Luận án Tác động của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của trung quốc đối với một số nước Đông Nam Á

Tại Campuchia, cùng với việc thúc đẩy tăng trưởng, thay đổi cơ cấu nền kinh tế, đầu tư nước ngoài còn có những đóng góp ý nghĩa là tạo việc làm, cải thiện thu nhập, góp phần giảm đói nghèo và thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội. Trung bình, mỗi năm khu vực công nghiệp đã thu hút khoảng 100.000 lao động vào làm việc trong các lĩnh vực khác nhau. Đặc biệt, may mặc là ngành phát triển hàng đầu của nước ngày trong một thập kỷ qua, đem lại việc làm cho khoảng 350.000 lao động, góp phần giải quyết được phần nào tình trạng thất nghiệp gia tăng. Đại đa số lao động làm việc trong ngành công nghiệp may mặc là lao động từ khu vực nông thôn nên sự tăng trưởng và phát triển của các ngành đã góp phần tạo ra việc làm cho lao động nông thôn trong quá trình chuyển đổi. Tương tự, khu vực dịch vụ, nhất là các nghành thương mại, bưu chính viễn thông, bất động sản, khách sạn và nhà hàng là những ngành phát triển nhanh nhất ở Campuchia trong thập kỷ qua đã góp phần tạo ra khoảng 100.000 việc làm mỗi năm cho khu vực trong thời kỳ 1998-2007. Riêng ngành du lịch, lao động làm việc trong khu vực đã tăng từ 200.000 năm 2005 lên 300.000 người năm 2007 [59]

pdf170 trang | Chia sẻ: tueminh09 | Ngày: 29/01/2022 | Lượt xem: 394 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Tác động của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của trung quốc đối với một số nước Đông Nam Á, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mới, trong đó, Việt Nam sẽ ngày càng khó tận dụng hơn những cơ hội lớn từ sự trỗi dậy về kinh tế của Trung Quốc. Sẽ là thiếu thực tiễn và bỏ lỡ cơ hội nếu Việt Nam tìm cách hạn chế quan hệ kinh tế giữa hai nước. Thay vào đó, Việc Nam cần có một chiến lược hợp tác kinh tế quốc tế khôn ngoan hơn và cân bằng hơn. Hơn nữa, những chuyển động gần đây của quan hệ kinh tế Việt - Trung cần được đặt trong bối cảnh rộng hơn, khi hàng loạt thay đổi mạnh mẽ về thể chế kinh tế, về cấu trúc kinh tế, về vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế, về chế độ sở hữu, về giá cả cạnh tranh, về hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra. 4.3.3. Một số giải pháp ứng phó với FDI Trung Quốc trong thời gian tới Cần có phương pháp tiếp cận phòng ngừa trong hợp tác với Trung Quốc về các lĩnh vực kinh tế và đầu tư. Chiến lược đầu tư của Trung Quốc ra nước ngoài nói chung và tại Việt Nam có những mục tiêu đặc thù, hoàn toàn khác biệt với những mục tiêu, động cơ có tính truyền thống của các nhà đầu tư nước ngoài là tìm kiếm các nguồn lực, tìm kiếm thị trường, tìm kiếm hiệu quả Những mục tiêu đặc thù của các DN FDI Trung Quốc có thể nhận thấy đó là nhằm di chuyển lao động Trung Quốc sang nước sở tại để giảm chi phí xã hội, khuyến khích xây dựng gia đình với người Việt Nam để giải quyết tình trạng mất cân bằng trầm trọng về giới; nhằm tìm hiểu cụ thể thị trường Việt Nam để thực hiện phương châm mua tận gốc, bán tận ngọn các sản phẩm có thể nhập khẩu từ Việt Nam; chủ động dò la tin tức, thám thính tình hình chính trị, kinh tế, an ninh, quốc phòng của Việt Nam. Hơn nữa, mục tiêu FDI của Trung Quốc ra nước ngoài còn nhằm chuyển giao công nghệ sản xuất lạc hậu của các DN Trung Quốc sử dụng nhiều năng lượng, chất lượng sản phẩm thấp, đặc biệt là thông qua các dự án FDI và các công trình do Trung Quốc trúng thầu theo hình thức EPC để tiêu thụ các loại hàng hóa chất lượng thấp sang Việt Nam, giải quyết tình trạng hàng hóa ế thừa, tồn kho. Vì vậy, Việt Nam dễ trở thành bãi thải công nghệ thấp và hàng hóa chất lượng thấp của Trung Quốc. Do đó, việc tiếp cận phòng ngừa đối với dòng vốn FDI Trung Quốc là rất cần thiết. Để chủ động ứng phó với các dự án FDI của Trung Quốc đã đầu tư vào Việc Nam, trước mắt cần có giải pháp phòng ngừa, xử lý từng trường hợp cụ thể đối với các dự án của Trung Quốc chuyển giao công nghệ lạc hậu, sử dụng quá nhiều lao 143 động phổ thông để có biện pháp quản lý, kiểm soát chặt chẽ việc triển khai các dự án này, xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật các dự án đầu tư của Trung Quốc vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường, gây ô nhiễm nguồn nước, không khí, chất thải, sử dụng nhiều lao động phổ thông Trung Quốc. Đối với các DN Trung Quốc chuẩn bị đăng ký đầu tư vào Việt Nam, cần thẩm định thận trọng, kỹ càng theo các tiêu chuẩn nhằm nâng cao chất lượng dòng vốn FDI vào Việt Nam với những ưu tiên đối với các dự án công nghệ cao, kinh nghiệm quản lý tiên tiến và dự án vào các lĩnh vực ưu tiên đầu tư của Việt Nam. Những dự án có công nghệ thấp, sử dụng nhiều lao động cần tuyệt đối không tiếp nhận vào Việt Nam. Cần triệt để khai thác các diễn đàn đa biên trong đầu tư để kiềm chế, kiểm soát tác động tiêu cực của FDI Trung Quốc. Trong nhiều năm qua, Việt Nam đã có những thành công trong việc thu hút FDI từ hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó những đối tác có số vốn FDI nhiều nhất là một số nước có trình độ KHCN cao, kinh nghiệm quản lý, kinh doanh tiên tiến, hiện đại. Trong tương quan so sánh, các nhà đầu tư Trung Quốc có nhiều hạn chế đáng kế. Do đó, cần phải thông qua các diễn đàn đa biên về đầu tư để khai thác, phát huy tác động của các đối tác đầu tư nhằm hạn chế, giảm thiểu những tác động bất lợi của vốn FDI Trung Quốc. Các diễn đàn đa biên này có sự tham gia của các nhà đầu tư từ các quốc gia, lãnh thổ lớn có uy tín như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốclà các nhà đầu tư có lợi thế đáng kể về vốn đầu tư, công nghệ hiện đại, thương hiệu mạnh. Việc tổ chức các diễn đàn này tạo điều hiện để Việt Nam có cơ hội phân tích, so sánh giữa các nhà đầu tư nhằm quyết định lựa chọn nhà đầu tư phù hợp nhất với lợi ích của mình. Thông qua diễn đàn này, các nhà đầu tư có thể nhận diện bản chất và năng lực của các doannh nghiệp Trung Quốc, từ đó hình thành lực lượng chế ước lẫn nhau giữa các nhà đầu tư, tạo thuận lợi cho nước sở quản lý các dự án FDI theo cơ chế phù hợp. Các diễn đàn đầu tư đa biên còn là phương thức, là nơi để thông tin công khai về các dự án FDI với những đóng góp cho sự phát triển KTXH Việt Nam cùng với những trường hợp vi phạm pháp luật đầu tư Việt Nam. Cách làm này giúp loại bỏ những quan niệm về đối xử không công bằng trong hoạt động và quản lý FDI tại Việt Nam. Diễn đàn công khai cũng là cơ sở để tăng tính minh bạch đối với các đối tác Trung Quốc, vốn là những nhà đầu tư có thói quen lợi dụng sơ hở của chính sách để trốn thuế, chuyển giá, gây ô nhiễm môi trường, sử dụng nhiều lao động Trung Quốc bất hợp pháp tại Việt Nam. Giải pháp về phương diện ngoại giao: Học tập kinh nghiệm của các nước ASEAN trong quá trình ứng phó với FDI Trung Quốc, có thể nói hầu hết các nước đều mở rộng đa dạng hóa các quan hệ đối 144 tác với các nước lớn, các nước PT, tăng cường thu hút các dự án FDI từ các nước tiên tiến phát triển nhằm phát huy vai trò, những mặt tích cực của FDI trong phát triển kinh tế xã hội. Tranh thủ triệt để cơ hội Trung Quốc đang trỗi dậy hòa bình để thu lợi ích từ đầu tư trong xu hướng vận động của thế giới ngày càng phụ thuộc lẫn nhau. Là một nền kinh tế liên tục có tốc độ tăng trưởng ổn định ở mức cao từ 9-10%/năm, Trung Quốc dần trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới và là quốc gia có dự trữ ngoại tệ lớn nhất thế giới. Với mục tiêu thâm nhập sâu vào thị trường các nước về thương mại, đầu tư, Trung Quốc đã và đang sử dụng vốn đầu tư lớn để thực hiện các dự án ra nước ngoài. Do đó cần tranh thủ dòng di chuyển khổng lồ vốn FDI của Trung Quốc để thực hiện các mục tiêu chiến lược của quốc gia mình. Sự trỗi dậy hòa bình của Trung Quốc thể hiện ở việc quốc gia này ngày càng tham gia tích cực, sâu rộng, chủ động vào các sự kiện chính trị thế giới. Một mặt, Trung Quốc vẫn duy trì chính sách ngoại giao mềm dẻo, một mặt sử dụng sức mạnh quân sự và kinh tế gây tác động đến các nước khác, đặc biệt là các nước láng giềng, nhằm mở rộng lãnh thổ và tầm ảnh hưởng. Năm 2014, Trung Quốc đã triển khai ý tưởng xây dựng Ngân hàng Đầu tư cơ sở hạ tầng châu Á (AIIB), thúc đẩy hợp tác kinh tế và tài chính một cách toàn diện, và xúc tiến hoạt động toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập khu vực ", nhấn mạnh rằng Quỹ con đường tơ lụa và Ngân hàng Đầu tư cơ sở hạ tầng châu Á sẽ thúc đẩy "kết nối kinh tế khu vực châu Á Thái Bình Dương và do đó thúc đẩy sự phát triển chung của cả thế giới". AIIB là một yếu tố quan trọng của chiến lược "Một vành đai, một con đường" của Trung Quốc, trong đó bao gồm hai sáng kiến: vành đai kinh tế Con đường tơ lụa, kết nối Trung Quốc với châu Âu, và Con đường tơ lụa thế kỷ 21 trên biển, kết nối Trung Quốc với ĐNA, Trung Đông và châu Âu thông qua một mạng lưới đường sắt mở rộng, đường cao tốc, đường ống dẫn năng lượng, đường cáp quang, và các con đường liên thông khác. Vì vậy, đây chính là cơ hội để Việt Nam tận dụng nguồn vốn phát triển cơ sở hạ tầng trong nước. Tuy nhiên, Việt Nam cần có cách tiếp cận thận trọng với AIIB. Đánh giá về rủi ro của AIIB và các khoản đầu tư của ngân hàng này, có thể nhận thấy, rủi ro lớn nhất là nó được dẫn dắt bởi Trung Quốc - một quốc gia chưa có kinh nghiệm quản trị quốc tế trong lĩnh vực tài chính tiền tệ nhưng lại dư thừa công suất đầu tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng và sản lượng công nghiệp Hơn nữa, trên phương diện ngoại giao với Trung Quốc, Việt Nam nên sử dụng những vấn đề lịch sử để giảm thiểu, sàng lọc và lựa chọn những quan hệ đầu tư bất lợi do Trung Quốc gây ra. Mặc dù là đối tác tin cậy, song những vấn đề lịch sử để lại chưa thể giải quyết dứt khoát, nhất là các nội dung liên quan đến sự toàn vẹn chủ quyền quốc gia. Để sử dụng các vấn đề lịch sử trong quan hệ đầu tư với Trung Quốc, 145 cần thực hiện xây dựng danh mục các vấn đề lịch sử, những mâu thuẫn chưa được giải quyết, thể hiện bản chất thiếu thiện chí của phía Trung Quốc đối với Việt Nam trên hầu hết các lĩnh vực; tiến hành phân loại mức độ ảnh hưởng của các vấn đề này về chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, an ninh chủ quyền và các vấn đề đặc thù của địa phương. Ví dụ như vấn đề tranh chấp biên giới đường bộ, vấn đề biển đảo, việc người Trung Quốc phạm tội buôn lậu, buôn bán ma túy, buôn người ... là những vấn đề có thể đưa vào làm căn cứ cụ thể và rõ ràng để xem xét trong khi đàm phán, chấp nhận hoặc không chấp nhận dự án đấu tư. 4.3.4. Một số kiến nghị đối với Chính phủ Qua phân tích những tác động tích cực và tiêu cực của FDI Trung Quốc tại Việt Nam trong thời gian vừa qua, cần thiết phải có nhìn nhận và đánh giá đúng đắn chính sách thu hút, quản lý FDI tại Việt Nam cũng như bản chất, mục đích và phương thức thực hiện FDI Trung Quốc tại Việt Nam, từ đó có thể đề xuất những kiến nghị: - Thực hiện quan điểm ngoại giao Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Việc tăng cường quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Trung Quốc cần diễn ra chủ động, tích cực theo hướng mang lại lợi ích cho cả hai bên. Trong quan hệ với một nước mạnh như Trung Quốc, ta cần phát triển trên tinh thần làm sao khác với Trung Quốc, chứ không nên đối đầu, cạnh tranh; khai thác những lợi thế của Việt Nam với tư cách là nước nhỏ, linh hoạt. Trong thời gian tới, Chính phủ có thể nghiên cứu đàm phán và đi đến ký kết Hiệp định đầu tư song phương với Trung Quốc, trong đó đặt ra những yêu cầu trong quá trình tiếp nhận dự án FDI như trình độ công nghệ cao, nguồn nhân lực chất lượng... Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để hạn chế những tác động tiêu cực, những bất lợi trong quá trình triển khai vốn FDI tại Việt Nam. - Trong quản lý các dự án FDI Trung Quốc, cần có sự phối hợp chặt chẽ hiệu quả giữa các bộ, ban ngành, cần lưu ý chính sách đối xử cụ thể đối với FDI Trung Quốc vì đây là đối tác có những đặc thù trong quan hệ với Việt Nam, hơn nữa dòng vốn FDI Trung Quốc cũng có nhiều điểm khác biệt với FDI nói chung. Bên cạnh việc đối xử công bằng, minh bạch, còn cần có những ứng xử linh hoạt, theo từng trường hợp để phù hợp với đặc thù của đối tác này. Cần có sự phối hợp giữa Bộ KH & ĐT với các Sở KH & ĐT địa phương, các Ban quản lý khu công nghiệp, các cơ quan ngoại giao, cộng đồng doanh nghiệp, người lao động, người dân địa phương để tăng cường giám sát và giải quyết các vấn đề phát sinh của các dự án FDI Trung Quốc. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát chặt chẽ, xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật đối với những vi phạm của dự án FDI, đặc biệt là vi phạm trong việc gây ô nhiễm môi trường, 146 sử dụng lao động bất hợp pháp... Cần khuyến khích giám sát của cộng đồng dân cư, người tiêu dùng và các đối tượng trong xã hội. - Hoàn thiện hệ thống các luật về đầu tư nước ngoài, luật doanh nghiệp, luật đất đai... nhằm đảm bảo tính thống nhất, minh bạch, tăng hiệu quả thực thi, giám sát. Các văn bản hướng dẫn thực thi cho các địa phương, doanh nghiệp về các nội dung triển khai dự án FDI cần cụ thể, chi tiết, rõ ràng. Xây dựng quy hoạch đầu tư đối với từng ngành, địa phương; chủ động xây dựng danh mục dự án khuyến khích FDI cụ thể về địa điểm, ngành nghề, quy mô vốn, các biện pháp ưu đãi, thời hạn hoạt động, trên cơ sở đó đánh giá cụ thể nhu cầu thu hút FDI từ Trung Quốc. - Chính phủ cần đẩy nhanh hơn nữa quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế từ chiều rộng sang chiều sâu, phát triển nền kinh tế theo hướng hiện đại, tích cực cải cách doanh nghiệp nhà nước, phát triển mạnh khu vực doanh nghiệp tư nhân, nhằm nhanh chóng loại bỏ những dự án công nghệ lạc hậu, bóc lột tài nguyên của Trung Quốc tại Việt Nam. - Trong thời gian trước mắt, đối với các dự án FDI Trung Quốc, chính phủ nên: + Đặc biệt hạn chế phê duyệt các dự án khai thác nguyên liệu thô: Vốn FDI Trung Quốc vào Việt Nam trong thời gian qua tập trung vào việc đầu tư khai thác nguyên liệu thô, tài nguyên khoáng sản. Điều này cũng khá dễ hiểu vì Việt Nam có nguồn tài nguyên khá phong phú lại liền kế biên giới với Trung Quốc, vận chuyển nguyên liệu thô rất thuận lợi, hiệu quả do chi phí thấp hơn nhiều so với khai thác tài nguyên ở các quốc gia xa xôi như Châu Phi. Đối với Trung Quốc, là một nền kinh tế khổng lồ, trỗi dậy mạnh mẽ trở thành công xưởng của thế giới, do đó nhu cầu về nguyên liệu thô như tài nguyên khoáng sản, năng lượng rất lớn. Vì vậy, việc các DN Trung Quốc tập trung khai thác tài nguyên khoáng sản ở Việt Nam là phù hợp với quy luật kinh tế. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện đầu tư, với việc thiếu kiểm soát chặt chẽ đã để cho một số DN Trung Quốc thiếu trách nhiệm, dẫn đến những hậu quả kinh tế xã hội khó lường. Điển hình là việc đầu tư khai thác bôxit ở Tây Nguyên đã khiến dư luận xã hội phản ứng mạnh mẽ. Từ thực trạng này, chính phủ Việt Nam đã có chính sách mới đối với việc khai thác tài nguyên. Luật Khoáng sản năm 2010, nhà nước khuyến khích đầu tư khai thác gắn với chế biến, sử dụng khoáng sản; việc cấp giấy phép khai thác khoáng sản nhất thiết phải gắn với chế biến. Sau đó, Thủ tướng chính phủ đã ban hành chỉ thị về việc tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động thăm dò, khai thác chế biến, sử dụng và xuất khẩu khoáng sản với nhiều giải pháp đồng bộ. Đặc biệt Thủ tướng chính phủ yêu cầu nghiêm ngặt việc xuất khẩu khoáng sản thô. Thủ tướng chính phủ còn yêu cầu Bộ Tài nguyên và Môi trường, các địa phương và các cơ quan liên quan kiểm tra thanh tra đối với các dự án khai thác khoáng sản đang hoạt động, đình chỉ hoạt động, thu hồi giấy phép khai thác khoáng sản đối với 147 các trường hợp không triển khai dự án chế biến sâu theo cam kết, khai thác gây ô nhiễm nghiêm trọng tới môi trường, trực tiếp gây hư hỏng hạ tầng kỹ thuật, mất trật tự an ninnh, gây bức xúc cho người dân địa phương. Đây là hướng đi đúng, thực hiện nghiêm túc Luật Khoáng sản 2010 và Chỉ thị về quản lý khai thác tài nguyên là giải pháp quan trọng hạn chế khai thác tài nguyên thô, ngăn chặn các ngành các cấp chạy theo lợi ích trước mắt, buông lỏng việc cấp phép và quản lý các dự án khai thác tài nguyên của nước ngoài, góp phần làm lành mạnh hóa quan hệ Việt - Trung. + Thu hút, hướng các dự án FDI Trung Quốc vào Việt Nam nhằm phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ, góp phần giảm nhập khẩu hàng hóa nguyên nhiên liệu của Trung Quốc, tăng xuất khẩu sản phẩm chế biến sang Trung Quốc, góp phần giảm thiểu thiếu hụt cán cân thương mại thường niên, lành mạnh hóa quan hệ kinh tế Việt - Trung. Nền kinh tế Trung Quốc đã phát triển đến một giai đoạn cần đẩy mạnh đầu tư ra nước ngoài vì các yếu tố thuận lợi cho mở rộng sản xuất trong nước đã đến giới hạn như trên đã đề cập. Trong khi đó, Việt Nam đang có lợi thế so sánh cho FDI Trung Quốc vào lĩnh vực này so với nhiều lĩnh vực khác, do đó chúng ta cần có định hướng ưu tiên, tạo thuận lợi cho các dự án FDI Trung Quốc đầu tư vào các ngành công nghiệp phụ trợ, khuyến khích các dự án đầu tư phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ thay thế nhập khẩu hàng nguyên liệu của Trung Quốc; ưu tiên các dự án FDI công nghệ cao, giảm thiểu ô nhiễm môi trường cũng như các dự án FDI sử dụng nhiều lao động Việt Nam sản xuất hàng xuất khẩu. - Nhằm tăng cường những tác động tích cực của FDI Trung Quốc và giảm bớt những hạn chế của dòng vốn này, Việt Nam cần lựa chọn một số lĩnh vực mà Trung Quốc có lợi thế cạnh tranh. Trong lĩnh vực công nghệ cao và tài chính vốn là thế mạnh của Mỹ, cho đến nay, Trung Quốc đã vượt qua Mỹ và đang dẫn đầu thế giới trong một số lĩnh vực sản xuất đó là: thép, bông, thuốc lá, ô tô, than đá, xuất khẩu hàng công nghệ cao. Bên cạnh đó, chỉ trong 10 năm, công nghệ đường sắt cao tốc Trung Quốc đã có bước tiến vượt bậc, được thị trường hóa và làm rất nhanh, giá thành rẻ. Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới, lợi thế của Trung Quốc là giá thành sản xuất các hệ thống đường sắt cao tốc có chi phí bằng 1/3 so với các nước khác. Đầu tư cơ sở hạ tầng (CSHT) có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của một quốc gia. Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu suy giảm, đầu tư CSHT dần trở thành mối quan tâm của các quốc gia đang phát triển nhằm giữ nhịp tăng trưởng. Vì thế tận dụng được các dự án trong các đề xuất CSHT của Trung Quốc thông qua chiến lược “Một vành đai, Một con đường” là một bổ sung quan trọng và cần thiết. Điều này không những có ý nghĩa về phát triển kinh tế với một số địa phương của Việt Nam, mà còn với liên kết vùng, tiểu vùng, và rộng lớn hơn là cả mạng lưới sản xuất- 148 thương mại-đầu tư của khu vực. Để có thể tận dụng tốt hệ thống CSHT hiện có và phát huy lợi thế này trong tương lai, Việt Nam cần nâng cao chất lượng quản trị đối với các dự án đầu tư CSHT. Công nghiệp dệt may và bông vải sợi là ngành truyền thống và phát triển mạnh ở Trung Quốc trong một thời gian dài, đưa Trung Quốc trở thành nước xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất tại Mỹ. Việt Nam cần “chọn lọc” và “cẩn trọng” khi cấp phép đầu tư cho các dự án lĩnh vực dệt, nhuộm của Trung Quốc vào Việt Nam đồng thời kiểm soát chặt chẽ quá trình thực hiện các dự án. Việt Nam hiện đã có hàng trăm quy định (quy chuẩn và tiêu chuẩn) về hàng rào kỹ thuật nhằm kiểm soát chất lượng công nghệ cũng như các loại hàng hóa, nguyên vật liệu nhập khẩu. Nếu thực hiện tốt các tiêu chuẩn, quy chuẩn này thì việc hạn chế nhập khẩu các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ kém chất lượng, trong đó có xu hướng chuyển các công nghệ lạc hậu, ô nhiễm môi trường của các DN Trung Quốc cũng như các DN nước ngoài khác vào Việt Nam là hoàn toàn khả thi. Việc thu hút đầu tư vào dệt may, đặc biệt là các khâu dệt, nhuộm cần phải được tư duy phát triển theo quy mô vùng để có thể tận dụng được hết năng lực của các khu công nghiệp chuyên sâu, đặc biệt là hệ thống xử lý nước thải. Nhằm phục vụ nhu cầu tăng trưởng của nền kinh tế, Trung Quốc đã tích cực phát triển các ngành năng lượng như thủy điện, năng lượng mặt trời, năng lượng sinh khối, năng lượng gió và hạt nhân và khí đốt thiên nhiên (dầu mỏ). Theo báo cáo của Cơ quan Năng lượng Quốc tế, Trung Quốc hiện là quốc gia sản xuất thủy điện lớn nhất thế giới, với số lượng nhà máy thủy điện nhiều hơn bất cứ quốc gia nào.Trung Quốc có lợi thế là nguồn cung cấp công nghệ và thiết bị năng lượng. Vì vậy, Việt Nam có thể xây dựng kế hoạch thu hút đầu tư FDI của Trung Quốc vào các lĩnh vực phát triển năng lượng. Các chuyên gia phân tích cho rằng, các công ty Trung Quốc hiện nay đang nắm giữ 70% thị trường phát triển toàn cầu trong lĩnh vực sản xuất các tấm pin Mặt Trời, nhờ giá cả có sức cạnh tranh. Bên cạnh đó, Trung Quốc còn chú trọng phát triển nhiệt điện, bình quân một tuần ở Trung Quốc có một nhà máy nhiệt điện mới được đưa vào hoạt động. Trung Quốc còn có lợi thế trong các ngành sản xuất thiết bị điện tử, gia dụng do các doanh nghiệp trong ngành này đã nâng cao năng lực cạnh tranh qua quá trình Trung Quốc là điểm đến hàng đầu của FDI. Điện thoại thông minh là lĩnh vực công nghệ cao mới nhất mà vị thế đứng đầu của Hàn Quốc bị các đối thủ Trung Quốc chiếm lĩnh. Thương hiệu Trung Quốc Lenovo sở hữu 2 tên tuổi đình đám nhất nước Mỹ (thậm chí cả thế giới): ThinkPad và Motorola. Giống như những người láng giềng Đài Loan và Hàn Quốc, các hãng công nghệ Trung Quốc đang chuyển mình từ vị thế sản xuất thuê sang làm chủ và tự bán thiết bị dưới thương hiệu riêng. Việt Nam có thể thu hút các doanh nghiệp Trung Quốc trong ngành sản xuất thiết bị điện tử để khai thác lợi thế về giá thành sản xuất và chuyển giao công nghệ phù hợp với Việt Nam. 149 KẾT LUẬN Qua nghiên cứu, luận án đã hoàn thành mục tiêu và có những đóng góp sau: Thứ nhất, luận án đã hệ thống cơ sở lý luận về tác động của FDI tới nước nhận đầu tư, và đặc điểm của dòng vốn FDI từ nước ĐPT đến nước nhận đầu tư là các nước ĐPT. Thứ hai, luận án đã tổng hợp, phân tích động thái của FDI Trung Quốc tại khu vực ĐNA và lựa chọn phân tích điển hình tại Thái Lan, Myanmar và Campuchia. Từ đó rút ra những mục tiêu, đặc điểm của vốn FDI Trung Quốc tại ĐNA. Đặc biệt, luận án đã phân tích làm rõ những tác động của dòng vốn này đến các quốc gia ĐNA đối với tăng trưởng kinh tế, môi trường và các vấn đề an ninh xã hội, đến chủ quyền, an ninh chính trị của các nước ĐNA. Tuy nhiên, không giống bất kỳ vốn FDI từ các quốc gia khác, FDI Trung Quốc đến các nước ĐNA cho thấy mục tiêu của dòng vốn này không chỉ dừng lại ở việc tìm kiếm lợi nhuận trong kinh doanh. FDI Trung Quốc không có nhiều đóng góp cho chuyển giao và phát triển công nghệ của nước nhận đầu tư. Hơn nữa nó còn tác động tiêu cực đến môi trường các nước nhận đầu tư do sử dụng công nghệ thấp. Đặc biệt, FDI Trung Quốc thường đi kèm với việc di chuyển lao động Trung Quốc (trình độ thấp), do đó FDI Trung Quốc còn gây nên nhiều vấn đề an ninh xã hội đối với nước nhận đầu tư. Trung Quốc sử dụng “sức mạnh mềm” văn hóa để tiếp cận các nguồn lực và từng bước mở rộng ảnh hưởng của mình tại ĐNA, gây tác động xấu đến truyền thống văn hóa của các dân tộc, tới tâm trạng xã hội của các nước ĐNA. Quan trọng hơn, viện trợ và sức ảnh hưởng ngày càng to lớn của Trung Quốc trong thương mại và đầu tư đối với ĐNA làm tăng tính phụ thuộc của các nước vào Trung Quốc; đây chính là cơ hội và chiêu bài mà Trung Quốc có thể sử dụng để khống chế, ép buộc các nước phải phục vụ mục đích chính trị và lợi ích kinh tế của mình. Trước tình hình đó, khu vực ĐNA nói chung và một số nước ĐNA đã có những phản ứng mạnh mẽ đối với dòng vốn FDI Trung Quốc tại đây, đó là giữ quan điểm phòng ngừa với Trung Quốc và hợp tác với các cường quốc bên ngoài, góp phần tạo ảnh hưởng trong quan hệ thương mại, đầu tư với Trung Quốc. Các nước ASEAN tiếp tục tăng cường hợp tác nội khối nhằm thúc đẩy thương mại và đầu tư nội khối, giảm dần sự phụ thuộc vào Trung Quốc; Khai thác lợi ích từ các cơ chế hợp tác kinh tế ASEAN - Trung Quốc; Ràng buộc Trung Quốc trong cơ chế hợp tác đa phương. Về phía bản thân các nước ASEAN cũng đã có những phản ứng đối với FDI Trung Quốc. Indonesia đã điều chỉnh chính sách thu hút và quản lý FDI của mình, 150 chẳng hạn như việc cấm xuất khẩu các nguyên liệu khoáng sản tự nhiên. Myanmar đã dần chuyển hướng sang các đối tác khác, giảm sự phụ thuộc vào Trung Quốc. Gần đây, người dân Campuchia đã có nhiều hành động phản đối FDI Trung Quốc. Qua phân tích động thái FDI Trung Quốc tại Việt Nam từ năm 2000 đến nay, luận án đã chỉ rõ những đặc điểm của dòng vốn này, đặc biệt luận án đã phân tích những tác động của vốn FDI Trung Quốc tới Việt Nam. Nằm trong tốp 10 nhà đầu tư lớn nhất tại Việt Nam, nhưng quy mô vốn FDI Trung Quốc vẫn còn nhỏ, nên chưa có đóng góp đáng kể cho việc tạo nguồn vốn đầu tư. Đa số dự án Trung Quốc sử dụng công nghệ thấp, gây tác động tiêu cực đến môi trường; không tạo sự liên kết với các DN trong nước, sử dụng nguyên liệu đầu vào, hàng hóa trung gian nhập khẩu từ Trung Quốc, đã góp phần vào tình trạng nhập siêu nghiêm trọng của Việt Nam từ thị trường Trung Quốc. Đặc biệt FDI Trung Quốc mang theo (bất hợp pháp) nhiều lao động phổ thông làm mất cơ hội việc làm của lao động Việt Nam và gây ra nhiều vấn đề an ninh xã hội phức tạp ở các địa phương. Quan trọng hơn, FDI Trung Quốc vào Việt Nam bên cạnh tác động về các khía cạnh kinh tế, gắn với mục tiêu kinh doanh vì lợi nhuận, còn có mục tiêu khác nhằm tạo ảnh hưởng của chủ nghĩa đầu tư mới mang tên Trung Quốc, thực hiện sự thâm nhập sâu về kinh tế, lao động và văn hóa cũng như tác động về chính trị và nhận thức xã hội với mong muốn lan tỏa ảnh hưởng của tư tưởng bá quyền nước lớn đối với nước khác.. Cuối cùng, luận án đã đưa ra những hàm ý cho việc tăng cường các biện pháp quản lý FDI Trung Quốc vào Việt Nam trong thời gian tới. Đó là, cần có phương pháp tiếp cận phòng ngừa trong hợp tác với Trung Quốc về các lĩnh vực kinh tế và đầu tư; Cần triệt để khai thác các diễn đàn đa biên trong đầu tư để kiềm chế, kiểm soát tác động tiêu cực của FDI Trung Quốc; Giải pháp về phương diện ngoại giao, tranh thủ triệt để cơ hội Trung Quốc đang trỗi dậy hòa bình để thu lợi ích từ đầu tư; Hạn chế phê duyệt các dự án khai thác nguyên liệu thô; Thu hút mạnh FDI Trung Quốc vào Việt Nam nhằm phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ, góp phần giảm nhập khẩu hàng hóa nguyên nhiên liệu của Trung Quốc, tăng xuất khẩu sản phẩm chế biến sang Trung Quốc, góp phần giảm thiểu thiếu hụt cán cân thương mại, lành mạnh hóa quan hệ kinh tế Việt - Trung. 151 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ 1. “Ba làn sóng đầu tư ra nước ngoài từ các nước ĐPT và một số gợi ý cho Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế & Phát triển, (177), tr. 3-6. 2. “FDI của Trung Quốc tại ASEAN và khuyến nghị cho Việt Nam”, Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng (166), tr. 64-70 3. “Xu hướng mở rộng đầu tư của Trung Quốc thông qua hệ thống ngân hàng phát triển”, Tạp chí Kinh tế Châu Á Thái Bình Dương tháng 3/2016, tr. 21-23 152 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tiếng Việt 1. Lê Xuân Bá (2006), Tác động của FDI nước ngoài tới tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội. 2. Nguyễn Kim Bảo (2003), "60 năm cải cách thể chế kinh tế của Trung Quốc, lý luận và thực tiễn", Nghiên cứu Trung Quốc (2), tr. 47. 3. Đỗ Đức Bình (2005), Đầu tư của các công ty xuyên quốc gia tại Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội. 4. Đỗ Minh Cao (2005), “Chiến lược năng lượng của Trung Quốc những năm đầu thế kỷ 21”, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc (4)) 5. Cục Đầu tư Nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2013), Báo cáo tình hình hợp tác và đầu tư giữa Việt Nam và Trung Quốc, Hà Nội. 6. Đặng Phương Hoa (2006), "Sự nổi lên của các nền kinh tế Trung Quốc và Ấn Độ: Cơ hội và thách thức đối với phát triển kinh tế Việt Nam - ASEAN", Tạp chí Những vấn đề kinh tế và chính trị thế giới (11), tr. 127. 7. Nguyễn Phương Hoa (2010), "FDI nước ngoài của Trung Quốc tại Việt Nam trong 10 năm qua", Nghiên cứu Trung Quốc, tr. 43. 8. Nguyễn Thị Liên Hoa, Bùi Thị Bích Phương, Nghiên cứu các nhân tố tác động đến đầu tư trực tiếp nước ngoài tại những quốc gia đang phát triển, Tạp chí Phát triển và Hội nhập, Số 14 (24) - Tháng 01- 02/2014 9. Nguyễn Xuân Hoà, Trần Thị Thanh Nga (2006), "Đầu tư ra nước ngoài-chính sách phát triển mới của Trung Quốc", Nghiên cứu Trung Quốc, (3), tr. 27. 10. Đỗ Tuyết Khanh (2011), "Chính sách khai thác tài nguyên mới của Trung Quốc", Tạp chí Thời đại mới (23), tháng 11. 11. Lê Quang Lân (2005), Khu vực thương mại tự do ASEAN - Trung Quốc và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam, Uỷ ban Quốc gia về Hợp tác Kinh tế. 12. Vũ Chí Lộc (2014) “Giáo trình Đầu tư quốc tế”. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. 13. Bùi Thị Lý (2012), “Hoạt động FDI của các TNC Trung Quốc và một số vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, tr.15. 14. Nguyễn Mại (2003), FDI và tăng trưởng kinh tế Việt Nam, Báo Đầu tư, 24-12- 2003 15. Nguyễn Mại, 2004 “Chính sách thu hút đầu tư nước ngoài FDI của Việt Nam: Thành quả và việc hoàn thiện chính sách”. Tài liệu Hội thảo quốc tế về: “Việt 153 Nam gia nhập WTO: Cơ hội và Thách thức” tháng 3/2004 tại Hà nội. Dự án CIEMDANIDA. 16. Nguyễn Thị Hường và Bùi Huy Nhượng (2003), Những bài học rút ra qua so sánh tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Trung Quốc và Việt Nam, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 68-2003. 17. Nguyễn Thị Liên Hoa (2002), Xây dựng một lộ trình đầu tư thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, Tạp chí Phát triển Kinh tế, 9/2002 18. Nguyễn Thi Phuong Hoa (2004) Foreign Direct Investment and its Contributions to Economic Growth and Poverty Reduction in Vietnam (1986- 2001), Peter Lang, Frankfurt am Main, Germany. 19. Đoàn Ngọc Phúc (2004), “Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam - Thực trạng, những vấn đề đặt ra và triển vọng”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, (315). 20. Phan Ngọc Mai Phương (2009), “Tác động từ chiến lược Một trục hai cánh của Trung Quốc đối với phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam thời kỳ đến năm 2020”, Đề tài cấp Bộ năm 2009, Viện Chiến lược phát triển, Bộ Kế hoạch & Đầu tư. 21. Đặng Xuân Quang (2005),"Mấy vấn đề FDI của Trung Quốc tại Việt Nam", Nghiên cứu Trung Quốc (3), tr.35. 22. Phạm Thái Quốc (2006), "Tiềm lực kinh tế của Trung Quốc: Hiện tại và tương lai", Tạp chí Những vấn đề kinh tế và chính trị thế giới (6), tr. 110. 23. Phạm Thái Quốc (2007), "Thực trạng và chính sách đầu tư nước ngoài của Trung Quốc và ấn Độ - Nghiên cứu so sánh", Tạp chí Những vấn đề kinh tế và chính trị thế giới (1), tr. 129. 24. Phạm Thái Quốc (2011) “FDI ra nước ngoài của Trung Quốc”, Tạp chí Những vấn đề Kinh tế và chính trị thế giới số 186. 25. Phùng Xuân Nhạ (2010), Điều chỉnh chính sách FDI nước ngoài trong quá trình đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, NXB ĐHQGHN. 26. Phùng Xuân Nhạ (2007), Đầu tư quốc tế, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. 27. Lê Văn Sang (2008), Báo cáo khảo sát thực tế triển khai chiến lược “Một trục hai cánh” của Trung Quốc, Hà Nội. 28. Trần Quang Thắng (2012), Những vấn đề kinh tế xã hội nảy sinh trong FDI nước ngoài của một số nước Châu Á và Giải pháp cho Việt Nam, ĐH KTQD HN. 29. Lê Tuấn Thanh (2006), "Đặc điểm của đầu tư Trung Quốc vào Việt Nam từ khi bình thường hoá quan hệ đến nay", Nghiên cứu Trung Quốc (7), tr. 32. 30. Lê Tuấn Thanh (2007), "Tác động của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc tới quan hệ Việt- Trung", Nghiên cứu Trung Quốc (4), tr. 45. 154 31. Phạm Sỹ Thành (2013), Liên kết Kinh tế Trung Quốc – ASEAN thông qua chương trình hợp tác kinh tế vịnh Bắc Bộ mở rộng, Hội thảo của Chương trình Nghiên cứu Trung Quốc, ĐHQGHN. 32. Phạm Sỹ Thành (2013), Bài Nghiên cứu NC-29 Những vấn đề nổi bật của kinh tế Trung Quốc sau Đại hội XVIII, Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách Trường Đại học Kinh tế, ĐHQGHN. 33. Trần Đình Thiên (2006), "Giá trị chiến lược của hai hành lang một vành đai kinh tế Việt -Trung", Nghiên cứu Trung Quốc (2), tr. 22. 34. Đinh Hữu Thiện (2012), “FDI nước ngoài của Trung Quốc ở Thái Lan cuối thập kỷ 90 thế kỷ XX tới thập niên đầu thế kỷ XXI”, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, (2), tr.68. 35. Trần Văn Thọ (2011), “FTA giữa Trung Quốc và ASEAN - Phân tích từ vị trí của Việt Nam”, Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới, (108), tr.26-32. 36. Nguyễn Hồng Thu (2007), "Chiến lược của Trung Quốc trong việc thành lập Khu vực mậu dịch tự do Trung Quốc - ASEAN", Tạp chí Những vấn đề kinh tế và chính trị thế giới (1), tr. 129. 37. Nguyễn Hồng Thu, Lê Quang Huy, (2011), “Di chuyển lao động Trung Quốc sang ĐNA và Châu Phi trong thập niên đầu thế kỷ 21”, Tạp chí Những vấn đề Kinh tế và chính trị thế giới (9), tr.40. 38. Trần Trung Thực, Đỗ Cẩm Thơ (2005), “Tác động của khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc đối với Việt Nam”, Hội thảo giới thiệu kết quả đề tài nghiên cứu của Ủy ban Quốc gia về Hợp tác và đầu tư. 39. Võ Khắc Thường (2010), Tác động của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đến các DN trong nước của Việt Nam, đề tài NCKH cấp Bộ, Hà Nội. 40. Đỗ Huy Thưởng (2012), “Những yếu tố tác động đến FDI Trung Quốc vào Việt Nam”, Tạp chí Những vấn đề Kinh tế và chính trị thế giới, (5), tr.43 41. Đỗ Ngọc Toàn (2009), "Chiến lược "đi ra ngoài" của Trung Quốc", Nghiên cứu Trung Quốc (10), tr. 56. 42. Phạm Quốc Trụ (2009), "Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN - Trung Quốc", Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế (79). Tài liệu tiếng nước ngoài 43. Abdus Samad (2014), Causal Relation Between Economic Growth And FDI: Evidence from South and East Asia, Indian Journal of Applied Research, Volume 4, Issue 6, June 2014 44. Aiken. B.J and Harrison’s, A.E (1999), “Do Domestic Firms Benefit from Direct Foreign Investment? Evidence from Venezuela”, American Economic Review, vol.89. no.3, pp. 605-618. 155 45. Allan Kvisgaard (2005), The globalization of chinese state owned enterprises and chinese foreign direct investment in Thailand, Lund University Centre for East and Southeast Asian Studies. 46. Akamatsu, Kaname (1962), “A historical pattern of economic growth in developing countries”, The developing economies Preliminary issue no.1 47. Andrew K. Jorgenson (2009). “Political-Economic Integration, Industrial Pollution, and Human Health: A Panel Study of Less-Developed Countries, 1980-2000.” International Sociology 24:115-143. 48. Amendolagine, V., Boly, A., Coniglio, N. D., Prota, F., & Seric, A. (2013). FDI and local linkages in developing countries: Evidence from Sub-Saharan Africa. World Devel-opment, 50, 41–56. 49. Ali, S. and Wei, G. (2005), "Determinants of of FDI in China", Journal of Global Business and Technology, Volume 1, Number 2. 50. Andreas Johnson (2005), The effects of FDI inflows on host country economic growth, Jönköping International Business School. 51. Balasubramanyam, M. Salisu and David Sapsford, Foreign Direct Investment and Growth in EP and is Countries, The Economic Journal, Vol. 106, No. 434 (Jan., 1996), pp. 92-105 52. Barro, R J. and Sala-i-Martin, X. (1995), Economic Growth, Mc Graw-Hill, Cambridge, MA. 53. Bengoa Marta, Blanca Sanchez-Robles, Foreign direct investment, economic freedom and growth: new evidence from Latin America, European Journal of Political Economy Vol. 19 (2003) 529 – 545. 54. Blomström Magnus, Ari Kokko, Multinational Corporations and Spillovers, Journal of Economic Surveys, Volume 12, Issue 3 July 1998 , Pages 247-277 55. Borensztein , J. De Gregorio , J-W. Lee, How does foreign direct investment affect economic 1 growth?, Journal of International Economics 45 (1998) 115–135 56. Carlyle A. Thayer 2011, China and Southeast Asia: A shifting zone of Interaction in the book The Borderlands of Southeast Asia: Geopolitics, Terrorism, and Globalization, National Defense University Press Washington, D.C 57. Chen Fengying 2011, “2011 nian zhongguo” [A live meeting on the special topic on ‘A review of China’s 2011 diplomacy]. 58. China Council for International Cooperation on Environment and Development (CCICED) Investment, Trade, and Environment Main Topics Report by the CCICED Task Force on Investment, Trade, and Environment, 2011. 59. Chheang Vannarith, 2009, Cambodia: Between China and Japan, Cambodian Institutue for Cooperation and Peace. 156 60. Chenery, H. B. and A. Stout (1966). “Foreign Assistance and Economic Development”. American Economic Review Vol. 55 pp.679-733. 61. Daniel W. Drezner, Bad Debts Assessing China’s Financial Inºuence in Great Power Politics, International Security, Vol. 34, No. 2 (Fall 2009), pp. 7–45 62. Deng, P. 2009, Why do Chinese firms tend to acquire strategic assets in international expansion? Journal of World Business, 44(1): 74-84 63. Durham, Benson J., 2004, Absorptive Capacity and the Effects of Foreign Direct Investment and Equity Foreign Portfolio Investment on Economic Growth, European Economic Review 48(2), pp. 285-306. Drummond, Paulo, and Estelle Xue Liu. 2013. “Africa’s Rising Exposure to China: How Large Are Spillovers Through Trade?” IMF Working Paper WP/13/250, Washington DC. 64. Emerging Powers in their Regions: China’ Impacts on its neighbours’ Political Systems, German Development Institute, 1/2010 65. Fang Lee Cooke (2014), Chinese Multinational Firms in Asia and Africa: Relationships With Institutional Actors and Patterns of HRM Practices, Human Resource Management, November/ December 2014, Volume 53, Issue 6, Pages 835–1025 66. Grimsditch, M. (2012). China’s investments in hydropower in the Mekong region: The Kamchay hydropower dam, Kampot, Cambodia. Washington D.C.: Bank Information Center Retrieved from www.bicusa.org/en/Document.102893.pdf 67. Glass and Saggi, International Techonology Transfer and the Technology gap, Journnal of development economics, No.55, 368-398. 68. Goldstein, L. (2011), "Chinese Naval Strategy in the South China Sea: An Abundance of Noise and Smoke, but Little Fire", Contemporary Southeast Asia, Vol. 33, No. 3. 69. Grossman.G, and Helpman.E (1991), Innovation and Growth in the Global Economy, MIT Press, Cambridge, MA. 70. Haddad.M and Harrison’s A.E (1993), “Are there positive Spillovers from Foreign Direct Investment? Evidence from Panel Data for Morocco”, Journal of Development Economics, vol. 42, no.1, pp.51-74 71. Hansen, M.W., H. Schaumburg – Muller, 2006. Transnational corporations and local firms in developing countries - linkages and upgrading. Copenhagen: Copenhagen Business School Press. 72. HENG, Pheakdey (2012), Cambodia–China Relations: A Positive-Sum Game?, in: Journal of Current Southeast Asian Affairs, 31, 2, 57-85 73. Hermes.N, and Lensink.R (2003), “Foreign Direct Investment, Financial Development and Economic Growth”, Journal of Development Studies, vol.40, no.1, pp 142-163. 157 74. Hinrich Voss, Peter J. Buckley, and Adam R. Cross, Thirty years of Chinese outward foreign direct investment, Chinese Economic Association UK 2010. 75. Hong E. and Sun, L. (2004). Go Overseas via Direct Investment: Internationalization Strategy of Chinese Corporations in a Comparative Prism. Centre for Financial and Management Studies, University of London 76. Ibraimov, S. (2009), “China Central Asia Trade relations: Economic and Social Patterns”, The China and Eurasia Forum Quarterly, Vo. 7, No 1, February 2009. 77. Imad A. Moosa (2002), Foreign Direct Investment, Theory, Evidence and Practice, Palgrave, New York 78. Institute of International economics, FDI in Developing Countries and Economies in Transition: Opportunities, Dangers, and New Changes. 79. International Rivers. (2012a). New wave of Three Gorges-sized dams raise old fears. raise-old-fears 80. International Rivers. (2012b). China’s major rivers. 81. Jia Qingguo 2011, A Speech by Peking University’s Vice Director of the School of International Relations Professor, Chahaer xuehui [The Charhar Institute], December 29, 2011 82. Jenkins Rhys, Globalization, FDI and employment in Viet Nam, Transnational Corporations, Vol. 15, No. 1, April 2006. 83. John Lee (2013), China’s Economic Influence in Thailand: Perception or Reality? Singapore’s institute of southeast asian studies. 84. Julia Kubny and Hinrich Voss (2010), China’s FDI in ASEAN: Trends and impact on host countries, Bonn: German Development Institute, and Leeds University Business School. 85. Julia Kubny, Hinrich Voss. (2014) Benefitting from Chinese FDI? An Assessment of Vertical Linkages with Vietnamese Manufacturing Firms, International Business Review 23, trang 731-740. 86. Jonathan Watts, The Guardian, 12 August 2011, Aung San Suu Kyi: China's dam project in Burma is dangerous and divisive, irrawaddy-conflict 87. Johnson, S., Gatz, E., and Hicks, D. (1997). Expanding the content base of technology education: technology transfer as a topic of study, Journal of technology Education, 8(2), 35-49. 88. Keller W., 1996, Are international R&D spillovers trade-related? Analyzing Spillovers among randomly matched trade partners, University of Wisconsin- Madison, miméo. 158 89. Katherina Glac (2006), The impact of foreign direct investment on ethical standards in host countries, University of Pennsylvania. 90. Kevin G. Cai, Outward Foreign Direct Investment: A Novel Dimension of China's Integration into the Regional and Global Economy, The China Quarterly, Volume 160 / December 1999, pp 856-880 91. Kogut, B. 1985, Designing global strategies: Comparative and competitive value-added chain, Sloan Management Review, 26(4): 15. 92. Kokko; Chen Taotao, Patrick Gustavsson Tingvall, FDI and Spillovers in China: Non-Linearity and Absorptive Capacity, Journal of Chinese Economics and Business Studies, Vol. 9, No. 1, 2011, p. 1-22. 93. Lall S. and Streeten P. (1977), Foreign investment, transnational and developing countries, Palgrave Macmillan, United Kingdom. 94. Leonard K.Cheng (2007), “China‟s Outward FDI: Past and Present,” with Zihui Ma, at the Conference on “Studies of China‟s Mode of Economic Development” 95. Lian, Lina. (2011), "Overview of Outward FDI Flows of China", International Business Research (Center of Science and Education), Vol. 4, No. 3, July. 96. Li Xiaoying, Liu Xiaming (2005), Foreign Direct Investment and Economic Growth: An Increasingly Endogenous Relationship, World Development Volume 33, Issue 3, Pages 333-526 (March 2005). 97. Mark Grimsditch (2012), China’s Investments in Hydropower in the Mekong Region: The Kamchay Hydropower Dam, Kampot, Cambodia, World Resources Institute. 98. Mitchell Travis, 2012, Chinese Foreign Direct Investment in Myanmar: Remarkable Trends and Multilayered Motivations, Lund University. 99. Mihaela Ciuchină, (2013) Political Impact of Chinese Foreign Direct Investment (FDI) in the European Union (EU), Journal of Modern Accounting and Auditing, ISSN 1548-6583 December 2013, Vol. 9, No. 12, 1611-1618 100. McCartan, B. 2008. China farms abroad. Asia Sentinel, 1 Aug. Available from http:// www.blcu.edu.cn/ielts/reading/Asia%20Sentinel%20- %20China%20Farms%20Abroad. htm [Accessed on 14 February 2010]. 101. OECD-ILO Conference On Corporate Social Responsibility, Report: The Impact of Foreign Direct Investment On Wages And Working Conditions, 23- 24 June 2008, OECD Conference Centre, Paris, France 102. Olofsdotter, K. (1998), Foreign direct investment, country capabilities and economic growth, Weltwirtschaftliches Archiv, 134(3), 534-547 159 103. Ouch Chandarany, Saing Chanhang and Phann Dalis, (2100), Assessing China’s Impact on Poverty Reduction in the Greater Mekong Sub-region: The Case of Cambodia, CDRI Publication 104. Odaka Konosuke (2015) The Myanmar economy: its past, present and prospects, Pulisher Tokyo : Springer 105. P. Buckley, L. Clegg, A. Cross, X. Liu, H. Voss and P. Zheng (2007), “The determinants of Chinese outward foreign direct investment”, Journal of International Business Studies Vol. 38, pp. 499-518. 106. P. Buckley, A. Cross and H. Voss (2008), Thirty years of Chinese outward foreign direct investment, The Chinese Economic Association (UK). 107. Patey, L.A. (2006): “A Complex Reality: The Strategic Behaviors of Multinational Oil Corporations and the New Wars in Sudan”, DIIS Report. 108. Rasiah, R. (2003). "Foreign ownership, technology and electronics exports from Malaysia and Thailand." Journal of Asian Economics 14(5): 785-811. 109. Ravenhill, John (2006), “Is China an Economic Threat to Southeast Asia?”, Asian Survey, Vol 46 (5), pp. 653- 674 110. Samuel Adams (2009), Can foreign direct investment (FDI) help to promote growth in Africa?, African Journal of Business Management Vol.3 (5), pp. 178-183. 111. Scherer, A.G., Smid, M.: The downward spiral and the U.S. model principles. Why MNEs should take responsibility for the improvement of world-wide social and environmental conditions, Manag. Int. Rev. 40, 351–371 (2000) 112. Segerstrom, P.S., 1991. Innovation, imitation, and economic growth, Journal of Political Economy 99, 807–827. 113. Sjöholm, F. (1999b). Technology Gap, Competition and Spillovers from Direct Foreign Investment: Evidence from Establishment Data, Journal of Development Studies 36 (1): 53–73. 114. Shieh, B. L. and Wub, T. C. (2012), "Equity-based entry modes of the Greater Chinese Economic Area’s foreign direct investments in Vietnam", International Business Review, no. 21, pp. 508-517. 115. Shujie Yaoa (2010), Dylan Sutherlanda and Jian Chena, China’s Outward FDI and Resource-Seeking Strategy: A Case Study on Chinalco and Rio Tinto, Asia-Pacific Journal of Accounting & Economics 17 313–326 116. Stephen Frost (2002), “Going to Southeast Asia: Chinese foreign direct investment and its implications”. 160 117. Stephen Frost, Hewison, K. and Pandita, S. (2002) ‘The Implications for labour of China’s direct investment in Cambodia’, Asian Perspectives, 26(4): 201-226 118. Pittaya Suvakunta (2010), China’s Go-Out Strategy: Chinese Foreign Direct Investment in Thailand, Thailand Law Journal Spring Issue 1. 119. Tangwisutijit, N. (2004) ‘Chiang Rai looks a bit like China’, The Nation, 8 March. 120. Taylor, R. (2002), "Globalization Strategies of Chinese Companies: Current Developments and Future Prospects",Asian Business & Management, No.1. 121. Thayer, C. (2008), “The Structure of Vietnam-China Relations, 1991-2008”, The paper by the 3rd International Conference on Vietnamese Studies, Hanoi, Vietnam, 4-7/12/2008. 122. The Two Asian Giants: A Comparative Perspective on the Economic Performance of India and China in Recent Years, Massey University, Palmerston North, New Zealand. 123. Tilt, B., Braun, Y., & He, D. (2009). Social impacts of large dam projects: a comparison of international case studies and implications for best practice, Journal of Environmental Management, 90 Suppl 3, S249–57. 124. UNCTAD (2002), World Investment Report 2002 - Transnational Corporations and Export Competitiveness 125. UNCTAD (2006), World Investment Report 2006 - FDI from Developing and Transition Economies: Implications for Development. 126. UNCTAD (2015), World Investment Report 2010 - Investing in a Low Carbon Economy. 127. Viengsay Luangkhot and Parameswaran Ponnudurai, “Ambitious Rail Plau Opposed,” Radio Free Asia, October 26, 2012, 40516.html. 128. Wang Jian-Ye, Blomstrom, Foreign Investment and Technology Transfer: A Simple Model, European Economic Review, Vol. 36, pp. 137-155, (1992) 129. Wang, L., Chan (2007), “The good neighbor: why China cooperates", Harvard International Review, Fall. 130. Wang, Hao (2014), The determinants and consequences of FDI: evidence from Chinese manufacturing firms, PhD thesis, University of Nottingham. 131. Watts Jonathan, “Victory for Burma reformers over dam project,” The Guardian, 30 tháng 9, 2012, 161 project. 132. Vaitsos, Constantine (1974), Intercountry income distribution and transnational enterprises, Clarendon Press, Oxford, UK 133. Vatikiotis, M. (2004a) “Chinese companies go global”, Wall Street Journal, 30 January, p. A10. 134. Vernon, Raymond. (1966), “International Investment and International Trade in the product cycle”, Quarterly journal of Economics, Vol.80, No.2. 135. Yahuda, Michael (2012), China's recent relations with maritime neighbours. The International Spectator, 47 (2). pp. 30-44. ISSN 0393-2729 136. World Investment Report 2002: Transnational Corporations and Export Competitiveness Waide, P. (2004), “China business growth: Have you heard?” Always On, 16 February 137. Wong, John and Sarah Chan, 2003, “China’s Outward Direct Investment: Expanding Worldwide”, China: An International Journal 1-2, 273-301. 138. Wu, X. (2005) General Situation of the implementation of “Going Global” strategy in 2005, in MOFCOM (ed.) China Commerce Yearbook 2006, Beijing: MOFCOM: 440-443. 139. Wu, F. and Sia, Y.H. (2002) ‘China’s rising investment in Southeast Asia: Trends and outlook’, Journal of Asian Business 18(2): 41-61. 140. Wu, H.-L. and Chen, C.-H. (2001) “An assessment of outward foreign direct investment from China’s transitional economy”, Europe-Asia Studies53(8): 1235-1254. 141. Wu, F. and Yeo H. S. (2002) China’s Rising Investment in Southeast Asia: How ASEAN and Singapore can Benefit, Singapore Ministry of Trade and Industry, Wu, H. L. and Chen, C. H. (2001) ‘An assessment of outward foreign direct investment from China’s transitional economy’, Europe-Asia Studies, 53(8): pp. 1235-1254 142. Xiaohui Liu, Peter Burridge and P. J. N. Sinclair, Relationships between economic growth, foreign direct investment and trade: evidence from China, Applied Economics, 2002, vol. 34, issue 11, pages 1433-1440. 143. Xuan Vinh Vo and Jonathan A, Batten (2006), The Importance of Social Factors When Assessing the Impact of FDI on Economic Growth, International Business Conference, Beijing, China. 144. Xu Z., Financial development, investment, and economic growth, Economic Inquiry, Vol 38 Issue 2, Pages 159–367 145. Yevgeniya Korniyenko, Toshiaki Sakatsume, Chinese investment in the transition 162 countries, European Bank for Reconstruction & Development, 2009 146. Zhang KH (2001), Does foreign direct investment promote economic growth? evidence from east asia and latin america, Contemporary Economic Policy, Volume 19, Issue 2, Pages 109–237. 147. Zhang, KH (2005) Going Global: The Why, When, Where and How of Chinese Companies’ Outward Investment Intentions, Asia Pacific Foundation of Canada. 148. ZHAO, Hong (2011), China-Myanmar Energy Cooperation and Its Regional Implications, Journal of Current Southeast Asian Affairs, 30, 4, 89-109 149. Zhu Feng “2011 nian zhongguo”, A Meeting for Special topic: A review of China’s 2011 diplomacy’. 150. Zhang Xizhen, (2010), “Backlash against Rouge Chinese Investors Alarms Beijing,” Inter Press Service, tháng 1, 2010, 151. 152. 2015-managing-integration.pdf 153. pment%20of%20CAFTA%20China%20and%20Thailand%20Two- ways%20FDI%20analysis_%20Ms.Romchat%20Jantranugul.pdf 154. duong-sat-hang-ty-usd/361888.vnp 155. idUSL3N0WR25Q20150325 156. dau-tu-1-346-du-an-tai-viet-nam.ndt

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_tac_dong_cua_dau_tu_truc_tiep_ra_nuoc_ngoai_cua_trun.pdf
Luận văn liên quan