Đồng thời, hiện NHNN cũng đang xây dựng Dự thảo Thông tư quy định
về hoạt động cho vay của TCTD với quy định: “Thông tư này không điều chỉnh
đối với hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng vay vốn
nhằm đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ tiêu dùng (Mục c, Khoản 2, Điều 1)” – như
một nội dung “bật đèn xanh” khởi động cuộc đua NHTM dồn dập lập CTTC để
cho vay tiêu dùng, song việc các TCTD có nguyện vọng và kế hoạch đăng kí
thành lập CTTC, theo Luật các TCTD lại vẫn phải xin giấy phép, được cấp phép
từ phía NHNN. Đây là lý do khiến cho việc bùng nổ các thương vụ M&A liên
quan đến CTTC. Trong đó, các NHTM lớn nhất là BIDV, VietinBank và
Vietcombank đều có kế hoạch lập CTTC để cho vay tiêu dùng, phát triển mảng
bán lẻ trong năm 2015. Ngoài ra hàng loạt các NHTM đã lập kế hoạch và trình
NHNN phương án thành lập CTTC mới hoặc chuyển đổi mô hình hoạt động của
công ty cho thuê tài chính thành CTTC như Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB),
Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), Ngân hàng TMCP
Phương Đông (OCB), Ngân hàng TMCP Nam Á (Nam A Bank), Ngân hàng
TMCM Sài gòn Thương tín (Sacombank), Ngân hàng TMCP Quốc tế (VIB).
168 trang |
Chia sẻ: tueminh09 | Ngày: 08/02/2022 | Lượt xem: 484 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nghiên cứu mô hình tổ chức và hoạt động kinh doanh của các công ty tài chính ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ính là các đơn vị thành
viên, các công ty liên doanh, công ty cổ phần và các đơn vị thành viên có góp
vốn của các tập đoàn/tổng công ty.
Trong giai đoạn đến năm 2015-2020 nhu cầu vốn đầu tư trung, dài hạn
đầu tư vào các dự án của các đơn vị thành viên của hầu hết các tập đoàn/tổng
công ty, công ty cổ phần và các đơn vị thành viên có góp vốn của các tập
đoàn/tổng công ty là rất lớn. Để chiếm lĩnh thị trường tiềm năng và khẳng định
130
vai trò, vị thế của mình CTTC cần tiếp tục mở rộng, củng cố quan hệ truyền
thống với các đơn vị trong ngành, xác định đây là đối tượng khách hàng chính,
quan trọng. Ngoài đối tượng khách hàng trên, CTTC cần mở rộng cho vay các
đối tượng khách hàng ngoài ngành có liên quan trực tiếp tới hoạt động của tập
đoàn/tổng công ty và các khách hàng có dự án hiệu quả, có năng lực tài chính và
có năng lực quản trị doanh nghiệp. Việc cho vay ngoài ngành đảm bảo yêu cầu
thực hiện từng bước, thận trọng trên cơ sở lựa chọn ngành nghề và xây dựng
danh mục khách hàng có năng lực tài chính, quản trị doanh nghiệp, có uy tín.
b) Nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng
Các NHTM dù có nhiều kinh nghiệm hơn khối các CTTC trong hoạt động
tín dụng nhưng những năm 2010-2014 vừa qua đã cho thấy hàng loạt NHTM
mất vốn lớn vì rủi ro tín dụng. Để công tác tín dụng hiệu quả và kiểm soát được
rủi ro tín dụng đòi hỏi CTTC cần nhanh chóng nâng cao chất lượng hoạt động tín
dụng. Hoạt động tín dụng cần đuợc thực hiện thống nhất và đảm bảo tuân thủ các
quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về công tác tín dụng. Trước hết
CTTC cần ban hành đầy đủ các quy chế, quy trình và hướng dẫn hoạt động tín
dụng. Các văn bản về hoạt động tín dụng được ban hành đảm bảo tuân thủ các
quy định về quản trị rủi ro của CTTC nhưng phải thuận lợi cho các khách hàng.
Tuy điều này có vẻ mâu thuẫn nhưng vẫn buộc các CTTC phải đảm bảo cân đối
để đảm bảo sự phát triển.
Các CTTC cũng cần tập trung thực hiện và nâng cao chất lượng các hoạt
động tín dụng bao gồm từ khâu thẩm định tín dụng, ra quyết định cấp tín dụng,
quản lý khoản vay sau giải ngân đến thu hồi nợ gốc và lãi cũng như xử lý các
khoản rủi ro tín dụng nếu có. Thực tế đã chứng minh, hoạt động tín dụng tuy
mang lại lợi nhuận lớn nhưng cũng có thể mang lại rủi ro đối với CTTC, do đó
để hạn chế rủi ro lớn trong hoạt động tín dụng, các CTTC cần thực hiện nghiêm
túc các bước công việc trong công tác tín dụng, việc phân quyền cấp tín dụng
phải được quy định cụ thể, phù hợp với các đối tượng được phân quyền cấp tín
dụng, cụ thể cho các cấp từ cán bộ tín dụng, trưởng đơn vị cấp tín dụng tới Tổng
Giám đốc và Hội đồng quản trị các CTTC. Bên cạnh đó, CTTC cũng cần quan
131
tâm đầy đủ đến công tác quản lý khoản vay sau giải ngân, quản lý khách hàng
cũng như tuân thủ theo các quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về tính
toán và trích lập dự phòng tín dụng để đảm bảo khoản vay được an toàn.
c) Triển khai các hoạt động tín dụng khác
• Tăng cường hoạt động bảo lãnh
Thứ nhất, Cùng với việc cho vay đối với tập đoàn/tổng công ty và các đơn
vị thành viên củatập đoàn/tổng công ty, các CTTC cần đẩy mạnh hoạt động bảo
lãnh cho các doanh nghiệp trong và ngoài ngành, các nhà thầu chính, nhà thầu
phụ của các đơn vị thành viên và các dự án của tập đoàn/tổng công ty.
Thứ hai, Ưu tiên đánh giá, lựa chọn một số dự án đầu tư có hiệu quả cao
để thực hiện bảo lãnh qua đó nâng cao uy tín và vị thế của CTTC.
Thứ ba, Rà soát, bám sát các dự án, công trình do tập đoàn/tổng công ty
và các đơn vị ngoài ngành thực hiện đầu tư hoặc thi công để cung cấp các loại
hình bảo lãnh.
Thứ tư, Cùng với cho vay, cần cân đối và đảm bảo kỳ hạn tín dụng trung
dài hạn và ngắn hạn, tỷ trọng nhóm ngành và lĩnh vực phù hợp để hạn chế rủi ro.
• Triển khai hoạt động bao thanh toán (Factoring)
Các đơn vị thành viên của tập đoàn/tổng công ty thường có quan hệ chặt
chẽ với nhau, thị trường đầu ra của đơn vị này là đầu vào của đơn vị khác và
ngược lại. Trong những năm qua, mặc dù ở phần lớn các tập đoàn/tổng công ty
có nguồn thu dồi dào và chủ động nhưng giữa các đơn vị vẫn có nhiều trường
hợp thanh toán chậm dẫn đến việc lưu chuyển vốn trong nội bộ tập đoàn/tổng
công ty chậm, gây khó khăn cho các đơn vị trong việc duy trì và phát triển hoạt
động sản xuất kinh doanh do thiếu vốn lưu động trong ngắn hạn, phải đi vay các
TCTD làm tăng thêm chi phí dẫn đến giảm hiệu quả hoạt động của toàn tập
đoàn/tổng công ty. Hoạt động bao thanh toán với mục đích giúp các đơn vị thành
viên của tập đoàn/tổng công ty có nguồn vốn lưu động ổn định, chủ động trong
công tác tài chính, giảm chi phí lãi vay và góp phần làm tăng hiệu quả hoạt động
của các tập đoàn/tổng công ty.
• Phát triển hoạt động chiết khấu thương phiếu:
132
Trong những năm qua, hoạt động chiết khấu thương phiếu chưa được áp
dụng rộng rãi ở Việt Nam do nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi sang
nền kinh tế thị trường có sự quản lý điều tiết của Nhà nước và còn thiếu nhiều
văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động thương mại nói chung và hoạt động
chiết khấu thương phiếu nói riêng. Trong thời gian tới, hoạt động chiết khấu
thương phiếu có nhiều điều kiện để phát triển do các văn bản pháp lý đã tương
đối đầy đủ như Luật Thương mại số 36/2005/QH11 ban hành ngày 14/06/2005,
Luật các công cụ chuyển nhượng số 49/2005/QH11 ban hành ngày 29/11/2005
có hiệu lực từ 01/07/2006, Thông tư 04/2013/TT-NHNN ngày 01/03/2013 quy
định về hoạt động chiết khấu công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá khác của
TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng.
Ngày nay thương phiếu càng trở thành công cụ quan trọng trong hoạt
động tín dụng thương mại giữa các doanh nghiệp và dẫn đến sự cần thiết tất yếu
phải có hoạt động chiết khấu thương phiếu. Để triển khai thực hiện có hiệu quả
hoạt động này, CTTC cần chuẩn bị những điều kiện vật chất làm cơ sở phát triển
hoạt động chiết khấu thương phiếu, trước mắt tập trung vào các khách hàng chủ
yếu là các đơn vị thành viên, các công ty mà tập đoàn/tổng công ty có góp vốn,
sau đó từng bước mở rộng ra các khách hàng là các doanh nghiệp trong cùng
ngành kinh tế kỹ thuật, các tổ chức kinh tế khác.
3.3.2.6 Phát triển hoạt động đầu tư tài chính và kinh doanh chứng khoán
Ngoài hoạt động tín dụng, hoạt động đầu tư tài chính là hoạt động mang
lại lợi nhuận chủ yếu cho nhiều CTTC, đặc biệt là trong giai đoạn 2004-2009.
Tuy nhiên, những năm sau đó cũng chính hoạt động này đã khiến cho nhiều
CTTC rơi vào tình trạng kinh doanh thua lỗ khi thị trường tài chính khủng
hoảng, giá chứng khoán giảm sâu. Đánh giá một cách khách quan thì đây là một
trong những mảng hoạt động mà các CTTC có lợi thế và kinh nghiệm. Để hoạt
động đầu tư tài chính trở thành hoạt động chủ lực và an toàn, các CTTC cần có
hệ thống giải pháp đồng bộ, phù hợp.
- Đầu tư mua cổ phần tại các đơn vị thành viên của tập đoàn/tổng công ty:
133
Đầu tư mua cổ phần tại các đơn vị thành viên của tập đoàn/tổng công ty
bao gồm khi các đơn vị tổ chức bán đấu giá cổ phần lần đầu ra công chúng hoặc
các công ty cổ phần thành lập mới.
Thực hiện chỉ đạo quyết liệt của Đảng và Nhà nước về đổi mới, sắp xếp
lại doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Nhà
nước. Giai đoạn 2004-2007 vừa qua cũng như với những chỉ đạo quyết liệt của
Chính phủ về tiến độ cổ phần hóa trong năm 2014-2015, nhiều tập đoàn/tổng
công ty đang triển khai quyết liệt công tác cổ phần hóa, đa số đã thành lập Ban
chỉ đạo cổ phần hóa, giao mục tiêu, tiến độ thực hiện chương trình cổ phần hóa
một cách cụ thể, nhiều DNNN lớn đã thực hiện IPO (phát hành cổ phiếu lần đầu
ra công chúng). Chiến lược phát triển đến năm 2020, các tập đoàn/tổng công ty
đã xây dựng lộ trình cổ phần hóa mới để đổi mới toàn diện hoạt động, đảm bảo
đa sở hữu, đa ngành nghề nhưng có trọng tâm, nâng cao năng lực cạnh tranh và
năng lực quản trị điều hành.
Nhiều tập đoàn/tổng công ty cũng chủ trương tham gia thành lập mới các
công ty cổ phần hoạt động trong các lĩnh vực thuộc chức năng nhiệm vụ được
giao. Việc tham gia đầu tư tài chính vào các công ty nhà nước cổ phần hóa cũng
như tham gia mua cổ phần của các công ty mới thành lập là cơ hội tốt để các
CTTC thực hiện hiệu quả chức năng đầu tư tài chính. Các tập đoàn/tổng công ty
cũng cần tạo điều kiện thuậnlợi cho các CTTC được mua cổ phần tại các đơn vị
thành viên mới thành lập và từng bước chuyển giao, ủy quyền cho các CTTC
thực hiện vai trò là người đại diện trực tiếp cho phần vốn góp của tập đoàn/tổng
công ty tại các công ty cổ phần tập đoàn/tổng công ty có tham gia góp vốn.
Tuy nhiên, vấn đề cử người đại diện vốn cũng cần được lựa chọn kỹ
lưỡng để chọn được người xứng đáng, đủ trình độ chuyên môn, đạo đức cũng
như đủ cơ chế ràng buộc trách nhiệm để phát huy vai trò quản lý vốn, đem lại
hiệu quả cho phần vốn góp.
- Đầu tư chứng khoán:
Huy động vốn trên thị trường chứng khoán của các tập đoàn/tổng công ty
không chỉ đóng một vị trí quan trọng đối với tiến trình phát triển thị trường
134
chứng khoán của Việt Nam mà còn là một đòi hỏi tất yếu nhằm đảm bảo thực
hiện thắng lợi chiến lược đầu tư phát triển tăng tốc và lâu dài của các tập
đoàn/tổng công ty. Thị trường chứng khoán được xem là một kênh quan trọng
nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp của xã hội gồm cả nguồn vốn đầu tư trong và
ngoài nước thông qua việc phát hành, lưu thông cổ phiếu, trái phiếu của các tập
đoàn/tổng công ty, các đơn vị thành viên trên thị trường.
Xác định đầu tư chứng khoán là một hình thức kinh doanh phổ biến của
các doanh nghiệp trong nền kinh tế phát triển. Đối với các CTTC, việc đầu tư
chứng khoán giúp đa dạng hóa hoạt động kinh doanh, tăng lợi nhuận và giảm
dần lượng tiền gửi tại các NHTM và các TCTD khác. Để hoạt động đầu tư chứng
khoán đạt hiệu quả cao, các CTTC cần xây dựng quy chế đầu tư chứng khoán
với các nội dung chủ yếu sau:
• Mục tiêu: đa dạng hóa các khoản đầu tư, tăng khả năng thanh khoản cho
các tài sản, gia tăng lợi nhuận.
• Cơ sở để phân tích, đánh giá chứng khoán dựa trên dự báo về chu kỳ phát
triển kinh tế, chính sách tài chính tiền tệ của Chính phủ, những quy định của
Chính phủ về hoạt động đầu tư chứng khoán, các quan điểm về đầu tư tài chính,
các điều kiện về vốn và nhân sự.
• Phân loại và xác định chất lượng chứng khoán theo các tiêu thức về chủ
thể phát hành, kỳ hạn, quyền sở hữu, loại tiền tệ
• Xây dựng danh mục đầu tư chứng khoán theo hướng ưu tiên đầu tư vào
các chứng khoán có độ an toàn cao, dễ chuyển đổi tiền mặt như trái phiếu Chính
phủ, tín phiếu kho bạc. Đầu tư vào trái phiếu do các TCTD, các doanh nghiệp
hoạt động hiệu quả phát hành - đây là chứng từ có giá đem lại thu nhập ổn định,
rủi ro thấp và có tính thanh khoản cao trên thị trường. Đầu tư vào các trái phiếu,
cổ phiếu do các doanh nghiệp khác phát hành, đầu tư góp vốn thành lập các công
ty cổ phần mới...
• Chính sách đầu tư chứng khoán gồm quy mô của danh mục đầu tư chứng
khoán, xác định mức đầu tư trung bình và yêu cầu về chất lượng, chính sách về
kỳ hạn, kinh doanh chứng khoán.
135
Hoạt động đầu tư tài chính thực hiện đảm bảo tối đa hạn mức đầu tư được
phép, nâng cao khối lượng vốn ủy thác đầu tư, tập trung vào các dự án trong
ngành, tham gia một số dự án ngoài ngành đạt hiệu quả kinh tế cao và đảm bảo
an toàn vốn đầu tư. Đẩy mạnh hoạt động mua bán doanh nghiệp và chuyển
nhượng cơ hội đầu tư, nhận ủy thác, quản trị vốn đầu tư theo yêu cầu của khách
hàng. Đầu tư dự án song song với cung cấp các dịch vụ tài chính. Cung cấp thêm
các sản phẩm và dịch vụ phục vụ khách hàng như: Quản lý tiền mặt, quản lý rủi
ro bằng các sản phẩm phái sinh, chiết khấu các chứng từ có giá
3.3.2.7 Phát triển hoạt động dịch vụ tài chính tiền tệ
- Cung cấp dịch vụ tư vấn và đại lý phát hành chứng khoán:
Trên cơ sở lộ trình cổ phần hóa của Đảng và Nhà nước cũng như của từng
tập đoàn/tổng công ty, việc chuyển đổi các doanh nghiệp Nhà nước thành các
công ty cổ phần là một thị trường đầy tiềm năng để các CTTC tiếp tục phát triển
dịch vụ tư vấn cổ phần hóa từ khâu xây dựng phương án cổ phần hóa, định giá
tài sản, xây dựng cơ cấu vốn hoạt động và vốn cổ phần, các phương thức xử lý
nợ tồn đọng, xây dựng điều lệ tổ chức và hoạt động của công ty cổ phần. Ngoài
ra, các CTTC cần mở rộng phát triển dịch vụ đại lý phát hành cổ phiếu, giúp các
đơn vị cổ phần hóa giảm chi phí phát hành, hỗ trợ kinh nghiệm bán cổ phiếu theo
đúng quy định. Bên cạnh đó, các CTTC cần nghiên cứu và triển khai hoạt động
nhận làm đại lý phát hành trái phiếu trong và ngoài nước cho các đơn vị thành
viên của tập đoàn/tổng công ty.
- Dịch vụ tư vấn đầu tư chứng khoán:
• Môi giới đầu tư chứng khoán: thực hiện việc thu thập và cung cấp đầy đủ
thông tin cần thiết để chỉ dẫn, tư vấn các khách hàng mua bán chứng khoán,
đồng thời đại diện cho các khách hàng để đàm phán, thực hiện giao dịch chứng
khoán, thay mặt khách hàng giải quyết mọi vấn đề liên quan theo ủy nhiệm của
khách hàng sẽ tiết kiệm được chi phí, thời gian tìm hiểu thông tin cần thiết về
chứng khoán đầu tư, có cơ sở tin cậy để đưa ra quyết định lựa chọn danh mục
chứng khoán đầu tư, các lệnh mua bán chứng khoán của khách hàng nhanh
chóng được thực hiện ngay sau khi khách hàng yêu cầu.
136
• Phát triển dịch vụ thị trường chứng khoán không tập trung (viết tắt là
OTC): Để tạo ra một kênh giao dịch chứng khoán mới, tăng tính thanh khoản
thực tế của chứng khoán và góp phần bảo vệ quyền lợi của người sở hữu chứng
khoán, các CTTC cần tổ chức nghiên cứu và triển khai cung cấp dịch vụ trên thị
trường OTC, tổ chức môi giới giúp những người có nhu cầu mua bán cổ phiếu
gặp gỡ nhau và trực tiếp thực hiện các hình thức giao dịch kinh doanh các cổ
phiếu này như mua, bán, chiết khấu, cho vay cầm cố, mua bán kỳ hạn
• Ủy thác đầu tư chứng khoán: Đây là hoạt động nhằm đa dạng hóa các loại
hình dịch vụ trong hoạt động kinh doanh chứng khoán và mang lại lợi nhuận, ít
rủi ro. Các tổ chức và cá nhân được phép hoạt động đầu tư chứng khoán tại Việt
Nam gọi chung là khách hàng ủy thác cho CTTC đầu tư chứng khoán trên cơ sở
hợp đồng ủy thác đầu tư chứng khoán. CTTC thay mặt khách hàng để đầu tư
mua, bán các loại chứng khoán trên cơ sở vốn ủy thác của khách hàng.
- Cung cấp dịch vụ tư vấn tài chính và dịch vụ khác:
Tại các CTTC hiện đại trên thế giới, hoạt động dịch vụ tài chính là hoạt
động mang lại giá trị gia tăng chiếm tỷ trọng lợi nhuận lớn. Để nâng cao hiệu
quả hoạt động và đa dạng hóa các loại hình dịch vụ, các CTTC cần tiếp tục phát
triển và cung cấp các dịch vụ tài chính tiền tệ bao gồm:
+ Tư vấn tài chính dự án: Bao gồm từ việc xây dựng phương án cấu trúc
tài chính cho dự án, khảo sát nguồn vốn, lập phương án tài chính; tư vấn thẩm
định kinh tế dự án bao gồm thẩm định tính khả thi của phương án tài chính, thẩm
tra độ tin cậy của các yếu tố đầu vào, thẩm định tổng dự toán, dự toán công trình,
thẩm định độ an toàn và hiệu quả đầu tư, tư vấn quản lý vốn và tài sản thông qua
các hình thức như tư vấn tiền gửi, tư vấn mua bán, chuyển đổi ngoại tệ, quản lý
dòng luân chuyển tiền tệ. Các loại hình ủy thác đầu tư, tư vấn đầu tư, ủy thác
quản lý đầu tư, ủy thác đầu tư hoàn toàn, ủy thác đầu tư cùng chia sẻ rủi ro.
+ Tư vấn xử lý nợ: Xử lý các khoản nợ với các hình thức phù hợp và đề
xuất các giải pháp tái cơ cấu nợ hợp lý nhằm nâng cao khả năng thu hồi vốn và
cải thiện tình hình tài chính doanh nghiệp, nâng cao năng lực quản trị điều hành,
năng lực tài chính để nâng cao hiệu quả hoạt động của khách hàng.
137
+ Tư vấn mua bán, cho thuê doanh nghiệp: Tư vấn định giá giá trị doanh
nghiệp bằng phương pháp kỹ thuật định giá tiên tiến, tất cả các yếu tố nhân lực,
trình độ quản lý, công nghệ, lợi thế thương mại, lợi nhuận tương lai đều được
phản ánh trong giá trị doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp nhận thức, đánh giá
đúng giá trị đích thực và vị thế của mình trên thị trường vốn, thị trường tiền tệ.
Tư vấn xử lý và tái cơ cấu nợ trước cổ phần hóa, đề xuất các giải pháp tái cơ cấu
nợ hợp lý giúp doanh nghiệp lành mạnh hóa bảng cân đối kế toán trước khi phát
hành cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp. Tư vấn cho doanh nghiệp tìm kiếm đối
tác, mua bán, thuê doanh nghiệp. Tư vấn, hướng dẫn xây dựng hệ thống hoạch
định tài chính và kiểm soát gồm các khâu lập ngân sách, tính chi phí, định giá,
đánh giá, đầu tư xây dựng cơ bản, dự báo nguồn thu nhập.
+ Tư vấn và hướng dẫn việc tổ chức vận hành bộ máy kế toán của các
doanh nghiệp, hoàn thiện chế độ hạch toán kế toán, chế độ báo cáo tài chính,
phương pháp tập hợp chi phí, xây dựng giá thành sản phẩm, dịch vụ phù hợp với
đặc điểm SXKD của doanh nghiệp và tuân thủ quy định của pháp luật.
+ Dịch vụ bảo quản và ký gửi các cổ phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư, các hợp
đồng bảo hiểm, các chứng thư tài sản hoặc các đồ quý giá như tiền, vàng bạc, đá
quý. Việc bảo quản có thể theo phương thức “mở” là mọi tài sản được ghi chi
tiết vào biên lai hoặc theo phương thức “đóng kín”, việc ký gửi tài sản được thực
hiện thông qua việc khách hàng thuê một khoang trong két sắt đặc biệt của
CTTC để gửi tài sản, mỗi bên giữ một chìa khóa. Tuy nhiên, hoạt động này cũng
trên cơ sở chủ trương của các cơ quan quản lý nhà nước.
+ Thẩm định: Cung cấp dịch vụ thẩm định tài chính cho các đơn vị trong
và ngoài tập đoàn/tổng công ty.
+ Hoạt động ngoại hối: Triển khai song song với các sản phẩm dịch vụ sử
dụng VND, trong đó ưu tiên thực hiện các nghiệp vụ như thu xếp chuyển đổi
ngoại tệ không kỳ hạn, có kỳ hạn. Chú trọng đầu tư kỹ thuật, xây dựng đội ngũ
chuyên gia để hoạt động có hiệu quả các hoạt động ngoại hối.
3.3.3 Giải pháp đối với các công ty tài chính đã hoặc sẽ sáp nhập, hợp nhất với
ngân hàng thương mại
138
3.3.3.1 Tận dụng tối đa tiềm lực của NHTM nhận sáp nhập, hợp nhất
Với tình hình hiện nay và sắp tới, hầu hết CTTC tiêu dùng nội đều trực
thuộc các NHTM và các công ty này đều có thể phát triển tín dụng tiêu dùng dựa
trên một số nền tảng từ NHTM đó. Cụ thể, các CTTC có thể tiếp cận với các
công ty/tổ chức hiện đang là khách hàng của ngân hàng mẹ để giới thiệu sản
phẩm, dịch vụ của mình. Ngoài ra, các công ty có thể sử dụng dữ liệu của
NHTM để tiếp cận các khách hàng đến ngân hàng vay nhưng không đủ tiêu
chuẩn để giải ngân. Đây có thể là những cơ sở ban đầu để các CTTC triển khai
hoạt động thay vì khởi động từ con số 0.
3.3.3.2 Nhanh chóng xây dựng và phát triển các điểm giới thiệu dịch vụ, thiết lập
mối quan hệ tốt với các nhà cung cấp sản phẩm, dịch vụ
Với đặc điểm cung cấp dịch vụ gần như tức thời, các CTTC cần thiết lập
các mối quan hệ để phát triển các địa điểm giới thiệu dịch vụ ở những vị trí
thuận lợi, các nhà cung cấp, đại lý lớn của những mặt hàng tiêu dùng thiết yếu
với người dân như xe máy, điện thoại smartphone, du học, điện tử điện lạnh,
dịch vụ du lịch, cưới hỏi...
3.3.3.3 Xây dựng các sản phẩm mới mà thị trường còn nhiều tiềm năng
Hiện nay, sản phẩm chủ đạo của CTTC cho vay tiêu dùng là cho vay tiền
mặt, cho vay mua xe máy, cho vay mua đồ gia dụng, kim khí, điện máy, ô tô...
Trong đó, Home Credit và FE Credit theo đuổi chiến lược chỉ tập trung vào một
vài nhóm sản phẩm cụ thể, như cho vay xe máy, cho vay điện thoại, điện máy và
hiện 2 công ty này đang nắm thị phần lớn về việc cung cấp các sản phẩm này.
Như vậy, danh mục sản phẩm tín dụng tiêu dùng trên thị trường còn khá
khiêm tốn, đây là một cơ hội cho CTTC nội thâm nhập thị trường tiềm năng này.
Việc tiếp cận thị trường thông qua các sản phẩm mới cũng có thể xem như là
chiến lược “tránh đối đầu”, mở ra nhiều cơ hội để nâng cao thị phần.
3.3.3.4 Xây dựng các biểu lãi suất khác nhau để hạn chế rủi ro và tăng tính
chuyên nghiệp trong cung cấp dịch vụ
Rõ ràng là càng nhiều thời gian, cùng với sự hỗ trợ của CIC và các biện
pháp khác, các CTTC càng có điều kiện để thẩm định khách hàng từ đó tăng
139
cường chất lượng và hạn chế rủi ro tín dụng. Do vậy, với thời gian giải ngân
trong vòng 15 phút khách hàng sẽ phải chấp nhận mức lãi suất cao hơn, nếu chờ
thêm 2-3 ngày và nộp đủ hồ sơ cho CTTC như hợp đồng lao động, xác nhận địa
chỉ nhà và copy bảng sao kê ngân hàng và có dấu của ngân hàng, thì lãi suất sẽ
thấp hơn và chất lượng tín dụng sẽ tốt hơn.
Ngoài ra cùng là các dịch vụ tài chính ngân hàng nên đương nhiên khi sử
dụng dịch vụ, khách hàng sẽ so sánh với CTTC.Kết quả khảo sát của tác giả ở
Biểu đồ 3.2 dưới đây cho thấy khách hàng kể cả doanh nghiệp và cá nhân ngày
càng khó tính, đều rất đề cao đến tính chuyên nghiệp của nhà cung cấp dịch vụ.
Biểu đồ 3.2. Lý do các khách hàng cá nhân không hài lòng
với dịch vụ của CTTC
Nguồn: Tổng hợp kết quả khảo sát của tác giả.
3.3.3.5 Hợp tác với đối tác chiến lược nước ngoài để được tiếp cận với nền tảng
công nghệ hiện đại và phương thức quản trị rủi ro tiên tiến và hoàn chỉnh
Nền tảng công nghệ thông tin và phương thức quản trị rủi ro, như đã đề
cập ở trên, là các yếu tố quyết định đến sự phát triển vững mạnh của một CTTC
tiêu dùng. Để có thể cạnh tranh được với các CTTC hiện hữu như Home Credit,
FE Credit, HD Saison hay Prudential, một trong những giải pháp hiệu quả là tìm
0,00%
5,00%
10,00%
15,00%
20,00%
25,00%
30,00%
35,00%
40,00%
Giá cả (lãi
suất, phí)
Sự đa dạng
của sản phẩm
Thủ tục Tính chuyên
nghiệp
Sự thuận tiện
giao dịch
33,33%
7,41%
11,11%
37,04%
11,11%
140
kiếm và hợp tác với các đối tác chiến lược nước ngoài có kinh nghiệm lâu năm
và vượt trội trong lĩnh vực tài chính tiêu dùng.
3.4 Điều kiện đảm bảo thực hiện các giải pháp
3.4.1 Về phía Chính phủ
3.4.1.1 Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý liên quan đến tổ chức và hoạt động
của các CTTC tại Việt Nam
Các CTTC nói chung và CTTC thuộc các tập đoàn/tổng công ty ở Việt
Nam hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng, trước 25/06/2014 chịu sự điều
chỉnh của Nghị định 79/2002/NĐ-CP quy định về mô hình tổ chức và hoạt động
của các CTTCvà Nghị định số 81/2008/NĐ-CP về việc sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định số 79/2002/NĐ-CP. Từ 25/06/2014, Nghị định 39/2014/NĐ-
CP về hoạt động của các công ty tài chính và công ty cho thuê tài chính đã thay
thế các nghị định trên. Ngoài ra mô hình tổ chức, các hoạt động nghiệp vụ của
CTTC thực hiện theo các thông tư hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam về hoạt động của các NHTM.
Như vậy, mặc dù CTTC là một TCTD phi ngân hàng, có quy định về chức
năng nhiệm vụ, hoạt động với đặc thù khác biệt so với các NHTM nhưng hiện
nay vẫn chưa có đủ các văn bản riêng biệt quy định về loại hình hoạt động của
CTTC, đặc biệt là các CTTC thuộc các tập đoàn/tổng công ty. Trong Luật các
TCTD chỉ có 4 điều quy định riêng cho hoạt động của CTTC. Tại Nghị định
39/2014/NĐ-CP với điểm mới là phân biệt rõ hơn về “công ty tài chính tổng
hợp” và “công ty tài chính chuyên ngành” nhưng dường như chủ yếu để phục vụ
cho sự ra đời của công ty tài chính tiêu dùng. Do tính chất lịch sử của quá trình
hình thành và phát triển CTTC ở Việt Nam nên đến hiện tại vẫn còn những chắp
vá hoặc chưa đầy đủ, thiếu chặt chẽ và định hướng rõ ràng của hệ thống các văn
bản pháp lý liên quan đến CTTC. Do đó, để thực hiện đúng và phát huy chức
năng nhiệm vụ của tập đoàn/tổng công ty, cũng như thực hiện đúng chủ trương
phát triển đa dạng loại hình CTTC tại Việt Nam đòi hỏi Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam, các cơ quan quản lý sớm nghiên cứu để tham mưu cho Chính phủ
xem xét, trình Quốc hội ban hành Luật công ty tài chính hoặc Luật các tổ chức
141
tín dụng phi ngân hàng quy định một cách đầy đủ, rõ ràng và nhất quán về hoạt
động của CTTC.
3.4.1.2 Hoàn thiện hệ thống cơ sở pháp lý đối với hoạt động của các tập đoàn tài
chính ngân hàng
Quá trình đổi mới nền kinh tế Việt Nam, tham gia hội nhập quốc tế và khu
vực đặt ra yêu cầu phải đổi mới căn bản và toàn diện hệ thống tài chính ngân
hàng. Căn cứ vào chủ trương đổi mới của Đảng và Nhà nước, ngành tài chính
ngân hàng xây dựng mục tiêu đổi mới nhằm thích ứng với điều kiện kinh tế thị
trường, phục vụ và thúc đẩy nền kinh tế, tạo vốn cho sự nghiệp công nghiệp hóa
- hiện đại hóa đất nước, phục vụ cho sự phát triển nền kinh tế mở, tăng cường
cạnh tranh và hội nhập với cộng đồng tài chính quốc tế. Luật ngân hàng Nhà
nước 2010 và Luật các tổ chức tín dụng 2010 thể hiện rõ quan điểm của Nhà nước
trong việc tiếp tục đổi mới toàn diện và triệt để hệ thống tài chính ngân hàng.
Hiện nay, hệ thống văn bản pháp lý của Việt Nam chưa có một văn bản
nào quy định hoàn chỉnh về sự kết hợp giữa các TCTD riêng biệt có nguyện
vọng tập hợp lại thành một thể thống nhất dưới sự chỉ đạo của tập đoàn tài chính
ngân hàng, bao gồm các quy định pháp lý về sáp nhập, hợp nhất, mua lại các
TCTD. Trong khi đó khung pháp lý về mua bán và sáp nhập là nền tảng quan
trọng nhằm thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn công khai minh bạch tại
các TCTD.
Bên cạnh đó, văn bản pháp lý khác không kém phần quan trọng, có tác
động trực tiếp tới việc hình thành và phát triển tập đoàn tài chính ngân hàng là
luật điều chỉnh mô hình kinh doanh mới này về các vấn đề nền tảng như định
nghĩa tập đoàn tài chính ngân hàng, những tiêu chí, điều kiện để thành lập tập
đoàn tài chính ngân hàng, những quy định về cấu trúc tổ chức quản lý, chuẩn
mực kế toán. Luật Doanh nghiệp năm 2005 và Luật Doanh nghiệp sửa đổi 2014
cũng như các văn bản dưới luật khác chưa quy định cụ thể mang tính đặc thù của
mô hình mới này. Do đó, để phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế thế giới, để
tập đoàn tài chính ngân hàng Việt Nam ra đời và có hành lang pháp lý hoạt động,
142
Chính phủ Việt Nam cần sớm xem xét, trình Quốc hội ban hành Luật quy định
hoạt động của tập đoàn tài chính Ngân hàng.
3.4.1.3 Phân tầng, phân loại các tổ chức tín dụng
Số lượng các TCTD (gồm NHTM và các TCTD phi ngân hàng) tuy không
nhiều nếu xét theo tiêu chí số lượng tài khoản ngân hàng so với dân số nhưng với
trình độ dân trí và quy mô của thị trường Việt Nam hiện nay thì số lượng các
TCTD hiện tại quá nhiều và đã tỏ ra kém hiệu quả. Điều này được lý giải do các
TCTD chưa được phân tầng, phân loại rõ ràng nên đang tạo ra sự cạnh tranh
không hợp lý, thậm chí có phần hỗn loạn giữa các loại hình TCTD (NHTM cũng
đang cố gắng hướng tới các dịch vụ bán lẻ hay các thị trường ngách để cạnh
tranh với các CTTC, các tập đoàn/tổng công ty lúng túng trong việc lựa chọn
giữa NHTM hay CTTC của mình trong việc gửi tiền hay vay vốn...).
Nhìn lại lịch sử ra đời của nhiều CTTC trực thuộc tập đoàn/tổng công ty
cho thấy mô hình này được sinh ra trong quá trình hình thành các tập đoàn nhà
nước và đâu đó có ý chí chủ quan của một số nhóm cá nhân. Không thể phủ nhận
là đã có những CTTC được ra đời theo “phong trào”. Hiện nay, các tập
đoàn/tổng công ty nhà nước cũng đang trong quá trình sắp xếp lại, cổ phần hóa...
Do vậy, về lâu dài việc hình thành các CTTC trực thuộc các tập đoàn/tổng công
ty hoàn toàn vẫn có thể ra đời nhưng trên cơ sở đã có sự ổn định hơn của cả hệ
thống TCTD Việt Nam, trên cơ sở nhu cầu tất yếu, tùy thuộc vào đặc thù của
từng tập đoàn/tổng công ty.
3.4.1.4 Đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa các tập đoàn/tổng công ty nhà nước
Đây là chủ trương đã được Chính phủ đề ra, tuy nhiên, trong thực tế việc
thực hiện đang diễn ra chậm chạp, thể hiện rõ nét sự chần chừ, thiếu quyết tâm
từ phía lãnh đạo các tập đoàn/tổng công ty cũng như sự thiếu quyết liệt từ phía
Chính phủ. Tham khảo các ý kiến chuyên gia, tác giả cũng nhận được rất nhiều ý
kiến đồng tình. Ông Nguyễn Công Minh, nguyên phó giám đốc Công ty Tài chính
TNHH MTV Bưu Điện khi được hỏi:“Điều quan trọng nhất để các CTTC thuộc
các tập đoàn/tổng công ty có thể thực hiện tốt vai trò điều tiết, dẫn vốn trong nội
bộ các tập đoàn/tổng công ty là gì? Vì sao?” đã cho rằng “Điều quan trọng nhất
143
là phải cổ phần hóa các tập đoàn/tổng công ty nhà nước vì lúc đó họ mới quan
tâm thực sự đến hiệu quả kinh tế”. Theo đó, các CTTC có vốn góp của tập
đoàn/tổng công ty mới thực sự thực hiện đúng chức năng của mình và có trách
nhiệm cao nhất về hiệu quả sử dụng vốn.
3.4.2 Về phía Ngân hàng Nhà nước
3.4.2.1 Giám sát chặt chẽ hơn đối với các CTTC về chấp hành các quy định liên
quan đến giới hạn an toàn của TCTD
Nội dung muốn đề cập ở đây là việc giám sát của NHNN đối với các
CTTC trong việc tuân thủ các quy định liên quan đến chức năng của một TCTD,
đặc biệt là các quy định về tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng và đầu
tư tài chính, kinh doanh chứng khoán (tỷ lệ đầu tư tài chính/dự án, tỷ lệ đầu tư tài
chính/nhóm các dự án, tỷ lệ đầu tư tài chính/vốn điều lệ và quỹ dự trữ của
CTTC, tỷ lệ cho vay/dự án, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu...) vì một trong những
nguyên nhân chính kể trên là sự giám sát chưa thật chặt chẽ hoặc chưa xử lý tích
cực, kịp thời khi phát hiện các lỗ hổng trong việc tuân thủ các quy định liên quan
đến trách nhiệm, nghĩa vụ của các TCTD. Ví dụ như vẫn còn tình trạng nhiều
CTTC chưa ban hành các quy chế, quy định nội bộ trong hoạt động đầu tư tài
chính và cho vay hoặc đã ban hành nhưng không tuân thủ nghiêm túc. Hay tình
trạng nhiều CTTC còn chưa thành lập Hội đồng đầu tư, Hội đồng tín dụng, chưa
chia tách chức năng cho vay và thẩm định tín dụng... dẫn đến việc giải ngân đôi
lúc thiếu khách quan, cảm tính thậm chí là lợi ích nhóm...
3.4.2.2 Giám sát quá trình M&A giữa NHTM và CTTC
Trong quá trình thực hiện tái cơ cấu, các CTTC ngoài việc cần đến sự hỗ
trợ của các cơ quan quản lý nhà nước thì ở góc độ quản lý, NHNN cần dự báo,
phát hiện kịp thời những khó khăn, vướng mắc để khơi thông hoạt động cho các
CTTC cũng như giữ ổn định hệ thống TCTD. Một số công việc cần được chú ý
bao gồm:
- Đón trước xu hướng vận động của thị trường, dự báo về việc bùng nổ số
lượng các CTTC trong thời gian tới kéo theo đó là những phức tạp sẽ nảy sinh.
Quy mô của các CTTC tăng thêm, các hoạt động nhộn nhịp hơn nhưng cũng sẽ
144
phát sinh nhiều vấn đề phải xử lý liên quan đến các mối quan hệ đa chiều giữa
CTTC với nhà phân phối sản phẩm, hàng hóa, với khách hàng và sự cạnh tranh
giữa các CTTC nội và ngoại trên thị trường Việt Nam. Hay bên cạnh đó là vấn
đề kiểm soát rủi ro, chính sách lãi suất của CTTC...
- Theo dõi sát sao quá trình hậu M&A giữa các NHTM và CTTC để giúp
cho các tổ chức sau sáp nhập nhanh chóng gắn kết, ổn định và phát triển.
3.4.2.3 Cần có thêm những chế tài để quản lý cũng như hỗ trợ phát triển tín
dụng tiêu dùng của CTTC
Hiện nay, NHNN đã đưa ra một dự thảo Thông tư để quản lý các CTTC
và bắt buộc các ngân hàng phải thành lập CTTC để cho vay tiêu dùng. Bởi khách
hàng vay tiêu dùng thường có thu nhập thấp, thiếu tài sản thế chấp nên phù hợp
với mô hình CTTC hơn và rủi ro cũng lớn. Do vậy, NHNN cần phải quản lý các
CTTC để hạn chế tối đa rủi ro.
Bên cạnh đó, mặc dù nhiều CTTC cũng phải đi vay để mà cho vay, song
lại không được huy động vốn dưới hình thức tiền gửi tiết kiệm của dân. Do đó,
CTTC phải đi vay của ngân hàng hoặc vay trên thị trường trái phiếu để cho vay.
Đó cũng chính là lý do cần có sự quản lý khác.
3.4.2.4 Nên áp dụng trần lãi suất cho vay đối với CTTC trong giai đoạn đầu và
tiến tới để các CTTC tự quyết định lãi suất theo quy luật thị trường
Đây là vấn đề mà NHNN cần cân nhắc vì trong thực tế việc áp dụng trần
lãi suất cho vay đã thất bại đối với các TCTD trước đây và điều đó chưa tuân
theo quy luật thị trường. Tuy nhiên, nếu cho phép các CTTC tự do xác định lãi
suất thỏa thuận với khách hàng như hiện nay thì cũng có thể xảy ra những hậu
quả khó kiểm soát và bất lợi cho người tiêu dùng.
Mức lãi suất cho vay tiêu dùng hiện nay được các CTTC áp dụng theo
nhiều kiểu khác nhau nhưng về bản chất mức lãi suất khoảng từ 27-35%/năm,
đây là mức quá cao (vay tiêu dùng tín chấp tại các NHTM lãi suất vài năm gần
đây khoảng 12-15%/năm nhưng các NHTM vẫn rất thận trọng cho vay vì lo ngại
rủi ro). Mức lãi suất cao như vậy có thể khiến cho một vài CTTC có lãi lớn như
số liệu vài CTTC đã công bố trong 1-2 năm gần đây, tuy nhiên, sẽ có thể xảy ra
145
tình trạng vì theo đuổi mục tiêu lợi nhuận bất chấp nguy cơ rủi ro tiềm ẩn của
các CTTC.
Vay tiêu dùng là một hoạt động tín dụng tốt, mở ra điều kiện cho người
dân tiếp cận vốn tiêu dùng, cho dù lãi suất cho vay cao hơn NHTM. Mặc dù vậy,
có lẽ cũng cần phải xem xét đến yếu tố áp trần lãi suất cho vay đối với loại hình
tín dụng này. Bởi khi có “trần” cũng đồng nghĩa với việc tạo ra ranh giới trong
cho vay, với mức trần cụ thể thì hoạt động tín dụng tiêu dùng sẽ nề nếp hơn
trong việc áp dụng lãi suất cho vay, giảm rủi ro lớn cho CTTC và cả người tiêu
dùng khi mà các CTTC phần lớn còn thiếu kinh nghiệm trong hoạt động này.
Tuy nhiên, mức trần lãi suất áp dụng trong cho vay tiêu dùng sẽ phải ở
mức cao để có thể tạo điều kiện cho CTTC bù đắp mức chi phí vốn cao, kiểm
soát và bù đắp được rủi ro trong cho vay nhỏ lẻ. Việc áp trần cũng sẽ loại trừ
được tình trạng CTTC cho vay với bất kỳ giá nào, làm khó đối với những người
túng quẫn, đang cần được hỗ trợ tài chính. Theo tác giả, rủi ro nợ xấu trong đẩy
mạnh cho vay tiêu dùng cá nhân rất lớn do vậy hoạt động của các CTTC cần
được đặt trong trạng thái giữ rủi ro trong vòng kiểm soát của NHNN.
Sau giai đoạn đầu tích lũy kinh nghiệm của CTTC (có thể là 3-5 năm),
NHNN sẽ căn cứ vào tình hình cụ thể diễn biến thực tế thị trườngViệt Nam để
cho những CTTC tự xác định lãi suất theo cung - cầu thị trường, theo mức rủi ro
của mỗi hồ sơ xin vay và theo quy luật cạnh tranh.
3.4.2.5 Kiểm soát rủi ro để tránh “bong bóng” tín dụng tài chính cá nhân
Có thể nhận thấy đa số các CTTC chưa chuẩn bị tốt và kỹ càng để bước
chân vào lĩnh vực bán lẻ tài chính tiêu dùng. Vì thực tế, để thâm nhập và đẩy
mạnh được dịch vụ cho vay tiêu dùng nhỏ lẻ, đòi hỏi trước hết phải có kế hoạch
và thời gian lâu dài để xây dựng hệ thống quản lý. Home Credit cũng đã phải
mất 25 năm để phát triển hệ thống tính điểm và quy trình thẩm định hồ sơ tự
động. Bởi kinh doanh không đơn giản chỉ là mở cửa kinh doanh. Kinh nghiệm
triển khai và đẩy mạnh phát triển dịch vụ cho vay tiêu dùng của các CTTC trên
thế giới cho thấy việc kỳ vọng lợi nhuận chỉ trong vòng 2 năm đầu triển khai cho
vay tiêu dùng là điều hết sức nguy hiểm cho toàn hệ thống ngân hàng bởi rủi ro
146
cao. Trong khi hệ thống ngân hàng ở Việt Nam vẫn còn yếu, nợ xấu cao, chưa có
hệ thống tính điểm tiên tiến, thì khả năng đối mặt với rủi ro là rất cao khi đẩy
mạnh cho vay tiêu dùng.
Chính vì vậy, NHNN cần theo dõi sát sao hoạt động của CTTC thông qua
hệ thống báo cáo từ các CTTC cũng như thực tế thị trường để kịp thời phát hiện,
hạn chế và chấn chỉnh tình trạng “bong bóng” tín dụng tiêu dùng có thể xảy ra
trong một vài năm tới.
3.4.2.6 Tăng cường sự phát triển của Trung tâm Thông tin Tín dụng Quốc gia để
hỗ trợ cho các CTTC hoạt động hiệu quả hơn
Trên thực tế, với sự phát triển của Trung tâm Thông tin tín dụng quốc gia
Việt Nam (CIC) do NHNN sáng lập, nhiều CTTC đã sử dụng được phần mềm
báo cáo thông tin tín dụng của khách vay cá nhân trên toàn quốc của CIC để xây
dựng một hệ thống riêng để đánh giá chất lượng tín dụng của mỗi khách làm đơn
xin vay. Các thông tin của CIC những năm gần đây tuy đã có những bước thay
đổi lớn nhưng NHNN vẫn cần tập trung vào việc liên tục phát triển, quản lý và
nâng cao chất lượng của hệ thống CIC để giúp các CTTC có thể truy cập và
kiểm tra tức thời các thông tin liên quan đến lịch sử tín dụng của các cá nhân, tổ
chức, từ đó đảm bảo sự an toàn của toàn hệ thống tài chính tín dụng vĩ mô nói
chung và của các CTTC nói riêng.
3.4.3 Về phía các tập đoàn/tổng công ty sở hữu vốn tại các CTTC
3.4.3.1 Công tác giám sát hoạt động đối với các CTTC trực thuộc
Hiện tại hay tương lai, nếu duy trì mô hình CTTC trực thuộc thì các tập
đoàn/tổng công ty cần tăng cường công tác giám sát chặt chẽ và hiệu quả hơn đối
với hoạt động của CTTC, đặc biệt là việc quản trị rủi ro. Việc lựa chọn và cử
người làm đại diện vốn cũng cần phù hợp và ràng buộc trách nhiệm rõ ràng hơn.
3.4.3.2 Phát huy vai trò điều tiết nguồn vốn nội bộ tập đoàn/tổng công ty
Cần phân định rõ vai trò của CTTC với Ban Tài chính - Kế toán trong các
tập đoàn để CTTC có thể chủ động hơn, trách nhiệm và phạm vi công việc rõ
ràng hơn để CTTC có thể thực hiện tốt vai trò điều tiết nguồn vốn trong nội bộ
tập đoàn/tổng công ty.
147
3.4.3.3 Chính sách hỗ trợ và sử dụng dịch vụ nội bộ tập đoàn/tổng công ty
Ngoài việc các CTTC phải tự nâng cao chất lượng dịch vụ nói riêng và
năng lực cạnh tranh nói chung thì với các tập đoàn/tổng công ty cũng cần những
chính sách hỗ trợ minh bạch, cụ thể và sát thực tế hơn để các dịch vụ của CTTC
đến gần với khách hàng doanh nghiệp và cá nhân trong nội bộ.
3.4.4 Về phía cơ quan, tổ chức khác
3.4.4.1 Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam
Các CTTC trực thuộc các tập đoàn/tổng công ty đều là thành viên của
Hiệp hội NHNN Việt Nam nhưng đôi khi vai trò của các CTTC rất mờ nhạt,
thường bị nấp sau các NHTM mà chưa có tiếng nói riêng, đủ mạnh mẽ để bảo vệ
cho khối các CTTC. Do vậy, Hiệp hội cần bố trí nhân sự và quan tâm theo dõi
sát sao với mảng hoạt động của các TCTD phi ngân hàng nói riêng và các CTTC
nói chung nhằm kịp thời đề xuất các giải pháp với các cơ quan quản lý nhà nước
tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn của các CTTC ở Việt Nam.
3.4.4.2 Hiệp hội Người tiêu dùng Việt Nam
Trong khi sự hiểu biết của người dân đối với các hợp đồng tín dụng chưa
cao sẽ rất dễ xảy ra tranh chấp. Chính vì vậy, các DN đặc biệt là các cá nhân rất
cần sự hỗ trợ của Hiệp hội Người Tiêu dùng Việt Nam trong việc phổ biến,
tuyên truyền, nâng cao sự hiểu biết đối với các dịch vụ tài chính ngân hàng hiện
đại nhằm vừa đảo đảm quyền lợi cho người tiêu dùng vừa tránh được các tranh
chấp, kiện tụng cũng như những bức xúc trong xã hội.
148
KẾT LUẬN
CTTC ở Việt Nam có thể tồn tại, phát triển và đóng góp không nhỏ vào sự
đa dạng và lớn mạnh của hệ thống các TCTD nói chung. Tuy nhiên, trong giai
đoạn hoạt động vừa qua của các CTTC, đặc biệt là các CTTC trực thuộc tập
đoàn/tổng công ty đã bộc lộ rõ nét những yếu kém, tồn tại. Do đó, việc hoàn
thiện mô hình tổ chức và đẩy mạnh hoạt động kinh doanh của các CTTC ở Việt
Nam không chỉ cần thiết và đặc biệt cấp bách vào những giai đoạn hậu khủng
hoảng như hiện nay.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận án đã giải quyết được
những vấn đề cơ bản sau:
Về lý luận: Đã tìm hiểu và tổng quan có hệ thống các thông tin, tài liệu
nghiên cứu về mô hình tổ chức và hoạt động kinh doanh của các CTTC, đã khái
quát hóa được bản chất, đặc điểm kinh doanh và vị trí của CTTC thuộc các tập
đoàn/tổng công ty cùng những kinh nghiệm về mô hình tổ chức và hoạt động
kinh doanh của các CTTC ở các nước trên thế giới, từ đó rút ra bài học kinh
nghiệm đối với Việt Nam.
Về thực tiễn: Luận án đã mô tả, phân tích, đánh giá về thực trạng mô hình
tổ chức và thực trạng hoạt động kinh doanh của các CTTC tthuộc các tập
đoàn/tổng công ty ở Việt Nam.
Bên cạnh đó, trên cơ sở làm rõ những quan điểm, định hướng và những
căn cứ đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện mô hình tổ chức và đẩy mạnh hoạt
động kinh doanh của các CTTC thuộc các tập đoàn/tổng công ty, trên cơ sở tham
khảo các ý kiến chuyên gia và kết quả điều tra, khảo sát khách hàng sử dụng dịch
vụ của CTTC, luận án cũng đã đề xuất được một sốnhóm giải pháp và kiến nghị
nhằm hoàn thiện mô hình tổ chức và đẩy mạnh hoạt động kinh doanh đối với các
CTTC thuộc các tập đoàn/tổng công ty sau17 năm tồn tại ở Việt Nam.
Tuy nhiên, mặc dù đã cố gắng hết sức nhưng tác giả đã không thể thu thập
được một số nguồn số liệu hoặc thông tin thật đầy đủ hoặc chính xác.Trong phần
149
tổng quan về tình hình nghiên cứu ngoài nước và trong Chương 1 khi tham khảo
về kinh nghiệm của các nước trên thế giới, một vài thông tin thu thập được chưa
hoàn toàn sát với yêu cầu của chủ đề nghiên cứu. Trong Chương 2 của Luận án,
một số số liệu về nợ xấu của các CTTC hay số lỗ lũy kế, mức thâm hụt vốn chủ
sở hữu của một vài CTTC, đặc biệt là nhóm CTTC do tập đoàn sở hữu 100%
vốn điều lệtác giả đã phải sử dụng số liệu ước tính trên cơ sở tham khảo các
nguồn thông tin không chính thức từ chính các CTTC đó hoặc nguồn báo chí.
Qua tìm hiểu về vấn đề nghiên cứu, tác giả cho rằng để thực sự tìm được
hướng đi phù hợp cho mô hình CTTC, để các CTTC có thể giải quyết những khó
khăn, tồn tại đang hiện hữu và đủ sức cạnh tranh khi Việt Nam hội nhập sâu rộng
và thực hiện đầy đủ các cam kết mở cửa thị trường tài chính, trong ngắn hạn và
dài hạn, tác giả dự định sẽ tiếp tục đi sâu hướng nghiên cứu với những nội dung
như sau:
(1) Đánh giá kết quả thực hiện phương án tái cấu trúc các CTTC trực
thuộc các tập đoàn/tổng công ty.
(2) Đánh giá tình hình hoạt động của các CTTC ở Việt Nam sau quá trình
tái cấu trúc (kết quả và hạn chế, tồn tại của các thương vụ M&A giữa các NHTM
với CTTC, việc chuyển đổi mô hình hoạt động của các CTTC...).
(3) Nghiên cứu hoàn thiện và bổ sung những quy định pháp lý đối với tổ
chức và hoạt động kinh doanh của CTTC ở Việt Nam.
(4) Nghiên cứu về sự đóng góp của các tổ chức tín dụng phi ngân hàng
đối với thị trường tài chính ở Việt Nam.
(5) Nghiên cứu về sự phát triển của thị trường tín dụng tiêu dùng ở Việt
Nam và sự đóng góp của khối các CTTC.
Cuối cùng, tác giả luận án hy vọng những kết quả nghiên cứu sẽ được
xem xét tham khảo để áp dụng vào thực tế cũng như góp phần hoàn thiện mô
hình tổ chức và đẩy mạnh hoạt động kinh doanh của các CTTC ở Việt Nam
trong thời gian tới./.
150
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Nguyễn Thị Hương Lan (2008), “Hoạt động của các công ty tài chính
trong năm 2008: Chưa hết khó khăn”, Tạp chí Dự báo và Kinh tế, Bộ Kế
hoạch và Đầu tư, (16), tr.20-22.
2. Nguyễn Thị Hương Lan (2015), “Cách khắc phục điểm yếu của công ty
tài chính có vốn góp từ tập đoàn, tổng công ty nhà nước”, Tạp chí Dự báo
và Kinh tế, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, (18), tr.52-54.
3. Nguyễn Thị Hương Lan (2015), “Cơ hội và thách thức đối với kinh doanh
tín dụng tiêu dùng của các công ty tài chính Việt Nam”, Tạp chí Nghiên
cứu Tài chính - Kế toán, Học viện Tài chính, Bộ Tài chính, (09)146, tr.16-
18.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
151
TIẾNG VIỆT
1. Chính phủ (2002), Nghị định số 79/2002/NĐ-CP ngày 4/10/2002 của Chính
phủ về Tổ chức và Hoạt động của Công ty Tài chính.
2. Chính phủ (2008), Nghị định 81/2008/NĐ-CP ngày 29/7/2008 của Chính phủ
sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 79/2002/NĐ-CP của Chính phủ
về tổ chức và hoạt động của công ty tài chính.
3. Chính phủ (2014), Nghị định số 39/2014/NĐ-CP ngày 07/05/2014 của Chính
phủ về hoạt động của công ty tài chính và công ty cho thuê tài chính.
4. Công ty Tài chính Cổ phần Điện lực, Báo cáo thường niên và Báo cáo tài
chính 2011-2014.
5. Công ty Tài chính cổ phần Sông Đà, Báo cáo thường niên và Báo cáo tài
chính 2011-2014.
6. Công ty Tài chính cổ phần Xi măng, Báo cáo thường niên và Báo cáo tài
chính 2011-2014
7. Công ty Tài chính cổ phần Hóa chất Việt Nam, Báo cáo thường niên và Báo
cáo tài chính 2011-2014.
8. Công ty Tài chính cổ phần Dệt may, Báo cáo tài chính 2011-2014.
9. Công ty Tài chính TNHH MTV Bưu Điện, Báo cáo tài chính 2011-2014.
10. Trần Công Diệu (2002), Những giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển
công ty tài chính ở Việt Nam, Luận án tiễn sỹ kinh tế, Hà Nội.
11. Nguyễn Dương (2008), Thành lập các CTTC ở Việt Nam – nguồn lực dẫn
vốn, Tạp chí Thương mại, số 13/2008.
12. Lê Thị Thu Hà (2011), Tổ chức kiểm toán nội bộ tại các công ty tài chính
Việt Nam, Luận án tiễn sỹ kinh tế, Hà Nội.
13. Phùng Việt Hà (2013), “Quản trị rủi ro tín dụng tại các CTTC trong các
tập đoàn kinh tế theo khuyến nghị của Ủy ban Basel”, Tạp chí Thương
mại số 1+2/2013.
14. Vũ Huy Hào (1996), Giải pháp hoàn thiện và phát triển các loại hình trung
gian tài chính ở nước ta hiện nay, Luận án phó tiến sỹ, Hà Nội.
152
15. Vũ Huy Hào (1996), Sớm hình thành và phát triển hệ thống các tổ chức tài
chính phi ngân hàng ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Kinh tế và Phát triển.
16. Hồ Thị Thu Hương (2012), Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu phân tích trong các
công ty tài chính ở Việt Nam, Luận án tiễn sỹ kinh tế, Hà Nội.
17. Hồ Kỳ Minh (2002), Giải pháp hoàn thiện và phát triển hoạt động của
Công ty Tài chính Bưu Điện Việt Nam, Luận án tiến sỹ kinh tế, Hà Nội.
18. Ngân hàng Nhà nước (2010), Thông tư 13/2010/TT-NHNN ngày 20/5/2010
quy định về tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng.
19. Quốc hội nước Cộng hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khóa XII, kỳ họp thứ 7
(2010), Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, ngày 16/6/2010, Hà Nội.
20. Quốc hội nước Cộng hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khóa XII, kỳ họp thứ 7
(2010), Luật các tổ chức tín dụng, ngày 16/6/2010, Hà Nội.
21. Ngô Anh Sơn (2002), Giải pháp phát triển các nghiệp vụ của Công ty Tài
chính Dệt may, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Hà Nội.
22. Tổng Công ty cổ phần Tài chính Dầu khí, Báo cáo tài chính 2011-2012 và 9
tháng đầu năm 2013.
23. Tống Quốc Trường (2009), Hoạt động của Công ty Tài chính Dầu khí Việt
Nam: kinh nghiệm và giải pháp, Luận án tiễn sỹ kinh tế, Hà Nội.
TIẾNG NƯỚC NGOÀI
24. Akhan, Jafor Ali, Non-Banking Financial Companies (NBFCs) in
India - Functioning and Reforms, Published by New Century Publications,
31 July 2010.
25. Capital market liberalization and development, Stiglitz, Joseph E.; Ocampo,
José Antonio Oxford. Oxford University Press. 2008. 1 v. The initiative for
policy dialogue series.
26. Christopher Viney, Financial Institutions, Instruments & Markets,
Australia, 2012.
27. Jeffrey Carmichael and Michael Pomerleano, Development and Regulation
of Non-Bank Financial Institutions,2011.
28. Lalit Raina, Marie-Renée Bakker, Non-bank Financial Institutions and
Capital Markets in Turkey, World Bank Publications, January 1, 2003.
153
29. McGraw-Hill and McGraw-Hill Irwin, Principles of Corporate Finance,
New York, 2014.
30. Sundararajan, V. Petersen, Arne B. Sensenbrener, Gabriel, May 1996,
Central Bank Reform in the Transition Economies, IMF.
31. Sundararajan, V. (1990), “Financial sector Reform and Central banking
in Centrally Planned Economies”, IMF.
CÁC WEBSITE
32. www.chinhphu.vn, Cổng thông tin điện tử Chính phủ Nước Cộng hòa XHCN
Việt Nam, Văn bản quy phạm pháp luật, Tài chính – Ngân hàng, đường dẫn:
truy
cập: 29/4/2015
33. www.cfc.com.vn, Trang thông tin điện tử của Công ty tài chính cổ phần Xi
măng, Về CFC, sơ đồ cơ cấu và cấp lãnh đạo, đường dẫn:
truy cập
30/6/2015
34. www.evnfc.vn, Trang thông tin điện tử của Công ty tài chính cổ phần Điện
lực, Giới thiệu cơ cấu cổ đông, đường dẫn:
thieu/gioi-thieu-co-cau-co-dong.html, truy cập 28/6/2015
35. www.ptf.com.vn, Trang thông tin điện tử của Công ty tài chính TNHH MTV
Bưu điện, Giới thiệu về công ty, đường dẫn:
truy cập:
20/6/2015
36. www.rfc.com.vn, Trang thông tin điện tử của Công ty tài chính TNHH MTV
Cao su Việt Nam, cơ cấu tổ chức, truy cập 8/2013
37. www.sbv.gov.vn, Cổng thông tin điện tử của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam, Hệ thống các tổ chức tín dụng, Công ty tài chính, đường dẫn
9h1WCVR3vmny2jckxq24XhPL1Wfqz72JLytZCXpPMnG6tvZqz3t, truy
cập: 02/07/2015
154
38. www.sdfc.com.vn, Trang thông tin điện tử của Công ty tài chính cổ phần
Sông Đà, Giới thiệu công ty, đường dẫn:
thieu-cong-ty.html, truy cập: 12/02/2015
39. www.vinacomin.vn, Trang thông tin điện tử của tập đoàn Than – Khoáng
sản Việt Nam, truy cập: 15/09/2015
40. www.vinashin-finance.com.vn, Trang thông tin điện tử cuả Công ty Tài
chính Công nghiệp Tàu thủy, Giới thiệu về VFVC, truy cập: 16h00 ngày
3/4/2012
41. www.vietstock.vn, Trang thông tin chuyên về thị trường tài chính, đường
dẫn: truy cập: tháng 6-7/2015
42. www.vvf.com.vn, Trang thông tin điện tử của Công ty tài chính cổ phần
Vinaconex-Viettel, Giới thiệu, đường dẫn:
chung.html, , truy cập: 30/5/2015
43.
44. https://www.openknowledge.worldbank.org/bitstream/handle/10986/14012/
multi0page.txt?sequence=2
45.
46. www.investopedia.com/terms/n/nbfcs.asp
47. Nhuệ Mẫn (2015), Công ty tài chính tiêu dùng nội cần tìm lối đi riêng,
đường dẫn:
dung-noi-can-tim-loi-di-rieng-124509.html, Báo điện tử Đầu tư Chứng
khoán, thời điểm truy cập: 17h00 26/6/2015
48. Nhuệ Mẫn (2015), Công ty tài chính cần được định đoạt lãi suất theo quy
luật thị trường, đường dẫn:
chinh-can-duoc-dinh-doat-lai-suat-theo-quy-luat-thi-truong-118866.html,
Đặc san Toàn cảnh Ngân hàng Việt Nam, Báo điện tử Đầu tư Chứng khoán,
truy cập: 19h15 ngày 14/5/2015
49. Vân Linh (2015), Sẽ thêm nhiều công ty tài chính tham gia cho vay tiêu dùng,
đường dẫn:
chinh-tham-gia-cho-vay-tieu-dung-108834.html,Báo điện tử Đầu tư Chứng
khoán, truy cập: 18h00 ngày 24/12/2014.
155
50. Thùy Vinh (2015), “Ép” cho vay qua công ty tài chính, ý định nào của
NHNN?, đường dẫn:
cong-ty-tai-chinh-y-dinh-nao-cua-nhnn-103514.html, Báo điện tử Đầu tư
Chứng khoán, truy cập: 15h00 ngày 26/9/2014.
51. Thanh niên (2015), “Tập đoàn Cao su Việt Nam gây thiệt hại hàng trăm tỷ
đồng”, đường dẫn:
hang-tram-ti-dong-19160.html, truy cập: 30/12/2014
52. Phương Dung (2015), “Phong tỏa toàn bộ tài khoản ngân hàng của Công ty
tài chính Vinashin”, đường dẫn:
bo-tai-khoan-ngan-hang-cua-cong-ty-tai-chinh-vinashin-29942.html, truy cập
01/06/2015
53.
54.
55.
toyota-viet-nam(Giới thiệu về CTTC Toyota Việt Nam)
56. https://www.prudentialfinance.com.vn/pressDetail.pru?pressID=1171560
(Báo cáo tài chính năm 2013 của CTTC Prudential).
57. https://www.prudentialfinance.com.vn/press.pru (Thông tin báo chí về
CTTC Prudential)
58.
dung-510124.html