Luận án Khảo sát những đặc điểm thể loại phóng sự của Vũ Trọng Phụng

Trong phóng sự Vũ Trọng Phụng, cái thực dụng hòa quyện với cái thẩm mĩ đã đem lại tính thông tin đậm đặc và chất văn học đậm đà; nhân cách nhà báo hòa chung vói nhân cách nhà văn trong cùng một chủ thể sáng tạo. Giá trị nhiều mặt của phóng sự Vũ Trọng Phụng, không chỉ có ý nghĩa đối với lí luận và thực tiễn của thể phóng sự mà cồn có ý nghĩa với một số ngành khoa học xã hội và nhân văn khác. Vì vậy, để khám phá toàn diện di sản phóng sự của họ Vũ, có thể cần đến một lối tiếp cận liên ngành, giữa văn học, ngôn ngữ học, báo chí, sử học, dân tộc học và xã hội học.

pdf232 trang | Chia sẻ: builinh123 | Lượt xem: 3672 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Khảo sát những đặc điểm thể loại phóng sự của Vũ Trọng Phụng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lấy thằng nào bền đƣợc", "nuôi chỉ chờ đến lúc là... quăng cho Tây", "bà ta nghỉ việc - chết! quên "nghỉ chồng", "cũng đến lệch nghiệp nữa là trần nhƣ bà", "không phải điều luật, đó là điều lệ, "luật cung không quá luật cầu", "300 lính ít ra cũng phải chế tạo đƣợc 350 me Tây", v.v... Đó là những từ ngữ còn rất mới mẻ nhƣ từ ngữ của ngày hôm nay, mặc dù nó đã đƣợc viết ra cách đây hai phần ba thế kỷ. Có những trƣờng hợp họ Vũ còn Việt hóa từ nƣớc ngoài một cách triệt để: Cảnh sát xướng kỹ (Services de Moeurs) thành "Ban đội con gái" (giống nhƣ cách gọi Nữ chiến sĩ, Nữ dân quân thành chiến sĩ gái, dân quân gái... thời chống Mỹ)... Trong Cạm bẫy người và Lục xì, Vũ Trọng Phụng đã cập nhật rất nhiều danh từ khoa học "giống y" nhƣ các thuật ngữ khoa học của ngày hôm nay: "công trình khoa học", "xƣởng chế tạo khí giới", "vật lý học", "cơ thể học", "triệu chứng bệnh"... ông dùng cả những từ ngữ rất mới mẻ nhƣ "cục diện chiến tranh" "đồng chí", "trình độ nhân dân lao động"; dùng cả từ "khiêu vũ" lẫn "nhảy đầm"; dùng cả từ "ma cô" và sáng tạo thêm từ "ma cậu", v.v... Sự tăng cường thêm vốn từ vựng mới là dấu hiệu của tính hiện đại trong lời văn phóng sự Vũ Trọng Phụng. 4.3.2. Câu văn hiện đại trong phóng sự Vũ Trọng Phụng Câu văn phóng sự Vũ Trọng Phụng không chỉ gồm những kết cấu khẩu ngữ mà còn gồm những kết cấu câu gọt giũa của văn xuôi hiện đại. Đặc điểm của câu văn xuôi hiện đại là có độ dài hơn câu khẩu ngữ, các thành phần của câu có quan hệ chặt chẽ, sáng rõ, có hàm lượng thông tin cao và không gò bó như câu văn biền ngẫu. Thành phần của câu được mởi 189 rộng, nhưng không có sự dư thừa, không vần vè... như câu khẩu ngữ. Điều này đƣợc thấy rõ trong phóng sự Vũ Trọng Phụng. Ví dụ những câu sau đây: - "Nhƣng nghĩ đến ngƣời con giai ốm kia phải có con sâm mới mong qua khỏi, khi nghĩ đến ông bố vô lƣơng tâm đang ngồi ở một toa trong chuyến tàu vừa mở máy ấy, tôi không khỏi thấy trong mình khó chịu, hình nhƣ cũng bốc hỏa lên vậy, dù chẳng giống với toa xe phun khói lúc rồi sân ga" (Cạm bẫy người, Sđd, tr. 68-69). - "Bốn chục chiếc xe hơi từ thềm nhà thờ nối nhau một hàng dài vắt qua phố Lagisquet nhƣ một con rắn bể kỳ quái nằm vƣơn mình: một đám cƣới Tây" (Kỹ nghệ lấy Tây, Sđd, tr. 13). - "Chính ra, nó rất nhiều chuyện thƣơng tâm... Nó đã cất tiếng gọi dân quê bỏ những nơi đồng khô cỏ héo đến đây để chết đói lần thứ hai, sau khi bỏ cửa bỏ nhà; nó đã làm cho giá con ngƣời phải ngang hàng với giá loài vật; nó đã làm cho một bọn trẻ đực vào nhà Hỏa lò và một bọn trẻ cái đi làm nghề mãi dâm!" (Cơm thầy cơm cô, Sđd, tr. 19-20). - "Với cặp kính trắng gọng đồi mồi ấy, với cái cằm có vết râu xanh mà lƣỡi dao cạo không để cho mọc ra đƣợc, nếu hai má đầy đặn hơn chút nữa thì bác sĩ Joyeux hao hao giống một tài tử của màn ảnh: Jim Gérald." (Lục xì, Sđd, tr. 84). - "Nếu đứng giữa, ta nhìn đƣợc khắp xung quanh, đó là một câu phƣơng ngôn Âu Tây. Tôi xin nói ngay rằng không phải tôi đã đứng giữa huyện đƣờng mà biết đƣợc một huyện ăn tết" (Một huyện ăn Tết, Sđd, tr. 92). Trong cả năm thiên phóng sự của họ Vũ, có nhiều câu văn có lối kết cấu kiểu nhƣ những câu văn ở những thí dụ nói trên. 190 Trong văn phóng sự Vũ Trọng Phụng con có những câu mở rộng với những thành phần chêm, xen và những câu đảo trật tự một cách linh hoạt. Thí dụ: - "Các ngài cứ tƣởng tƣợng ra hộ một ông quan to, đứng đầu thủ đô Bắc Kỳ, mà y phục rất xềnh xoang - áo một màu, quần một màu khác, ca vát cũ kỹ, đôi giày không đánh kem - (...) có vẻ bình dân cả trăm phần trăm" (Lục xì, Sđd, tr. 112). - "Đã giới thiệu cùng độc giả ông chúa nghề bịp, tôi lại muốn độc giả làm quen với một ông chung thân làm "con bò vắt sữa" cho tụi ông Ấm B" (Cạm bẫy người, Sđd, tr. 99). Câu văn xuôi của Vũ Trọng Phụng, trong phóng sự không chỉ uyển chuyển, đa dạng nhƣ thế, mà còn có những chỗ, sự liên kết các câu rất tự nhiên và khéo léo tạo nên một lời văn ít nhiều mang tính đa thanh. Chẳng hạn, đây là đoạn văn kể về "tình cảnh" của con mòng (kẻ ham mê bài bạc) bị lũ "chuyên gia bạc bịp" bí mật đút bài xuống dƣới chiếu chỗ họ ngồi, để vu vạ là giấu bài, ăn gian (nhƣ kiểu Xuân Tóc Đỏ bí mật đút truyền đơn vào túi quần, hại đối thủ quần vợt): "Mòng bị cả anh anh sừng sộ tái mặt lại, run đây đẩy, nhìn xuống chỗ chiếu mình ngồi. Giời hỡi! Đất hỡi! Có ông thánh nào thiêng. Có ông thần nào linh, xin chứng giám cho nỗi oan này! Mê ngủ hay vẫn thức? Mòng bàng hoàng dụi mắt nhìn, vẫn chƣa túi, lại dụi mắt lần nữa. Lạ thật! Quái thật! Kỳ thật! Vô phúc thật! Nào mình có giở ngón cờ gian bạc lận ra bao giờ, cớ sao bài lại thiếu, mà cớ sao ở chỗ chiếu mình ngồi lại có một... hai quân bài nằm lù lù thế kia" [154, 150-151]. Trong đoạn văn này có ít nhất hai chủ ngôn. Câu đầu và câu thứ 7 (Mòng bàng hoàng... lần nữa) thuần túy là của người kể chuyện. Còn chủ 191 ngôn của câu thứ hai, thứ ba, tƣ, năm, sáu, tám, chín, mƣời: "Giời hỡi! Đất hỡi! Có ông thánh nào thiêng. Có ông thần nào linh (...) Lạ thật! Quái thật! Kỳ thật! Vô phúc thật!..." là của chính con mòng. Tác giả đã giễu nhại sự hoảng hốt, bàng hoàng của con mòng bị "sa hố" bằng chính giọng điệu hoảng hốt, thảng thốt của nó. Còn câu cuối cùng ("Nào mình có giở ngón... thế kia") chủ yếu vẫn là lời của con mòng nhƣng có "pha" lời bình phẩm, giễu cợt của ngƣời kể chuyện đối với sự thật-thà-dại-dột của họ trƣớc đám bạc bịp đầy thủ đoạn nham hiểm, quỷ quái. Theo lý thuyết đa thanh của M. Bakhtin thì đoạn văn trên có sự đa thanh khác hướng. Sự khác hƣớng thể hiện ở sắc thái mỉa mai, diễu nhại trong lời kể. Trong phóng sự của Vũ Trọng Phụng có một số lời văn đƣợc tổ chức kiểu nhƣ thế. Hình thức hiện đại của lời văn phóng sự Vũ Trọng Phụng hàm chứa trong nó một tinh thần tƣ duy mới mẻ, hiện đại. Thực ra, chính cách cảm, cách nghĩ, cách nhìn hiện đại đã chi phối cách chọn từ, phối ý, cách diễn đạt trong lời văn. Chẳng hạn, đây là lối tả rất là mới mẻ: "Đúng 6 giờ. Một hồi còi... Mƣời toa tầu lù tiến đến sân ga, nhả ra độ mƣời ngƣời khách." (Cạm bẫy người, Sđd, tr. 27). Hoặc đây là lời "tự kể" của gã lính lê dƣơng cỡ "cự môn thê thiếp" nuối tiếc cô vợ ngƣời Việt thứ tƣ mà gã đã bỏ: "Chúng tôi hợp nhau. Không phải hợp nhau về tinh thần, đã không cùng một thứ lƣỡi thì hiểu nhau làm sao đƣợc...? Nhƣng nó hợp tôi về... xác thịt. Bây giờ bỏ rồi, tôi lại tiếc. Không thể nào lại còn tìm đƣợc một ngƣời đàn bà thứ hai có cái thân thể bốc lửa ngùn ngụt đến thế nữa" (Kỹ nghệ lấy Tây, Sđđ, tr. 25). Trong đoạn văn trên, từ cách ngắt câu, nhả giọng, lựa chọn, sử dụng 192 từ ngữ, đến cách diễn đạt hiện đại "thân thể bốc lửa ngùn ngụt" đã làm cho lời văn mới mẻ ngay cả với đời sống ngôn ngữ hôm nay. Ngay cả cái tiêu đề Kỹ nghệ lấy Tây cũng đã thể hiện một lối tƣ duy mang tính truyền thống và hiện đại. Bằng cách sử dụng lối ví von truyền thống, họ Vũ đã liên hệ, so sánh giữa "kỹ nghệ", một danh từ khoa học mói mẻ của thời đó (năm 1907 Pháp cho thành lập Công ty kỹ nghệ và Thương mại Trung kỳ (Société Industrielle et Commerciale d'Annam) và năm 1932 lần đầu tiên từ "kỹ nghệ" xuất hiện trong Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh), với sự "lành nghề" của "công việc" lấy Tây và rút ra sự giống nhau giữa hai hiện tƣợng. Đó là sự tinh vi, thiện nghệ. Dựa vào sự tƣơng đồng này, tác giả đã "thiết lập" đƣợc mối quan hệ giữa hai hiện tƣợng vốn chẳng có mối liên hệ gì với nhau để hình thành nên cái tiêu đề độc đáo. Đây là cách nói "trệch chuẩn" sáng tạo, gây đƣợc ấn tƣợng mạnh, vì nó lột tả đƣợc bản chất của hiện tƣợng "lấy Tây" vì tiền, vừa nói đƣợc cái bi, hài của một "nghề nghiệp" quái gở thời thuộc địa. Vũ Trọng Phụng cũng không lấy tiêu đề "Đi ở" mà dùng thanh ngữ Cơm thầy cơm cô đặt cho thiên phóng sự, vì thanh ngữ này rất giàu tính hình tƣợng: gợi đƣợc sự cù bất cù bơ, nhếch nhác, hèn mọn, luôn phải "hãi ngƣời cho ở, sợ ngƣời cho ăn" của cái kiếp tôi đồi, khốn khổ... Tiêu đề Cạm bẫy người cũng có sức tạo hình mạnh mẽ, diễn tả đƣợc sự ác hiểm, nguy hại của tệ cờ gian bạc bịp, nhƣ những chiếc bẫy, cái cạm đã giƣơng sẵn, chỉ chờ "nuốt sống" những con ngƣời. Tính hiện đại trong lời văn, câu văn của phóng sự Vũ Trọng Phụng là kết quả của sự nâng cao lối diễn đạt truyền thống: dùng các phƣơng tiện khẩu ngữ và những biện pháp tu từ để miêu tả hành động, sự việc, sự vật, tính cách ở độ đỉnh điểm của nó. Không chỉ phát huy lối diễn đạt truyền thống, Vũ Trọng Phụng còn tiếp thu một cách sáng tạo lối diễn đạti 193 của câu văn Pháp, tạo nên tính trong sáng, rõ ràng, chính xác trong lời văn, câu văn của các thiên phóng sự. 4.3.3. Những hạn chế trong lời văn phóng sự Tính truyền thống và hiện đại của lời văn phóng sự là một trong những yếu tố quan trọng tạo cho tác phẩm của Vũ Trọng Phụng có sức vƣợt thời gian. Tuy vậy, ở một vài trƣờng hợp, lời văn phóng sự của Vũ Trọng Phụng đã bộc lộc một số hạn chế của nó. Tiếp thu vốn diễn đạt truyền thống, bằng cách dùng các phƣơng tiện khẩu ngữ và các biện pháp tu từ, Vũ Trọng Phụng đã tạo đƣợc một lời văn giàu chất khẩu ngữ giàu hình tƣợng và giàu hàm ẩn. Nhƣng có chỗ, họ Vũ dã dùng lối diễn đạt bình dân để châm biếm bình dân. Điều này thể hiện rõ khi ông dùng những từ trong câu: "Bọn cơm thầy cơm cô nằm ngổn ngang như lợn cả, bọn đực nằm phía bên kia, bọn cái phía bên này" [155, 12]. Có những khi, khẩu ngữ tự nhiên đƣợc họ Vũ dùng phô diễn quá mạnh trong trƣờng hợp ông viết về cái dâm. Chẳng hạn trong lời bình luận: "Thật rõ lôi thôi là cái sự ngứa ngáy xác thịt của loài ngƣời. Nó đã làm rầy rà biết bao nhiêu ngƣời" [155, 94]. Hoặc khi mô tả hậu quả của sự kích dâm của con sen Đũi, họ Vũ viết: "Bà chủ có cô con gái dậy thì, mới 13 tuổi, nhƣng mà lửa tình bốc sớm, lức nào cũng lồng lộn như đồ đĩ rạc" [155 -35]. Tuy nghệ thuật khoa trƣơng của ông không nhằm mục đích thổi phồng, xuyên tạc sự thật, nhƣng có khi, cũng do phô diễn quá mạnh nên cứ nhƣ là sự ngoa ngôn. Điều nay thể hiện ở việc ông miêu tả đến mức quá chi li cảnh cậu con trai bà chủ nhìn thấy "hai cái đùi non trắng hếu của con sen, lại phô ra nhƣ đấu xảo! Từ đêm ấy trở đi có đêm cậu đi tiểu đến tám mươi nhăm lần. Đến lần thứ tám mươi sáu, cậu vừa nhìn thở, rón rén để tay vào một cái đùi non..." [155, 35]. Có thể khi mô tả nhƣ vậy, tác giả chỉ cốt để người đọc tin vào điều ông muốn nói lên chứ không phải là điều ông kể, 194 nhƣng dù sao, sự ngoa ngôn không thích hợp đối với thể phóng sự. Sự tô đậm mức độ của cái dâm nhƣ "lồng lộn lên như đồ đĩ rạc", "ngứa ngáy xác thịt" và sự chi li trong mô tả nhƣ trên dễ bị hiểu là ngồi bút đã sa vào chủ nghĩa tự nhiên, do chịu ảnh hƣởng của học thuyết tính dục của Freud... Vũ Trọng Phụng đã tiếp thu cái sáng sủa, chính xác, rõ ràng của câu văn và lối diễn đạt của văn Pháp, nhƣng có những chỗ câu văn còn "nệ" Tây nên lời văn có phần kiểu cách, gượng gạo. Thí dụ: - "Chỉ biết không theo học đƣợc nữa thì hai ngƣời vào làm cho một hiệu mũ áo ở Hà Nội do một bà đầm chủ trương" [157, 64]. - "Tôi cũng phải dùng luồng nhỡn tuyến có ngụ ý cảm thương ra yêu cầu... Chỉ trù trừ ít lâu" [157, 65]. - "Cụ Phán cúi đầu, nhìn tôi một cách trông buồn cười là phóng đôi nhỡn tuyến lên bên trên đôi mắt kính" [154, 190]. - "Cuộc gặp gỡ của chủ với khách bắt đầu gắn bó bằng một bữa cơm bừa bộn những thịnh soạn" [154, 28]. Theo chúng tôi, sự phô diễn cực mạnh bằng khẩu ngữ đến mức làm cho lời văn sỗ sàng, sự khoa trƣơng ở những câu văn nói trên và những câu văn "nệ" Tây, không góp phần làm đẹp cho lời văn phóng sự của Vũ Trọng Phụng. Qua khảo sát đặc điểm lời văn phóng sự của Vũ Trọng Phụng, chúng tôi xin có mấy điểm kết luận: Bằng sự điêu luyện và sáng tạo trong việc sử dụng khẩu ngữ tự nhiên và các biện pháp tu từ, bằng sự thâu thái nhũng yếu tố tích cực của văn chƣơng Pháp hiện đại, Vũ Trọng Phụng đã tạo ra một lối phô diễn cực mạnh trong một lời văn sáng rõ. Lời văn của ông chỉ cốt áp sát cuộc sống, phanh phui "sự thật ở đời", đi thẳng vào bản thể của đối tượng. Nhìn khái quát, 195 lời văn phóng sự Vũ Trọng Phụng vừa mang tính truyền thông, vừa mang tính hiện đại. Đọc phóng sự Vũ Trọng Phụng có thể thấy phảng phất lời văn tả thực của Nguyễn Du, Hồ Xuân Hƣơng, Nguyễn Khuyến, Tú Xƣơng... Lời văn của họ Vũ rất gần gũi với lời nói hàng ngày và lại có những kiểu câu rất mới so với những kiểu câu khẩu ngữ. Lời văn phóng sự của Vũ Trọng Phụng không chỉ tiêu biểu cho lối diễn đạt đƣơng thời, mà còn thể hiện khuynh hƣớng diễn đạt của những năm sau. Có thể nói Vũ Trọng Phụng là một trong những người mở đường trong việc xây dựng lời văn xuôi hiện đại. Điều này càng có ý nghĩa trong bối cảnh ngôn ngữ văn học vừa thoát ra khỏi những ràng buộc, khuôn sáo của văn học Trung đại. KẾT LUẬN 1. Thời kỳ mới trong việc tiếp thu di sản văn học của Vũ Trọng Phụng đòi hỏi một cái nhìn bao quát cả mảng thành tựu phóng sự của ông. Việc khảo sát đặc điểm thể loại phóng sự của Vũ Trọng Phụng, tìm hiểu giá trị và những hạn chế của nó có ý nghĩa đối với thực tiễn sáng tác hiện nay của thể phóng sự. Suốt hơn một nửa thế kỷ vừa qua, lịch sử vấn đề phóng sự Vũ Trọng Phụng đã diễn ra rất sôi nổi và không tách rời lịch sử vấn đề Vũ Trọng Phụng. Trong đó, những ý kiến ca ngợi một chiều và những ý kiến phủ định sạch trơn dần dần nhƣờng chỗ cho sự đánh giá khách quan, vừa khẳng định những đóng góp của ông, đồng thời cũng chỉ ra những mặt hạn chế lệch lạc của "ông vua phóng sự". 2. Phóng sự là thể "tân văn" của văn xuôi trong quá trình hiện đại 196 hóa văn học dân tộc ở những thập niên đầu thế kỷ. Bằng việc học tập kinh nghiệm sáng tác của nƣớc ngoài, bằng quá trình sáng tạo, Vũ Trọng Phụng cùng các nhà văn viết phóng sự thời "tiền chiến" đã tạo đƣợc một thành tựu sáng tác phong phú, làm giàu cho văn học dân tộc, góp phần đƣa nền văn học đi vào quỹ đạo hiện đại. Bằng chính sáng tác và sự khảo cứu, các nhà sáng tác, nghiên cứu, phê bình Việt Nam đã từng bƣớc xây dựng đƣợc một hệ thống quan niệm và lý luận về thể phóng sự. Từ chỗ quan niệm phóng sự là một thể "đứng giữa văn học và báo chí", lý luận văn học và lý luận báo chí đã đi đến quan niệm rạch ròi hơn, cụ thể hơn: Phóng sự là một "thể ký trong báo chí và văn học" (Hà Minh Đức). Giữa phóng sự báo chí và phóng sự văn học tuy có sự khác biệt về mức độ xác thực và tính thoi sự của sự phản ánh, về cái Tôi trần thuật, về ngôn ngữ, v.v... nhƣng có sự giống nhau về căn bản. Đó là phải lấy người thật việc thật làm đối tượng phản ánh và phải chú ý đến tính thời sự của đối tượng miêu tả. Trƣớc nhu cầu của xã hội và sự trƣởng thành của ngành báo chí, sự phát triển của văn hóa, văn học, ảnh hƣởng của các phóng sự nƣớc ngoài.... đầu thập niên ba mƣơi, thể phóng sự ở Việt Nam chính thức đƣợc hình thành. Điểm độc đáo là ngay từ đầu đã có phóng sự văn học (Tôi kéo xe của Tam Lang, 1932) va chỉ trong khoảng 15 năm thể phóng sự đã phát triển mạnh mẽ, đạt đƣợc thành tựu phong phú, với nhiều tác phẩm độc đáo và hàng loạt cây bút có tên tuổi. Thể phóng sự đã góp phần làm hiện đại hóa diện mạo văn xuôi hiện đại. Do sự nhận thức lệch lạc về chức năng xã hội và văn học... của thể phóng sự, từ năm 1946 đến những năm bảy mƣơi, thể phóng sự đã bị chìm vào quên lãng. Nhƣng kể từ thập niên tám mƣơi, công cuộc đổi mới đã giúp thể vãn nay hồi sinh và ngày càng phát huy đƣợc vai trò xung kích của mình trên mặt trận báo chí và văn học, góp phần vào sự nghiệp xây 198 đó. Ẩn dƣới cái nhìn cay nghiệt, chửi đời, giận đời, cƣời đời là nỗi đau đời, thƣơng đời và niềm mong muốn con người thực sự trở thành con người, với những phẩm chất ngƣời vốn có của nó. Tuy nhiên, trong phóng sự của mình, họ Vũ đã bộc lộ ra những điều hạn chế, bất cập và những yếu tố tự nhiên chủ nghĩa. Điều này đƣợc thể hiện rõ ở sự mơ hồ, lệch lạc về nhận thức chính trị (ví Stalin với Trùm Ấm B...); ở sự bi quan về thời cuộc và phẩm chất tinh thần của con ngƣời, không đặt niềm tin vào quần chúng lao khổ; ở sự giải thích cái dâm và nạn mại dâm; ở lối mô tả một số nhân vật bằng một bút pháp có pha màu sắc tự nhiên chủ nghĩa. 4. Sự "sắc sảo, khôn ngoan" trong cách làm phóng sự của họ Vũ biểu hiện ở nghệ thuật khám phá hiện thực. Việc tiếp cận hiện thực với những điểm nhìn khác nhau là một hình thức thay đổi hệ quy chiếu để nhận thức hiện thực sâu sắc hơn. Vũ Trọng Phụng còn rất tinh tế trong việc "tuyển chọn" những khía cạnh quan trọng, những hiện tƣợng tiêu biểu của thực tại; sáng tạo trong việc khai thác tƣ liệu; nhanh nhạy nắm bắt thông tin. Ngoài ra, ông còn dùng tƣởng tƣợng và hƣ cấu làm sống dậy những tƣ liệu gián tiếp. Sự "sắc sảo, khôn ngoan" trong cách làm phóng sự của họ Vũ còn ở chỗ, ông đã dẫn truyền chất tiểu thuyết vào nghệ thuật phóng sự. Trong phóng sự của Vũ Trọng Phụng, ngoài những tƣ liệu về ngƣời thực, việc thực còn cả một thế giới nhân vật sống động, có tính cách, số phận, một số nhân vật mang dáng dấp của điển hình như trong tiểu thuyết. Do đặt vấn đề cá nhân và những vấn đề xã hội vào tầm quan sát và thể hiện nên các phóng sự của ông có một chủ đề phức hợp, có hướng vươn tới tầm khái quát của tác phẩm tiểu thuyết. Tính tiểu thuyết còn bộc lộ ở sự biến hóa trong kết cấu và ở lối thuật kể. Trong phóng sự của họ Vũ, cái Tôi -ngƣời kể chuyện luôn bao hàm trong nó cả cái Tôi nhân chứng và cái Tôi thẩm mỹ. Đây là dạng cái Tôi đa năng, khi thì đƣợc nhân vật hóa, thâm 199 nhập sâu vào thế giới nhân vật, khi lại đứng tách ra khỏi quần thể nhân vật để nhận xét, luận bàn. Sự di chuyển điểm nhìn của cái Tôi ngƣời kể chuyện cho một số nhân vật "tự kể" đã chuyển sự quan sát bên ngoài vào sự thể hiện bên trong, đã tạo yếu tố nền cho lối cấu trúc biến hóa và sự linh hoạt, hấp dẫn trong thuật kể. Sự đặc sắc trong nghệ thuật phóng sự Vũ Trọng Phụng còn thể hiện ở nghệ thuật trào phúng. Họ Vũ đã tạo nên dạng nhân vật hài hƣớc, biếm họa; tài tình trong việc tổ chức những tình huống trào phúng; dùng lối văn giễu nhại để châm biếm, mỉa mai những cái xấu xa, kệch cỡm, đáng cƣời... 5. Những đặc điểm về nội dung và nghệ thuật của phóng sự Vũ Trọng Phụng đƣợc thể hiện bằng một lời văn giàu chất khẩu ngữ, một lời văn đa giọng điệu; một lời văn mang tính truyền thống và hiện đại. Trong lời văn phóng sự của mình, họ Vũ đã thể hiện sự điêu luyện trong việc sử dụng khẩu ngữ và các biện pháp chuyển nghĩa. Ông đã sử dụng thành thạo mọi loại khẩu ngữ của đủ mọi hạng ngƣời mà ông mô tả. Những biện pháp chuyển nghĩa nhƣ so sánh, tƣơng phản... đều mang màu sắc khẩu ngữ và sắc thái biểu cảm âm tính. Đó là phƣơng tiện rất đắc dụng để ông xây dựng một lời văn có lối diễn đạt cực mạnh, đi thẳng vào cái bản thể, cái "lõi" của sự vật, hiện tƣợng, bắt nó phải hiện ra một cách trần trụi, nguyên hình, nhằm xét toạc những bức màn giả dối, phanh phui bản chất xấu xa của xã hội đƣơng thời. Lời văn phóng sự âm vang nhiều giọng điệu: giọng điệu của cái Tôi - ngƣời kể chuyện; giọng điệu của cái Tôi - tác giả; giọng điệu của một thế giới nhân vật đầy sôi động, nhƣ chính cuộc sống... Giọng điệu của cái Tôi - tác giả, cái Tôi - ngƣời kể chuyện chứa đầy "cảm xúc đối nghịch", với nhiều cung bậc thể hiện "sự nhức nhối của trí tuệ" hòa cùng giọng điệu căm đời, hận đời, muốn trả thù đời... của quần thể nhân vật tạo thành một âm thanh sôi động những tiếng rên xiết, vật vã, đau đớn, 200 xót xa, cay đắng, mỉa mai, uất hận... đối với cái thực trạng đầy đen tối, bất công, chà đạp và làm tha hóa con ngƣời. Một xã hội mà con ngƣời không còn chịu đựng nổi tất yếu phải bị phá bỏ. Lời văn phóng sự Vũ Trọng Phụng vừa mang tính truyền thống lại mang tính hiện đại, vì họ Vũ đã kế thừa lối diễn đạt bình dân truyền thống và thâu thái đƣợc lối phô diễn cực mạnh của Hồ Xuân Hƣơng, Tú Xƣơng... Lời văn của ông chỉ cốt tiếp cận trực diện với hiện thực, đi thẳng vào bản thể của đối tƣợng. Ông lại biết tiếp thu những yếu tố tích cực của ngôn ngữ nƣớc ngoài (đặc biệt là ngôn ngữ văn chƣơng Pháp hiện đại) để tạo ra một lời văn trong sáng, rõ ràng, chính xác. Ông xứng đáng là một trong những ngƣời mở đƣờng cho việc xây dựng lời văn xuôi hiện đại và khuynh hƣớng diễn đạt của những năm sau. Tuy nhiên, họ Vũ còn để lại trong lời văn phóng sự của mình một số "hạt sạn". Đó là những câu văn sống sƣợng hoặc lối diễn đạt cầu kì, gƣợng gạo... Vói mong muốn đem lại một cái nhìn bao quát, Luận án này đã tiến hành khảo sát đặc điểm phóng sự Vũ Trọng Phụng trên cả bình diện nội dung, nghệ thuật và lời văn. Tuy nhiên, sự tiếp cận này chỉ là một sự thử nghiệm và những đặc điểm đƣợc trình bày cũng chỉ là những kết quả bước đầu. Trong phóng sự Vũ Trọng Phụng, cái thực dụng hòa quyện với cái thẩm mĩ đã đem lại tính thông tin đậm đặc và chất văn học đậm đà; nhân cách nhà báo hòa chung vói nhân cách nhà văn trong cùng một chủ thể sáng tạo. Giá trị nhiều mặt của phóng sự Vũ Trọng Phụng, không chỉ có ý nghĩa đối với lí luận và thực tiễn của thể phóng sự mà cồn có ý nghĩa với một số ngành khoa học xã hội và nhân văn khác. Vì vậy, để khám phá toàn diện di sản phóng sự của họ Vũ, có thể cần đến một lối tiếp cận liên ngành, giữa văn học, ngôn ngữ học, báo chí, sử học, dân tộc học và xã hội học... 201 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đào Duy Anh, Hán-Việt từ điển (Giản yếu) Trƣờng Thi xuất bản, SG, 1957. 2. Tràng An-Lệ chi-Đuốc Nhà Nam, Dứt tình với làng văn, Tao Đàn, Số đặc biệt, HN, 12/1939. 3. M. Arnaudop, Tâm lý học sáng tạo văn học, NXB Văn học, HN, 1978. 4. Lại Nguyên Ân (biên soạn), Vũ Trọng Phụng - tài năng và sự thật, NXB Hội nhà văn, HN, 1992. 5. Ban văn học Hội Khai Trí Tiến Đức (khởi thảo), Việt Nam tự điển, Trung Bắc Tân Văn, HN, 1931. 6. M. Bakhtin, Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Bộ văn hóa Thông tin và Thể thao - Trƣờng viết văn Nguyễn Du, HN, 1992. 7. M. Bakhtin, Những vấn đề thi pháp Đôxtôiepxki, NXB Giáo dục, HN, 1993. 8. S. Barnet - M. Berman - W. Burto, Nhập môn văn học, Trƣờng viết văn Nguyễn Du, HN, 1992. 9. Vũ Bằng, Bốn mươi năm nói láo, Phạm Quang Khai xuất bản, SG, 1969. 10. Vũ Bằng, Cái tài, cái tật của Vũ Trọng Phụng, Tạp chí văn học SG, số 114, ngày 15/10/1970. 11. Vũ Bằng, Cảm nhớ Vũ Trọng Phụng (Lời đề tựa tiểu thuyết Lấy nhau vì tình) Tạp chí văn học, số 94, SG, ngay 1/10/1969. 202 12. Vũ Bằng, Những cây cười tiền chiến, SG, 1971. 13. Vũ Bằng, Tôi, thằng vô lại, Tạp chí văn học, SG, số 94,1/10/1969. 14. Nguyễn Duy Bình, Trao đổi về "Mấy vấn đề về văn học hiện thực phê phán", Tạp chí văn học, HN, 11/1964. 15. IV. Borep, Mỹ học - NXB Chính trị Maxcova (tƣ liệu Trƣờng ĐHSP Ha Nội 1). 16. Thiết Can, Ngày xuân nhớ bạn cũ, báo Chuông Mai, Xuân Canh Tý, SG, 1960. 17. Nam Cao, Tác phẩm, Tập 1-2 (Hà Minh Đức sƣu tầm giới thiệu), NXB Văn học, HN, 1976. 18. Huệ Chi - Phong Lê, Vài vấn đề văn học sử giai đoạn 1930-1945 nhân đọc cuốn "Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam" của nhóm Lê Quý Đôn, Tạp chí văn học, HN, 5/1960. 19. Nguyễn Đình Chú, Cần nhận thức dùng thời kỳ văn học 1930-1945, báo Giáo viên nhân dân, các số 27-28-29-30-31, tháng 7/1989. 20. Nguyễn Đình Chú, Về giai đoạn văn học Việt Nam đầu thế kỷ 20-1945, (Tài liệu bồi dƣỡng môn Văn lớp 11), Vụ giáo viên, HN, 1991. 21. Nguyễn Mạnh Côn, Vũ Trọng Phụng, một giàu có, một thiệt hại của văn chương chúng ta, Tạp chí văn học, SG, số 67, năm 1966. 22. Huỳnh Tịnh Paulus Của, Đại Nam quốc âm tự vị, Imprimerie Rey, curiol, SG, 1895. 23. Nguyễn Đức Dân, Lôgích và tiếng Việt, NXB Giáo dục, TP HCM, 1998. 24. Nguyễn Đức Dân (chủ biên) Tiếng cười thế giới, NXB Khoa học xã hội, HN, 1979. 203 25. Nguyễn Duy Diễn, Vũ Trọng Phụng, nhà văn tả chân bất hủ, Tạp chí văn học, số 94, SG, ngày 5/8/1965. 26. Lê Tiến Dũng, Vũ Trọng Phụng và nỗi trăn trở về nghĩa lí cuộc đời, báo Văn nghệ T.P Hồ Chí Minh, số 22-28/10/1992 27. Lê Tiến Dũng, Tìm hiểu tác phẩm văn học, NXB Tổng hợp Sông Bé, 1991. 28. Đức Dũng, Các thể ký báo chí, NXB Văn hóa thông tin, HN, 1996. 29. Nguyễn Hữu Dụng, Giông tố của Vũ Trọng Phụng, Tạp chí văn học, số 44, ngày 5/8/1966. 30. Nguyễn Đức Đàn - Phan Cự Đệ, Ngô Tất Tố, NXB Văn hóa, HN, 1962. 31. Nguyễn Đức Đàn, Bàn uể một số dặc trung của khuynh hướng tự nhiên chủ nghĩa trong văn học Việt Nam trước cách mạng, Tạp chí văn học số 9, HN, 9/1966. 32. Nguyễn Đức Đàn, Bàn về trường hợp Vũ Trọng Phụng, Tạp chí văn học, HN, 1/1972. 33. Nguyễn Đức Đàn, Đặc điểm văn học hiện thực phê phán Việt Nam, NXB Văn học, HN, 1964. 34. Nguyễn Đức Đàn, Mấy vấn đề văn học hiện thực phê phán Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, HN, 1968. 35. Phùng Tất Đắc, Kỹ nghệ lấy Tây, (Bài tựa), NXB Hà Nội, 1989. 36. Phan Cự Đệ - Hà Văn Đức - Nguyễn Hoành Khung, Văn học Việt Nam, (1930-1945) Tập 1, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, HN, 1988. 37. Phan Cự Đệ (chủ biên) - Nguyễn Hoành Khung - Trần Hữu Tá, 204 Tổng tập văn học Việt Nam, tập 29A, NXB Khoa học xã hội, HN, 1988. 38. Phan Cự Đệ, Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, tập 1, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, HN, 1978. 39. Phan Cự Đệ, Văn học lãng mạn Việt Nam (1930-1945), NXB Giáo dục, HN, 1997. 40. Phan Cự Đệ, Vấn đề Vũ Trọng Phụng - Văn học Việt Nam 1930-1945, tập 2, NXB Giáo dục, HN, 1961. 41. Phan Cự Đệ, Những đặc trưng thẩm mỹ của ngôn ngữ tiểu thuyết, Tạp chí ngôn ngữ, số 1, HN, 1974. 42. Nguyễn Kim Đính, Một số vấn đề thi pháp của nghệ thuật ngôn từ, Tạp chí Văn học, số 5-6/1985. 43. N. Đuytơre, Bàn về văn học phóng sự, báo Văn nghệ (Hà Nội) số 21, ngày 26 tháng 5.1990. 44. Hà Minh Đức, Tác phẩm văn học, NXB Giáo dục, HN, 1962. 45. Hà Minh Đức, Loại thể văn học, NXB Giáo dục, HN, 1962. 46. Hà Minh Đức - Phan Cự Đệ, Nhà văn Việt Nam, tập 1, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, HN, 1979. 47. Hà Minh Đức, Ký viết về chiến tranh cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội, NXB Quân đội nhân dân, HN, 1980. 48. Hà Minh Đức, Nam Cao - đời văn và tác phẩm, NXB Văn học, HN, 1997. 49. Hà Minh Đức (chủ biên) Mấy vấn đề lý luận văn nghệ trong sự nghiệp đổi mới, NXB Chính trị quốc gia, HN, 1990. 50. Hà Minh Đức (chủ biên) Báo chí, những vấn đề lý luận và thực tiễn, tập 1 và 2, NXB Giáo dục, 1996. 205 51. Hà Minh Đức (chủ biên) Lý luận văn học (Tái bản), NXB Giáo dục, HN, 1995. 52. Hà Minh Đức, Khảo luận văn chương (Thể loại -tác giả), NXB Khoa học xã hội, HN, 1998. 53. I.R. Galperin, Văn bản với tư cách đối tượng nghiên cứu của ngôn ngữ học, NXB Khoa học xã hội, HN, 1987. 53. Ngọc Giao, Đốt lò hương cũ - Vũ Trọng Phụng, báo Mới, Xuân Quý Tỵ, HN, ngày 9 tháng 1 năm 1953. 54. Ngọc Giao, Đôi điều tôi biết về Vũ Trọng Phụng, Tạp chí văn học, số 5,HN, 1989. 55. Trần Văn Giàu (chủ biên) Lịch sử Việt Nam cận đại, tập 3, NXB Giáo dục, HN, 1960. 56. Trần Văn Giàu (chủ biên) Lịch sử Việt Nam cận đại, tập 4 (1919-1930), NXB Giáo dục, HN, 1963. 57. M. Gorki, Bàn về văn học, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, HN, 1982. 58. N.A. Gulaiep, Lý luận văn học, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, HN, 1982. 59. Dƣơng Quảng Hàm, Việt Nam văn học sử yếu, HN, 1941. 60. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (chủ biên), Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, HN, 1992. 61. Lê Thịu Đức Hạnh, Nhìn lại việc đánh giá Vũ Trọng Phụng, suy nghĩ về vấn đề đổi mới tư duy trong nghiên cứu văn học, Tạp chí văn học số 1, HN, 1989. 62. Lê Thị Đức Hạnh, Tìm hiểu truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, NXB Khoa học xã hội, HN, 1979. 206 64. Lê Thị Đức Hạnh, Lời bạt (tập truyện ngắn Vũ Trọng Phụng), NXB Hội nhà văn, HN, 1996. 65. Nguyễn Văn Hạnh, về nội dung khái niệm chủ nghĩa hiện thực trong văn học, Tạp chí văn học, số 1, 1987. 66. Nguyễn Văn Hạnh, Suy nghĩ về văn học, NXB Văn học, HN, 1979. 67. Nguyễn Văn Hanh, Đổi mới tư duy, khẳng định sự thật trong văn học nghệ thuật, Tạp chí văn học, số 2, 1987. 68. Nguyễn Văn Hạnh, Về bản chất của văn chương, báo Văn nghệ, số 27, ngày 4 tháng 7 năm 1998. 69. Nguyễn Văn Hạnh, Hai hướng tiếp cận lớn đối với văn học, Mấy vấn đề về ngôn ngữ và văn học, NXB Khoa học xã hội, HN, 1977. 70. Nguyễn Văn Hạnh - Huỳnh Nhƣ Phƣơng, Lý luận văn học vấn đề và suy nghĩ, NXB Giáo dục, TP HCM, 1995. 71. Nguyễn Văn Hạnh, về thi pháp và thi pháp học, Một số vấn đề về ngôn ngữ và văn học, NXB Khoa học xã hội, 1997. 72. G.F. Hêghen, Mỹ học tập 1A, tai liệu của Viện văn học, HN, 1973. 73. Hoàng Ngọc Hiến, Chủ nghĩa hiện thực và chả nghĩa nhân dạo, Văn học - học văn, Trƣờng viết văn Nguyễn Du, 1990. 74. Hoàng Ngọc Hiến, Năm bài giảng nghiên cứu văn học, NXB Giáo dục, HN, 1997. 75. Hoàng Ngọc Hiến, Văn học - học văn, Trƣờng CĐSP TP. Hồ Chí Minh - Trƣờng viết văn Nguyễn Du, TP HCM, 1990. 76. Hoàng Ngọc Hiến, Tăng cường tính chính xác trong nghiên cứa văn học, Các vấn đề của khoa học văn học, NXB Khoa học xã hội, HN, 1990. 207 77. Đỗ Đức Hiểu, Đổi mới phê bình văn học, NXB Khoa học xã hội -Nhà xuất bản Mũi Cà Mau, 1993 78. Đỗ Đức Hiểu, Những nguyên lý mỹ học của chủ nghĩa tự nhiên, Thông báo khoa học, tập 1, Đại học tổng hợp, Hà Nội, NXB Giáo dục, HN, 1962. 79. Nguyễn Công Hoan, Đời viết văn của tôi, NXB Văn học, HN, 1971. 80. Hội thảo khoa học tại Hà Nội, kỷ niệm 50 năm ngày mất của Vũ Trọng Phụng (gồm 21 tham luận) tháng 10/1989. 81. Hội thảo khoa học tại TP. Hồ Chí Minh, kỷ niệm 75 năm ngày sinh Vũ Trọng Phụng (gồm 8 tham luận) tháng 12/1987. 82. Hội thảo khoa học tại thành phố Hồ Chí Minh, kỷ niệm 80 năm ngày sinh Vũ Trọng Phụng (tháng 3-1992) có 25 tham luận. 83. Nguyên Hồng, Vũ Trọng Phụng và những tác phẩm của anh (giới thiệu Giông tố), NXB Văn nghệ, Hà Nội, 1970. 84. Đinh Hùng, Nhớ Vũ Trọng Phụng, Tạp chí văn học, số 44, SG, 1965. 85. Lan Khai, Vũ Trọng Phụng - mớ tài liệu cho văn sử Việt Nam, NXB Minh Phƣơng, HN, 1941. 86. Tràng Khanh - Việt Sinh, Hà Nội ban đêm, Ngày nay, HN, 1936. 87. M.B. Khrapchenco, Cá tính sáng tạo và sự phát triển của văn học, NXB Tác phẩm mới, HN, 1978. 88. Phan Khôi, Không đề cao Vũ Trọng Phụng, chỉ đánh giá đúng, Vũ Trọng Phụng với chúng ta, Minh Đức xuất bản, HN, tháng 10/1956. 89. Nguyễn Hoành Khung - Lại Nguyên Ân, Vũ Trọng Phụng, con người và tác phẩm, NXB Hội nhà văn, HN, 1994. 208 90. Nguyễn Hoành Khung, Giông tố, Từ điển văn học, tập 1, NXB Khoa học xã hội, HN, 1984. 91. Nguyễn Hoành Khung, Số đỏ, Từ điển văn học, tập 2, NXB Khoa học xã hội, HN, 1984. 92. Nguyễn Hoành Khung, Vấn đề Vũ Trọng Phụng qua những bước thăng trầm, báo Giáo viên nhàn dân, số 27-28-29-30-31, tháng 7-1989. 93. Nguyễn Hoành Khung, Vũ Trọng Phụng (Lịch sử văn học Việt Nam 1930-1945, tập 1), NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, HN, 1988. 94. Nguyễn Hoành Khung, Vũ Trọng Phụng, Từ điển văn học tập 2, NXB Khoa học xã hội, HN, 1984. 95. Lê Trang Kiều, Viết về Vũ Trọng Phụng, Tạp chí văn học, số 94, ngày 1 tháng 10, 1969 (SG). 96. Lê Đình Ky, Vấn đề đánh giá văn học Việt Nam 1932-1945 và đánh giá Vũ Trọng Phụng, Tạp chí văn học, số 6, 1992. 97. Đinh Trọng Lạc, Phong cách học văn bản, NXB Giáo dục, HN, 1994. 98. Hoài Lam, Nguyên lý mỹ học Mác - Lênin, NXB Sách giáo khoa Mác-Lênin, HN, 1984. 99. Hoài Lam, Tìm hiểu mỹ học Mác-Lênin, NXB Văn hóa, HN, 1973. 100. Đinh Xuân Lâm (chủ biên), Đại cương lịch sử Việt Nam, tập II, NXB Giáo dục, HN, 1998. 101. Tam Lang - Trọng Lang - Hoàng Đạo, Phóng sự chọn lọc, NXB Hội Nhà văn, HN, 1995. 102. Tam Lang, Tôi kéo xe, NXB Đất mới, SG, 1974. 209 103. Thanh Lãng, Bảng lược đồ văn học Việt Nam, quyển hạ, Ba thế hệ của nền văn học mới, Trình bày, SG, 1967. 104. Thanh Lãng, 13 năm tranh luận văn học, tập I, NXB Văn học -Hội NCVGDVHTP. Hồ Chí Minh, 1995. 105. Thanh Lãng, 13 năm tranh luận văn học, tập III, NXB Văn học - Hội NCVGDVHTP. Hồ Chí Minh, 1995. 106. Thanh Lãng, Phê bình văn học thế hệ 1932-1945, NXB Khai Trí, SG, 1972. 107. Nguyễn Đình Lạp, Ngõ hẻm, NXB Văn học, HN, 1990. 108. Nguyễn Đình Lạp, Ngoại ô, NXB Văn hóa thông tin, HN, 1997. 109. Nguyễn Đình Lạp, Tác phẩm chọn lọc, NXB Hội nhà văn, HN, 1995. 110. Phong Lê, 50 năm ngày mất của Vũ Trọng Phụng trong sự nghiệp đổi mới của chúng ta, Tạp chí văn học, số 2 năm 1990. 111. V.I.Lênin, Bàn về văn học nghệ thuật, NXB Sự thật, HN, 1960. 112. Vũ Đình Liên - Đỗ Đức Hiểu - Lê Trí Viễn - Huỳnh Lý - Trƣờng Chính - Lê Thƣớc, Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam, tập III, NXB Xây dựng, HN, 1957. 113. Nguyễn Triệu Luật, Vũ Trọng Phụng - hiện diện cần thiết cho xã hội ngày nay, Tạp chí văn học (SG) số 44 ngày 15/8/1965. 114. Phƣơng Lựu - Nguyễn Xuân Nam - Thành Thế Thái Bình, Lý luận văn học, tập 3, NXB Giáo dục, HN, 1988. 115. Phƣơng Lựu - Trần Đình Sử - Lê Ngọc Trà, Lý luận văn học, tập 1, NXB Giáo dục, HN, 1987. 116. Phƣơng Lựu, Tìm hiểu lý luận văn học phương Tây hiện đại, 210 NXB Văn học, HN, 1995. 117. Phƣơng Lựu, Tiếp nhận văn học, NXB Giáo dục, HN, 1997. 118. Phƣơng Lựu, Lỗ Tấn, nhà lý luận văn học, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, HN, 1997. 119. Phƣơng Lựu, Khơi dòng lý thuyết, NXB Hội nha văn, HN, 1997. 120. Huỳnh Lý - Hoàng Dung - Nguyễn Hoành Khung - Nguyễn Đăng Mạnh - Nguyễn Trác, Lịch sử văn học Việt Nam, tập V, 1930-1945 (phần I), NXB Giáo dục, HN, 1973. 121. C. Mác - F. Ănghen - V.I.Lênin, Về văn học nghệ thuật, NXB Sự thật, HN, 1958. 122. Hoàng Nhƣ Mai, Chân dung và tác phẩm, NXB Giáo dục, TP HCM, 1999. 123. Hoàng Nhƣ Mai, Nụ cười ấy khổ đau hơn tiếng khóc, Tuổi trẻ chủ nhật, số 41, tháng 10.1989. 124. Hoàng Nhƣ Mai, Nhà văn Vũ Trọng Phụng và cái thời thuộc Pháp (Bài đề dẫn cho Hội nghị khoa học kỷ niêm 75 năm ngày sinh Vũ Trọng Phụng, tại TP Hồ Chí Minh tháng 12.1987). 125. Nguyễn Đăng Mạnh, Nhà văn, tư tưởng và phong cách, NXB Tác phẩm mới, HN, 1979. 126. Nguyễn Đăng Mạnh, Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, NXB Giáo dục, 1994. 127. Nguyễn Đăng Mạnh, Dẫn luận nghiên cứa tác giả văn học, Trƣờng Đại học sƣ phạm Hà Nội 1, tháng 12.1993. 128. Nguyễn Đăng Mạnh, Lòi giói thiệu Tuyển tập Vũ Trọng Phụng, tập 1, NXB Văn học, HN, 1987. 211 129. Nguyễn Đăng Mạnh, Vũ Trọng Phụng, "Ông vua phóng sự" – Lời giới thiệu phóng sự Kỹ nghệ lấy Tây – Cơm thầy cơm cô, NXB Hà Nội, 1989. 130. Nam Mộc, Thể ký và vấn dề viết về người thật, việc thật, Tạp chí văn học, sô 6 năm 1967. 131. Nguyên Ngọc, Văn xuôi sau 1975, thử thăm dò đôi nét về quy luật phát triển, Tạp chí văn học, (Hà Nội) số 4.1991. 132. Phan Nguyên, Tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng và xã hội nô lệ, Văn học (Sài Gòn) số 18 năm 1962. 133. Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tập III, Quốc học tùng thƣ, SG, 1961. 134. Vƣơng Trí Nhàn (sƣu tầm, biên soạn), Khảo về tiểu thuyết, NXB Hội nhà văn, HN, 1996. 135. Vƣơng Trí Nhàn, Một lớp người thành thị, một kiểu nhà văn: trường hợp Vũ Trọng Phụng, Tạp chí văn học (Hà Nội) số 2.1990. 136. Hoàng Nhân, Ảnh hưởng của văn học Pháp qua một số tác phẩm của Vũ Trọng Phụng, Tạp chí văn học (Hà Nội) số 2.1988. 137. Huỳnh Dũng Nhân, Ăn tết trong rừng chó sói (Tập phóng sự), NXB Lao động, TP HCM, 1995. 138. Nhiều tác giả, Nghề nghiệp và công việc của nhà báo, Hội nhà báo Việt Nam xuất bản, HN, 1992. 139. A. Pazzi, Người Việt cao quý, NXB Kiến thức thời đại, SG, 1965. 140. X.M. Pêtơrốp, Chủ nghĩa hiện thực phê phán, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, HN, 1986. 141. Vũ Ngọc Phan, Nhà văn hiện đại, tập Một, NXB Khoa học xã hội, HN, 1989. 212 142. Thế Phong, Cuộc đời viết văn làm báo của Tam Lang, NXB Văn hóa thông tin, TP HCM, 1996. 143. Thế Phong, Lược sử văn nghệ Việt Nam - Nhà văn tiền chiến 1930-1945, Vàng son, SG, 15.8.1974. 144. Phóng sự L'Hebdomadaire du Reportage (Sài Gòn) số 1 ra ngày 10 Novembre 1938, số cuối ngay 16 Mars 1940. Chủ nhiệm: Công Minh (Nguyễn Trƣờng Thế). 145. Bùi Huy Phồn, Phóng sự - một thể văn xung kích, Văn nghệ (Hà Nội) số 63, tháng 8 năm 1962. 146. Bùi Huy Phồn, Vũ Trọng Phụng - văn không hẳn là người, báo Văn nghệ (Hà Nội) số 8.1990. 147. Sigmund Freud, Phân tâm học nhập môn, NXB Khai trí, SG, 1970. 148. Sigmund Freud, Phân tâm học về tính dục, NXB Khai trí, SG, 1970. 149. Lê Huy Phú, Hồ sơ về một thế giói khác (tập phóng sự), NXB Công an nhân dân, HN, 1996. 150. Vũ Đức Phúc, Bàn về các thể ký trong văn học từ Cách mạng tháng Tám đến nay, Tạp chí văn học (Hà Nội) số 8.1966. 151. Vũ Đức Phúc, Đặc điểm tình hình văn học Việt Nam trong giai đoạn 1930-1945, Tạp chí văn học (Hà Nội) số 1.1964. 152. Vũ Đức Phúc, Trào lim hiện thực chủ nghĩa trong văn học Viết Nam từ 1930-1945, Tạp chí văn học (Hà Nội) số 5.1976. 153. Vũ Đức Phúc, Văn xuôi cách mạng thời kỳ Mặt trận dân chủ (1936-1939), Tạp chí văn học (Hà Nội) số 1.1981. 154. Vũ Trọng Phụng, Cạm bẫy người, NXB Văn học, HN, 1993. 213 155. Vũ Trọng Phụng, Cơm thầy cơm cô và Lục xì, NXB Minh Phƣơng, HN, 1937. 156. Vũ Trọng Phụng, Giết mẹ - kịch của V. Hugo, Dịch thuật tùng thƣ xuất bản, HN, 1936. 157. Vũ Trọng Phụng, Kỹ nghệ lấy Tây - Cơm thầy cơm cô, NXB Hà Nội, 1989. 158. Vũ Trọng Phụng, Làm đĩ, NXB Văn học, HN, 1991. 159. Vũ Trọng Phụng, Lấy nhau vì tình, NXB Văn học, HN, 1989. 160. Vũ Trọng Phụng, Một huyện ăn Tết, Tuyển tập Vũ Trọng Phụng, tập II, NXB Văn học, HN, 1987. 161. Vũ Trọng Phụng, Số đỏ, NXB Văn học, HN, 1990. 162. Vũ Trọng Phụng, Trúng số độc đắc, NXB Văn học, HN, 1990. 163. Vũ Trọng Phụng, Vỡ đê - Tuyển tập Vũ Trọng Phụng, tập II, NXB Văn học, HN, 1987. 164. G.N. Pospelov (chủ biên), Dẫn luận nghiên cứu văn học, 2 tập, NXB Giáo dục, HN, 1985. 165. Thiều Quang, Một chút tài liệu về Vũ Trọng Phụng, Tập phê bình, số đặc biệt về Vũ Trọng Phụng, HN, 1957. 166. Trần Huy Quang, Phóng sự (tuyển), NXB Văn học, HN, 1985. 167. Doãn Quốc Sĩ, Văn học và tiểu thuyết, NXB Sáng tạo, SG, 1973. 168. Lê Văn Siêu, Vũ Trọng Phụng - Văn học sử thời kháng Pháp 1858-1945, NXB Trí Năng, SG, 1974. 169. Mộng Bình Sơn - Đào Đức Chƣơng, Nhà văn phê bình (Khảo cứu văn học Việt Nam 1932-1945), NXB Văn học, HN, 1996. 170. Trần Đình Sử, Bàn thêm về tiếp nhận văn học, báo Văn nghệ 214 (Hà Nội), số 7.1990. 171. Trần Đình Sử - Phƣơng Lựu - Nguyễn Xuân Nam, Lý luận văn học, tập 2, NXB Giáo dục, HN, 1987. 172. Trần Đình sử, Con người trong văn học Việt Nam sau 1945 - Một thời đại mới trong văn học (nhiều tác giả), NXB Văn học, HN, 1996. 173. Trần Đình sử, Lý luận và phê bình văn học, NXB Hội nhà văn, HN, 1996. 174. Trần Đình sử, Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Vụ giáo viên, HN, 1993. 175. Trần Đình sử, Truyện, ký về các sự kiện sắp xảy ra, Tạp chí văn học, số 2 năm 1987. 176. Trần Hữu T á , Phóng sự - Một thể văn xung kích của báo chí, Báo Lao động xã hội, số 8, ngày 25.12.1993. 177. Trần Hữu Tá, Vỡ đê, Từ điển văn học, tập 2, NXB Khoa học xã hội, HN, 1984. 178. Trần Hữu Tá, Vũ Trọng Phụng - hôm qua và hôm nay, NXB TP. Hồ Chí Minh, 1992. 179. Trần Hữu Tá, Nhà văn Vũ Trọng Phụng với chúng ta, NXB TP. Hồ Chí Minh, 1999. 180. Trần Hữu Tá, Vũ Trọng Phụng, một tài năng lớn (bài viết trong cuốn "Nhà văn Vũ Trọng Phụng vói chúng ta") 181. Trần Hữu Tá, Vũ Trọng Phụng "ông vua phóng sự Việt Nam" báo Tuổi trẻ chủ nhật, tháng 10/1999. 182. Tạp chí văn học (Sài Gòn), số 67 (1.10.1966): Số đặc biệt tƣởng niệm Vũ Trọng Phụng. 215 183. Tạp chí văn học (Sài Gòn), số 94 (1.10.1969): Vũ Trọng Phụng dứt tình với làng văn. 184. Tạp chí văn học (Sài Gòn), số 114 (15.10.1970): Số đặc biệt về Vũ Trọng Phụng. 185. Văn Tâm, Góp lời thiên cổ sự, NXB Văn học, HN, 1992. 186. Văn Tâm, Vũ Trọng Phụng, nhà văn hiện thực, NXB Kim Đức, HN, 1957. 187. Văn Tâm, Vũ Trọng Phụng, "người thư ký của thời đại" (In trong "Vũ Trọng Phụng với chúng ta" NXB Kim Đức, HN, 1956. 188. Tạ Ngọc Tấn (chủ biên), Tác phẩm báo chí, tập Một, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Phân viện báo chí và tuyên truyền - NXB Giáo dục, HN, 1995. 189. Trần Đức Thảo, Vấn đề con người và chủ nghĩa "Lý luận không có con người", NXB thành phố Hồ Chí Minh, 1988. 190. Đào Thản, Đặc trưng của ngôn ngữ nghệ thuật thể hiện trong văn xuôi, Tạp chí ngôn ngữ, (Hà Nội) số 2.1994. 191. Nguyễn Thành, Ảnh hưởng của phân tâm học Freud trong sáng tác của Vũ Trọng Phụng, Tạp chí văn học (Hà Nội), số 4.1997. 192. Phạm Huy Thông, Văn Pháp rất Pháp của Nguyễn Ái Quốc, Tạp chí ngôn ngữ, (HN), số 2,1986. 193. Nguyễn Huy Thiệp, Như những ngọn gió, NXB Văn học, HN, 1997. 194. Lƣơng Duy Thứ, Lỗ Tấn - tác phẩm và tư liệu, NXB Giáo dục, TP HCM, 1997. 195. Timôphiep, Nguyên lý lý luận văn học, NXB Văn hóa, HN, 1962. 216 196. Lê Ngọc Trà, Lý luận và văn học, NXB Trẻ, TP HCM, 1990. 197. Lê Ngọc Trà, Vấn dề con người trong văn học hiện nay, Mấy vấn đề lý luận văn nghệ trong sự nghiệp đổi mới (Hà Minh Đức chủ biên), NXB Sự thật, HN, 1991. 198. Nguyễn Văn Trung, Nhà văn, người là ai? với ai? NXB Nam Sơn, Sài Gòn, 1967. 199. Nguyễn Văn Trung, Nhóm tả chân xã hội, xây dựng tác phẩm tiểu thuyết, Tự do xuất bản, SG, 1962. 200. Nguyễn Văn Trung, Chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam, thực chất và huyền thoại, NXB Nam Sơn, SG, 1963. 201. Việt Trung, Vấn đề Vũ Trọng Phụng, Tạp chí nghiên cứu văn học (Hà Nội), số 5. 1960. 202. Cù Đình Tú, Mấy cảm nghĩ ban đầu về cách phô diễn của nhà văn Vũ Trọng Phụng, Kiến thức ngay nay, số 2.1988. 203. Cù Đình Tú, Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, HN, 1983. 204. Nguyễn Tuân, Tàn đèn dầu lạc, Édition Mai Lĩnh, HN, 1941. 205. Nguyễn Tuân, Ngọn đèn dầu lạc, Édition Mai Lĩnh, HN, 1939. 206. Tuyển tập Ngô Tất Tố, tập II, NXB Văn học, HN, 1994. 207. Tuyển tập Vũ Trọng Phụng, Tập II (Nguyễn Đăng Mạnh, Trần Hữu Tá tuyển chọn, giới thiệu), NXB Văn học, HN, 1987. 208. Văn (Tạp chí), số đặc biệt tƣởng niệm Vũ Trọng Phụng, SG, 1967. 209. Chàng Văn (Chế Lan Viên), Vào nghề, NXB Văn học, HN, 1993. 210. Viện thông túi khoa học xã hội, Tệ nạn xã hội - căn nguyên, biểu hiện, phương thức khắc phục, Thông tin KHXN, HN, 1996. 217 211. A. Viollis, Đông Dương cấp cứu (Thế Phong dịch) Hồ sơ số Q.18, Phòng Lƣu trữ Ban nghiên cứu lịch sử Đảng trung ƣơng. 212. С. И. ОЖЕГОВ, Словарь Русского Языка. Москва издательство "Русский Язык", 1981. 213. Г.Я. СОЛГАНИК, Стил Репотажа, издательство Московского Университета, 1970. 214. Albert Dauzat, Dictionnaire etymologique, Larousse, Paris, 1947, 215. Encyclopedia Universalis, Paris, 1991. 216. Le Petit Larousse ilustre 1996, Paris, 1996. 218 PHỤ LỤC THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM SỐ ĐỎ A. THÀNH NGỮ 1. An cƣ lạc nghiệp. 2. Ăn sung mặc sƣớng. 3. Bách niên giai lão. 4. Bàn dân thiên hạ. 5. Thả mồi bắt bóng. 6. Con rồng cháu tiên. 7. Công kia việc nọ. 8. Cứu nhân độ thế. 9. Bàn ra tán vào. 10. Bất tuân thƣợng lệnh. 11. Bôi tro trát trấu. 12. Bung tai giả điếc. 13. Cao lƣơng mỹ vị. 14. Câm miệng hến. 15. Chẳng chóng thì chày. 16. Dĩ hòa vi quý. 17. Đánh đông dẹp bắc. 18. Đi đến đâu chết trâu đến đấy (Dùng như một thành ngữ) 19. Giúp nƣớc phò vua. 20. Há miệng mắc quai. 21. Núi xƣơng sông máu. 22. Nửa nạc nửa mỡ. 23. Ốm no bò dậy. 219 24. Tai to mặt lớn. 25. Tài cao chí cả. 26. Tam tòng tứ đức. 27. Tay trắng làm nên. 28. Hiền nhân quân tử. 29. Hƣ thân mất nết. 30. Môn đăng hộ đối. 31. Mời thầy chạy thuốc. 32. Mục bất tà thị. 33. Ngày sinh tháng đẻ. 34. Nhanh mồm nhẹ miệng. 35. Nhất cử lƣỡng tiện. 36. Nhiều phiền lắm não. 37. Nổi trận lôi đình. 38. Tay trắng làm nên. 39. Thả mồi bắt bóng. 40. Xỏ lá ba que. 41. Vô công rồi nghề. 42. Tựkỷámthị. 43. Túi cơm giá áo. 44. Trời tru đất diệt. 45. Trốn xuống suối vàng. 46. Treo ấn từ quan. 47. Trai thanh gái lịch. 48. Tòng nhất nhị chung. 49. Thƣơng nòi yêu giống. 50. Thiên biến vạn hóa. 51. Thấp cổ bé họng. B. TỤC NGỮ 1. Bói rẻ còn ơn ngồi không. 2. Có ăn có chọi mới gọi là trâu. 220 3. Có tài mà cậy chi tài. 4. Con giun xéo lắm cũng quằn. 5. Con hƣ tại mẹ cháu hƣ tại bà. 6. Uốn lƣỡi bảy lần. 7. Tốt khoe ra, xấu đậy lại. 8. Tai vách mạch rừng. 9. Sinh nghề tử nghiệp. 10. Nuôi ong tay áo. 11. Cạnh bên nào thì ngả về bên ấy. 12. Trai tân gái góa thì chơi, Đừng nơi có vợ, đừng nơi có chồng. 13. Già chơi trống bỏi. 14. Gái năm con chƣa hết lòng chồng. 15. Duyên kia ai đợi ai chơ, Tình kia ai tƣởng ai tơ tƣởng mình. (dạng ca dao) CẠM BẪY NGƢỜI A. THÀNH NGỮ 1. Tuy không ăn ớt mà cay. 2. Hỗn quân hỗn quan. 3. Che mắt thế gian. 4. Thiên biến vạn hóa. 5. Tiu nghỉu nhƣ chó bị thiến. 6. Thất cơ lỡ vận. 7. Dòng dõi gia thế. 8. Rong chơi bài bạc. 9. Khôn sặc máu mồm. 10. Đồ vô tích sự. 11. Năng tới coi thƣờng. 12. Nói toạc móng heo. 13. Trông mặt mà bắt hình dong. 221 14. Trắng nõn nhƣ ngà. 15. Nửa tỉnh nửa quê. 16. Thập tử nhất sinh. 17. Bất phân thắng bại. 18. Chia năm xẻ bảy. 19. Ƣu nhân bất đắc dĩ. 20. Thiên phƣơng bách kế. 21. Cờ gian bạc lận. 22. Sớm vác ô đi, tối vác ô về. 23. Xơ nhƣ nhộng. 24. Quỷ thần hai vai soi xét. 25. Bút khôn xiết tả. 26. Lột áo ngƣời sống bán áo ngƣời chết. 27. Chính đại quang minh. 28. Biết rõ mƣời mƣơi. 29. Nhàn cƣ vi bất thiện. 30. Con tiên cháu rồng. 31. Quay tít nhƣ con thò lò. 32. Rạc nhƣ xác ve. 33. Hai vai xo gần đến mang tai. 34. Hoa chúc động phồng. 35. Nhét đất thó vào mũi. 36. Không tiền tuyệt hậu. 37. Nhƣ gà cắt tiết. 38. Chấp kinh tòng quyền. 39. Mắt nhƣ rắn ráo. 40. Mặt đỏ bùng nhƣ gấc chín. 41. Đào ngoái xoáy xỏa. 42. Chó ăn vụng bột. 43. Mục hạ vô nhân. 44. Thay hình đổi dạng. 45. Hang hùm nọc rắn. 222 46. Cải tà quy chính. 47. Bán giời không văn tự. 48. Xuống chó lên voi. 49. Thiên nhiên bất dịch. 50. Bách chiến bách thắng. 51. Đào thải luân hồi. 52. Thiên hình vạn trạng. 53. Yêu tinh quỷ quái. 54. Đầu trâu mặt ngựa. 55. Mặt sƣng mày xỉa. 56. Che mắt thế gian. 57. Lên voi xuống chó. 58. Mỏng phận ngắn đời. B. TỤC NGỮ 1. Nghĩa tử là nghĩa tận. KỸ NGHỆ LẤY TÂY A. THÀNH NGỮ: 1. Năm đời mƣời đời. 2. Vũ vô kiềm tỏa. 3. Lử đử lừ đừ. 4. Cởi hết ruột gan. 5. Giang hồ lƣu lạc. 6. Đầu trâu mặt ngụa. 7. Cạn tàu ráo máng. 8. Lá gió cành chim. 9. Thâm căn cố đế. 10. Cổ cày vai bừa. 11. Đầu gối quá tai. 12. Ngôn xuất bất khẩu. 13. Trốn chúa lộn chồng. 14. Kết duyên loan phụng. 223 15. Ngồi lê đôi mách. 16. Mơn mởn đào tơ. 17. Tang gia bối rối. 18. Trao xƣơng gửi thịt. 19. Ba xí ba tú. 20. Ăn gian nói dối. 21. Tiền hậu bất nhất. 22. Dầy dạn phong trần. 23. Giở chứng giở quẻ. 24. Mềm nắn rắn buông. 25. Bắt đƣợc quả tang. 26. Đâm bị thóc chọc bị gạo. 27. Mƣợn chén đƣa lời. 28. Tùy cơ ứng biến. 29. Trơ nhƣ đá vững nhƣ đồng. 30. Gan lì tƣớng quân. 31. Bách niên giao lão. 32. Quỷ thần phù hộ. B. TỤC NGỮ 1. Râu ông nọ cắm cằm bà kia. 2. Một ngƣời lấy Tây cả họ đƣợc nhờ. CƠM THẦY CƠM CÔ A. THÀNH NGỮ 1. Cơm thầy cơm cô. 2. Rong chơi tuyết nguyệt. 3. Những ngƣời là ngƣời. 4. Nằm ngổn nằm ngang. 5. Đứng núi nọ trông núi kia. 6. Nếm cơm thiên hạ. 7. Chết rã họng. 8. Trông nhƣ ngoáo ộp. 224 9. Năm cha ba mẹ. 10. Văn vật ngàn năm. 11. Cùng chƣng máu mủ. 12. Chân lấm tay bùn. 13. Vái lấy vái để. 14. Mềm nắn rắn buông. 15. Ngựa xe nhƣ nƣớc. 16. Đội nón ra đi. 17. Ruộng cả ao liền. 18. Thân làm tội đời. 19. Khổ tuyệt trần đời. 20. Ăn đói làm no. 21. Năm đời mƣời đời. 22. Xa lắc xa lơ. 23. Vu oan giá họa. 24. Có giời có ta. 25. Son son thiếp vàng. 26. Nhƣ đồ đĩ rạc. 27. Tin đi mối lại. 28. Ăn chực nằm chờ. 29. Tay bắt mặt mừng. 30. Tinh ma quỷ quái. 31. Tính cuộc vuông tròn. 32. Trầm luân khổ ải. 33. Mèo đƣờng chó điếm. 34. Nhƣ con thiêu thân. 35. Không trăng không sao. 36. Lạch bạch nhƣ vịt bầu. 37. Mặt bủng da chì. 38. Trầm tƣ mặc tƣởng. 39. Cả trăm phần trăm. 40. Độc nhất vô nhị. 225 41. Con ong cái kiến. 42. Cơm thừa canh cặn. 43. Ăn cắp nhƣ ranh. 44. Ăn bớt nhƣ quỷ. B. TỤC NGỮ: 1. Ho sù sụ nhƣ ông cụ. LỤC XÌ A. THÀNH NGỮ 1. Bình chân nhƣ vại. 2. Béo nục béo nạc. 3. Ăn gian nói dối. 4. Mặt bủng da chì. 5. Mục bất tà thị. 6. Gà sống nuôi con. 7. Ma cũ bắt nạt ma mới. 8. Thuần phong mỹ tục. B. TỤC NGỮ: 1. No cơm ấm cật giậm giật mọi nơi. 2. Sống lâu lên lão làng. MỘT HUYỆN ĂN TẾT A. THÀNH NGỮ: 1. Năm cùng tháng tận. 2. Từ trên xuống dƣới. 3. Thƣ nhàn bình nhật. 4. Sôi lên sùng sục. 5. Năm hết tết đến. 6. Gãi đầu gãi tai. 7. Vũ vô kiềm tỏa. 8. Vẽ vời phiền phức. 9. Đục khoét thành thánh. 226 10. An cƣ lạc nghiệp. 11. Bới lông tìm vết. 12. Nhắm mắt làm ngơ. 13. Từ dƣới lên trên. 14. Bày vẽ lôi thôi. 15. Cắn hạt cơm không vỡ. 16. Chu du thiên hạ. 17. Sét đánh ngang tai. 18. Ăn cơm mới nói chuyện cũ. 19. Sƣớng quá hóa hỗn. 20. Quá nửa đời ngƣời. 21. Trầm tƣ mặc tƣởng. 22. Tống cựu nghinh tân. 23. Đòn xóc hai đầu. 24. Cái tính chất gà què ăn quẩn. (Tục ngữ chuyển hóa thành thành ngữ) 25. Của ít lòng nhiều. B. TỤC NGỮ: 1. Gà què ăn quẩn. 2. Có đi có lại mới toại lòng nhau. 3. Đáo tụng đình. 4. Bạc là dân bất nhân là lính. 5. Cá lớn nuốt cá bé. 6. Đƣợc đằng chân lân đằng đầu. TÔI KÉO XE (TAM LANG) A. THÀNH NGỮ: 1. Nửa đùa nửa thật. 2. Bụng bảo dạ. 3. Bở hơi tai. 4. Ngủ nhƣ chết. 5. Dãi gió dầm mƣa. 227 6. Mệt lử cỏ bợ. 7. Thật thà nhƣ đếm. 8. Buồn nhƣ giòi nhúc. 9. Đuổi nhƣ đuổi tà. 10. Dầm mƣa dãi nắng. B. TỤC NGỮ 1. Gà què ăn quẩn. VIỆC LÀNG (NGÔ TẤT TỐ) A. THÀNH NGỮ: 1. Cày sâu cuốc bẫm. 2. Buôn ngƣợc bán xuôi. 3. Nghèo xác nghèo xơ. 4. Kinh thiên địa nghĩa. 5. Tứ quý kỳ phúc. 6. Bẻ vành bẻ vẻ. 7. Sát nhân giả tử. 8. Bất đắc kỳ tử. 9. Trời kia đất nọ. 10. Bới bèo ra bọ. 11. Mẹ nào con ấy. 12. Em nào chị ấy. 13. Vắt cổ chày ra nƣớc. 14. Mƣa thuận gió hòa. 15. Sớm cạn mạ úa. 16. Về với tổ tiên. 17. Vụt lấy vụt để. 18. Bất phân thắng bại. 19. Cái giá cắn đôi. B. TỤC NGỮ 1. Đắc tội với quỷ thần.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftv_khao_sat_nhung_dac_diem_the_loai_phong_su_cua_vu_trong_phung_7547.pdf
Luận văn liên quan