 
trúng thầu giảm từ 6.0%/năm thời điểm đầu năm xuống còn 0.90% thời điểm cuối 
năm 2006. 
- Giai đoạn 2006 – 2007: 
Vào năm 2007, khi chỉ số giá tăng đột biến, những người có trách nhiệm trong việc 
điều hành chính sách tiền tệ và giá cả cho rằng nguyên nhân chính là do những yếu tố 
khách quan chứ không phải do nguyên nhân tiền tệ. 
Từ đầu năm 2007, luồng vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp sau khi Việt Nam gia nhập 
WTO đã tăng lên nhanh chóng đã tạo sức ép tăng giá tiền đồng và một mặt gây khó 
khăn cho việc điều hành chính sách tiền tệ và giám sát tài chính, đặc biệt trong bối 
cảnh thị trường chứng khoán tăng trưởng rất khả quan. Do Việt Nam muốn giữ được 
một tỷ giá tương đối cạnh tranh, vì vậy Nhà nước đã mua tiền vào, làm tăng dự trữ 
ngoại tệ, nhưng mặt khác cũng làm cho lượng cung ứng tiền về lớn, dẫn đến cân đối 
cung – cầu ngoại tệ thay đổi, gây áp lực lạm phát. Để giải quyết vấn đề, hàng loạt biện 
pháp nhằm rút bớt tiền ra khỏi lưu thông để giảm sức tăng của giá cả đã được đưa ra. 
cụ thể như sau: 
- Thông qua nghiệp vụ thị trường mở, Ngân hàng Nhà nước đã hút được một lượng 
tương đối lớn vốn khả dụng dư thừa của các tổ chức tín dụng, đồng thời vẫn điều tiết 
kịp thời sự thiếu hụt vốn mang tính thời điểm của một số tổ chức tín dụng, đảm bảo 
duy trì ổn định tiền tệ, ổn định lãi suất thị trường. 
- Điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng gấp 2 lần so với mức của năm 2006 để 
hạn chế mức độ dư thừa vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng, qua đó hạn chế tăng 
trưởng tín dụng vào những lĩnh vực kém hiệu quả, giảm sức ép tăng lạm phát trong 
những tháng cuối năm. 
Trang 67 
- Giữ ổn định các mức lãi suất chính thức do Ngân hàng Nhà nước công bố, nhằm 
phát tín hiệu ổn định lãi suất thị trường. Đồng thời, trong điều kiện nguồn cung ngoại 
tệ dồi dào, từ 01/03/2007, Ngân hàng Nhà nước đã chính thức thực hiện bỏ qui định 
về trần lãi suất tiền gửi USD của pháp nhân tại tổ chức tín dụng để hoàn toàn tự do 
hóa lãi suất thị trường, phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế. 
- Hạn chế cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá, thực hiện cho vay chiết 
khấu trong hạn mức phân bổ. 
- Điều hành tỷ giá và quản lý dự trữ ngoại hối phù hợp với điều kiện mở cửa thị 
trường tài chính. 
- Ngay từ đầu năm 2007, Ngân hàng Nhà nước bắt đầu thực hiện nới lỏng biên độ tỷ 
giá từ 0,25% lên 0,5% và đến 12/12/2007, tiếp tục nới rộng biên độ lên 0,75%. Đồng 
thời Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện việc mua ngoại tệ theo nhu cầu bán của các 
Ngân hàng Thương mại, Kho bạc Nhà nước và các tổ chức quốc tế với tỷ giá phù hợp 
để hạn chế sức ép tăng giá đồng Việt Nam và tăng cường mức dự trữ ngoại hối Nhà 
nước. Chênh lệch giữa tỷ giá mua ngoại tệ của Ngân hàng Nhà nước và tỷ giá bình 
quân trên thị trường liên ngân hàng đã được thu hẹp, phản ánh sát cung cầu ngoại tệ 
trên thị trường. 
- Thực hiện Quyết định số 597/QĐ-TTg ngày 11/5/2007 của Thủ tướng Chính phủ, 
Ngân hàng Nhà nước đã duy trì hạn mức Quỹ bình ổn tỷ giá và giá vàng bằng 30% 
tổng dự trữ ngoại hối Nhà nước, (xác định theo quý) với biên độ +/- 10% thay vì xác 
định hạn mức theo giá trị tuyệt đối như trước đây. Việc xác định hạn mức như vậy 
cho phép Ngân hàng Nhà nước tăng cường tính linh hoạt trong điều hành tỷ giá, kịp 
thời ứng phó với các rủi ro đảo chiều của các nguồn vốn, đặc biệt là các nguồn vốn 
đầu tư gián tiếp của nước ngoài. 
- Ngân hàng Nhà nước đã quản lý an toàn dự trữ ngoại hối Nhà nước, đáp ứng mục 
tiêu thanh khoản và sinh lời ở mức độ nhất định. Tổng dự trữ ngoại hối Nhà nước tính 
theo tuần nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ tăng từ mức 13,6 tuần vào thời điểm cuối 
năm 2006 lên gần 18 tuần năm 2007. 
- Xây dựng và ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh Ngoại hối; triển 
khai thực hiện Đề án nâng cao tính chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam, khắc phục 
tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. 
Trang 68 
- Thực hiện các giải pháp kiểm soát chất lượng và tốc độ tăng trưởng tín dụng, tăng 
tổng phương tiện thanh toán nhằm kiểm soát lạm phát. 
- Bên cạnh việc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ để thu hút tiền dư thừa của các 
tổ chức tín dụng để hạn chế việc mở rộng quá mức đầu tư tín dụng và tăng tổng 
phương tiện thanh toán, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục thực hiện hoàn thiện cơ sở pháp 
lý và yêu cầu các tổ chức tín dụng thực hiện các quy định về kiểm soát rủi ro, quy mô, 
chất lượng tín dụng và cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán nhằm kiểm soát lạm 
phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế như: 
+ Yêu cầu các tổ chức tín dụng tiếp tục thực hiện Công văn số 7318/NHNN-CSTT 
ngày 25/8/2006 về việc thực hiện một số biện pháp để kiểm soát việc cho vay đầu tư, 
kinh doanh chứng khoán ở mức hạn chế và đảm bảo an toàn. Ban hành Chỉ thị 
03/2007/CT-NHNN ngày 28/5/2007 về kiểm soát quy mô, chất lượng tín dụng và cho 
vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán nhằm kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng 
kinh tế, trong đó có qui định khống chế dư nợ vốn cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá 
để đầu tư kinh doanh chứng khoán ở mức dưới 3% tổng dư nợ tín dụng của tổ chức 
tín dụng... 
+ Ban hành Quyết định số 03/2007/QĐ-NHNN ngày 19/1/2007 sửa đổi, bổ sung 
Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19/4/2005 quy định các tổ chức tín dụng 
không được cấp tín dụng cho các doanh nghiệp trực thuộc hoạt động trong lĩnh vực 
kinh doanh chứng khoán, không được cho vay không có bảo đảm đối với các khoản 
vay nhằm đầu tư, kinh doanh chứng khoán và trong thời hạn 1 năm kể từ ngày Quyết 
định 03 có hiệu lực, các tổ chức tín dụng phải điều chỉnh để đáp ứng các quy định 
trên. 
+ Đồng thời, bổ sung sửa đổi quy định về tín dụng, trích lập và sử dụng dự phòng rủi 
ro phù hợp với chuẩn mực quốc tế và yêu cầu tăng cường năng lực tài chính của Ngân 
hàng Thương mại khi tính tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, hệ số rủi ro của các khoản cho 
vay để đầu tư chứng khoán, các khoản cho vay đối với công ty chứng khoán nhằm 
kinh doanh, mua bán chứng khoán được nâng lên mức 150% (theo quy định tại Quyết 
định số 457/2005/QĐ-NHNN là 100%). 
+ Ban hành văn bản số 3224/NHNN-CSTT ngày 10/4/2007 quy định việc các TCTD 
báo cáo định kỳ về hoạt động cho vay đầu tư chứng khoán, cho vay có bảo đảm bằng 
cầm cố chứng khoán, ủy thác đầu tư và chiết khấu giấy tờ có giá nhằm phục vụ việc 
Trang 69 
giám sát thường xuyên hoạt động cho vay đối với nhu cầu vốn này và có các giải pháp 
xử lý kịp thời; ban hành Chỉ thị 03/2007/CT-NHNN ngày 28/5/2007 về kiểm soát quy 
mô, chất lượng tín dụng và cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán và các văn bản 
hướng dẫn lộ thực hiện đối với các NHTM đã cho vay vượt mức khống chế tỷ lệ 3%, 
giảm dần cho đến thời điểm 31/12/2007 phải đảm bảo tỷ lệ 3%; tăng cường thanh tra, 
giám sát việc mở rộng quy mô và chất lượng tín dụng theo Chỉ thị này. 
+ Ban hành Chỉ thị số 06/2007/CT-NHNN ngày 02/11/2007 về yêu cầu các tổ chức 
tín dụng và các đơn vị trực thuộc NHNN thực hiện các giải pháp đảm bảo khả năng 
thanh toán và kiểm soát tổng phương tiện thanh toán. 
+ Tổ chức họp với các Ngân hàng Thương mại và Ngân hàng Nhà nước chi nhánh 
Thành phố Hà Nội, Đà Nẵng, Cần Thơ, Hải Phòng và Thành phố Hồ Chí Minh để 
triển khai thực hiện các giải pháp cụ thể về tiền tệ, tín dụng. Ngân hàng Nhà nước đã 
chỉ đạo các Ngân hàng Thương mại tích cực tham gia nghiệp vụ thị trường mở, điều 
chỉnh cơ cấu tín dụng, kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với một số lĩnh vực có độ rủi ro 
cao như cho vay để đầu tư, kinh doanh chứng khoán, cho vay kinh doanh bất động 
sản, cho vay bằng ngoại tệ, cho vay tiêu dùng. 
+ Tiến hành thanh tra tại các tổ chức tín dụng về hoạt động cho vay đầu tư, kinh 
doanh chứng khoán, cho vay có bảo đảm bằng cầm cố chứng khoán. 
Với việc thực thi chính sách tiền tệ như trên về cơ bản đạt được mục tiêu đề ra là ổn 
định tiền tệ, kiềm chế lạm phát, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ vốn tạo môi 
trường thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế. Điều này thể hiện ở những kết quả sau: 
- Qui mô thị trường tiền tệ mở rộng và ổn định, không để xẩy ra những cú sốc về lãi 
suất và tỷ giá trước những biến động khó lường của tình hình thị trường tài chính 
quốc tế 
+ Lãi suất thị trường liên Ngân hàng mặc dù có biến động mạnh trong vài ngày giữa 
tháng 11/2007, song, nhìn chung, mặt bằng lãi suất trong năm ổn định: lãi suất huy 
động và cho vay của tổ chức tín dụng vẫn giữ được ổn định và có xu hướng giảm nhẹ 
so với cuối năm 2006, tạo điều kiện cho việc huy động vốn và đầu tư cho tăng trưởng 
kinh tế. Tính đến cuối tháng 9/2007, huy động vốn của các tổ chức tín dụng tăng 
31,2%, ước cả năm tăng 39,6%, cao hơn tốc độ tăng 33,1% của năm 2006; tín dụng 
đến cuối tháng 9 tháng tăng 30,9%, ước cả năm tăng 37,8%, cao hơn nhiều so với tốc 
độ tăng 22,8% của năm 2006). 
Trang 70 
+ Tỷ giá danh nghĩa giao động nhẹ và có xu hướng giảm (VND lên giá nhẹ), trong bối 
cảnh lạm phát gia tăng đã góp phần tích cực trong việc ổn định lãi suất VND và ổn 
định thị trường tiền tệ. Mặt khác, tỷ giá thực thấp hơn tỷ giá hối đoái danh nghĩa trên 
thị trường, cho nên tác động khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, hỗ trợ ổn 
định lãi suất VND. 
- Diến biến tổng phương tiện thanh mặc dù tăng cao, nhưng cơ cấu thay đổi theo 
chiều hướng tích cực. 
+ Tỷ lệ tiền mặt trên tổng phương tiện thanh toán giảm từ mức 19,3% năm 2006 
xuống mức 17,8% năm 2007. 
+ Tỷ lệ ngoại tệ trên tổng tiền gửi từ mức 25,9% năm 2007 xuống còn 22,6% năm 
2007 - giảm mức độ đô la hoá của nền kinh tế. 
- Hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế. 
+ Trong hoạt động đầu tư tín dụng của các tổ chức tín dụng có những diễn biến tích 
cực, các sản phẩm dịch vụ tín dụng đã được đa dạng hơn nhiều so với những năm 
trước đây, nhiều lĩnh vực cho vay đầu tư được mở rộng, các doanh nghiệp vừa và nhỏ 
có nhiều điều kiện thuận lợi tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng để phát triển sản xuất, 
tạo công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp góp phần ổn định xã hội, cho vay phát 
triển nông nghiệp nông thôn, cho vay chính sách hỗ trợ các hộ nghèo, hộ sản xuất 
kinh doanh vùng khó khăn cũng được mở rộng, góp phần tích cực thực hiện mục tiêu 
xoá đói giảm nghèo. Bên cạnh đó, việc cho vay tiêu dùng cũng được mở ra rất đa 
dạng đáp ứng đầy đủ các nhu cầu của xã hội. 
+ Tín dụng đầu tư vào thị trường chứng khoán được kiểm soát chặt chẽ và giảm dần 
cả số tuyệt đối và tỷ lệ dư nợ qua các tháng, góp phần thúc đẩy thị trường chứng 
khoán phát triển ổn định. Tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản cũng được theo dõi, 
giám sát chặt chẽ nhằm góp phần hạn chế những tiềm ẩn rủi ro trong hoạt động ngân 
hàng và thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển bến vững. 
+ Chất lượng tín dụng được cải thiện: Tỷ lệ nợ xấu tháng 9/2006 là 2,2%, có xu 
hướng giảm so với tỷ lệ nợ xấu tháng 12/2006 (2,64%), trong đó tỷ lệ nợ xấu của các 
nhóm tổ chức tín dụng đều giảm. Cụ thể là: tỷ lệ nợ xấu của các Ngân hàng Thương 
mại nhà nước là 2,8% (giảm 0,4%); tỷ lệ nợ xấu của các Ngân hàng Thương mại cổ 
phần là 1,26% (giảm 0,34%); tỷ lệ nợ xấu của các Ngân hàng Liên doanh và Chi 
Trang 71 
nhánh nước ngoài là 0,8% (giảm 0,4%); tỷ lệ nợ xấu của các tổ chức tín dụng khác là 
2,4% (giảm 0,5%). 
Lạm phát giai đoạn 1995-2007, tính theo chỉ số giá tiêu dùng tháng 12 mỗi năm so 
với tháng 12 năm trước. (Nguồn: Tổng cục Thống kê) 
Trang 72 
0.00%
1.00%
2.00%
3.00%
4.00%
5.00%
6.00%
7.00%
8.00%
9.00%
10.00%
Ja
n-
05
A
pr
-0
5
Ju
l-0
5
O
ct
-0
5
Ja
n-
06
A
pr
-0
6
Ju
l-0
6
O
ct
-0
6
Ja
n-
07
A
pr
-0
7
Ju
l-0
7
O
ct
-0
7
Ja
n-
08
Lãi suất cơ bản
Lãi suất tái cấp vốn
Lãi suất chiết khấu
Lãi suất đấu thầu
Lãi suất thị trưởng mở
Biểu đồ so sánh các loại lãi suất theo thời gian 
Biểu đồ so sánh lãi suất giữa các quốc gia qua các mốc thời gian 
Quốc gia Lãi suất cuối 
2006 
Lãi suất cuối 
2007 
Lãi suất tháng 2-
2008 
Mỹ 5,25 4,25 3,0 
Khu vực đồng tiền 
châu Âu 
3,5 4,0 4,0 
Anh 5,0 5,50 5,25 
Nhật 0,25 0,5 0,5 
Canada 4,25 4,25 4,0 
Úc 6,25 6,75 7,0 
Hàn Quốc 4,50 5,00 5,00 
Trung Quốc 6,12 7,47 7,47 
Thái Lan 5,00 3,25 3,25 
Indonesia 9,75 8,00 8,00 
Phillipines 7,50 5,25 5,00 
Ấn Độ 6,00 6,00 6,00 
Các số liệu được đo lường theo đơn vị phần trăm (%) 
Nguồn: Tổng hợp từ Reuters, Financial Times và FXStreet.com 
Trang 73 
Biểu đồ so sánh CPI của các quốc gia trong năm 2007 
So sánh tốc độ tăng trưởng cung tiền và tăng trưởng GDP của ba nước, lấy mốc năm 
2004 bằng 100%. Cung tiền đo bằng M2 (gồm tổng tiền mặt và tiền gửi ngân hàng) 
(Nguồn: Số liệu Thống kê tài chính quốc tế của Tổ chức Tiền tệ Quốc tế, riêng số liệu 
tăng trưởng GDP 6 tháng đầu năm 2007 của Việt Nam và Trung Quốc lấy từ nguồn 
Economist Intelligent Unit.) 
Biểu đồ chỉ số VN-Index 
VN-Index Volume VN-Index 
Trang 74 
Biểu đồ thể hiện tăng trưởng tín dụng trong giai đoạn 2006-2007 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 Bai hoan chinh.pdf Bai hoan chinh.pdf
 tomtatdetai.pdf tomtatdetai.pdf