Một trong nguồn tạo kiều hối quan trọng cho đất nước là những lao động
xuất khẩu ra nước ngoài gửi tiền về cho người thân với mục đích cải thiện cuộc
sống quê nhà và góp phần nhỏ bé vào công cuộc xấy dựng đất nước. Điểm nổi
bật về chính sách thu hút kiều hối của Philippines là sự chuyên nghiệp hóa chính
sách xuất khẩu lao động, biến lĩnh vực này trở thành ngành công nghiệp mới, tạo
ra những người lao động chuyên nghiệp, có chuyên môn tốt, trình độ học vấn
cao và lao động chăm chỉ siêng năng. Qua đó thúc đẩy những lao động ở nước
ngoài vừa nâng cao trình độ vừa có điều kiện gửi tiền về nước nhiều hơn.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 156 trang
156 trang | 
Chia sẻ: toanphat99 | Lượt xem: 2626 | Lượt tải: 6 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Chính sách kiều hối của một số nước Châu Á và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hàng hóa trở 
nên rẻ tương đối, khiến các doanh nghiệp tranh thủ nhập hàng nhiều. 
116 
Hình 3.5 : Cán cân thương mại Việt Nam giai đoạn quý I/2005 đến quý IV/2008 
 (Nguồn: Thống kê Tài chính quốc tế IFS) 
 Thứ hai, để can thiệp tránh cho nội tệ lên giá, NHNN phải mua ngoại tệ 
vào, tăng gánh nặng cho NHNN khi chi phí can thiệp tăng. 
Giai đoạn 2006 - 2008, lượng kiều hối và dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài ồ 
ạt chảy vào Việt Nam. Khi lượng kiều hối chảy vào làm nội tệ lên giá và lạm phát 
tăng, NHNN có thể thực thi giải pháp: (1) cho phép tỷ giá giảm; (2) can thiệp để 
ngăn chặn tỷ giá giảm. Thực tế NHNN Việt Nam đã lựa chọn cách thứ hai, can 
thiệp để ngăn ngừa tỷ giá giảm, tránh cho tỷ giá biến động nhiều, gây hậu quả xấu 
xảy ra với NHTM. Trong trường hợp này, NHNN phải mua ngoại tệ vào và bán 
nội tệ ra cùng với nghiệp vụ trung hòa lượng nội tệ tăng lên trong lưu thông. Chi 
phí trung hòa là rất lớn. Thông thường, để trung hòa nội tệ trong lưu thông, 
NHNN phải phát hành tín phiếu NHNN với lãi suất cao. Mức lãi suất cao nhất là 
11,68% ngày 25/3/2010. Trong khi đó, hình thức đầu tư của dự trữ ngoại hối Việt 
Nam còn đơn giản, chủ yếu là dưới dạng tiền gửi tại các ngân hàng và các công cụ 
tài chính như trái phiếu Chính phủ. Bảng 1 cho ta thấy mức chênh lệch giữa chi 
117 
phí NHNN bán TSN nội tệ với lợi tức cao để mua TSC ngoại tệ với lợi tức thấp và 
làm tăng thêm rủi ro lãi suất. Mức chênh lệch càng lớn càng làm cho chi phí can 
thiệp cao lên. Do vậy, can thiệp mua ngoại tệ có thể làm xấu đi nhanh chóng bảng 
cân đối tài sản của NHNN, làm xói mòn tính độc lập và niềm tin vào chính sách 
tiền tệ. 
Bảng 3.1. Chi phí can thiệp của NHNN Việt Nam trên thị trường ngoại hối 
Tài sản /Năm (Đơn vị: %) 2007 2008 
Lãi suất phát hành tín phiếu NHNN bằng VND 7,50 7,80 
Lãi suất tiền gửi JPY 0,80 0,58 
Lãi suất trái phiếu Chính Phủ Nhật 1,65 1,44 
Lãi suất tiền gửi USD 8,16 7,54 
Lãi suất trái phiếu Chính Phủ Mỹ 4,87 3,70 
Lãi suất 3 tháng EUR 3,30 4,00 
(Nguồn: Thống kê tài chính quốc tế - IFS và tổng hợp của tác giả) 
 Bên cạnh đó, nếu NHNN không hút hết lượng VND từ lưu thông, làm tăng 
tổng phương tiện thanh toán, sẽ là một nguyên nhân gây lạm phát cho nền kinh tế. 
Hình 3.6. Mối quan hệ giữa lạm phát và cung ứng tiền M2 từ quý III/2005 đến 
quý I/2010 
 (Nguồn: Thống kê Tài chính quốc tế IFS) 
118 
 Tuy nhiên, trong giai đoạn 2007 - 2008, mọi can thiệp của NHNN là 
không thành công, khi mà tổng phương tiện thanh toán cao kỷ lục. Mặc dù 
thông qua nghiệp vụ thị trường mở đã hút về trên 90% lượng tiền đưa ra, việc 
này vẫn tạo áp lực tăng lạm phát. Đặc biệt, do nền kinh tế Việt Nam có tình 
trạng đô la hóa, nên mức độ tác động của luồng vốn vào càng nhanh và mạnh 
hơn. Cũng trong thời gian này, giá dầu thô và giá các nguyên liệu chủ yếu trên 
thị trường thế giới tăng cao càng tác động làm tăng giá cả trong nước, đặc biệt 
khi nhập khẩu của Việt Nam chiếm tới trên 80% GDP. Hệ quả là trong hai 
năm 2007 và 2008, lạm phát của Việt Nam đã lên 2 con số (lần lượt là 12,63% 
và 19,89%), gây ra bất ổn kinh tế vĩ mô và trực tiếp tác động xấu đến ổn định 
khu vực tài chính. 
 Thứ ba, kiều hối là nguyên nhân làm gia tăng hiện tượng đô la hóa 
nền kinh tế 
 Lượng kiều hối ở Việt Nam có thể được sử dụng theo ba kênh khác nhau: 
(i) Gửi USD vào hệ thống NHTM vừa an toàn vừa được hưởng lãi. Do nhận 
thức của người dân ngày càng nâng cao, hệ thống ngân hàng hoạt động ngày 
càng ổn định và lãi suất USD hấp dẫn nên lượng tiền gửi USD qua hệ thống 
NHTM tăng nhanh. (ii) Cất trữ trong nhà. Nhưng gần đây, do nhiều nhân tố 
thuận lợi như phân tích ở ý trên, người dân có xu hướng gửi USD tại hệ thống 
NHTM thay vì giữ ở nhà. (iii) Sử dụng trong thanh toán đối với khoản thanh 
toán có giá trị lớn như mua nhà, mua xe, đầu tư bất động sản. Nếu như tỷ lệ tiền 
gửi ngoại tệ trên tổng tiền gửi được coi là một chỉ tiêu để đánh giá hiện tượng đô 
la hóa nền kinh tế, thì lượng kiều hối chính thức đã góp phần làm tăng tiền gửi 
ngoại tệ. Chúng ta có thể thấy mối quan hệ mật thiết giữa lượng kiều hối chuyển 
về và lượng tiền gửi ngoại tệ tăng lên trong hệ thống NHTM qua hình 7. 
119 
Hình 3.7: Mối quan hệ giữa kiều hối và tiền gửi ngoại tệ của Việt Nam 
giai đoạn 1996 - 2009 
 (Nguồn: Thống kê Tài chính quốc tế IFS) 
 Song một nghịch lý với Việt Nam là, mặc dù lượng kiều hối chảy vào Việt 
Nam rất lớn, nhưng tỷ lệ tiết kiệm của Việt Nam bằng ngoại tệ không tăng lên. 
Điều này chứng tỏ một lượng kiều hối được dân chúng chuyển vào lưu thông và 
có thể được giao dịch trên thị trường tự do. Ta có thể ước lượng lượng ngoại tệ 
trong lưu thông bằng cách: căn cứ vào mục sai số trong cán cân thanh toán quốc 
tế. Nếu sai số là âm thể hiện bằng lượng ngoại tệ mà hệ thống ngân hàng không 
kiểm soát được và không quay trở lại trong hoạt động ngoại thương hay giao 
dịch vốn quốc tế trong bảng cân đối của NHNN. Do vậy, lượng ngoại tệ này là 
lượng ngoại tệ chuyển vào trong lưu thông. Ngược lại, nếu mục sai số mang dấu 
dương thì nó thể hiện lượng ngoại tệ ra khỏi lưu thông (Nguyễn Thị Hồng 2002). 
 Quan sát hình 8 ta thấy lượng ngoại tệ chảy vào trong lưu thông mà 
NHNN không kiểm soát được rất lớn. Điều này có thể thấy quy mô hoạt động 
của thị trường ngoại hối chợ đen là rất lớn. Lượng ngoại tệ biến động mạnh trong 
120 
hai năm 2008, 2009 ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động của thị trường ngoại hối 
chính thức. 
Hình 3.8: Lượng ngoại tệ trong lưu thông của Việt Nam từ quý I/1996 
đến quý IV/2009 
 (Nguồn: Thống kê Tài chính quốc tế IFS). 
 Vấn đề đôla hóa nền kinh tế gây ảnh hưởng không nhỏ tới việc hoạch định 
thực thi chính sách của NHNN: Ngoại tệ mạnh tất yếu lấn át nội tệ, một mặt, 
làm cho hoạt động của thị trường ngoại tệ gặp khó khăn. Bình thường, NHNN 
can thiệp, duy trì giá trị đối ngoại của nội tệ trên thị trường ngoại hối. Nhưng do 
hiện tượng đôla hóa cao, đại bộ phận ngoại tệ được gửi tại các NHTM không thể 
đem ra bán được. Số ngoại tệ chính thức được mua bán trên thị trường quá ít ỏi, 
cung cầu ngoại tệ giao dịch tẻ nhạt, tỷ giá hối đoái khó phản ánh được đúng thực 
chất giá trị của đồng tiền. Mặt khác, NHNN khó thu hút được lượng ngoại tệ 
nhàn rỗi của nền kinh tế để tăng dự trữ ngoại hối, mặc dầu vấn đề dự trữ ngoại 
hối tương đối là nan giải ở Việt Nam. Do vậy, khi cung - cầu ngoại tệ căng 
121 
thẳng, dự trữ ngoại hối mỏng khó có thể phát huy hiệu lực can thiệp của NHNN 
trên thị trường. Tiếp nữa, lượng ngoại tệ huy động được từ nền kinh tế lại được 
chuyển ra nước ngoài đầu tư, gây bất ổn cung cầu ngoại tệ và tỷ giá. Ngoài ra, 
kết cấu tài khoản tiền gửi bằng ngoại tệ của các NHTM sẽ càng gặp bất ổn do sự 
thay đổi kết cấu tiền gửi của các chủ thể kinh tế, dẫn đến hiện tượng mất ổn định 
trong cung ứng tiền, ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả và sản lượng. 
 Đôla hóa không chính thức ở Việt Nam làm giảm hiệu lực điều hành chính 
sách tiền tệ. Đơn giản là trong nền kinh tế bị đô la hóa, cầu nội tệ không ổn định. 
Nếu nền kinh tế có nhu cầu chuyển đổi từ nội tệ sang ngoại tệ làm cho nội tệ mất 
giá và lạm phát tăng trở lại lưu thông. NHNN lại vất vả chống đỡ can thiệp trên 
thị trường ngoại hối, nhiều khi còn phụ thuộc vào dự trữ ngoại hối của Việt 
Nam. Khi người dân nắm giữ một lượng lớn tiền gửi ngoại tệ, chỉ cần lãi suất nội 
tệ hoặc ngoại tệ thay đổi sẽ dẫn tới sự dịch chuyển lớn từ đồng tiền này sang 
đồng tiền khác, hay còn gọi là đầu cơ tỷ giá. Những thay đổi này sẽ gây khó 
khăn cho NHNN trong việc cung ứng tiền tệ và có thể gây ra bất ổn trong hệ 
thống ngân hàng. 
 Những cố gắng của NHNN nhằm khuyến khích tổng cầu thông qua tăng 
tín dụng cũng đạt ít hiệu quả hơn. Do thay đổi lãi suất ở nước ngoài sẽ tác động 
trực tiếp đến quyết định phân bổ tài sản của những người nắm giữ USD. Bởi khi 
lãi suất USD trên thị trường thế giới tăng hay giảm, người nắm giữ USD quyết 
định nên mở rộng hay thu hẹp tiêu dùng và đầu tư. Như vậy, việc điều hành 
chính sách lãi suất thấp để kích cầu không chắc đã khuyến khích đầu tư mà có 
thể nảy sinh tâm lý chuyển đổi sang USD nhằm bảo tồn giá trị tài sản tài chính. 
 Đô la hóa cũng làm giảm hiệu lực của chính sách tỷ giá. Do trên thị trường 
luôn tồn tại một lượng ngoại tệ lưu thông ngoài hệ thống NHTM, hình thành nên 
thị trường ngoại hối tự do. Nhiều khi tỷ giá trên thị trường ngoại hối tự do biến 
122 
động xa hơn tỷ giá trên thị trường chính thức, gây tâm lý bất ổn trong khu vực 
dân cư, ảnh hưởng đến hiệu lực của chính sách tỷ giá. Thị trường ngoại hối chợ 
đen gây ra tình trạng đầu cơ ngoại tệ của các nhà kinh doanh, các NHTM, của 
dân chúng, của doanh nghiệp tư nhân 
 Thứ tư là, kiều hối và hoạt động rửa tiền: Việt Nam đang trở thành mục 
tiêu của hoạt động rửa tiền vì hệ thống thanh tra, giám sát, hệ thống kế toán và 
tìm hiểu khách hàng của hệ thống ngân hàng còn kém phát triển, mức độ sử dụng 
tiền mặt và các luồng chuyển tiền không chính thức khá lớn khiến cho việc kiểm 
soát các giao dịch, thanh toán trở nên khó khăn. Đặc biệt là trong bối cảnh một 
số năm gần đây, lượng kiều hối tăng nhanh chóng như đã phân tích ở phần trên 
bởi chính sách nhận kiều hối của nước ta ngày càng thông thoáng và cởi mở. 
Năm 2007, Cơ quan bài trừ ma túy Hoa Kỳ, Cảnh sát Hoàng gia Canada và 
Interpol Việt Nam đã đồng phối hợp bóc gỡ một đường dây sản xuất, buôn bán 
trái phép chất ma túy và rửa tiền xuyên quốc gia liên quan đến 24 Việt kiều 
Canada. Kết quả cho thấy từ năm 2000 đến năm 2004, hàng triệu USD đã được 
chuyển về Việt Nam qua các tài khoản ngân hàng. Vào thời gian cao điểm, tổ 
chức này đã chuyển về 190 nghìn USD/ngày. Theo nhận định của Cơ quan 
phòng chống ma túy và tội phạm Liên Hợp Quốc (UNODC), Việt Nam dễ bị tội 
phạm rửa tiền tìm đến do nền kinh tế sử dụng nhiều tiền mặt, cùng với hoạt động 
thương mại và đầu tư ngày càng gia tăng. Chuyển tiền qua con đường kiều hối 
về Việt Nam là con đường nhanh và dễ dàng. Theo Cục phòng chống rửa tiền 
thuộc NHNN ở Việt Nam, khó có thể thống kê chính xác thời điểm hành vi rửa 
tiền xuất hiện, nhưng có những dấu hiệu cho thấy, các nhóm tội phạm quốc tế đã 
nhắm đến Việt Nam để thực hiện hành vi rửa tiền, điều này rõ ràng đã ảnh hưởng 
xấu đến nền kinh tế Việt Nam. 
123 
 Từ những phân tích trên cho thấy, kiều hối có tác động tiêu cực đến sự ổn 
định của kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, trong điều kiện tự do hóa tài chính, chúng ta 
không thể áp dụng các biện pháp hành chính để kiểm soát kiều hối. Nếu vậy, 
Việt Nam không còn là quốc gia hấp dẫn thu hút kiều hối. Vả lại, Việt Nam vẫn 
cần lượng kiều hối để bù đắp thâm hụt cán cân vãng lai và sử dụng kiều hối khi 
nền kinh tế bị thiếu vốn. Vấn đề đặt ra là, làm thế nào để kiểm soát và sử dụng 
có hiệu quả luồng kiều hối để phục vụ mục tiêu theo đúng chính sách kiều hối 
những năm qua đã theo đuổi. 
3.3 Vận dụng bài học kinh nghiệm về thu hút, quản lý và sử dụng có hiệu quả 
nguồn kiều hối của Ấn Độ, Trung Quốc và Philipines trong chính sách 
kiều hối của Việt Nam. 
Tiềm năng của nguồn kiều hối ở Việt Nam là rất lớn. Từ những bài học kinh 
nghiệm về thu hút và sử dụng nguồn kiều hối có hiệu quả của ba quốc gia điển 
hình Ấn Độ, Trung Quốc và Philipines, nhằm khơi thông nguồn lực dồi dào này, 
để thu hút, giám sát và sử dụng có hiệu quả nguồn kiều hối, vấn đề là phải đưa ra 
được một cách đồng bộ các biện pháp hữu hiệu. 
Bài học kinh nghiệm thứ nhất, xuất phát từ kiều hối là nguồn tiền gửi của 
người định cư ở nước ngoài gửi tiền về cho thân nhân trong nước, ba quốc gia Ấn 
Độ, Trung Quốc và Philipines đều chú trọng đến chính sách thu hút kiều bào về 
nước mỗi năm một cởi mở và thông thoáng hơn, nhằm khuyến khích họ chuyển 
tiền kiều hối về nước cải thiện cuộc sống cho người thân nơi quê nhà hoặc đầu tư 
phát triển sản xuất góp phần phát triển kinh tế xã hội đất nước. Trong điều kiện cụ 
thể nền kinh tế Việt Nam, Chính phủ Việt Nam đưa ra một số những biện pháp 
sau: 
Một là, tạo khuôn khổ pháp lý nhằm bảo hộ và tạo điều kiện cho doanh 
nhân, trí thức kiều bào về nước làm việc, đầu tư kinh doanh; khuyến khích việc 
124 
hình thành các hiệp hội chuyên ngành, mở rộng hợp tác trong cộng đồng và với 
trong nước theo tinh thần "ích nước lợi nhà". Chính phủ có những biện pháp 
đồng bộ và có hiệu quả nhằm giảm sự mất cân đối trong đầu tư ở các làng nghề, 
vùng lãnh thổ, gia tăng đầu cơ trên thị trường bất động sản và sự bất ổn trên thị 
trường vốn, hạn chế lạm dụng những ưu đãi về thuế, đất đai. 
Hai là, tích cực hỗ trợ cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài ổn định 
và phát triển, giữ gìn bản sắc dân tộc thông qua việc mở rộng các hoạt động giao 
lưu nhiều mặt giữa cộng đồng người Việt Nam ở trong và ngoài nước, tiếp tục tổ 
chức các trại hè, mở các lớp tiếng Việt cho thanh thiếu niên kiều bào, hỗ trợ xây 
dựng trường học, cung cấp sách giáo khoa. Khuyến khích cộng đồng phát huy 
vai trò cầu nối hữu nghị và quảng bá hình ảnh Việt Nam với bạn bè quốc tế. 
Ba là, đáp ứng những nguyện vọng, lợi ích chính đáng của kiều bào như 
xem xét vấn đề thị thực xuất nhập cảnh, mở rộng đối tượng bảo lãnh hồi hương, 
rút ngắn thời gian giải quyết thôi quốc tịch và xem xét khả năng cho phép kiều 
bào có hai quốc tịch... giải quyết tốt các vấn đề tâm linh, nhân đạo. Chính phủ 
cần có chính sách thông thoáng hơn nữa cho Việt Kiều được mua nhà, mua đất, 
giới hạn về tỷ lệ góp vốn vào các công ty cổ phần, đa dạng hóa các hình thức đầu 
tư và cải cách thủ tục hành chính để thu hút mạnh nguồn kiều hối. 
Bốn là, nguồn kiều hối thể hiện tình cảm sâu nặng của bà con Việt kiều 
đang làm ăn sinh sống ở nước ngoài đối với thân nhân và quê hương, đất nước. 
Chính vì lẽ đó, chính sách của Đảng và Nhà nước cởi mở thông thoáng, khuyến 
khích và tạo điều kiện cho kiều bào ở nước ngoài gửi tiền về giúp gia đình; đảm 
bảo an toàn cho số tiền này; người thân được nhận bằng ngoại tệ không hạn chế, 
tạo điều kiện cho đồng tiền kiều hối có khả năng sinh sôi nảy nở, làm ra thêm 
nhiều của cải cho đất nước. Khi đó, sẽ không chỉ nâng cao hiệu quả của kiều hối 
mà còn tạo động lực thu hút mạnh hơn đối với dòng ngoại tệ về đất nước. 
125 
Năm là, tiếp tục củng cố tổ chức và nhân sự của Ủy ban về người Việt 
Nam ở nước ngoài theo hướng chuyên nghiệp, hiệu quả: tăng cường biên chế 
làm công tác cộng đồng ở các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài nơi có 
đông người Việt sinh sống; tăng cường chi phí, cải thiện cơ sở vật chất, điều kiện 
làm việc để đáp ứng yêu cầu ngày càng gia tăng của công tác vận động cộng 
đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Tạo cơ chế phối hợp công tác giữa Ủy ban 
và các địa phương, các bộ, ngành, giữa trong nước và ngoài nước. 
Bài học kinh nghiệm thứ hai, về sử dụng kiều hối của Trung Quốc để phát 
triển sản xuất thông qua việc hỗ trợ các doanh nghiệp có quy mô nhỏ không đủ 
điều kiện để vay vốn ở các ngân hàng hay các tổ chức tín dụng thông qua các quỹ 
gọi là TVEs (township and village enterprises). Thu hút nguồn kiều hối về nước 
ngày một nhiều hơn là quan trọng, nhưng việc quản lý và sử dụng nguồn tiền này 
như thế nào nhằm phát huy những tác động tích cực và hạn chế những ảnh hưởng 
tiêu cực là một trọng trách có ý nghĩa cả lý luận và thực tiễn. Việt Nam nói riêng 
và các nước đang phát triển nói chung là những quốc gia nghèo, vì vậy nguồn tài 
chính như kiều hối nhằm hỗ trợ cho xóa đói giảm nghèo, đầu tư phát triển sản sản 
xuất là vô cùng quan trọng. Mô hình quỹ TVEs là một mô hình rất hay và hiệu 
quả mà Việt Nam cần tham khảo và học hỏi. Quỹ TVEs là một cách hiệu quả để 
sử dụng kiều hối cho phát triển kinh tế xã hội của đất nước, nâng cao mức sống 
của người dân, tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế. Nếu những quỹ này được 
thành lập và phát triển ở Việt Nam sẽ là một nguồn lực hỗ trợ cho các doanh 
nghiệp vừa và nhỏ phát triển hoạt động kinh doanh sản xuất của mình qua đó có 
thể tạo ra nhiều hàng hóa cho xã hội đồng thời tạo công ăn việc làm cho xã hội. 
Với những quỹ này thì nguồn kiều hối sẽ được sử dụng trực tiếp để tạo ra tổng sản 
phẩm quốc dân cho đất nước thay vì đầu tư vào vàng, ngoại tệ, hay bất động sản, 
những lĩnh vực đầu tư không thúc đẩy phát triển kinh tế. Ngoài ra, những quỹ này 
126 
hoạt động có hiệu quả sẽ có tác dụng thu hút thêm kiều hối cho đất nước vì những 
người Việt Nam ở nước ngoài không chỉ thấy được đây là một kênh đầu tư hiệu 
quả mà còn giupos cho những người xa Tổ quốc thấy tự hào rằng họ đã góp một 
phần nhỏ bé vào công cuộc kiến thiết xây dựng đất nước. 
Bài học kinh nghiệm thứ ba, về thu hút người tài ở nước ngoài về nước 
của chính phủ Trung Quốc. Người định cư ở nước ngoài gửi kiều hối về nước 
được chia làm hai nhóm đối tượng: một là những người định cư dài hạn ở nước 
ngoài có tiềm lực mạnh về kinh tế, có tri thức, có tài và hai là những người xuất 
khẩu lao động thuần túy. Với hai đối tượng này thì tiềm lực kiều hối cho phát triển 
kinh tế xã hội của đất nước thực sự phải xuất phát từ nhóm đối tượng thứ nhất. Vì 
vậy những chính sách thu hút người tài của Trung Quốc là những bài học đáng 
quý cho chính sách kiều hối của Việt Nam. Để thu hút người tài ở nước ngoài đầu 
tư về quê hương nhằm cải thiện đời sống quê nhà và phát triển kinh tế xã hội, một 
số biện pháp như: 
Một là, Nhà nước cần có chính sách thông thoáng và rộng rãi hơn nữa, 
mạng lưới thông tin minh bạch rõ ràng hơn để nhiều doanh nhân là kiều bào từ 
các nước trên thế giới đầu tư về quê hương. Ngoại trừ các thành phố lớn, hiện tại 
không ít các địa phương vẫn còn có quan niệm dự án kiều bào là vốn đầu tư 
nước ngoài, thậm chí doanh nhân đứng tên dự án vẫn còn mang quốc tịch Việt 
Nam. Điều này hiển nhiên gây khó khăn cho doanh nghiệp về nhiều mặt như thủ 
tục, thuế, và các cách đối đãi không công bằng. Hơn nữa hạ tầng cơ sở cho các 
hoạt động nghiên cứu sáng tạo trong nước và hạ tầng về chính sách, quy định, 
đặc biệt là về các ưu đãi cụ thể dành cho trí thức cần được quan tâm sâu sắc. 
Hai là, kêu gọi kiều bào tham gia đầu tư vào các dự án lớn tại Việt Nam 
như Bãi biển Rồng tại Quảng Nam (4,15 tỷ USD), dự án khu du lịch và giải trí 
Vinpearl Land (Đảo Hòn tre - Nha Trang), dự án Thành phố Sáng tạo tại Phú 
127 
Yên, dự án khu dân trí đa năng Saigon Atlantic do tập đoàn Winvest LLC của 
Hoa Kỳ đầu tư đã trở thành dự án có quy mô lớn nhất... 
Ba là, hình thành thêm những tổ chức làm cầu nối thích hợp cho kiều bào 
về nước, giống như Trung tâm hỗ trợ Kiều bào của Thành phố Hồ Chí Minh với 
chức năng hỗ trợ kiều bào và thủ tục pháp lý cũng như trao đổi thông tin về 
những vấn đề trong nước. Để tạo điều kiện thuận lợi cho kiều bào đầu tư về quê 
hương nhiều hơn, một nhu cầu đang đặt ra là việc nghiên cứu và xây dựng một 
diễn đàn có tính chất thường niên về tư vấn chính sách cho Chính phủ đối với 
một số lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế - xã hội có sự tham gia của tri thức 
kiều bào, chủ trì sẽ là một thành viên của Chính phủ chịu trách nhiệm đối với 
phạm vi cần tư vấn. 
Bài học kinh nghiệm thứ tư, về chính sách khuyến khích xuất khẩu lao 
động của Philipines. Những lao động xuất khẩu ra nước ngoài gửi tiền về nước là 
một trong những kênh kiều hối quan trọng, vì vậy để tăng cường nguồn kiều hối 
cho đất nước, một trong những chính sách kiều hối quan trọng là thúc đẩy lao 
động xuất khẩu ra nước ngoài, một mặt giải quyết công ăn việc làm, đào tạo nghề 
theo hướng chuyên sâu, học hỏi nền văn minh các nước phát triển, một mặt gửi 
tiền về cho người thân giúp cải thiện đời sống quê nhà, góp phần công cuộc xóa 
đói giảm nghèo. Từ bài học kinh nghiệm về chính sách khuyến khích xuất khẩu 
lao động của Philipines, Chính phủ Việt Nam có nhiều biện pháp nhằm khuyến 
khích xuất khẩu lao động ra nước ngoài có hiệu quả đối với phát triển kinh tế xã 
hội của Việt Nam: 
Một là, tăng cường giám sát cơ quan xuất khẩu lao động để đảm bảo quyền 
lợi chính đáng cho người xuất khẩu lao động như quy định về lệ phí tuyển dụng 
không được quá cao, kiểm soát chặt chẽ tránh các hợp đồng giả, điều này được 
thực hiện thông qua Ủy ban người Việt Nam ở nước ngoài hoặc Bộ Ngoại giao xử 
128 
lý những hợp đồng lao động nước ngoài trước khi tiến hành nhập cư lao động. 
Thông qua các quốc gia lãnh sự và đại sư quán ở nước ngoài, chính phủ có thể 
theo dõi hoạt động của người lao động ở nước ngoài, đồng thời cung cấp các dịch 
vụ để giải quyết về hợp đồng sai lầm và tranh chấp lao động, thiết lập một mạng 
lưới với luật sự để giúp họ trong bất kỳ những vụ tranh chấp pháp lý xảy ra. 
Hai là, bảo vệ công dân di cư thông qua một quỹ phúc lợi nhập cư có thể 
cung cấp các dịch vụ bao gồm cả quyền hồi hương khẩn cấp trong trường hợp 
khủng hoảng quốc gia, dịch vụ bảo hiểm nhân thọ, trợ giúp phúc lợi, chuẩn bị tái 
hòa hợp và hồi hương của công dân di cư trong trường hợp chết khi đang lao 
động ở nước ngoài. Tích cực hỗ trợ cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài ổn 
định và phát triển, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc thông qua việc mở rộng các 
hoạt động giao lưu nhiều mặt giữa cộng đồng người lao động Việt Nam ở nước 
ngoài, tổ chức các trại hè, mở các lớp tiếng Việt cho các thanh thiếu niên kiều bào, 
hỗ trợ xây dựng trường học, khuyến khích cộng đồng phát huy vai trò cầu nối hữu 
nghị và quảng bá hình ảnh Việt Nam với bạn bè quốc tế, tạo hình ảnh đẹp cho lao 
động Việt Nam làm việc tại nước ngoài. 
Ba là, xúc tiến mở các chi nhánh ngân hàng ở nước ngoài nơi có nhiều 
người Việt Nam lao động, học tập và bà con Việt kiều sinh sống làm ăn. Thúc đẩy 
cạnh tranh trong ngành dịch vụ chuyển tiền nước ngoài ở các ngân hàng nhằm tạo 
ra chi phí chuyển tiền thấp hơn. Các ngân hàng cần minh bạch đăng tải tất cả các 
chi phí liên quan đến một giao dịch chuyển kiều hối cụ thể, qua đó bảo vệ quyền 
lợi chính đáng của người chuyển tiền và người nhận tiền. 
3.4 Một số kiến nghị về chính sách kiều hối của Việt Nam 
Từ những phân tích về thực trạng kiều hối của Việt Nam trong những năm 
qua cũng như vai trò và ảnh hưởng tiêu cực của kiều hối đến phát triển kinh tế xã 
hội của Việt Nam trong phần trên, tác giả mạnh dạn đề xuất một số kiến nghị 
129 
nhằm phát huy tác động tích cực, giảm thiểu tác động tiêu cực của kiều hối đến 
phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam sau: 
Một là, xuất phát từ thực tế còn vướng mắc một số vấn đề trong chính 
sách khuyến khích kiều hối của Việt Nam trong thời gian qua như: quá trình 
hoàn thuế VAT còn chậm, các thủ tục hành chính còn chậm và rườm rà làm mất 
thời gian của doanh nghiệp; thời gian chờ cấp giấy phép kinh doanh còn quá 
lâu đề xuất thứ nhất là thúc đẩy nhanh quá trình hoàn thuế VAT; các cơ quan 
ban ngành cần hướng dẫn rõ các thủ tục hành chính cho bà con; rút ngắn thời 
gian đăng ký cấp phép kinh doanh, cho thời hạn bằng lái xe đối với kiều bào lâu 
hơn, tạo điều kiện cho doanh nghiệp đầu tư lâu dài; các chính sách phải được cụ 
thể hóa theo từng địa phương. 
Hai là, về quốc tịch: thực tế có nhiều người Việt Nam ở nước ngoài gia 
nhập quốc tịch nước sở tại những vẫn chưa bỏ hẳn quốc tịch Việt Nam. Trong 
trường hợp người Việt Nam ở nước ngoài trở về Việt Nam mang hộ chiếu nước 
ngoài thì mặc nhiên được coi là người nước ngoài. Việc xin thị thực nhập cảnh 
Việt Nam tại cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài chưa hoàn toàn thuận lợi, 
nếu Việt kiều thông qua đại lý làm dịch vụ thì nhanh nhưng lệ phí lại rất cao. 
Quy định người bảo lãnh cho những công dân Việt Nam hồi hương phải là “thân 
nhân ruột thịt” (theo quyết định 875/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ, điều 
này gây khó khăn hơn đối với những người muốn hồi hương mà không còn 
người thân ruột thịt. Vì vậy Nhà nước cần tạo dựng chính sách hợp tình hợp lý 
cần thiết để tất cả người Việt Nam dù ở bất kỳ quốc gia nào, với quốc tịch thứ 
hai nào cũng nhận thấy mình là người Việt Nam với đầy đủ nghĩa vụ và quyền 
lợi của một công dân Việt Nam, bình đẳng với mọi công dân khác không phân 
biệt đối xử, điều này càng khuyến khích những người định cư ở nước ngoài lòng 
yêu nước và mong muốn đầu tư đóng góp xây dựng đất nước. 
130 
Ba là, việc thực hiện chính sách nhà ở tạo điều kiện cho người Việt Nam 
định cư ở nước ngoài được quyền mua nhà ở tại Việt Nam mà dù đã được Chính 
phủ ban hành Nghị định về việc mua nhà ở tại Việt Nam đối với người Việt Nam 
định cư ở nước ngoài những vẫn còn nhiều khó khăn và phức tạp. Vì vậy Nhà 
nước cần có nhiều hơn nữa những quy định thông thoáng hơn trong việc mua 
nhà ở tại Việt Nam của người Việt Nam định cư ở nước ngoài trong việc làm thủ 
tục giấy tờ hành chính, bảo vệ quyền lợi chính đáng của họ khi mua nhà. 
Bốn là, việc tính thuế thu nhập đối với người lao động trong nước và 
người nước ngoài còn bất hợp lý, doanh nghiệp dù rất muốn sử dụng chuyên gia 
trong nước với mức lương cao tương xứng với đóng góp của họ nhưng như thế 
thì sẽ phải đóng thuế thu nhập cho họ còn cao hơn khi đi thuê người nước ngoài, 
điều này đã hạn chế việc thu hút chất xám đối với kiều bào. Trong số hơn 4 triệu 
người dân Việt Nam sinh sống và làm ăn ở nước ngoài có không ít các chuyên 
gia làm việc trong các công ty đa quốc gia, việc thu hút họ sẽ đồng nghĩa với 
việc thu hút nguồn lực quý giá về cho đất nước, vì vậy Nhà nước cần điều chỉnh 
chính sách thuế thu nhập sao cho hợp lý, vừa đảm bảo nguồn thu ngân sách vừa 
khuyến khích được người lao động có mức lương cao phải nộp thuế vẫn thấy 
thỏa đáng với công sức lao động của họ. 
 Năm là, Ngân hàng Nhà nước cần có những nghiên cứu chi tiết hơn để có 
căn cứ cho việc thực hiện chính sách tỷ giá, lãi suất và các chính sách khuyến 
khích đầu tư phù hợp trên cơ sở có thể định hướng cho việc khai thác và sử dụng 
kiều hối có hiệu quả hơn. Trong điều hành tỷ giá và quản lý ngoại hối cần tiếp 
tục thực hiện theo tín hiệu thị trường, phù hợp với diễn biến lãi suất, cân đối hài 
hóa cung cầu ngoại tệ, tăng tính thanh khoản cho thị trường ngoại tệ và thúc đẩy 
xuất khẩu, hạn chế nhập siêu, giảm dần tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế. 
Các ngành có liên quan như quản lý thị trường, thanh tra, cơ quan thông tin đại 
131 
chúng... phối hợp cùng hệ thống ngân hàng chấm dứt tình trạng bán hàng thu 
bằng ngoại tệ và niêm yết giá hàng hóa, dịch vụ bằng ngoại tệ trái phép. 
Sáu là, Cho phép người nhận kiều hối trực tiếp bằng ngoại tệ, không bắt 
buộc phải chuyển đổi ngay ra nội tệ, không bắt buộc phải gửi tiết kiệm vào ngân 
hàng thương mại, không bắt buộc phải bán ngay cho ngân hàng. Việc chênh lệch 
lãi suất ngoại tệ ở Việt Nam so với nước ngoài cũng như việc chênh lệch lãi suất 
giữa ngoại tệ và VND ở Việt Nam cũng là nhân tố thu hút nguồn ngoại tệ đổ về 
Việt Nam. Lãi suất cần được điều hành phù hợp với các cân đối vĩ mô, đảm bảo 
an toàn hệ thống NHTM, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về tiền tệ, tín 
dụng, hoạt động ngân hàng của NHNN. Cần có biện pháp đảm bảo cho lãi suất 
tiền gửi nội tệ đủ sức hấp dẫn, khuyến khích người nhận kiều hối chuyển sang 
nội tệ gửi vào NHTM. 
Bảy là, chú trọng mở rộng các kênh chuyển tiền, cải tiến công nghệ. Hiện 
nay, kiều hối chuyển về Việt Nam qua kênh dịch vụ chuyển tiền nhanh Western 
Union đã lên đến trên 200 quốc gia và vùng lãnh thổ. Để đón dòng tiền của Việt 
kiều và người lao động xuất khẩu, hầu hết các ngân hàng đều triển khai các 
chương trình, dịch vụ ưu đãi nhằm thu hút tối đa nguồn kiều hối. Chẳng hạn, 
Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn (Agribank) triển khai Chương 
trình khuyến mại tặng quà tri ân khách hàng mùa kiều hối Agribank 2014 “Lộc 
xuân tràn đầy - Tết vui sum vầy”. Chương trình được triển khai trên phạm vi 
toàn quốc, với nhiều giải thưởng giá trị như tủ lạnh Sharp SJ- P625G, tivi LCD 
Sony Riêng đối với công nhân xuất khẩu lao động, Agribank đã dành một 
nguồn quỹ tài trợ để thiết kế các cẩm nang hướng dẫn cũng như mở các lớp đào 
tạo nhằm trang bị cho người lao động những kiến thức cần thiết trước khi đi 
nước ngoài... ; Ngân hàng Công thương Việt Nam (VietinBank) đã phối hợp với 
các đối tác triển khai nhiều sản phẩm dịch vụ mới như: VietinBank phối hợp với 
132 
Korea Exchange Bank và LG Telecom triển khai sản phẩm Korea Dream phone 
(chuyển tiền kiều hối từ Hàn Quốc về Việt Nam qua điện thoại di động), phối 
hợp với Ngân hàng Wells Fargo, một ngân hàng lớn nhất của Mỹ với trên 3000 
chi nhánh triển khai dịch vụ chuyển tiền trọn gói ngay trong ngày từ Mỹ về Việt 
Nam 
 Tám là, các giải pháp kiềm chế lạm pháp phải được thực hiện đồng bộ, ổn 
định giá trị đồng Việt Nam, tạo lòng tin bền vững của người dân Việt Nam vào 
đồng nội tệ. 
Chín là, cần tiếp tục có chính sách mở rộng cho vay vốn tạo điều kiện cho 
lao động Việt Nam đi xuất khẩu lao động nước ngoài và khuyến khích mọi thành 
phần kinh tế mở rộng thị trường xuất khẩu, địa bàn hoạt động kinh doanh ở cả 
trong và ngoài nước. Môi trường kinh doanh có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt 
động sản xuất kinh doanh của các chủ thể trong nền kinh tế. Môi trường kinh 
doanh thuận lợi sẽ tạo cơ hội gia tăng hiệu quả đầu tư cũng như sức cạnh tranh 
của doanh nghiệp. 
Mười là, vấn đề về kiều hối và hoạt động rửa tiền ở Việt Nam. Việc 
chuyển tiền qua con đường kiều hối về Việt Nam là con đường nhanh và dễ 
dàng, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đang tăng cường những chính sách 
khuyến khích kiều bào gửi kiều hối về xây dựng quê hương. Do người dân Việt 
Nam vẫn còn thói quen sử dùng nhiều tiền mặt, cùng với hoạt động đầu tư 
thương mại ngày càng gia tăng, trong khi chưa có một cơ chế hiệu quả để phòng 
chống rửa tiền qua con đường này, Việt Nam có thể thành mục tiêu của hoạt 
động rửa tiền thông qua con đường kiều hối. Vì vậy cần phải có những biện pháp 
thiết thực để vừa khuyến khích kiều bào gửi tiền về xây dựng đất nước vừa ngăn 
chặn được tội phạm rửa tiền thông qua con đường này. Trước hết phổ biến và 
phải nâng cao nhận thức cho toàn xã hội về Luật phòng, chống rửa tiền; tăng 
133 
cường phối hợp giữa các cơ quan nhà nước có liên quan với các nước và các tổ 
chức quốc tế; Ngân hàng Nhà nước cần ưu tiên đầu tư hệ thống công nghệ thông 
tin về phòng, chống rửa tiền cho Cục phòng, chống rửa tiền. Cục phòng, chống 
rửa tiền thu thập, phân tích thông tin về các giao dịch phải báo cáo, các giao dịch 
đáng ngờ từ các tổ chức tín dụng một cách nhanh chóng và kịp thời. Ban hành 
quy chế giám sát việc tuân thủ các quy định về phòng chống rửa tiền. Việc ban 
hành quy chế giám sát sẽ giúp cho cơ quan thanh tra của Ngân hàng Nhà nước 
nói chung và Cục phòng, chống rửa tiền nói riêng chủ động trong việc thanh tra 
giám sát các ngân hàng thương mại. Thường xuyên tổ chức các buổi tọa đàm về 
phòng, chống rửa tiền với các ngân hàng thương mại và tăng cường hợp tác quốc 
tế. Đối với các ngân hàng thương mại cần thành lập các bộ phận chuyên trách về 
phòng, chống rửa tiền. Xây dựng chính sách nhận biết khách hàng để theo dõi, 
tìm hiểu khách hàng góp phần quan trọng trong việc kiểm soát các rủi ro của 
ngân hàng. Đào tạo nâng cao chuyên môn cho cán bộ về công tác phòng, chống 
rửa tiền, thực hiện nghiêm chỉnh quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền, chấp 
hành tuyệt đối các quy định về hạn mức giao dịch cần phải báo cáo theo Nghị 
định số 74/2005/NĐ-CP ngày 07 tháng 06 năm 2005 về phòng chống rửa tiền và 
Thông tư số 22/009/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước ban hành ngày 
17/11/2009 về việc hường dẫn thực hiện các biện pháp phòng chống rửa tiền. 
134 
KẾT LUẬN 
Trong những năm gần đây, kiều hối đã trở thành một hiện tượng được giới 
tài chính quốc tế quan tâm. Mặc dù trên thực tế, trong nhiều thập kỷ qua, những 
người di cư thuộc các nước đang phát triển vẫn gửi tiền về gia đình nhưng số 
lượng tiền gửi về đã và đang tăng nhanh chóng và ngày càng khẳng định vai trò 
quan trọng của kiều hối đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Và 
đây chính là vấn đề khiến nhiều học giả và các nhà chính trị quan tâm nghiên 
cứu. Với kết cấu 3 chương, luận án đã làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của kiều 
hối và chính sách kiều hối. Từ sự phân tích bản chất của dòng tiền kiều hối là do 
những người định cư ở nước ngoài chuyển tiền bằng đồng ngoại tệ về nước với 
mục đích cải thiện cuộc sống nơi quê nhà và góp phần xây dựng đất nước, luận 
án đã trình bày những nội dung cơ bản của chính sách kiều hối, từ đó phân tích 
những chính sách nhằm thu hút, quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn kiều hối 
của các nước đang phát triển nói chung. 
Với những nội dung phân tích ở chương 2 của luận án đã cho chúng ta có 
cái nhìn tổng quan về kiều hối và chính sách kiều hối của một số nước Châu Á 
với ba quốc gia điển hình về thu hút kiều hối là Ấn Độ, Trung Quốc và 
Philippines. Tổng quan về kiều hối của một các nước thuộc khu vực Châu Á cho 
thấy, dòng kiều hối là lợi ích lớn nhất mà các nước xuất khẩu lao động nhận 
được từ quá trình dịch chuyển lao động toàn cầu. Trong những năm gần đây đã 
có sự tăng trưởng nhanh chóng của dòng kiều hối trong mối tương quan với các 
dòng tài chính khác. Rõ ràng là trong khi các dòng tài chính khác khá bất ổn và 
thậm chí có khuynh hướng giảm từ sau năm 2000 thì kiều hối vẫn tăng một cách 
vững chắc. Tác động của kiều hối có thể diễn ra theo chiều hướng tích cực hoặc 
tiêu cực. Kiều hối có thể tác động đến những vấn đề như: vấn đề nghèo đói và 
135 
bất công bằng thu nhập, tiêu dùng, đầu tư và tiết kiệm gia đình, thị trường lao 
động, nguồn nhân lực và các biến số kinh tế vĩ mô khác. 
Ở Ấn Độ, kiều hối mang lại nhiều lợi ích to lớn đối với phát triển kinh tế 
xã hội: nền công nghệ thông tin đã trở thành mũi nhọn kinh tế của Ấn Độ, có khả 
năng canh tranh toàn cầu. Cùng trở về với chất xám là nguồn vốn khổng lồ của 
các Ấn kiều. Số vốn này, bằng 23% dự trữ ngoại tệ của Ấn Độ, giúp cân bằng 
cán cân thương mại và ngăn chặn lạm phát hiệu quả. Bên cạnh đó, kiều hối còn 
có vai trò không nhỏ trong việc đóng góp vào GDP của Ấn độ. Năm 2005- 2006, 
kiều hối chiếm 3,08% GDP của nước này - một sự tăng mạnh từ 0,7% trong 
1990-1991. Ngày nay, những Ấn kiều thành đạt đã trực tiếp thu nhận kinh 
nghiệm quản lý, kỹ năng kinh doanh, khoa học công nghệ tiên tiến ở bên ngoài 
và khi trở về nước, họ trở thành “vũ khí tối thượng” của chính phủ Ấn Độ trong 
nỗ lực đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế và đưa thương hiệu quốc gia ra quy 
mô toàn cầu. 
Kiều hối của Trung Quốc gia tăng mạnh mẽ trong những năm gần đây. 
Theo WB, hàng năm lượng kiều hối đổ về Trung Quốc là rất lớn, chiếm khoảng 
14% GDP của Trung Quốc. Có thể nói, lượng kiều hối gửi về nước tăng dần qua 
các năm, năm 2000 lượng kiều hối mới chỉ đạt 6 tỷ USD, nhưng đến năm 2010, 
Trung Quốc đã thu hút 51 tỷ USD, gấp hơn 9 lần năm 2000, đứng thứ hai Châu 
Á và thế giới chỉ sau Ấn Độ. 
Philippines là nước xếp hạng thứ tư trong việc thu hút kiều hối ở Châu Á, 
Philippines có một hệ thống những người lao động tạm thời phức tạp nhất trên 
thế giới. Giá trị của kiều hối đối với các quốc gia đang phát triển nói chung hay 
Philippines nói riêng thể hiện ở nhiều phương diện khác nhau và qua từng năm, 
giá trị của dòng tiền này ngày càng được nâng cao và giúp thay đổi bộ mặt kinh 
tế một cách đáng kể. 
136 
Có được những kết quả như trên về kiều hối, mỗi quốc gia đều có những 
chính sách đặc trưng nhằm thu hút có hiệu quả nguồn kiều hối, phát huy vai trò 
tích cực của nguồn kiều hối đến phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Chính 
sách nổi bật của Ấn Độ về kiều hối là chính sách thu hút kiều bào về nước thông 
qua việc phát hành phát hành kiến thiết Ấn Độ chỉ dành cho Ấn kiều và thu được 
4,2 tỉ USD phục vụ phát triển kinh tế. Chính sách này thực sự phát triển vào 
những năm 2003-2005 tạo ra nguồn thu đáng kể về kiều hối; Ấn Độ ban hành 
quy chế "quasi-citizenship", theo đó Ấn kiều được hưởng quyền lợi như công 
dân trong nước,Chính phủ Ấn Độ thành lập Ủy ban cấp cao để nghiên cứu 
phương cách cải thiện quan hệ với cộng đồng Ấn kiều. 
Ở Trung Quốc, điểm nổi bật về chính sách thu hút kiều hối là thông qua 
việc thu hút người tài ở nước ngoài về nước của Trung Quốc. Chính phủ Trung 
Quốc áp dụng chế độ thẻ xanh dành cho những người tài nước ngoài sẽ được 
mời nhập cư vĩnh viễn, xuất nhập cảnh và được tạm trú với hộ chiếu có sẵn mà 
không cần visa. Thông qua hình thức này, kêu gọi lòng yêu nước của người di cư 
ra nước ngoài có nguyện vọng muốn đầu tư xây dựng đất nước. Chính phủ Trung 
Quốc đã thành công trong việc sử dụng có hiệu quả nguồn kiều hối nhằm mục 
đích phát triển kinh tễ xã hội của đất nước thông qua biện pháp sử dụng kiều hối 
để phát triển sản xuất, hỗ trợ các doanh nghiệp ở quy mô nhỏ không đủ điều kiện 
để vay vốn ở các ngân hàng hay các tổ chức tín dụng thông qua các quỹ gọi tắt là 
TVEs (township and village enterprises). Mô hình này là bài học kinh nghiệm 
mà các quốc gia thu nhận kiều hối nói chung và Việt Nam nói riêng cần tham 
khảo và học hỏi. 
Một trong nguồn tạo kiều hối quan trọng cho đất nước là những lao động 
xuất khẩu ra nước ngoài gửi tiền về cho người thân với mục đích cải thiện cuộc 
sống quê nhà và góp phần nhỏ bé vào công cuộc xấy dựng đất nước. Điểm nổi 
137 
bật về chính sách thu hút kiều hối của Philippines là sự chuyên nghiệp hóa chính 
sách xuất khẩu lao động, biến lĩnh vực này trở thành ngành công nghiệp mới, tạo 
ra những người lao động chuyên nghiệp, có chuyên môn tốt, trình độ học vấn 
cao và lao động chăm chỉ siêng năng. Qua đó thúc đẩy những lao động ở nước 
ngoài vừa nâng cao trình độ vừa có điều kiện gửi tiền về nước nhiều hơn. 
Từ những bài học kinh nghiệm quý báu đó, Việt Nam đã học hỏi những gì 
trong việc hoạch định chính sách kiều hối cho phát triển kinh tế xã hội của đất 
nước. Chương 3 của luận án đã phân tích thực trạng dòng kiều hối của Việt 
Nam, những tác động tích cực và ảnh hưởng tiều cực của kiều hối đến nền kinh 
tế Việt Nam. Trước hết. kiều hối là một trong hai nguồn vốn (cùng với dòng vốn 
đầu tư trực tiếp FDI) chiếm tỷ trọng lớn nhất trong số các nguồn vốn từ bên 
ngoài vào Việt Nam và có xu hướng tăng lên qua các năm; có vai trò quan trọng 
đối với tiết kiệm, đầu tư và tăng trưởng; là dòng tiền vào ổn định tạo nguồn bù 
cân bằng cán cân vãng lai; có những đóng góp tích cực đến sự phát triển của thị 
trường tài chính vì những khoản tiền này làm tăng nguồn cung ứng vốn cho các 
tổ chức tài chính; góp phần giải quyết khủng hoảng và tăng uy tín tín dụng; đồng 
thời giúp tăng thu nhập của người dân và góp phần giảm đói nghèo... Bên cạnh 
đó, kiều hối cũng gây một số bất ổn kinh tế vĩ mô cho quốc gia nhận kiều hối 
như luồng kiều hối chảy vào làm tăng cung ngoại tệ, nội tệ lên giá; để can thiệp 
tránh cho nội tệ lên giá, NHNN phải mua ngoại tệ vào, tăng gánh nặng cho 
NHNN khi chi phí can thiệp tăng; kiều hối là nguyên nhân làm gia tăng hiện 
tượng đô la hóa nền kinh tế... Như vậy, kiều hối có tác động tiêu cực đến sự ổn 
định của kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, trong điều kiện tự do hóa tài chính, chúng ta 
không thể áp dụng các biện pháp hành chính để kiểm soát kiều hối. Nếu vậy, 
Việt Nam không còn là quốc gia hấp dẫn thu hút kiều hối. Vả lại, Việt Nam vẫn 
cần lượng kiều hối để bù đắp thâm hụt cán cân vãng lai và sử dụng kiều hối khi 
138 
nền kinh tế bị thiếu vốn. Vấn đề đặt ra là, làm thế nào để kiểm soát và sử dụng 
có hiệu quả luồng kiều hối? Phần cuối luận án đã đưa ra một hệ thống các giải 
pháp vĩ mô và vi mô nhằm thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn kiều hối 
ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày nay và mạnh dạn đưa 
ra mười kiến nghị cho chính sách thu hút, quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn 
kiều hối ở Việt Nam. 
139 
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 
TIẾNG ANH 
1. Admos O. Chimhowu, Jenifer Piesse, and Caroline Pinder (2005), The 
international Bank for Reconstruction and Development/The World bank, 
“Remittances – Devolopment impact and future prospects”, Chapter 3, 
p83. 
2. Bai, N., and Y. He (2002), Returning to the countryside versus continuing 
to work in the cities: A study of rural-urban migrants and their return to 
the countryside of China, Shehuixue yanjiu (Sociological Research), 6(3): 
64-78. 
3. Cai, Q. 2003, Migrant remittances and family ties: A case study in China, 
International Journal of Population Geography, 9: 471-483. 
4. David C. Grace (2005), The international Bank for Reconstruction and 
Development/The World bank, “ Rimittances – Devolopment impact and 
future prospects”. Chapter 8, p159. 
5. De la Torre (2005), China-labor: Urban workers send $30 billion to rural 
homes, Global Information Network, 13 December. 
6. Dilip Ratha Sanket Mohapatra và Sonia Plaza (Apirl 2008), The World 
bank development Prospects group Migration Remittances Team, “New 
Sources and Innovative Mechanisms for financing Development in Sub - 
Saharan Africa” 
7. Department of Agriculture and Cooperation, Ministry of Agriculture, 
Government of India, March, 2011, Annual report 2010-2011, p.3, 4, 5. 
8. D. Ratha, S. Mohapatra and A. Silwal (2011), Outlook for Remittance 
Flows 2012-14. The World Bank, Migration and Development Brief 17. 
140 
9. Dilip Ratha, Sanket Mohapatra, Caglar Ozden, Sonia Plaza, William 
Shaw, Abede Shimeles (2011), Leveraging Migration for Africa: 
Remittances, Skills, and Investments. , The World Bank. 
10. D. Ratha, S. Mohapatra and A. Silwal (2010), Outlook for Remittance 
Flows 2011-12: Recovery after the crisis, but risks lie ahead., The World 
Bank. 
11. G. G. Afram (2012), The Remittance Market in India: Opportunities, 
Challenges and Policy Options. The World Bank. 
12. Hernández Coss (2005), “Canada Vietnam Remittance Corridor”, The 
World Bank 
13. Hare, D. (1999), Push versus pull factors in migration outflows and 
returns: Determinants of migration status and spell duration among 
Chinese rural population, Journal of Development Studies, 35, 45-72, 
February. 
14. Huang, P., and F. Pieke (2004), China migration country study, Migration 
Development Pro-Poor Policy Choices in Asia, 22-24 June, 
www.livelihoods.org. 
15. John Connell và Richard P.C. Brown, March 2005, Asian devolopment 
bank, “Remittances in the Pacific an overview” 
16. Nikos Passas và Samuel Munzele Mainbo, Abdusanlam Omer và Gina El 
Koury, Abdusanlam Omer và Gina El Koury (2005), The international 
Bank for Reconstruction and Development/The World bank, “ Rimittances 
– Devolopment impact and future prospects”. Part IV, p209. 
17. Nguyễn Đức Thành (2007), “Economywide Effects of International 
Remittances: A Computable General Equilibrium Assessment for 
Vietnam” Chapter 4 in “The Economics of International Migration: A 
141 
Perspective from the Source Countries,” PhD disseratation, GRIPS, 
Tokyo. 
18. Mark P. Sullivan, March (2009), Congressional research service, “Cuba- 
U.S. Restrictions on Travel and Remittances” 
19. Migration and Remittances factbook 2011 (2nd Edition, The World bank) 
20. Ministry of Finance, Government of India, Report on Economic Survey 
2010-2011, p.2. 
21. Ministry of Finance, Government of India, Annual Report 2010-2011. 
22. Ministry of Finance, Government of India, Report on Economic Survey 
2004-2005, p.160. 
23. Raul Hernandez-Coss, Gillian Brown, Chitrawati Buchori, Wameek Noor 
and Tita Navaolitha (2008), The Malaysia - Indonesia Remittance 
Corridor. The World Bank. 
24. Raul Hernandez-Coss, 2005, Chapter 13, p 243, The international Bank 
for Reconstruction and Development/The World bank, “ Rimittances – 
Devolopment impact and future prospects”. 
25. Reena Aggarwal, Asli Demirgüç-Kunt, and Maria Soledad Martinez Peria 
(2006), Do Workers’ Remittances Promote Financial Development? The 
World Bank. 
26. Rachel Murphy (2009), Domestic Migrant Remittances in China: 
Distribution, Channels and Livelihoods, University of Bristol. 
27. Rechard H. Adams Jr. và John Page, Devesh Kapur, Devesh Kapur 
(2005), The international Bank for Reconstruction and Development/The 
World bank, “Rimittances – Devolopment impact and future prospects”. 
Part V, p275. 
142 
28. Samuel Munzele Mainmbo and Dilip Ratha (2005), The international 
Bank for Reconstruction and Development/The World bank, “ Rimittances 
– Devolopment impact and future prospects”. 
29. Tasneem Siddiqui, 2008, “Migration and gender in ASIA”, United Nations 
Economic and Social Commission for Asia and the Pacific. 
30. 
d=446 
31. Ministry of Finance, Government of India, Economic Survey 2010-2011, 
2011 p.2. 
32. Ministry of Finance, Government of India, Annual Report 2010-2011, 
2011  p.5-6. 
33. 
f%20PSBs.pdf 
34.  Department of 
Agriculture and Cooperation, Ministry of Agriculture, Government of 
India, March, 2011, Annual report 2010-2011p. 3. 
35.  About us, The Organisation, (Accesses 15-4-
2011) 
36.  Ministry of 
Finance, Government of India, Economic Survey 2004-2005, 2005, p.160. 
37. 
d=446 
38.  
39.  Ministry of Finance, 
Government of India, Economic Survey 2010-2011, 2011. p. 3. 
143 
40.  Department of 
Agriculture and Cooperation, Ministry of Agriculture, Government of 
India, March, 2011, Annual report 2010-2011p. 3,4,5. 
41. 
4 
42. 
4, India’s Economic Reform and Development. Essay for Manmohan 
Singh Edited by I.J. Ahluwal Fund & I.M.D.Little, p. 23. 
43. World Bank (2006) Global Economic Prospects: Economic 
Implications of Remittances and Migration, Washington, DC. 
44. Lant Pritchett (2006) Let Their People Come: Breaking the Gridlock on 
Global Labor Mobility, Washington, DC: Center for Global 
Development. 
45. George Borjas, Richard Freeman and Lawrence Katz (1997) “How Much 
Do Immigration and Trade Affect Labor Market Outcomes?” Brookings 
Papers on Economic Activity, 1:1-9 
46. Richard Adams and John Page (2005) “Do International Migration and 
Remittances Reduce Poverty in Developing Countries,” World 
Development, 33:10, 1645-1669 
47. Hillel Rappaport and Frederic Docquier (2005) “The Economics of 
Migrants’ Remittances,” IZA Discussion Paper 1531, 
48. See William J. Carrington and Enrica Detragiache (1999) “How Extensive 
is the Brain Drain?” Finance and Development, 36:2, June 
49. Oded Stark (2004) “Rethinking the Brain Drain,” World Development, 
32:1, 15-22. 
50. AnnaLee Saxenian (2005) “From Brain Drain to Brain Circulation: 
144 
Transnational Communities and Regional Upgrading in India and China,” 
Studies in ComparativeInternational Development, 40:2, 35-61 
51. 
gioi-ve-kieu-hoi/20113/83634.vnplus 
145 
TIẾNG VIỆT 
51. Nguyễn Anh Dũng và cộng sự (2005), “Một số giải pháp thu hút vốn đầu 
tư về nước của cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài”, Đề tài 
nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung 
ương. 
52. Nguyễn Đăng Dờn và các cộng sự (2003), "Những giải pháp chủ yếu và 
bước đi cho quá trình tự do hoá tài chính và hội nhập quốc tế của các 
ngân hàng thương mại việt Nam", đề tài cấp Bộ, mã số B2001-22-20-TĐ. 
53. Trịnh Quang Long và các cộng sự (2006), "Tự do hoá tài chính và các rủi 
ro phát sinh: kinh nghiệm quốc tế và kiến nghị một lộ trình tự do hoá cho 
Việt Nam", đề tài cấp Bộ 
54. Trần Thị Lý (2002), “Sự điều chỉnh chính sách của Cộng hòa Ấn Độ từ 
1991 đến 2000”, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 38, 40, 43, 46, 54, 55. 
55. Đỗ Thị Đức Minh và cộng sự (2007), “ Ảnh hưởng của kiều hối đến nền 
kinh tế Việt Nam”, Đề tài khoa học cấp ngành, KNH 2006-07, Ngân hàng 
Nhà nước Việt Nam. 
56. Lê Thị Tuấn Nghĩa (2004), "Hoàn thiện cơ chế điều hành tỷ giá nhằm 
nâng cao hiệu quả chính sách tiền tệ ở Việt Nam" , Luận án tiến sỹ kinh 
tế. 
57. Lê Thị Tuấn Nghĩa và Nguyễn Thị Thanh Huyền (2006), "Tăng dự trữ 
ngoại hối Nhà nước để đáp ứng nhu cầu hội nhập", Tạp chí Ngân hàng, 
số 22/2006. 
58. Lê Thị Tuấn Nghĩa và Bùi Thị Kim Ngân (2007), "Cơ chế điều hành tỷ 
giá trong môi trường tự do hóa tài chính ở Việt Nam", Kỷ yếu hội thảo 
Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam, Hà nội 5/2007. 
146 
59. Lê Thị Tuấn Nghĩa và Nguyễn Trung Hậu (2009), "Tác động của khu vực 
tài chính đến mức độ tự do hoá các giao dịch vốn", Tạp chí Ngân hàng, 
số 19 tháng 10//2009. 
60. Lê Thị Tuấn Nghĩa và Tô Ánh Dương (2010), "Tự do hoá các giao dịch 
vốn và sự ổn định tài chính của Ấn Độ - bài học cho Việt Nam", Tạp chí 
khoa học và đào tạo ngân hàng, số 97, tháng 6/2010 
61. Trần Nguyên Ngọc (1994): “Người Việt Nam ở nước ngoài và phát triển 
kinh tế ở Việt Nam”,Tạp chí Quê hương, số 4/1994, tr.10. 
62. Lê Minh Tâm và Nguyễn Đức Vinh (1999): “Tiền gửi về cho gia đình và 
phân phối thu nhập”, trong “Hộ gia đình Việt Nam -Nhìn qua phân tích 
định lượng”, NXB Chính trị Quốc Gia, Hà Nội 1999; 
63. Võ Trí Thành và các cộng sự (2004), "Chính sách tiền tệ Việt Nam trong 
quá trình đổi mới và cải cách kinh tế", Dự án CIEM - UNDP VIE 01/025. 
64. Nguyễn Văn Tiến (2005), "Tài chính quốc tế hiện đại trong nền kinh tế 
mở", NXB Thống kê, xuất bản lần thứ 4, năm 2005 
65. Nguyễn Văn Tiến (2009), "Giáo trình Thanh toán quốc tế", NXB Thống 
kê, Xuất bản lần thứ 4. Năm 2009. 
66. Nguyễn Văn Tiến (2009), "Cẩm nang Thị trường ngoại hối và các giao 
dịch kinh doanh ngoại hối" NXB Thống kê, Xuất bản lần thứ 5. 
67. Nguyễn Văn Tiến và các công sự (2002), "Hoàn thiện và Phát triển thị 
trường ngoại hối Việt Nam", Đề tài cấp Bộ (Ngân hàng Nhà Nước) 
68. Lê Minh Tâm và Nguyễn Đức Vinh (1999), “Hộ gia đình Việt Nam nhìn 
qua phân tích định lượng”, do Dominique Haughton và cộng sự biên tập, 
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
69. Trần Văn Tùng (2006), “Con đường phát triển kinh tế của Trung Quốc và 
Ấn Độ”, Tạp chí Cộng sản, số 13, tr. 71. 
147 
70. Pete Engardio, Rồng Hoa - Hổ Ấn, Nhà xuất bản Thời đại, 2009, tr. 60. 
71. Võ Xuân Vinh, “Tổng quan kinh tế Ấn Độ những năm đầu thế kỷ XXI”, 
Nghiên cứu văn học, số 8,2008, tr. 14, 15. 
72. Nguyễn Văn Lịch, “Những thành công trong cải cách nông nghiệp của Ấn 
Độ”, Tạp chí Cộng sản, tháng 7/2007 
73. Báo cáo thống kê tình hình phát triên kinh tế - xã hội Trung Quốc 
năm2011, trang 6. 
74. Bản tin của Thông tấn xã Việt Nam ngày 12 tháng 5 năm 2013 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 luan_an_ngoc_loan_88.pdf luan_an_ngoc_loan_88.pdf