TÓM TẮT ĐỀ TÀI
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Theo thông lệ quốc tế cũng như thực tiễn ở Việt Nam, mục tiêu của chính sách
tiền tệ là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát, ổn định tiền tệ và rộng
hơn là góp phần tạo công ăn việc làm, giải quyết một số vấn đề xã hội.
Từ năm 2003 đến năm 2006, lạm phát vẫn diễn ra tại Việt Nam nhưng theo nhận
định các chuyên gia thì đây chỉ là một thứ chất “bôi trơn” cho mục tiêu tăng
trưởng kinh tế. Đến năm 2007, lạm phát diễn ra nhanh chóng mà không dự báo
hay có thể kìm lại được. Nó trở thành một mối quan tâm mà bất kì ai cũng nhắc
đến khi gặp nhau. Nó tác động đến mọi mặt của đời sống mà hậu quả để lại quá to
lớn khó có thể bù đắp.
Năm 2008 diễn tiếp trong bối cảnh lạm phát đang dần trở nên cao trào. Vấn đề lạm
phát không còn là của riêng ai mà là của toàn xã hội, chung tay hợp sức, hợp tác
cùng Chính phủ và các cán bộ điều hành chính sách là một điều tất yếu để vượt
qua giai đoạn khó khăn này. Khắc phục, ngăn chặn lạm phát là điều cần làm ngay
bây giờ chứ không thể chần chừ được nữa.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU:
Đề tài “Kiểm soát lạm phát tại Việt Nam thông qua chính sách tiền tệ” với mục
đích hệ thống lại các đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam và thực trạng lạm phát tại
Việt Nam diễn ra trong thời gian qua nhằm trên cơ sở đó đưa ra các đề xuất, biện
pháp kiểm soát lạm phát để đáp ứng mục tiêu tăng trưởng kinh tế, phát triển đất
nước mà Quốc hội đã đề ra.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ NGUỒN TÀI LIỆU:
Đề tài sử dụng các biện pháp nghiên cứu sau để thu thập tài liệu rồi
tổng hợp lại để đưa ra cách nhìn tổng quan nhất, hợp lý nhất trong khả năng người
viết:
Phương pháp tổng hợp: Thu thập và sử dụng có hiệu quả các tài liệu
Phương pháp phân tích: Được sử dụng để làm rõ, củng cố vững chắc
hơn các luận điểm cũng như để các luận điểm được trình bày một cách khoa học
Phương pháp logic, so sánh: Giúp cho cấu trúc vấn đề đưa ra sẽ đi
theo một thứ tự hợp lý, thông qua đó sẽ làm sáng tỏ nội dung.
Nguồn tài liệu chủ yếu của đề tài chính là các bài viết từ các báo
điện tử và các website của các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực kinh tế có liên
quan đến vấn đề mà đề tài đề cập.
4. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU:
Ngoài phần dẫn luận, kết luận, tài liệu tham khảo, mục lục theo quy định
của một đề tài nghiên cứu khoa học, kết cấu của đề tài bao gồm ba chương:
CHƯƠNG I: Tổng quan về chính sách tiền tệ và lạm phát trong nền kinh tế.
CHƯƠNG II: Tình hình lạm phát và thực thi chính sách tiền tệ tại Việt Nam
nhằm mục tiêu kiểm soát lạm phát trong thời gian qua.
CHƯƠNG III: Một số đề xuất cho chính sách tiền tệ có hiệu quả trong mục tiêu
kiềm chế lạm phát đối với nền kinh tế Việt Nam.
74 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4118 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Kiểm soát lạm phát tại Việt Nam thông qua chính sách tiền tệ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mạnh việc thực hiện các chương trình mục
tiêu quốc gia, các giải pháp hỗ trợ khác đối với các vùng khó khăn, vùng bị thiên tai.
Điều quan trọng cần chú ý là phải xây dựng cơ chế và kiểm tra việc thực thi, bảo đảm
nguồn hỗ trợ của nhà nước đến đúng đối tượng, không bị thất thoát, tham nhũng.
Trang 51
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách, luận văn và báo tham khảo:
1. Nguyễn Quốc Bảo, Kiểm soát lạm phát ở Việt Nam, Luận văn Thạc Sĩ,
2004.
2. Kinh tế 2006 – 2007 Việt Nam và Thế giới, Thời báo Kinh tế Việt Nam,
2007
3. Vụ trưởng Vụ chính sách tiền tệ Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Ngọc
Bảo, Năm nhóm giải pháp chống lạm phát, báo Tuổi trẻ, số ra ngày
21/2/2008
4. Chống lạm phát phải như chữa cháy, báo Tuổi trẻ, số ra ngày 1/3/2008
5. Cần rà soát các dự án lớn sử dụng vốn Nhà nước, báo Tuổi trẻ, số ra
ngày 4/3/2008
6. Tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, báo Tuổi trẻ, số ra
ngày 16/3/2008
7. TS. Lê Đăng Doanh, Để kiềm chế lạm phát nên cắt giảm 15-30% số
công trình đầu tư, báo Tuổi trẻ, số ra ngày 20/3/2008
8. Bảo đảm an sinh xã hội, đẩy mạnh xuất khẩu, báo Tuổi trẻ, số ra ngày
9/4/2008
9. Đề nghị hạ chỉ tiêu tăng trưởng xuống 7%, báo Tuổi trẻ, số ra ngày
23/4/2008
Website:
www.vnn.vn (Báo điện tử VietNamNet)
Trang 52
1. Tín dụng “nóng”: Tăng trưởng đã vượt “chỉ giới đỏ”
2. Tất cả các tổ chức tín dụng phải tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc: ngày
28/6/2004
3. Lạm phát tăng ảnh hưởng xấu đến người nghèo: ngày 17/9/2007
4. Tín dụng vượt ngưỡng an toàn, ngày 9/11/2007
5. Lạm phát tăng cao, lúng túng trước dòng vốn ngoại lớn: ngày
26/12/2007
6. Lý giải một nguyên nhân lạm phát 2007: ngày 28/12/2007
7. Tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc tại các ngân hàng: ngày 17/1/2008
8. Việt Nam đang nhập khẩu lạm phát: ngày 22/2/2008
www.vneconomy.vn (Báo điện tử - Thời báo Kinh tế Việt Nam)
1. Tăng trưởng của Việt Nam có thực sự nhanh và bền vững?: ngày
31/1/2008
2. VND “mạnh” lên trước USD: “Sốc” hay từ từ?
3. Tăng dự trữ bắt buộc: các Ngân hàng nói gì?
4. Tăng dự trữ bắt buộc, khởi đầu chính sách tiền tệ thắt chặt
5. Thị trường bất động sản: Bong bóng bắt đầu xì hơi
www.vnexpress.net (Tin nhanh Việt Nam)
1. Lạm phát cao, xét lại nguyên nhân cung tiền
2. Các giải pháp thắt chặt tiền tệ: “Sốc” quá liều?
3. Ai đang gánh chi phí chống lạm phát?
4. Nới biên độ tỷ giá ảnh hưởng thế nào đến lạm phát?
www6.thanhnien.com.vn (Diễn đàn Hội liên hiệp Thanh niên Việt Nam)
1. Lãi suất VND: Căng như dây đàn
2. Lãi suất tăng cao và hàng loạt tác động không mong đợi
3. USD biến động
Trang 53
PHỤ LỤC
Chính Sách Tiền Tệ Việt Nam Đã Áp Dụng Trong Giai Đoạn 2003 – 2007:
- Giai đoạn 2002 – 2003:
Từ tháng 8/2003, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quyết định giảm đáng kể lãi suất tái
cấp vốn từ 6.0%/năm, xuống 5.0%/năm; lãi suất tái chiết khấu từ 5.0%/năm xuống
4.2%/năm; tỷ lệ dự trữ bắt buộc cả nội tệ, ngoại tệ có mức giảm 0.5% – 1.0% so với
mức thực hiện trước đó.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã làm việc với bốn Ngân hàng Thương mại Nhà
nước, chiếm 70% thị phần huy động vốn và cho vay, để bàn biện pháp giảm lãi suất
trên thị trường. Qua cuộc họp với Ngân hàng Nhà nước, các Ngân hàng Thương mại
này đã cắt giảm lãi suất huy động vốn kỳ hạn ngắn. riêng Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn Việt Nam chiếm tới 25 thị phần huy động vốn và cho vay trong
toàn quốc còn quyết định giảm cả lãi suất điều hành vốn trong hệ thống của mình,
đồng thời giảm mức lãi suất mà các chi nhánh đi vay các Ngân hàng Thương mại
khác.
Hiệp hội Ngân hàng cũng đã vào cuộc bằng việc tổ chức cuộc họp với bốn Ngân hàng
Thương mại Nhà nước và Ngân hàng Nhà nước để bàn biện pháp hạ mặt bằng lãi suất
trong nền kinh tế, thống nhất phương pháp hoạt động của các Ngân hàng nhằm đảm
bảo lợi ích chung trong toàn hệ thống, đến hiệu quả của nền kinh tế và lợi ích của
từng tổ chức tín dụng. Cuộc họp đã thống nhất các Ngân hàng Thương mại lấy mức
lãi suất huy động vốn kỳ hạn 6 tháng làm lãi suất cơ bản giữa các Ngân hàng hội viên;
đồng thời thường xuyên thông báo cho nhau việc thay đổi các mức lãi suất của mình
thông qua Hiệp hội Ngân hàng.
Các biện pháp kể trên đã thể hiện sự chủ động của Ngân hàng Nhà nước sử dụng đúng
các công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ và tôn trọng tính quy luật về lãi suất, phản
ánh cung cầu vốn trong nền kinh tế theo cơ chế thị trường, đồng thời thúc đẩy sự hợp
tác giữa các thành viên của Hiệp hội Ngân hàng trong khi vẫn tôn trọng tính tự chủ
trong hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng Thương mại. kết quả là lãi suất huy
động vốn kỳ hạn ngắn đã giảm xuống.
Đến cuối tháng 8 năm 2003 có một nghịch lý là trong khi lãi suất huy động vốn ngắn
hạn giảm xuống, thì lãi suất huy động vốn và cho vay trung và dài hạn vẫn đứng ở
mức cao, thậm chí ở một số Ngân hàng Thương mại còn có xu hướng tăng lên. Chẳng
hạn tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn lãi suất trái phiếu kỳ hạn 5
Trang 54
năm vẫn duy trì ở mức 9.17%/năm cho năm đầu tiên, lãi suất huy động vốn kỳ hạn 24
tháng của Ngân hàng Thương mại cổ phần Phương Nam, cho khoản tiền gửi từ 50
triệu đồng trở lên tới 0.785%/tháng (tương đương 9.42%/năm)… Một thực tế đáng
quan tâm nữa là lãi suất huy động vốn của Ngân hàng Thương mại này tương đương
hoặc cao hơn lãi suất cho vay của Ngân hàng Thương mại khác. bởi vậy, nếu các
Ngân hàng Thương mại cứ tăng lãi suất trung và dài hạn lên, thì vốn từ Ngân hàng có
lãi suất thấp hơn sẽ chạy sang Ngân hàng có lãi suất cao hơn và nếu phát hành trái
phiếu Chính phủ và trái phiếu đô thị với lãi suất cao, thì chủ yếu hút vốn từ các Ngân
hàng Thương mại đầu tư vào đó, ảnh hưởng đến việc cho vay vốn trung và dài hạn
của Ngân hàng cho khách hàng và các dự án. Thực trạng này cho thấy thị trường liên
ngân hàng chưa phát triển, chưa có tác dụng điều hòa lãi suất trong nền kinh tế. từ đó
đòi hỏi Ngân hàng Thương mại phải có các giải pháp để điều hành chính sách tiền tệ
phù hợp.
Công cụ nghiệp vụ thị trường mở:
Ngày 12/7/2000, Ngân hàng Thương mại Việt Nam chính thức đưa công cụ nghiệp vụ
thị trường mở vào hoạt động, đây là một sự chuyển biến quan trọng trong điều hành
chính sách tiền tệ của Ngân hàng Thương mại, từ sử dụng công cụ trực tiếp sang sử
dụng các công cụ gián tiếp theo tín hiệu của thị trường, phù hợp với thông lệ quốc tế.
Qua hơn hai năm triển khai thực hiện, đến nay đã có 22 tổ chức tín dụng được cấp
giấy chứng nhận là thành viên nghiệp vụ thị trường mở trong đó có 4 Ngân hàng
Thương mại quốc doanh, 10 Ngân hàng Thương mại cổ phần, 1 Ngân hàng liên
doanh, 5 chi nhánh Ngân hàng Nước ngoài, 1 công ty tài chính và quỹ tín dụng nhân
dân Trung ương.
Từ tháng 5 năm 2002 nghiệp vụ thị trường mở được đưa vào giao dịch hàng tuần, quy
mô và doanh số ngày càng tăng, lãi suất ngày càng linh hoạt. trong các hình thức giao
dịch của nghiệp vụ thị trường mở thì việc Ngân hàng Thương mại mua các giấy tờ có
giá là chủ yếu (Ngân hàng Nhà nước bơm tiền ra); chiếm tỷ lệ khoảng từ 71% lên trên
90%. Như vậy, đây chính là một “kênh” quan trọng của Ngân hàng Nhà nước nhằm
thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ.
Trong thực tế, với sự cố gắng của Ngân hàng Nhà nước mặc dù nghiệp vụ thị trường
mở đã hoạt động ổn định, và Ngân hàng Nhà nước đã có những thành công bước đầu
trong việc đưa công cụ mới vào điều hành chính sách tiền tệ, nhằm tác động tới vốn
khả dụng của các tổ chức tín dụng, nhưng với thực trạng quy mô thị trường nhỏ, nhiều
phiên giao dịch của thị trường không có thành viên nào đăng ký giao dịch, thị trường
Trang 55
mở hầu như chỉ là sân riêng của các Ngân hàng Thương mại quốc doanh lớn còn các
Ngân hàng Thương mại cổ phần vốn ít, Ngân hàng liên doanh, chi nhánh Ngân hàng
Nước ngoài ít vốn nội tệ hầu như đứng ngoài điều này cho thấy việc vận hành nghiệp
vụ thị trường mở chưa thông suốt, lãi suất trên thị trường mở ít có tác động đến lãi
suất trên thị trường. Do đó cần phải có giải pháp điều chỉnh hoạt động thị trường mở,
phát triển thị trường này để trong thời gian tới nó sẽ thực sự trở thành công cụ điều
hành chính sách tiền tệ.
Các công cụ khác:
- Lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu: Như đã biết trước đây là cửa sổ chiết
khấu rất quan trọng để tăng hoặc giảm khả năng cho vay của các Ngân hàng Thương
mại làm tăng hoặc giảm lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế. Trong thời gian vừa qua
lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu đã được Ngân hàng Nhà nước áp dụng
phù hợp với diễn biến trên thị trường tiền tệ quá nóng từ tháng 8 năm 2003, Ngân
hàng máy móc đã quyết định giảm đáng kể lãi suất tái cấp vốn từ 6.0%/năm xuống
5.0%/năm; lãi suất tái chiết khấu từ 5.0%/năm xuống 4.2%/năm (quyết định
833/2003/QĐ-NHNN) đây là một quyết định kịp thời đã góp phần hạ nhiệt cơn sốt lãi
suất trên thị trường trong mấy tháng gần đây.
- Dự trữ bắt buộc: Ngân hàng Trung ương sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc để tác
động đến lượng tiền cung ứng ra qua việc tác động đến cơ chế tạo tiền gửi của các
Ngân hàng Thương mại và tác động đến lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng.
Trong thời gian qua, tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi nội tệ vẫn được giữ nguyên
ở mức thấp trong hơn 2 năm qua, 2% đối với Ngân hàng Nhà nước và Ngân hàng Phát
triển Nông thôn Việt Nam, 3% đối với các tổ chức tín dụng đô thị khác. Tỷ lệ dự trữ
bắt buộc đối với tiền gửi ngoại tệ cũng được điều chỉnh giảm từ 12% xuống còn 8%,
thực hiện từ tháng 4 năm 2002 và giảm tiếp xuống 5% thực hiện từ tháng 12 năm
2002. Tuy nhiên, động thái này đã ít ảnh hưởng đến lãi suất thị trường.
- Công cụ tỷ giá: Ngân hàng Nhà nước đã linh hoạt trong sử dụng công cụ này. Từ
1/7/2002 Ngân hàng Nhà nước quyết định nới lỏng biên độ quy định tỷ giá của các tổ
chức tín dụng trong giao dịch mua bán ngoại tệ đối với khách hàng, quyết định này đã
giảm dần những quy định mang tính chất hành chính can thiệp vào quyền tự chủ kinh
doanh của các tổ chức tín dụng. Ngày 13/9/2003 Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã
ra quyết định 958/2002/QĐ-NHNN về quản lý ngoại hối đối với việc mua bán chứng
khoán cùa các tổ chức, cá nhân nước ngoài tại trung tâm giao dịch chứng khoán. Từ
tháng 10 năm 2002 Ngân hàng Nhà nước đã có quy định mới về trạng thái ngoại tệ
Trang 56
đối với các Ngân hàng Thương mại… Cùng với việc ban hành các chính sách nói
trên, Ngân hàng Nhà nước vẫn duy trì và vận hành có hiệu quả hoạt động của thị
trường ngoại tệ, liên ngân hàng, thực hiện nghiệp vụ Swap trong giao dịch hoán đổi
ngoại tệ lấy đồng Việt Nam giữa Ngân hàng Thương mại với Ngân hàng Nhà nước.
Với các biện pháp trên, thị trường ngoại hối Việt Nam trong thời gian qua tương đối
ổn định, tỷ giá biến động không nhiều góp phần ổn định tiền tệ, ổn định kinh tế.
- Giai đoạn 2003 – 2004:
Từ tình hình thực tiễn của năm 2003 và mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của năm
2004 theo chỉ tiêu Quốc hội phê duyệt, ngay từ đầu năm Ngân hàng Nhà nước đã xác
định mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ một cách kinh hoạt, thận trọng, nâng cao
vai trò điều tiết và kiểm soát tiền tệ nhằm ổn định tiền tệ, góp phần ổn định kinh tế vĩ
mô, góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế từ 7.5%-8.0% và lạm phát dưới
5%.
Năm 2004 có thể nói là năm có nhiều diễn biến ảnh hưởng đến điều hành chính sách
tiền tệ, cụ thể là:
- Giá dầu thô và một số mặt hàng nguyên liệu, lương thực trên thế giới tăng cao
nhưng không ảnh hưởng nhiều đến tăng trưởng kinh tế thế giới (tốc độ tăng trưởng
kinh tế cao hơn năm 2003). Tuy nhiên, sự gia tăng khó lường về giá cả các mặt hàng
nêu trên có tác động đẩy mức giá trong nước tăng cao, ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt
động sản xuất kinh doanh trong nước, qua đó đặt ra những khó khăn và thách thức đối
với việc thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ.
- Đồng đôla Mỹ mất giá so với một số ngoại tệ mạnh và các đồng tiền trong khu vực
đã tạo thuận lợi nhất định cho việc thực hiện mục tiêu ổn định tỷ giá của Việt Nam.
Tuy nhiên xu hướng tăng lãi suất của đồng đôla Mỹ trong 6 tháng cuối năm có những
tác động đến việc thực hiện mục tiêu ổn định lãi suất của Việt Nam.
- Sự tăng trưởng cao của kinh tế thế giới đặc biệt là của các nước đối tác thương mại
chính của Việt Nam thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam và tăng nguồn vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, qua đó góp phần cải thiện cán cân thanh
toán.
- Thiên tai, dịch cúm gia cầm trong nước, việc điều chỉnh tăng giá một số mặt hàng
nguyên nhiên liệu đầu vào là những nhân tố chính đẩy chỉ số giá tiêu dùng tăng cao
trong đó lương thực phẩm là nhóm hàng có quyền số lớn nhất 47.9%, có mức tăng cao
nhất trong rổ hàng hóa tính chỉ số giá tiêu dùng.
Trang 57
- Sự trầm lắng của thị trường bất động sản so với các năm trước do tác động của Luật
đất đai 2003 và giá bất động sản ở mức cao… góp phần tạo nhân tố ổn định cho thị
trường tiền tệ.
Trước diễn biến chỉ số giá tiêu dùng có xu hướng tăng mạnh trong những tháng đầu
năm, Ngân hàng Nhà nước đã kịp thời phân tích tìm ra nguyên nhân tăng giá chủ yếu
là do tác động từ bên cung. Trong khi đó mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2004 đặt
ra ở mức cao 7.5%-8.0%, thị trường vốn chưa thực sự phát triển, tín dụng Ngân hàng
vẫn đóng vai trò chủ yếu trong việc đáp ứng vốn cho tăng trưởng kinh tế.
Vì vậy, từ tháng 3/2004 Ngân hàng Nhà nước đã kịp thời điều chỉnh mục tiêu điều
hành chính sách tiền tệ theo hướng thận trọng hơn nhằm ổn định tiền tệ, ổn định lãi
suất, ổn định tỷ giá góp phần kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Cụ thể là:
giữ nguyên lãi suất cơ bản ở mức 7.5%/năm, lãi suất tái cấp vốn 5%/năm, lãi suất tái
chiết khấu 3%/năm. các công cụ khác được điều tiết linh hoạt, cụ thể:
- Về công cụ dự trữ bắt buộc: Trước bối cảnh chỉ số giá tiêu dùng những tháng đầu
năm tăng cao, để thực hiện mục tiêu ổn định tiền tệ góp phần tăng trưởng kinh tế, từ
tháng 7/2004, Ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với
các loại tiền gửi dưới 24 tháng bằng VND và ngoại tệ (Quyết định số 796/QĐ-NHNN
ngày 25/6/2004). cụ thể, đối với tiền gửi VND không kỳ hạn và có kỳ hạn đến dưới
12 tháng tăng từ 2% lên 5%, riêng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
Việt Nam tăng từ 1.5% lên 4%, Ngân hàng Thương mại cổ phần Nông thôn và Quỹ
tín dụng nhân dân Trung ương tăng từ 1% lên 2%. Đối với tiền gửi bằng VND kỳ hạn
từ 12 tháng đến dưới 24 tháng tăng từ 1% lên 2%. Đối với tiền gửi ngoại tệ không kỳ
hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng tăng từ 4% lên 8%, loại từ 12 tháng đến dưới 24 tháng
tăng từ 1% lên 2%.
Đồng thời, để khuyến khích các tổ chức tín dụng sử dụng vốn có hiệu quả, tránh tăng
lãi suất dẫn đến dư thừa vốn VND, Ngân hàng Nhà nước đã thay đổi phương thức trả
lãi đối với tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng VND (Quyết định số 923/QĐ-NHNN ngày
20/7/2004). Theo đó, đối với dự trữ bắt buộc bằng VND, Ngân hàng Nhà nước chỉ trả
lãi cho tiền gửi dự trữ bắt buộc (1.2%/năm) mà không trả lãi cho phần tiền gửi dự trữ
bắt buộc vượt.
- Về nghiệp vụ thị trường mở: Trong năm 2004 nghệip vụ thị trường mở đã được tăng
cường sử dụng như một công cụ chủ yếu trong điều tiết tiền tệ theo mục tiêu chính
sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước thông qua việc bơm/hút vốn khả dụng của tổ
Trang 58
chức tín dụng với thời hạn ngắn từ 7-60 ngày. Tổng doanh số giao dịch của năm 2004
đạt 61.936 tỷ đồng, bằng khoảng 3 lần tổng doanh số giao dịch của năm 2003.
Doanh số giao dịch bình quân một phiên năm 2004 khoảng 504 tỷ đồng, bằng 2.5 lần
doanh số giao dịch bính quân một phiên năm 2003. Cá biệt có phiên khối lượng giao
dịch trên 3.400 tỷ đồng, cao hơn nhiều so với khối lượng giao dịch tối đa 1.500 tỷ
đồng của năm 2003.
Về thành viên tham gia thị trường mở năm 2004, sự tham gia của các thành viên mới
như Ngân hàng Thương mại cổ phần Kỹ thương, Ngân hàng Thương mại cổ phần Á
châu, Ngân hàng Liên doanh VID-Public, chi nhánh Ngân hàng Nước ngoài Citibank
đã chứng tỏ các tổ chức tín dụng có sự quan tâm hơn đối với nghiệp vụ thị trường mở.
Để hỗ trợ kịp thời vốn khả dụng cho các tổ chức tín dụng và ổn định thị trường tiền tệ,
từ 1/11/2004 Ngân hàng Nhà nước đã tăng định kỳ giao dịch các phiên nghiệp vụ thị
trường mở lên 3 phiên/tuần và đặc biệt trong các dịp giáp Tết, các phiên giao dịch thị
trường mở được tổ chức hàng ngày.
Từ 15/12/2004, việc Ngân hàng Nhà nước áp dụng công nghệ trang web trong đặt
thầu và đấu thầu đã tạo thuận lợi cho các thành viên tham gia thị trường (giảm chi phí
đầu tư ban đầu do không phải cài đặt phần mềm).
Như vậy, năm 2004 cùng với việc duy trì ổn định các mức lãi suất do Ngân hàng Nhà
nước công bố như lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, Ngân hàng Nhà nước đã sẵn
sàng hỗ trợ thanh khoản với chi phí thấp qua các kênh nhất là nghiệp vụ thị trường
mở, đã góp phần duy trì ổn định lãi suất thị trường và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
- Điều hành tỷ giá: Trong năm 2004, Ngân hàng Nhà nước đã điều hành tỷ giá linh
hoạt sát với cung cầu thị trường, phát huy lợi thế cho hoạt động xuất khẩu mà vẫn
không để hoạt động nhập khẩu gặp khó khăn. Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước đã can
thiệp trên thị trường ngoại hối vào những thời điểm thích hợp, góp phần ổn định tỷ giá
và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động thanh toán quốc tế. Bên cạnh đó, Ngân hàng
Nhà nước cũng không ngừng hoàn thiện các công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá như
chỉnh sửa các quy định về tỷ giá kỳ hạn theo hướng ngày càng tự do hóa để chu
chuyển ngoại tệ đạt đến trạng thái cân bằng, tạo điều kiện thông thoáng về giao dịch
hoán đổi.
Về cơ bản, cơ chế điều hành tỷ giá đã đảm bảo một ngang giá trung tâm dịch chuyển
trong vùng ngang giá tiền tệ dựa trên quan hệ đầu tư, thương mại của Việt Nam và
của các nước, tách rời neo buộc của VND vào USD để tiến đến gắn kết một rổ tiền tệ.
Cùng với các giải pháp điều hành công cụ chính sách tiền tệ nêu trên, tỷ giá cũng
Trang 59
được duy trì ổn định (tỷ giá trên thị trường liên Ngân hàng tăng 0.84%). Việc duy trì
ổn định tỷ giá đã tác động mạnh đến tâm lý của người dân và nhà đầu tư, hạn chế
chuyển dịch từ VND sang ngoại tệ. Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện
tốt vai trò người mua bán cuối cùng trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, đáp ứng
kịp thời và đầy đủ các nhu cầu về ngoại tệ của nền kinh tế. Thêm vào đó, lượng kiều
hối tăng mạnh hơn so với năm 2003 đã góp phần giữ được ổn định tỷ giá.
- Giai đoạn 2004 – 2005:
Trong kỳ họp thứ 5 của Quốc hội giữa năm 2004, hội đồng chính sách tiền tệ của
Chính phủ đã công bố: Trong bối cảnh 5 tháng đầu năm giá cả đã tăng ở mức 6.3%,
đây là vấn đề quan trọng phải xem xét nguyên nhân từ đầu để sớm có ngay biện pháp
khắc phục vì mức tăng này vượt nhiều so với mục tiêu kiểm soát của Nhà nước, ảnh
hưởng tới nhiều mặt sản xuất cũng như sinh hoạt trong cuộc sống. Nhưng khi đánh
giá vấn đề lạm phát, giá cả phải tôn trọng những nguyên tắc thị trường và các quy luật
hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam. Trên thực tế quý III, quý IV năm 2004 đã kiểm
soát được lạm phát ở mức 5%. Và bởi vì, mặt bằng giá của năm 2004 đã cao, khả
năng tiếp tục tăng cao nữa khó xảy ra. Ngay cả những biến động về giá dầu mỏ, dù
khó dự báo nhưng sẽ không có những biến động có thể tạo thành cú sốc ảnh hưởng
đến kinh tế. Hay những tác động rải rác của dịch cúm gia cầm vẫn còn, nhưng sẽ khó
bùng phát trên diện rộng nên không ảnh hưởng nhiều tới mức tăng giá lương thực,
thực phẩm. Vì vậy, tốc độ tăng của lạm phát ở năm 2005 sẽ ở mức vừa phải, không
vượt quá tầm kiểm soát hoặc mức tăng trưởng, có thể dưới 1-2%.
Về chính sách tiền tệ, Nhà nước sẽ vẫn thực hiện bình thường các chính sách đã đề ra
từ đầu năm 2005, có bổ sung một số giải pháp nhưng thực sự không làm thay đổi
mạnh các chủ trương tiền tệ. Trong năm 2004 tình hình cũng vậy, thay đổi đáng kể
nhất chỉ là tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên một chút vào tháng 7. Những biện pháp cơ
bản vẫn giữ nguyên, việc duy trì tỷ lệ tăng trưởng tín dụng 25% không phải giữa năm
mới đưa ra, đó là kế hoạch từ đầu năm.
Tương tự, tỷ giá hối đoái sẽ giữ tương đối ổn định, đây cũng là “chuyện” tuyên bố hồi
đầu năm. Tỷ giá đến cuối năm 2004, trên thị trường liên ngân hàng chỉ là 0.7%, trên
thị trường tự do chỉ 0.3%. Điều này đã làm dịu bớt tác động xấu của hàng nhập khẩu.
Ngoài ra, Chính phủ chủ trương không mua dự trữ ngoại tệ nếu thị trường không thực
sự thừa, và sẵn sàng bán đi để đáp ứng nhu cầu nếu cung cầu căng thẳng và không gây
khan hiếm giả tạo. Việc tăng lãi suất cũng sẽ khó được tính đến vì sẽ ảnh hưởng đến
Trang 60
tăng trưởng, lại không có lợi cho tâm lý nhân dân, doanh nghiệp. Vì vậy, cuối cùng,
chỉ cần thực hiện các biện pháp điều hành vĩ mô mà đã “giữ” được như tình hình quý
III, quý IV thì hoàn toàn có thể kiểm soát được lạm phát, duy trì được mức tăng
trưởng bền vững.
Trong năm 2004, lãi suất có xu hướng tăng lên, nhưng nhẹ, lãi suất VND tăng khoảng
0.3 - 0.6%. Lãi suất ngoại tệ phụ thuộc nhiều vào lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang
Mỹ và thị trường quốc tế nên đã có tăng lên vào giai đoạn cuối năm và xu hướng điều
chỉnh lãi suất của Cục dự trữ Liên bang Mỹ là rõ rệt. Đến năm 2005, để đáp ứng được
yêu cầu tăng trưởng kinh tế là 8.5% thì một trong những kênh huy động vốn qua Ngân
hàng và vẫn là kênh chủ yếu làm cho cầu về vốn tín dụng tăng lên. Theo nguyên tắc
thị trường, cầu tăng thì lãi suất – giá đồng vốn – sẽ tăng. Đồng thời, trong năm 2004
lạm phát tăng tương đối cao so với mục tiêu đề ra. Từ đó tác động đến tâm lý người
dân trong việc cân nhắc đầu tư vào đồng tiền nào cho có lợi. Sự chuyển dịch nhất định
từ VND sang USD đã thể hiện nhưng không gây đảo lộn lắm về luồng vốn vì tỷ trọng
huy động USD trong tổng lượng tiền gửi của dân cư năm 2004 vẫn thấp hơn những
năm trước đó; và nhất là đồng USD xuống giá vào cuối năm và tỷ giá đồng USD gần
như không thay đổi so với đầu năm cũng đã ngăn chặn được xu hướng chuyển dịch
đó. VND tuy có hiện tượng tăng giá mạnh trong 6 tháng đầu năm, nhưng kể từ quý
II/2004, mức độ tăng giá đã thấp hơn nhiều so với lãi suất Ngân hàng. Do đó, xu
hướng tăng tiền gửi nội tệ lại tiếp tục trở lại. Và tính cả năm 2004, việc huy động
VND cũng đã tăng 22% so với đầu năm. Do đó, nếu điều hành chính sách vĩ mô năm
2005 không tốt thì sẽ có sự cân nhắc và chuyển dịch đồng tiền nhất định.
Nói tóm lại, về xu hướng lãi suất, lãi suất tiền gửi lẫn lãi suất cho vay sẽ tăng lên,
nhưng tăng lên ít chứ không nhiều. Ngày 15/1/2005 Ngân hàng Nhà nước nâng lãi
suất tái chiết khấu và tái cấp vốn lên 0.5%; lãi suất tái chiết khấu sẽ là 5.5% và lãi suất
tái cấp vốn là 3.5%, nhằm khẳng định các Ngân hàng phải đáp ứng nhu cầu vốn của
mình bằng việc huy động nhiều hơn vốn của dân cư, doanh nghiệp, giảm bớt chỗ dựa
vào nguồn cho vay tái cấp vốn của Ngân hàng.
Về lãi suất cơ bản, do lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước không phải dùng để
điều chỉnh lượng tiền tái cấp vốn, cũng không phải quyết định cho vay của các tổ
chức tín dụng. lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước là lãi suất cho vay đối với
khách hàng tốt nhất, rủi ro ít nhất, dự án hiệu quả nhất. vì trong năm 2004 có nhiều
diễn biến nhạy cảm. Giá cả tăng, nhu cầu tín dụng cho nền kinh tế cũng tăng và nếu
tùy tiện để lãi suất tăng theo một cách không cần thiết thì có thể gây khó khăn cho
Trang 61
tăng trưởng và tạo ra làn sóng cạnh tranh lãi suất để huy động vốn, từ đó đẩy mặt
hàng lãi suất lên cao quá mức cần thiết. Do đó, trong năm 2005, Ngân hàng Nhà nước
sẽ đưa ra một lãi suất cơ bản đúng hơn, phù hợp hơn với Ngân hàng Trung ương. bởi
vì hiện nay, các Ngân hàng Trung ương dùng lãi suất cơ bản không phải là của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam công bố mà thường dùng lãi suất trên thị trường liên ngân
hàng của Ngân hàng Trung ương làm lãi suất cơ bản.
Nhìn chung trong năm 2005, giá trị đối ngoại của đồng tiền Việt Nam ổn định, sự thay
đổi so với đôla Mỹ chỉ xoay quanh mức 1%. Về đối nội, mục tiêu kiểm soát mức tăng
giá dưới 6.5% như Quốc hội đã quyết là thực hiện được. Dự trữ ngoại hối không đến
nỗi quá mỏng. Việc điều chỉnh lãi suất cơ bản được xem xét thận trọng, mặt bằng lãi
suất khá hợp lý. Các Ngân hàng nếu cần vốn có khả năng tăng lãi suất huy động,
nhưng không cạnh tranh bằng tăng lãi suất. Ngân hàng Nhà nước sẵn sàng cho vay tái
cấp vốn trong khuôn khổ luật pháp. Trong năm 2005 các Ngân hàng cũng thực hiện
tốt công tác an toàn giao dịch. Các ngân hàng muốn mở chi nhánh thì chi nhánh đó
phải nối mạng trực tiếp với Hội sở. Các ngân hàng phải áp dụng chuẩn mới về phân
loại nợ. Gia hạn nợ là quyền của tổ chức tín dụng nợ, không phải xin. Nợ đã gia hạn
phải chuyển sang nợ quá hạn. Ngân hàng trích dự phòng rủi ro ngay khi cho vay,
không phải cuối năm có lãi mới trích.
- Giai đoạn 2005 – 2006:
Có thể nói năm 2005 là năm mà nước ta đạt được nhiều thành tựu đáng kể: Năm 2005
là năm đầu tiên kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt và vượt ngưỡng 30 tỷ USD, lớn
gấp đôi so với năm 2001. Mức xuất khẩu cao nhất mà kế hoạch 2001-2005 đề ra cho
năm 2005 là 30.4 tỷ USD, mà thực tế đạt trên 32 tỷ USD. Xuất khẩu lao động tiếp tục
gia tăng về số lượng rộng mở về thị trường. Lượng kiều hối gửi về năm 2005 đạt gần
4 tỷ USD, lớn gấp 1.2 lần tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thực hiện trong
năm 2005.
Với sự ra đời trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội và sự góp mặt ngày càng đông
các doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa và các nhà đầu tư nước ngoài, thị trường
chứng khóan Việt Nam đang bước sang trang mới. Đặc biệt, lần đầu tiên trái phiếu
Chính phủ Việt Nam được thị trường tài chính quốc tế chào đón, với tổng giá trị 750
triệu USD trái phiếu đã được bán hết rất nhanh với lãi suất khá thấp. Năm 2005 còn là
năm thượng đỉnh thu hút vốn FDI và ODA (khoảng 5.8 tỷ USD vốn FDI, cao nhất từ
Trang 62
1997 đến nay và 3.74 tỷ USD vốn ODA được cam kết là mức cao nhất kể từ trước tới
nay).
Chính nhờ GDP năm 2005 ước tăng 8.4% so với năm 2004 mà tăng trưởng GDP bình
quân của thời kỳ kế hoạch 2001-2005 đạt 7.5%/năm. Ngoài yếu tố năng động, sáng
tạo trong công tác lãnh đạo, điều hành của các cấp chính quyền và doanh nghiệp, phải
kể đến yếu tố vốn đầu tư. Năm 2005 thực hiện vốn đầu tư phát triển toàn xã hội đạt
mức cao chưa từng có, bằng 36.8% GDP. Đó là nỗ lực to lớn của toàn dân, trong khi
GDP bình quân đầu người năm 2005 mới đạt khoảng 640 USD, thuộc nhóm nghèo
nhất của thế giới. Tuy vậy, chất lượng cuộc sống của nhân dân thời gian qua không
ngừng được cải thiện, đặc biệt là đời sống đồng bào vùng sâu, vùng xa. Đó chính là
bằng chứng có giá trị thuyết phục nhất để các tổ chức quốc tế, các nhà đầu tư nước
ngoài hướng mạnh tới Việt Nam.
Tiếp theo những kết quả đã đạt được trong năm 2005, tình hình trong năm 2006 cũng
diễn ra trong bối cảnh khá sô đông, và cụ thể như sau:
Giá vàng trên thị trường trong nước và thị trường thế giới biến động mạnh, tác động
nhất định đến một bộ phận dân cư, cũng như tiết kiệm, chi tiêu và đầu tư của họ. Giá
dầu thô, cùng với nó là giá xăng dầu trong 6 tháng đầu năm 2006 biến động mạnh. Lãi
suất chủ đạo USD của Cục dự trữ Liên bang Mỹ - FED trong 6 tháng đầu năm liên tục
được điều chỉnh tăng cao lên tới 5.25%, cao nhất trong vòng 5 năm qua kể từ tháng 1-
2001. Theo đó, lãi suất trên thị trường thế giới tăng cao trong 6 tháng đầu năm và ổn
định trong những tháng cuối năm. Đồng đôla Mỹ có xu hướng mất giá so với Euro và
một số đồng tiền chủ chốt khác. Đồng Nhân dân tệ của Trung Quốc tăng giá. Việt
Nam chính thức trở thành thành viên của WTO. Thiên tai, dịch bệnh đối với mùa
màng và gia súc xảy ra ở nhiều nơi. Giá bán lẻ xăng dầu trong nước, giá một số mặt
hàng biến động mạnh.
Những diễn biến vĩ mô nói trên ảnh hưởng không nhỏ đến điều hành chính sách tiền
tệ và hoạt động Ngân hàng. Song với nghệ thuật điều hành chính sách tiền tệ thận
trọng và linh hoạt, hệ thống Ngân hàng tiếp tục đổi mới mạnh mẽ theo yêu cầu hội
nhập và an toàn, nên trong năm 2006, điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động Ngân
hàng ở nước ta đã đóng góp vai trò hàng đầu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đạt
8.17%/năm, chỉ số tăng giá tiêu dùng CPI dừng ở mức 6.6% so với mức tăng 8.4%
của năm 2005, khoảng 1.6 triệu người được tạo việc làm mới… Bên cạnh đó đồng
tiền Việt Nam ổn định, tỷ giá VND/USD chỉ tăng 1.0%, hệ thống Ngân hàng phát
Trang 63
triển vững chắc lên một trình độ mới, uy tín trong nước và trên thị trường tài chính
quốc tế ngày càng được nâng cao.
Do đó, ta có thể điểm qua một số các công cụ mà Chính phủ đã áp dụng để điều hành
chính sách tiền tệ như sau:
Lãi suất có xu hướng biến đổi trái chiều: Các loại lãi suất do Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam công bố giữ ổn định trong suốt cả năm 2006. Lãi suất cơ bản duy trì ở mức
8.25%/năm, lãi suất tái cấp vốn 6.5%/năm và lãi suất chiết khấu 4.5%/năm. Song lãi
suất một số thị trường do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam điều hành thì lại giảm
mạnh. Lãi suất thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc Nhà nước giảm từ 6.3%/năm
thời điểm đầu tháng 1-2006 xuống còn 3.35%/năm thời điểm giữa tháng 12-2006, lãi
suất nghiệp vụ thị trường mở cũng giảm từ 6.0%/năm thời điểm đầu năm xuống còn
0.90%/năm trong tháng 12-2006. Trong khi đó lãi suất huy động vốn và lãi suất cho
vay của các Ngân hàng Thương mại trên thị trường thì tăng khá.
Về lãi suất huy động vốn ngoại tệ: Trong 6 tháng đầu năm 2006, FED thực hiện 4 lần
điều chỉnh tăng lãi suất chủ đạo từ mức 4.25%/năm trong tháng 12-2005, lần lượt và
từ tháng 6-2006 tăng lên mức 5.25%/năm. Mức lãi suất này được giữ ổn định cho đến
hết năm 2006. Phù hợp với diễn biến trên thị trường quốc tế, lãi suất huy động vốn
USD của các Ngân hàng Thương mại trong nước cũng thường xuyên được điều chỉnh
tăng lên, từ mức cao nhất 4.0%/năm thời điểm đầu năm, đến cuối năm 2006 tăng lên
5.0%-5.2%/năm. Cá biệt Ngân hàng Công thương Việt Nam phát hành trái phiếu USD
ở mức 5.5%/năm.
Về lãi suất cho vay vốn bằng ngoại tệ: cũng được điều chỉnh tăng, nhưng tăng chậm
hơn so với lãi suất huy động vốn. Thời điểm tháng 12-2006, lãi suất cho vay vốn USD
cộng cả phí phổ biến ở mức 6.0%/năm, cao nhất cũng không vượt quá 7.5%/năm.
Về lãi suất huy động vốn nội tệ - đồng Việt Nam: thì tăng khá, tăng mạnh nhất là khối
Ngân hàng Thương mại cổ phần. Bình quân lãi suất huy động vốn nội tệ trong năm
2006 tăng 0.8%-10%/năm. Thời điểm tháng 12-2006, lãi suất huy động vốn nội tệ cao
nhất lên tới 0.90%/tháng, tương đương 10.8%/năm. Mức lãi suất hấp dẫn này thuộc về
nhiều Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở, một số Ngân hàng Thương mại cổ phần và Sở
giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam.
Về lãi suất cho vay vốn bằng nội tệ: cũng tăng chậm hơn so với lãi suất huy động vốn
nội tệ, mức tăng bình quân chỉ có 0.5%-0.6%/năm. Thời điểm tháng 12-2006 lãi suất
cho vay cao nhất là 1.35%-1.40%/tháng. Mức lãi suất cho vay phổ biến là 1.1%/tháng.
Trang 64
Tỷ giá ổn định, dù đôla Mỹ biến động mạnh: Trên thị trường quốc tế, đồng đôla Mỹ
có sự biến động mạnh theo chiều hướng giảm giá so với các đồng tiền chủ chốt khác.
Chính phủ Trung Quốc điều chỉnh theo hướng tăng giá đồng Nhân dân tệ. Giá vàng
cũng biến động mạnh. Tuy nhiên tỷ giá giữa đồng Việt Nam so với USD trên thị
trường liên ngân hàng chỉ tăng 1.36%.
Tỷ giá trên thị trường giao dịch giữa các Ngân hàng Thương mại và khách hàng tương
đối ổn định, chỉ tăng khoảng 0.88% trong cả năm 2006. Trong khi đó tỷ giá trên thị
trường tự do có biến động lớn hơn, nhưng mức tăng cả năm 2006 cũng chỉ dừng ở tỷ
lệ 1.0%. Trên cả ba thị trường, tỷ giá lần đầu tiên vượt qua ngưỡng 16000VND/USD.
Riêng tỷ giá trên thị trường tự do đầu tháng 1-2006 dao động quanh mức
15.980VND/USD, trong tháng 12-2006 dao động quanh mức 16.100VND/USD. Tuy
nhiên cá biệt có thời điểm trong năm 2006 tỷ giá VND/USD trên thị trường tự do ở
nước ta lên tới mức đỉnh điểm 17.200VND/USD vào ngày 9-5-2006, so với mức
trước đó chưa vượt mức 16.000VND/USD và sau thời điểm đó lại giảm mạnh và dao
động quanh mức 16.100VND/USD cho đến cuối năm 2006.
Để ổn định tỷ giá, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục duy trì tỷ lệ biên độ giao dịch trong
mua bán ngoại tệ của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng được giữ ổn định như
các năm trước đây là +/-0.25% và từ đầu năm 2007 được nới rộng tăng lên +/-0.5%.
Bên cạnh đó Ngân hàng Nhà nước chủ động sẵn mua bán can thiệp trên thị trường
ngoại tệ liên ngân hàng, thông qua đó tăng cường Quỹ dự trữ ngoại tệ quốc gia lên 2.5
tỷ USD so với mức 2.0 tỷ USD của năm 2005, tương đương khoảng 12 tuần nhập
khẩu.
Tỷ giá ổn định còn được hỗ trợ bởi quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường cải
thiện. Mặc dù thâm hụt cán cân thương mại ước tính cả năm 2006 lên tới khoảng 5 tỷ
USD do kim ngạch nhập khẩu tăng nhanh và lớn hơn nhiều kim ngạch xuất khẩu,
nhưng do thặng dư cán cân vốn, nên thâm hụt cán cân vãng lai hầu như không còn.
tính chung cán cân thanh toán tổng thể năm 2006 thặng dư khoảng 3.4 tỷ USD, 1.3 tỷ
USD so với mức thặng dư của năm 2006 là 2.1 tỷ USD. Nguyên nhân chủ yếu là do
nguồn thu ngoại tệ từ kiều hối ước tính cả năm 2006 đạt khoảng 4.2 tỷ USD, trong đó
khoảng 80% được chuyển qua kênh Ngân hàng. Nguồn thu từ khách du lịch quốc tế
và người nước ngoài đến Việt Nam học tập, công tác, làm việc… cũng tăng nhanh.
Nguồn vốn ngoại tệ nước ngoài chuyển vào đầu tư chứng khoán trên thị trường chính
thức và thị trường phi tập trung, để mua cổ phiếu tăng vốn của các doanh nghiệp cổ
phần. Số vốn ngoại tệ đó được chuyển sang đồng Việt Nam. Nhìn chung thị trường
Trang 65
chứng khoán và thị trường cổ phiếu giao dịch OTC phát triển, một lượng vốn đáng kể
trước đây nằm dưới dạng ngoại tệ nay được chuyển sang đồng Việt Nam để đầu tư
vào cổ phiếu và chứng khoán. Quỹ dự trữ ngoại tệ quốc gia được tăng cường, đạt 13
tỷ USD, tương đương khoảng trên 20 tuần nhập khẩu. Tỷ giá ổn định tạo thuận lợi
cho cả nhập khẩu, xuất khẩu và vay nợ nước ngoài. Đồng thời hạn chế tình trạng đôla
hóa.
Ổn định tỷ lệ dự trữ bắt buộc: Theo mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ được đặt ra
từ đầu năm, trong năm 2006, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiếp tục giữ ổn định tỷ lệ
dự trữ bắt buộc đối với cả tiền gửi nội tệ và ngoại tệ. Mặc dù là trong 6 tháng đầu năm
lãi suất tiền gửi ngoại tệ tăng khá và lên mức cao, một số dự đoán cho rằng Ngân hàng
Nhà nước sẽ tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc tiền gửi ngoại tệ để kiềm chế các Ngân hàng
Thương mại tăng cường huy động vốn ngoại tệ vì lo ngại tình trạng đôla hóa tài sản
nợ trong hệ thống Ngân hàng. Song Ngân hàng Nhà nước vẫn kiên trì, giữ nguyên tỷ
lệ tiền gửi dự trữ bắt buộc cả nội tệ và ngoại tệ như năm 2005, tạo khoảng cách nhất
định so với lãi suất tiền gửi nội tệ, hạn chế tình trạng dịch chuyển từ đồng Việt Nam
sang USD do lãi suất USD tăng khá và hấp dẫn.
Đấu thầu tín phiếu kho bạc thành công: Năm 2006 được đánh giá là thành công cao
của thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc. Bởi vì trong điều kiện tốc độ tăng trưởng
huy động vốn của các Ngân hàng Thương mại tăng nhanh hơn nhiều nước trước, các
kỳ hạn vốn huy động đa dạng hơn và chiến lược đa dạng danh mục tài sản cầm cố,
phân tán rủi ro, nên thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc Nhà nước được các Ngân
hàng Thương mại, nhất là các Ngân hàng Thương mại Nhà nước sử dụng nhiều hơn,
với tần suất và khối lượng lớn hơn. Do đó, trong năm 2006 hầu hết các phiên đấu thầu
tín phiếu kho bạc có kết quả trúng thầu và trúng thầu với khối lượng lớn. Cũng do nhu
cầu mua tín phiếu kho bạc Nhà nước của các Ngân hàng Thương mại tăng lên, nên lãi
suất trúng thầu có xu hướng giảm và giảm nhanh càng về các phiên cuối năm. Nó cho
thấy một nghịch lý là lãi suất huy động vốn trên thị trường của các Ngân hàng
Thương mại có xu hướng nóng lên thì lãi suất trúng thầu tín phiếu kho bạc lại giảm
thấp. Cũng chính do nhu cầu mua tín phiếu lớn, nên mới đến đầu tháng 11-2006, kế
hoạch phát hành tín phiếu kho bạc Nhà nước qua đấu thầu tại Ngân hàng Nhà nước đã
hoàn thành kế hoạch cả năm. Tính tổng cộng trong năm 2006, Ngân hàng Nhà nước tổ
chức được 52 phiên đấu thầu tín phiếu kho bạc Nhà nước, với tổng khối lượng tín
phiếu trúng thầu là 22.075 tỷ đồng, lãi suất trúng thầu giảm từ 6.3%/năm trong thời
điểm đầu năm, xuống còn 3.35% trong tháng 11 và 12/2006.
Trang 66
Cùng với thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc, thị trường mở cũng được các Ngân
hàng Thương mại sử dụng thường xuyên. Do chiến lược linh hoạt sử dụng vốn và
kinh doanh vốn một cách có hiệu quả, nên khi có nhu cầu vốn cho thanh toán, các
Ngân hàng Thương mại đã đem giấy tờ có giá đến giao dịch trên thị trường mở để bán
lại cho Ngân hàng Nhà nước. Khối lượng giao dịch của nghiệp vụ thị trường mở năm
2006 cũng tăng cao so với năm 2005 và lãi suất trúng thầu cũng giảm thấp. Tổng khối
lượng trúng thầu Ngân hàng Nhà nước mua vào tín phiếu và cung ứng vốn khả dụng
cho các Ngân hàng Thương mại là 26.332 tỷ đồng; trong khi đó khối lượng trúng thầu
Ngân hàng Nhà nước bán ra tín phiếu và thu hồi vốn về là 86.302 tỷ đồng. Lãi suất
trúng thầu giảm từ 6.0%/năm thời điểm đầu năm xuống còn 0.90% thời điểm cuối
năm 2006.
- Giai đoạn 2006 – 2007:
Vào năm 2007, khi chỉ số giá tăng đột biến, những người có trách nhiệm trong việc
điều hành chính sách tiền tệ và giá cả cho rằng nguyên nhân chính là do những yếu tố
khách quan chứ không phải do nguyên nhân tiền tệ.
Từ đầu năm 2007, luồng vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp sau khi Việt Nam gia nhập
WTO đã tăng lên nhanh chóng đã tạo sức ép tăng giá tiền đồng và một mặt gây khó
khăn cho việc điều hành chính sách tiền tệ và giám sát tài chính, đặc biệt trong bối
cảnh thị trường chứng khoán tăng trưởng rất khả quan. Do Việt Nam muốn giữ được
một tỷ giá tương đối cạnh tranh, vì vậy Nhà nước đã mua tiền vào, làm tăng dự trữ
ngoại tệ, nhưng mặt khác cũng làm cho lượng cung ứng tiền về lớn, dẫn đến cân đối
cung – cầu ngoại tệ thay đổi, gây áp lực lạm phát. Để giải quyết vấn đề, hàng loạt biện
pháp nhằm rút bớt tiền ra khỏi lưu thông để giảm sức tăng của giá cả đã được đưa ra.
cụ thể như sau:
- Thông qua nghiệp vụ thị trường mở, Ngân hàng Nhà nước đã hút được một lượng
tương đối lớn vốn khả dụng dư thừa của các tổ chức tín dụng, đồng thời vẫn điều tiết
kịp thời sự thiếu hụt vốn mang tính thời điểm của một số tổ chức tín dụng, đảm bảo
duy trì ổn định tiền tệ, ổn định lãi suất thị trường.
- Điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng gấp 2 lần so với mức của năm 2006 để
hạn chế mức độ dư thừa vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng, qua đó hạn chế tăng
trưởng tín dụng vào những lĩnh vực kém hiệu quả, giảm sức ép tăng lạm phát trong
những tháng cuối năm.
Trang 67
- Giữ ổn định các mức lãi suất chính thức do Ngân hàng Nhà nước công bố, nhằm
phát tín hiệu ổn định lãi suất thị trường. Đồng thời, trong điều kiện nguồn cung ngoại
tệ dồi dào, từ 01/03/2007, Ngân hàng Nhà nước đã chính thức thực hiện bỏ qui định
về trần lãi suất tiền gửi USD của pháp nhân tại tổ chức tín dụng để hoàn toàn tự do
hóa lãi suất thị trường, phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế.
- Hạn chế cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá, thực hiện cho vay chiết
khấu trong hạn mức phân bổ.
- Điều hành tỷ giá và quản lý dự trữ ngoại hối phù hợp với điều kiện mở cửa thị
trường tài chính.
- Ngay từ đầu năm 2007, Ngân hàng Nhà nước bắt đầu thực hiện nới lỏng biên độ tỷ
giá từ 0,25% lên 0,5% và đến 12/12/2007, tiếp tục nới rộng biên độ lên 0,75%. Đồng
thời Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện việc mua ngoại tệ theo nhu cầu bán của các
Ngân hàng Thương mại, Kho bạc Nhà nước và các tổ chức quốc tế với tỷ giá phù hợp
để hạn chế sức ép tăng giá đồng Việt Nam và tăng cường mức dự trữ ngoại hối Nhà
nước. Chênh lệch giữa tỷ giá mua ngoại tệ của Ngân hàng Nhà nước và tỷ giá bình
quân trên thị trường liên ngân hàng đã được thu hẹp, phản ánh sát cung cầu ngoại tệ
trên thị trường.
- Thực hiện Quyết định số 597/QĐ-TTg ngày 11/5/2007 của Thủ tướng Chính phủ,
Ngân hàng Nhà nước đã duy trì hạn mức Quỹ bình ổn tỷ giá và giá vàng bằng 30%
tổng dự trữ ngoại hối Nhà nước, (xác định theo quý) với biên độ +/- 10% thay vì xác
định hạn mức theo giá trị tuyệt đối như trước đây. Việc xác định hạn mức như vậy
cho phép Ngân hàng Nhà nước tăng cường tính linh hoạt trong điều hành tỷ giá, kịp
thời ứng phó với các rủi ro đảo chiều của các nguồn vốn, đặc biệt là các nguồn vốn
đầu tư gián tiếp của nước ngoài.
- Ngân hàng Nhà nước đã quản lý an toàn dự trữ ngoại hối Nhà nước, đáp ứng mục
tiêu thanh khoản và sinh lời ở mức độ nhất định. Tổng dự trữ ngoại hối Nhà nước tính
theo tuần nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ tăng từ mức 13,6 tuần vào thời điểm cuối
năm 2006 lên gần 18 tuần năm 2007.
- Xây dựng và ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh Ngoại hối; triển
khai thực hiện Đề án nâng cao tính chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam, khắc phục
tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Trang 68
- Thực hiện các giải pháp kiểm soát chất lượng và tốc độ tăng trưởng tín dụng, tăng
tổng phương tiện thanh toán nhằm kiểm soát lạm phát.
- Bên cạnh việc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ để thu hút tiền dư thừa của các
tổ chức tín dụng để hạn chế việc mở rộng quá mức đầu tư tín dụng và tăng tổng
phương tiện thanh toán, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục thực hiện hoàn thiện cơ sở pháp
lý và yêu cầu các tổ chức tín dụng thực hiện các quy định về kiểm soát rủi ro, quy mô,
chất lượng tín dụng và cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán nhằm kiểm soát lạm
phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế như:
+ Yêu cầu các tổ chức tín dụng tiếp tục thực hiện Công văn số 7318/NHNN-CSTT
ngày 25/8/2006 về việc thực hiện một số biện pháp để kiểm soát việc cho vay đầu tư,
kinh doanh chứng khoán ở mức hạn chế và đảm bảo an toàn. Ban hành Chỉ thị
03/2007/CT-NHNN ngày 28/5/2007 về kiểm soát quy mô, chất lượng tín dụng và cho
vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán nhằm kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, trong đó có qui định khống chế dư nợ vốn cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá
để đầu tư kinh doanh chứng khoán ở mức dưới 3% tổng dư nợ tín dụng của tổ chức
tín dụng...
+ Ban hành Quyết định số 03/2007/QĐ-NHNN ngày 19/1/2007 sửa đổi, bổ sung
Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19/4/2005 quy định các tổ chức tín dụng
không được cấp tín dụng cho các doanh nghiệp trực thuộc hoạt động trong lĩnh vực
kinh doanh chứng khoán, không được cho vay không có bảo đảm đối với các khoản
vay nhằm đầu tư, kinh doanh chứng khoán và trong thời hạn 1 năm kể từ ngày Quyết
định 03 có hiệu lực, các tổ chức tín dụng phải điều chỉnh để đáp ứng các quy định
trên.
+ Đồng thời, bổ sung sửa đổi quy định về tín dụng, trích lập và sử dụng dự phòng rủi
ro phù hợp với chuẩn mực quốc tế và yêu cầu tăng cường năng lực tài chính của Ngân
hàng Thương mại khi tính tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, hệ số rủi ro của các khoản cho
vay để đầu tư chứng khoán, các khoản cho vay đối với công ty chứng khoán nhằm
kinh doanh, mua bán chứng khoán được nâng lên mức 150% (theo quy định tại Quyết
định số 457/2005/QĐ-NHNN là 100%).
+ Ban hành văn bản số 3224/NHNN-CSTT ngày 10/4/2007 quy định việc các TCTD
báo cáo định kỳ về hoạt động cho vay đầu tư chứng khoán, cho vay có bảo đảm bằng
cầm cố chứng khoán, ủy thác đầu tư và chiết khấu giấy tờ có giá nhằm phục vụ việc
Trang 69
giám sát thường xuyên hoạt động cho vay đối với nhu cầu vốn này và có các giải pháp
xử lý kịp thời; ban hành Chỉ thị 03/2007/CT-NHNN ngày 28/5/2007 về kiểm soát quy
mô, chất lượng tín dụng và cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán và các văn bản
hướng dẫn lộ thực hiện đối với các NHTM đã cho vay vượt mức khống chế tỷ lệ 3%,
giảm dần cho đến thời điểm 31/12/2007 phải đảm bảo tỷ lệ 3%; tăng cường thanh tra,
giám sát việc mở rộng quy mô và chất lượng tín dụng theo Chỉ thị này.
+ Ban hành Chỉ thị số 06/2007/CT-NHNN ngày 02/11/2007 về yêu cầu các tổ chức
tín dụng và các đơn vị trực thuộc NHNN thực hiện các giải pháp đảm bảo khả năng
thanh toán và kiểm soát tổng phương tiện thanh toán.
+ Tổ chức họp với các Ngân hàng Thương mại và Ngân hàng Nhà nước chi nhánh
Thành phố Hà Nội, Đà Nẵng, Cần Thơ, Hải Phòng và Thành phố Hồ Chí Minh để
triển khai thực hiện các giải pháp cụ thể về tiền tệ, tín dụng. Ngân hàng Nhà nước đã
chỉ đạo các Ngân hàng Thương mại tích cực tham gia nghiệp vụ thị trường mở, điều
chỉnh cơ cấu tín dụng, kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với một số lĩnh vực có độ rủi ro
cao như cho vay để đầu tư, kinh doanh chứng khoán, cho vay kinh doanh bất động
sản, cho vay bằng ngoại tệ, cho vay tiêu dùng.
+ Tiến hành thanh tra tại các tổ chức tín dụng về hoạt động cho vay đầu tư, kinh
doanh chứng khoán, cho vay có bảo đảm bằng cầm cố chứng khoán.
Với việc thực thi chính sách tiền tệ như trên về cơ bản đạt được mục tiêu đề ra là ổn
định tiền tệ, kiềm chế lạm phát, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ vốn tạo môi
trường thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế. Điều này thể hiện ở những kết quả sau:
- Qui mô thị trường tiền tệ mở rộng và ổn định, không để xẩy ra những cú sốc về lãi
suất và tỷ giá trước những biến động khó lường của tình hình thị trường tài chính
quốc tế
+ Lãi suất thị trường liên Ngân hàng mặc dù có biến động mạnh trong vài ngày giữa
tháng 11/2007, song, nhìn chung, mặt bằng lãi suất trong năm ổn định: lãi suất huy
động và cho vay của tổ chức tín dụng vẫn giữ được ổn định và có xu hướng giảm nhẹ
so với cuối năm 2006, tạo điều kiện cho việc huy động vốn và đầu tư cho tăng trưởng
kinh tế. Tính đến cuối tháng 9/2007, huy động vốn của các tổ chức tín dụng tăng
31,2%, ước cả năm tăng 39,6%, cao hơn tốc độ tăng 33,1% của năm 2006; tín dụng
đến cuối tháng 9 tháng tăng 30,9%, ước cả năm tăng 37,8%, cao hơn nhiều so với tốc
độ tăng 22,8% của năm 2006).
Trang 70
+ Tỷ giá danh nghĩa giao động nhẹ và có xu hướng giảm (VND lên giá nhẹ), trong bối
cảnh lạm phát gia tăng đã góp phần tích cực trong việc ổn định lãi suất VND và ổn
định thị trường tiền tệ. Mặt khác, tỷ giá thực thấp hơn tỷ giá hối đoái danh nghĩa trên
thị trường, cho nên tác động khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, hỗ trợ ổn
định lãi suất VND.
- Diến biến tổng phương tiện thanh mặc dù tăng cao, nhưng cơ cấu thay đổi theo
chiều hướng tích cực.
+ Tỷ lệ tiền mặt trên tổng phương tiện thanh toán giảm từ mức 19,3% năm 2006
xuống mức 17,8% năm 2007.
+ Tỷ lệ ngoại tệ trên tổng tiền gửi từ mức 25,9% năm 2007 xuống còn 22,6% năm
2007 - giảm mức độ đô la hoá của nền kinh tế.
- Hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế.
+ Trong hoạt động đầu tư tín dụng của các tổ chức tín dụng có những diễn biến tích
cực, các sản phẩm dịch vụ tín dụng đã được đa dạng hơn nhiều so với những năm
trước đây, nhiều lĩnh vực cho vay đầu tư được mở rộng, các doanh nghiệp vừa và nhỏ
có nhiều điều kiện thuận lợi tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng để phát triển sản xuất,
tạo công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp góp phần ổn định xã hội, cho vay phát
triển nông nghiệp nông thôn, cho vay chính sách hỗ trợ các hộ nghèo, hộ sản xuất
kinh doanh vùng khó khăn cũng được mở rộng, góp phần tích cực thực hiện mục tiêu
xoá đói giảm nghèo. Bên cạnh đó, việc cho vay tiêu dùng cũng được mở ra rất đa
dạng đáp ứng đầy đủ các nhu cầu của xã hội.
+ Tín dụng đầu tư vào thị trường chứng khoán được kiểm soát chặt chẽ và giảm dần
cả số tuyệt đối và tỷ lệ dư nợ qua các tháng, góp phần thúc đẩy thị trường chứng
khoán phát triển ổn định. Tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản cũng được theo dõi,
giám sát chặt chẽ nhằm góp phần hạn chế những tiềm ẩn rủi ro trong hoạt động ngân
hàng và thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển bến vững.
+ Chất lượng tín dụng được cải thiện: Tỷ lệ nợ xấu tháng 9/2006 là 2,2%, có xu
hướng giảm so với tỷ lệ nợ xấu tháng 12/2006 (2,64%), trong đó tỷ lệ nợ xấu của các
nhóm tổ chức tín dụng đều giảm. Cụ thể là: tỷ lệ nợ xấu của các Ngân hàng Thương
mại nhà nước là 2,8% (giảm 0,4%); tỷ lệ nợ xấu của các Ngân hàng Thương mại cổ
phần là 1,26% (giảm 0,34%); tỷ lệ nợ xấu của các Ngân hàng Liên doanh và Chi
Trang 71
nhánh nước ngoài là 0,8% (giảm 0,4%); tỷ lệ nợ xấu của các tổ chức tín dụng khác là
2,4% (giảm 0,5%).
Lạm phát giai đoạn 1995-2007, tính theo chỉ số giá tiêu dùng tháng 12 mỗi năm so
với tháng 12 năm trước. (Nguồn: Tổng cục Thống kê)
Trang 72
0.00%
1.00%
2.00%
3.00%
4.00%
5.00%
6.00%
7.00%
8.00%
9.00%
10.00%
Ja
n-
05
A
pr
-0
5
Ju
l-0
5
O
ct
-0
5
Ja
n-
06
A
pr
-0
6
Ju
l-0
6
O
ct
-0
6
Ja
n-
07
A
pr
-0
7
Ju
l-0
7
O
ct
-0
7
Ja
n-
08
Lãi suất cơ bản
Lãi suất tái cấp vốn
Lãi suất chiết khấu
Lãi suất đấu thầu
Lãi suất thị trưởng mở
Biểu đồ so sánh các loại lãi suất theo thời gian
Biểu đồ so sánh lãi suất giữa các quốc gia qua các mốc thời gian
Quốc gia Lãi suất cuối
2006
Lãi suất cuối
2007
Lãi suất tháng 2-
2008
Mỹ 5,25 4,25 3,0
Khu vực đồng tiền
châu Âu
3,5 4,0 4,0
Anh 5,0 5,50 5,25
Nhật 0,25 0,5 0,5
Canada 4,25 4,25 4,0
Úc 6,25 6,75 7,0
Hàn Quốc 4,50 5,00 5,00
Trung Quốc 6,12 7,47 7,47
Thái Lan 5,00 3,25 3,25
Indonesia 9,75 8,00 8,00
Phillipines 7,50 5,25 5,00
Ấn Độ 6,00 6,00 6,00
Các số liệu được đo lường theo đơn vị phần trăm (%)
Nguồn: Tổng hợp từ Reuters, Financial Times và FXStreet.com
Trang 73
Biểu đồ so sánh CPI của các quốc gia trong năm 2007
So sánh tốc độ tăng trưởng cung tiền và tăng trưởng GDP của ba nước, lấy mốc năm
2004 bằng 100%. Cung tiền đo bằng M2 (gồm tổng tiền mặt và tiền gửi ngân hàng)
(Nguồn: Số liệu Thống kê tài chính quốc tế của Tổ chức Tiền tệ Quốc tế, riêng số liệu
tăng trưởng GDP 6 tháng đầu năm 2007 của Việt Nam và Trung Quốc lấy từ nguồn
Economist Intelligent Unit.)
Biểu đồ chỉ số VN-Index
VN-Index Volume VN-Index
Trang 74
Biểu đồ thể hiện tăng trưởng tín dụng trong giai đoạn 2006-2007
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bai hoan chinh.pdf
- tomtatdetai.pdf