Qua vụ việc trên cho thấy một số hạn chế trong áp dụng trách nhiệm pháp lý đối
với người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Thứ nhất, việc phát hiện hành
vi vi phạm và áp dụng trách nhiệm pháp lý đối với người đại diện phần vốn nhà nước
tại doanh nghiệp, trong trường hợp này là đối với ông Đinh La Thăng đại diện vốn
nhà nước tại PVN là quá chậm. Chính sự chậm trễ này đã khiến việc áp dụng trách
nhiệm pháp lý trở nên khó khăn và hậu quả cho xã hội lớn hơn rất nhiều. Hành vi vi
phạm của ông Đinh La Thăng trong việc quyết định PVN góp vốn vào Oceanbank xảy
ra từ cuối năm 2008, đến năm 2017 mới bị phát hiện và xử lý. Chính vì vậy, của ông
Đinh La Thăng cho rằng mình chuyển công tác từ năm 2011 và không chịu trách
nhiệm đối với các hậu quả sau này. Thứ hai, việc áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt
hại gặp nhiều khó khăn. Tòa án đã áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho các
bị cáo về thiệt hại 800 tỷ vốn nhà nước. Cá nhân ông Đinh La Thăng phải bồi thường
600 tỷ, như vậy các bị cáo phải liên đới bồi thường thiệt hại và Tòa án đã xác định
mức bồi thường cụ thể cho từng cá nhân theo vai trò thực hiện hành vi vi phạm. Điều
này chưa thực sự cụ thể và người vi phạm đã không có khẳ năng để bồi thường thiệt
hại như bản án đã tuyên.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 188 trang
188 trang | 
Chia sẻ: tueminh09 | Lượt xem: 627 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Trách nhiệm pháp lý của người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 hội chủ nghĩa, tăng cường trách nhiệm của người 
đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp, giúp cho mọi người nhận thức được 
rằng luật không loại trừ một ai nếu có vi phạm pháp luật thì đều bị xử lý, và người nào 
có quyền hạn càng cao thì trách nhiệm càng cao. Thực ra, đây cũng là biểu hiện cụ thể 
của nguyên tắc công bằng, cũng là đặc điểm cần phải có của pháp luật trong nhà nước 
pháp quyền. 
Tuy nhiên, đối với người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp là một 
chủ thể đặc biệt. Do vậy, cần có quy định hoặc hướng dẫn về việc xác định là người 
“có chức vụ” để áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự trong xử lý trách nhiệm người 
đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp về các tội danh trong phần các tội phạm 
về chức vụ. Nghiên cứu các quy định về tội phạm có chức vụ, có thể thấy những đặc 
trưng cơ bản của loại tội phạm này đối với người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh 
nghiệp như sau: 
Thứ nhất, khách thể chính, thể hiện bản chất của các tội phạm về chức vụ là hoạt 
động đúng đắn của cơ quan, tổ chức nhà nước, ảnh hưởng lợi ích nhà nước. Đối với 
người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp, Hành vi phạm tội trong tội phạm 
về chức vụ làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu quả hoạt động đầu tư của nhà nước, 
mất vốn nhà nước, làm giảm uy tín của nhà nước trước xã hội, đặc biệt đối với các 
lĩnh vực liên quan đến xã hội, đến tài nguyên thiên nhiên, nguồn lực lớn của đất nước. 
Việc bảo đảm cho hoạt động đúng đắn đáp ứng được lợi ích nói trên là một trong 
những nhiệm vụ quan trọng của pháp luật hình sự. 
Để đảm bảo cho hoạt động đầu tư của nhà nước mang lại hiệu quả, đảm bảo sự 
đúng đắn, những lợi ích xã hội trong mục tiêu đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp. 
Nhà nước đã quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước đại diện 
chủ sở hữu và người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp. người đại diện 
phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp được trao các quyền hạn nhất định trong quá 
trình thực hiện, đặc biệt các quyền hạn đó có thể quyết định tới các nguồn lực có thể 
rất lớn. Việc người đại diện phần vốn nhà nước lợi dụng quyền hạn được giao hay 
chức danh, chức vụ tại doanh nghiệp có được từ việc đại diện vốn nhà nước để vi 
phạm pháp luật nhằm vụ lợi, làm ảnh hưởng đến xã hội, doanh nghiệp, lợi ích nhà 
nước, hoạt động đúng đắn của các cơ quan nhà nước và do đó phải bị truy cứu trách 
nhiệm hình sự. 
Thứ hai, tội phạm về chức vụ do người có chức vụ thực hiện, trong đó yếu tố lợi 
dụng chức vụ quyền hạn để phạm tội là yếu tố bắt buộc phải có. Người có chức vụ là 
người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng 
 166 
lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một nhiệm vụ nhất định và có 
quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ, nhiệm vụ. 
Người đại diện phần vốn nhà nước được coi là thực hiện nhiệm vụ do nhà nước 
giao và được trao các quyền nhất định trong quá trình thực hiện. Chính vì vậy, người 
đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp thỏa mãn yếu tố chủ thể của các tội phạm 
về chức vụ. 
Theo quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn 
để vi phạm là tình tiết tăng nặng để xác định khung hình phạt. Mặt khác, người có 
chức vụ là chủ thể đặc biệt trong chương tội phạm có chức vụ. Chính vì vậy, khung 
hình phạt đối với các tội về chức vụ đều thể hiện nguyên tắc này. 
Thứ ba, tội phạm được thực hiện trong khi thực hiện công vụ. Hành vi phạm tội 
của người đại diện được thực hiện trong quá trình đại diện phần vốn nhà nước tại 
doanh nghiệp. 
Các hành vi phạm tội trong phần các tội phạm về chức vụ liên quan chặt chẽ tới 
hoạt động thực hiện công vụ của người có chức vụ, quyền hạn và khách thể của các 
tội phạm này cũng ảnh hưởng đến hoạt động đúng đắn, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ 
của cơ quan, tổ chức nhà nước. Các tội phạm này luôn luôn gắn với việc thực hiện 
công vụ của một người nào đó và vì vậy bao giờ cũng xâm phạm đến quan hệ xã hội 
bảo đảm cho hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức. 
Hoạt động đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp là một hoạt động đặc 
thù. Do vậy để xác định được dấu hiệu nêu trên, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân 
dân tối cao cần có Nghị quyết hướng dẫn về việc áp dụng các tội danh trong phần các 
tội phạm về chức vụ đối với người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp. 
Ngoài những vấn đề nêu trên, cần bổ sung, hoàn thiện các tội danh về các hành 
vi vi phạm trong lĩnh vực quản lý vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp. 
3.2.3.3. Đối với trách nhiệm hành chính của người đại diện phần vốn nhà nước 
tại doanh nghiệp 
Để hiệu quả hơn trong việc ngăn ngừa hành vi vi phạm của người đại diện phần 
vốn nhà nước tại doanh nghiệp, cần quy định rõ về trách nhiệm hành chính của người 
đại diện phần vốn nhà nước. Người đại diện khi thực hiện nhiệm vụ phải đảm bảo các 
chuẩn mực trong thực hiện nghĩa vụ của mình. Chính phủ cần ban hành một nghị định 
về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đại diện vốn nhà nước tại doanh nghiệp. 
Việc xử lý vi phạm hành chính kịp thời sẽ giúp cho việc ngăn chặn kịp thời hành 
vi vi phạm, đồng thời mang tính răn đe đối với người đại diện, các cơ quan, tổ chức, 
 167 
cá nhân có liên quan. Điều này cũng sẽ giúp giải quyết được thực trạng nan giải đã 
được nêu ở chương 2 về thực trạng áp dụng trách nhiệm pháp lý, đó là việc có nhiều 
cơ quan thanh tra, kiểm tra, kiểm toán nhưng không ngăn chặn kịp thời được hành vi 
vi phạm của người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp dẫn tới nhiều vụ việc 
gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng tới vốn nhà nước và doanh nghiệp. Nếu quy định 
rõ việc xử lý vi phạm hành chính đối với người đại diện vốn nhà nước tại doanh 
nghiệp, đồng thời quy định thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính của các cơ quan 
thanh tra, kiểm tra, kiểm toán thì các hành vi vi phạm sẽ được phát hiện và xử lý kịp 
thời hơn, hạn chế các hậu quả nghiêm trọng. 
4.2.3.4. Đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người đại diện phần vốn 
nhà nước tại doanh nghiệp 
Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp cần quy định rõ 
trách nhiệm bồi thường thiệt hại và các căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường thiệt 
hại trong trường hợp người đại diện có hành vi vi phạm. 
Hiện nay, trách nhiệm bồi thường của người đại diện phần vốn nhà nước tại 
doanh nghiệp khi có hành vi vi phạm còn chưa rõ ràng, thiếu cơ sở để áp dụng. Điều 
này có thể dẫn tới tình trạng vô trách nhiệm của người đại diện, tình trạng lộng quyền 
của đại diện phần vốn nhà nước, tệ tham nhũng nảy nở và lây lan. Người đại diện có 
thể không thực hiện công việc vì lợi ích nhà nước (bảo toàn, phát triển vốn nhà nước, 
mang lại lợi tức cho nhà nước), lợi ích của doanh nghiệp, của cổ đông, người góp vốn 
khác mà sẽ vì lợi ích của cá nhân người đại diện. Do vậy, việc hoàn thiện pháp luật về 
trách nhiệm bồi thường của người đại diện vốn nhà nước tại doanh nghiệp là vấn đề 
cấp bách hiện nay. 
Để hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của người đại diện phần vốn 
nhà nước tại doanh nghiệp có thể thực hiện các giải pháp sau: 
Thứ nhất, quy định rõ về trách nhiệm bồi thường của người đại diện phần vốn 
nhà nước tại doanh nghiệp. Bổ sung các quy định về trách nhiệm bồi thường trong các 
quy định của pháp luật về người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Có thể 
áp dụng trách nhiệm bồi thường của cán bộ, công chức khi được cử làm người đại 
diện hoặc áp dụng chế độ hợp đồng đối với người đại diện để có cơ sở áp dụng trách 
nhiệm bồi thường. 
Thứ hai, quy định rõ về hành vi vi phạm và các trường hợp áp dụng trách nhiệm 
bồi thường. Để có cơ sở áp dụng trách nhiệm bồi thường thì phải có quy định rõ về 
các hành vi vi phạm và việc áp dụng bồi thường thiệt hại trong từng trường hợp cụ 
 168 
thể. Phân định giữa thiệt hại do nguyên nhân khách quan trong kinh doanh và thiệt hại 
do hành vi vi phạm của người đại diện. 
Thứ ba, quy định rõ về việc xác định thiệt hại thực tế và mức bồi thường thiệt 
hại. Cần quy định rõ cơ sở, căn cứ xác định mức thiệt hại thực tế, ví dụ như: việc thất 
thoát vốn nhà nước là bao nhiêu, căn cứ nào để xác định. Trên cơ sở đó cần quy định 
rõ mức bồi thường, cách thức bồi thường. Thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn 
bộ và kịp thời. Có thể cho phép thoả thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường, 
phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần. Người chịu trách nhiệm bồi thường 
thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường nếu không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt 
hại quá lớn so với khả năng kinh tế của mình. Việc yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà 
nước có thẩm quyền áp dụng mức bồi thường. 
Thứ tư, quy định các trường hợp liên đới chịu trách nhiệm bồi thường. Hiện nay, 
có những trường hợp nhiều người cùng được cử làm đại diện phần vốn nhà nước tại 
doanh nghiệp theo tỷ lệ phần trăm vốn nhà nước. Vậy trong trường hợp nhiều người 
cùng gây thiệt hại thì những người đó phải liên đới bồi thường cho người bị thiệt 
hại. Trách nhiệm bồi thường của từng người cùng gây thiệt hại được xác định tương 
ứng với mức độ lỗi của mỗi người; nếu không xác định được mức độ lỗi thì họ phải 
bồi thường thiệt hại theo phần bằng nhau. 
4.2.3.5. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về miễn, giảm trách nhiệm của 
người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp 
Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người đại diện phần vốn nhà nước tại 
doanh nghiệp, bảo vệ người trung thành, ngay tình vì lợi ích của nhà nước, DNCVNN 
nhưng gặp phải các yếu tố bất lợi hoặc yếu tố bất khả kháng thì cần hoàn thiện và bổ 
sung một số trường hợp miễn trừ trách nhiệm cho người đại diện phần vốn nhà nước 
tại doanh nghiệp như sau: 
Thứ nhất, miễn trách nhiệm cho thành viên HĐQT phản đối thông qua nghị quyết 
sai trái của HĐQT. Điều này cần được quy định trong pháp luật về quản lý vốn nhà 
nước tại doanh nghiệp theo đó nếu người đại diện là thành viên hội đồng quản trị đã 
bỏ phiếu hoặc biểu quyết phản đối thông qua nghị quyết sai trái của HĐQT được miễn 
trách nhiệm pháp lý. Tuy nhiên cần phải quy định cụ thể theo hướng: Một là, người 
đại diện phần vốn nhà nước không được trốn tránh không tham dự họp thông qua nghị 
quyết của HĐQT. Vì nhiệm vụ quan trọng của thành viên HĐQT là tham dự đầy đủ 
các cuộc họp HĐQT. Tại cuộc họp HĐQT, người đại diện phần vốn nhà nước phải 
bày tỏ chính kiến của mình chứ không được thụ động. Vì vậy, việc thành viên HĐQT 
tham gia cuộc họp HĐQT nhưng không bỏ phiếu hoặc bỏ phiếu trắng/trống cũng 
 169 
không được coi là phản đối thông qua nghị quyết của HĐQT. Hai là, ý kiến phản đối 
của người đại diện phần vốn nhà nước phải được thể hiện ở việc người đó bỏ phiếu 
chống lại nghị quyết này hoặc có ý kiến biểu quyết phản đối, không tán thành được 
ghi nhận trong biên bản họp HĐQT. 
Thứ hai, miễn trách nhiệm pháp lý cho người đại diện phần vốn nhà nước tại 
doanh nghiệp không thực hiện quyết định trái pháp luật của cấp trên. Nếu người đại 
diện phản đối, áp dụng các biện pháp cần thiết để ngăn cản việc thực hiện quyết định 
trái pháp luật của cấp trên và thực tế bản thân đã không thực hiện theo quyết định này 
thì được miễn trách nhiệm pháp lý mặc dù không ngăn cản thành công việc thực hiện 
quyết định này. 
Thứ ba, miễn, giảm trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người đại diện trong 
trường hợp phải tuân theo lệnh của cấp trên (cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn nhà 
nước), HĐQT và ĐHĐCĐ. Về nguyên tắc, người đại diện phần vốn nhà nước tại 
doanh nghiệp phải tuân theo quyết định của cấp trên, HĐQT và ĐHĐCĐ. Tuy nhiên, 
khi phát hiện quyết định của cấp trên có dấu hiệu vi phạm pháp luật thì người đại diện 
phải có ý kiến về vấn đề này. Nếu cấp trên vẫn yêu cầu người đại diện phải tuân thủ 
quyết định này thì người đại diện phải báo cáo lên cấp trên cao hơn. Tuy nhiên, người 
đại diện được miễn trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với thiệt hại gây ra. 
Thứ tư, miễn trách nhiệm pháp lý cho người đại diện phần vốn nhà nước tại 
doanh nghiệp trong trường hợp người đại diện phải báo thông tin liên quan đến 
DNCVNN cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật: Trong 
trường hợp người đại diện phải khai báo thông tin liên quan đến DNCVNN cho cơ 
quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật thì người đại diện phần 
vốn nhà nước không phải chịu trách nhiệm cho những hậu quả xảy ra cho DNCVNN 
do thông tin khai báo cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Quy định này được sử 
dụng để bảo vệ người đại diên khai báo hoặc tố giác tội phạm theo quy định của pháp 
luật. Người đại diện cũng phải có nghĩa vụ tham gia phòng và chống tội phạm, nhất 
là đối với các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự quản 
lý kinh tế và môi trường. Vì vậy, người đại diên bắt buộc phải khai báo hoặc tố giác 
các tội phạm mà BLHS liệt kê đù tội phạm đó được thực hiện bởi DNCVNN hoặc bởi 
người của DNCVNN. 
3.2.4. Quy định cụ thể thẩm quyền, trình tự, thủ tục trong thanh tra, kiểm tra, 
kiểm toán, giám sát, xử lý trách nhiệm của người đại diện phần vốn nhà nước một 
cách thống nhất. 
 170 
Để người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp thực hiện tốt chức trách, 
bổn phận của mình trong hoạt động cần ban hành nghị định quy định rõ chế độ trách 
nhiệm, phân cấp quản lý, sử dụng, đánh giá người đại diện phần vốn nhà nước tại 
doanh nghiệp, trong đó, quy định rõ trách nhiệm, thẩm quyền của cơ quan đại diện 
phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính 
phủ, ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong việc quản lý, 
sử dụng đánh giá người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp. 
Hiện nay có nhiều cơ quan có thẩm quyền trong việc thanh tra, kiểm tra, kiểm 
toán, giám sát đối với hoạt động quản lý vốn nhà nước, xem xét trách nhiệm của người 
đại diện phần vốn nhà nước. Điều này gây ra nhiều bất cấp. Do vậy, cần phải có quy 
định tập trung, thống nhất về vấn đề này. Chính phủ cần sửa đổi Nghị định 
49/2014/NĐ-CP ngày 20 tháng 05 năm 2014 về giám sát, kiểm tra, thanh tra đối với 
DNNN trong việc chấp hành pháp luật và tuân thủ quyết định của chủ sở hữu theo 
hướng tập trung một đầu mối và chịu trách nhiệm cá nhân, tránh tình trạng chống chéo 
và không xác định rõ trách nhiệm khi để xảy ra sai phạm. 
3.2.5. Quy định rõ mối quan hệ giữa trách nhiệm pháp lý của người đại diện với 
trách nhiệm chính trị của đảng viên tránh những mâu thuẫn, chồng chéo 
Hoạt động của người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp ở các tập đoàn, 
tổng công ty lớn mang tính chiến lược của quốc gia ngoài mục đích kinh doanh còn 
phục vụ những mục tiêu chính trị, mục tiêu xã hội khác. Những quy định của pháp 
luật về trách nhiệm pháp lý của người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp 
phải thể hiện được tính chính trị - xã hội. Đồng thời, cần xác định rõ giữa trách nhiệm 
pháp lý của người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp với trách nhiệm chính 
trị của người đại diện với tư cách là đảng viên, giữ các chức vụ trong Đảng. 
Điều này cần có quy định rõ ràng, tránh áp dụng một cách tùy tiện hay khiến cho 
hoạt động của doanh nghiệp, của người đại diện phần vốn nhà nước bị ảnh hưởng bởi 
tư duy nhiệm kỳ hay những mục tiêu ngắn hạn. 
Nói cách khác trách nhiệm chính trị của người đại diện phần vốn nhà nước phải 
được pháp luật hóa, phải được thẩm thấu vào trách nhiệm pháp lý. Quá trình hoàn 
thiện chế định trách nhiệm pháp lý của người đại diện trong hoạt động đại diện phần 
vốn nhà nước, cần thiết phải phân biệt trách nhiệm đối với doanh nghiệp và trách 
nhiệm đối với nhà nước. 
Điều này xuất phát từ quan điểm xây dựng Nhà nước pháp quyền. Một đặc trưng 
cơ bản của Nhà nước pháp quyền là giữa Nhà nước và cá nhân có trách nhiệm qua lại. 
Nhà nước, các cơ quan, công chức nhà nước có trách nhiệm trước nhân dân về mọi 
 171 
quyết định và hành vi của mình. Nhà nước có quyền áp dụng trách nhiệm pháp lý đối 
với người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp nếu có hành vi vi phạm và 
ngược lại Nhà nước cũng phải có trách nhiệm đối với người đại diện trong hoạt động 
đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Đây cần thiết phải là cơ chế hai chiều, 
tạo điều kiện cho người đại diện có thể thực hiện được nhiệm vụ theo đúng quy định. 
Nếu việc không thực hiện được trách nhiệm đại diện do lỗi của cơ quan nhà nước 
thì cần phải quy định miễn trách nhiệm cho người đại diện phần vốn nhà nước tại 
doanh nghiệp. Ví dụ: Trong trường hợp có chỉ đạo của cơ quan có thẩm quyền và 
người đại diện thực hiện theo đúng chỉ đạo đó thì phải xác định miễn trách nhiệm cho 
người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp. 
Song song với quy định người đại diện phải chấp hành quyết định của cơ quan 
đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp thì phải quy định khi có căn cứ để cho 
là quy định đó trái pháp luật thì phải báo ngay với người ra quyết định; trong trường 
hợp vẫn phải chấp hành quyết định thì phải báo cáo lên cấp trên trực tiếp của người 
ra quyết định đó và không phải chịu trách nhiệm về hậu quả của việc thi hành quyết 
định đó. Việc quy định như vậy chỉ nhằm giải phóng trách nhiệm pháp lý cụ thể của 
người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp, người ra quyết định có phải chịu 
trách nhiệm và trách nhiệm thế nào, pháp luật hiện nay chưa có quy định. Do vậy, cần 
quy định rõ các trường hợp miễn trách nhiệm của người đại diện do lỗi của cơ quan 
nhà nước và quy định rõ trách nhiệm của cơ quan đại diện phần vốn nhà nước tại 
doanh nghiệp. 
3.2.6. Cần xây dựng quy định cơ sở pháp lý cho việc thống kê, công khai trách 
nhiệm pháp lý của người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp. 
Cần tiến hành công tác thống kê trong quá trình xử lý các vi phạm pháp luật của 
người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Đây là một cơ sở để xem xét đánh 
giá hoàn thiện quy định của pháp luật về trách nhiệm pháp lý của người đại diện phần 
vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Đồng thời là cơ sở để đánh giá chính sách trong quản 
lý vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp. 
Chính phủ cần có một nghị định quy định về công tác thống kê, chế độ báo cáo 
và mối quan hệ của các bộ, ngành, địa phương trong việc thống kê các vi phạm pháp 
luật của người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp, đặc biệt là những vi phạm 
phát hiện được qua thanh tra, kiểm tra, kiểm toán đối với doanh nghiệp. Ủy ban quản 
lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp là đầu mối tổng hợp chung. 
3.2.7. Hoàn thiện quy định về mối quan hệ trách nhiệm pháp lý giữa người đại 
diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp với các chủ thể khác 
 172 
Hoàn thiện đồng bộ hệ thống thể chế quản lý vốn nhà nước đầu tư vào doanh 
nghiệp, trong đó tập trung vào việc hoàn thiện hệ thống thể chế về tổ chức và hoạt 
động của các cơ quan đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp, mối quan hệ, 
trách nhiệm pháp lý của các chủ thể, trong đó có người đại diện phần vốn nhà nước 
tại doanh nghiệp cho tương thích, phù hợp. Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền 
hạn của các cơ quan trong quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, khắc phục tình 
trạng chế độ trách nhiệm không rõ ràng. 
Quy định rõ trình tự, thủ tục trong đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp. 
Vấn đề nào phải báo cáo, xin phép cơ quan có thẩm quyền; thời hạn, trình tự thủ tục 
báo cáo, xin phép, cho ý kiến Việc này sẽ xác định rõ được trách nhiệm trong thực 
hiện cũng như trách nhiệm pháp lý đối với các hành vi vi phạm. 
3.2.8. Ban hành quy chế phối hợp giữa các cơ quan trong việc xử lý trách nhiệm 
pháp lý của người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp 
Xây dựng quy chế phối hợp giữa công an, Tòa án, Viện kiểm sát, thanh tra, kiểm 
tra Đảng về xử lý các hành vi vi phạm pháp luật của người đại diện phần vốn nhà nước 
tại doanh nghiệp, nhất là hành vi tham nhũng, trong đó quy định rõ chức trách, nhiệm 
vụ của các cơ quan điều tra, kiểm sát, thanh tra, kiểm tra trong việc xử lý hành chính, 
hình sự và xử lý kỷ luật đối với những người đại diện có hành vi phạm pháp luật, nhất 
là tham nhũng, tiêu cực. Đồng thời, cần ban hành quy định hướng dẫn thống nhất 
trong toàn quốc về trình tự, cách thức áp dụng các biện pháp trách nhiệm pháp lý, chế 
tài đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân không thực hiện tốt quy định này. 
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện quy định về trách nhiệm 
pháp lý của người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp 
3.3.1. Tăng cường việc quản lý người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh 
nghiệp 
Đẩy mạnh cải cách quản lý vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp trên cả bốn nội 
dung: cải cách thể chế, cải cách tổ chức bộ máy, xây dựng và nâng cao chất lượng đội 
ngũ người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp; gắn cải cách khu vực kinh tế 
có vốn nhà nước với mục tiêu, định hướng phát triển kinh tế - xã hội, đẩy lùi tham 
nhũng tiêu cực; cải cách trong quản lý vốn nhà nước phải được tiến hành đồng bộ với 
quy định và thực hiện chặt chẽ trách nhiệm pháp lý của người đại diện phần vốn nhà 
nước tại doanh nghiệp. 
Xây dựng đội ngũ người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp có năng 
lực, có phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, tính kỷ luật, kỷ cương gắn với cải cách 
 173 
chế độ tiền lương, nâng cao đời sống của người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh 
nghiệp. 
3.3.2. Kiện toàn các cơ quan thanh tra, kiểm tra, giám sát đối với doanh nghiệp, 
người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp, cơ quan quản lý đối với người 
đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp. 
Quy định rõ thẩm quyền, đầu mối, trách nhiệm trong việc phát hiện, xử lý các sai 
phạm của người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp. 
Cán bộ làm việc tại các cơ quan này phải thật sự trong sạch, vững mạnh, có đầy 
đủ khả năng chuyên môn, trang bị phương tiện để phát hiện, đấu tranh có hiệu quả với 
các hành vi vi phạm pháp luật của người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp. 
Kịp thời phát hiện và kiên quyết xử lý các người đại diện có hành vi phạm pháp luật 
cho dù người đại diện đó ở cương vị nào, không phân biệt đối xử trong quá trình xử 
lý. 
Cần có văn bản quy định việc phối hợp trong xử lý trách nhiệm đối với người đại 
diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp có vi phạm. Đảm bảo chặt chẽ, phù hợp. 
Từ đặc thù của người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp mà cần có 
các quy định riêng cũng như giải pháp trong việc áp dụng trách nhiệm pháp lý đối với 
người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp. 
Trình tự, thủ tục trong xem xét trách nhiệm pháp lý của người đại diện cần được 
quy định rõ ràng làm cơ sở cho việc áp dụng. Qua thanh tra, kiểm tra phát hiện hành 
vi vi phạm thì cơ quan thanh tra thực hiện các thủ tục nào để áp dụng trách nhiệm 
pháp lý đối với người diện hay chuyển cho cơ quan quản lý của người đại diện thực 
hiện xử lý trách nhiệm pháp lý của người đại diện, trách nhiệm trong việc không xử 
lý đối với người đại diện như thế nào?. 
Qua những vụ án lớn liên quan đến trách nhiệm pháp lý của người đại diện phần 
vốn nhà nước tại doanh nghiệp xảy ra trong thời gian qua cho thấy: qua thanh tra, 
kiểm tra phát hiện hành vi vi phạm, nhưng hành vi vi phạm không bị ngăn chặn, xử 
lý kịp thời dẫn tới những hậu quả nghiêm trọng về sau. Điều này cho thấy quy định 
về trình tự, trách nhiệm, thẩm quyền trong áp dụng trách nhiệm pháp lý đối với người 
đại diện phấn vốn nhà nước tại doanh nghiệp còn thiếu, chưa rõ ràng. 
3.3.3. Nâng cao ý thức pháp luật của người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh 
nghiệp 
Một trong những giải pháp nhằm phát huy thiết thực việc thực hiện trách nhiệm 
pháp lý của người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp, chính là việc phải 
 174 
nâng cao ý thức pháp luật cho mọi người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp. 
Ý thức pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng trong hoạt động áp dụng pháp luật. Khi 
người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp có ý thức pháp luật nghề nghiệp 
cao, nhận thức đầy đủ và sâu sắc pháp luật về trách nhiệm pháp lý cũng như các văn 
bản pháp luật có liên quan thì việc thực hiện vai trò của mình sẽ tốt hơn rất nhiều. 
Hiện nay ở nước ta, để tiến hành tốt công tác giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức 
pháp luật về trách nhiệm pháp lý của người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh 
nghiệp cần tiến hành đồng bộ các biện pháp sau đây: 
- Thứ nhất, đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền, giải thích văn bản pháp 
luật về trách nhiệm pháp lý. Công tác này tiến hành tốt sẽ giúp các chủ thể pháp luật 
nhận thức rõ nội dung của những văn bản trên, từ đó họ tôn trọng và thực hiện đúng 
đắn nội dung của chúng. Ở đây cần thiết phải có sự phối kết hợp giữa các cơ quan 
quản lý người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp với các tổ chức nghiên 
cứu giảng dạy về khoa học pháp lý và các phương tiện thông tin đại chúng. 
- Thứ hai, tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp lý cho người 
đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Cần tạo ra một đội ngũ người đại diện 
có ý thức pháp luật nghề nghiệp cao. Chú trọng đào tạo những kiến thức pháp lý cơ 
bản và việc bồi dưỡng thường xuyên những kiến thức mới và các quy định pháp luật 
mới của Nhà nước. 
- Thứ ba, kết hợp việc giáo dục pháp luật về trách nhiệm pháp lý của người đại 
diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp, với giáo dục văn hóa kinh doanh, quản trị 
doanh nghiệp. Khi một người có trình độ văn hóa cao, có kỹ năng quản trị doanh 
nghiệp thì việc tuân thủ pháp luật sẽ được tăng cường. 
3.3.4. Nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với người đại diện 
phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp. 
Thanh tra và kiểm tra là những chức năng thiết yếu của hoạt động quản lý, nó có 
vai trò hết sức to lớn trong việc bảo đảm pháp chế và kỷ luật nhà nước. Hoạt động 
thanh tra của cơ quan thanh tra giúp cho các cơ quan quản lý nhà nước phát hiện ra 
các vụ việc vi phạm pháp luật, ngăn ngừa vi phạm, đồng thời bảo đảm việc quản lý 
vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp có hiệu quả, đánh giá được thực trạng đầu tư 
vốn nhà nước. 
Bên cạnh việc đổi mới về tổ chức và hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với công 
tác đầu tư và quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Các tập đoàn, tổng công ty cần 
phải tổ chức và tăng cường hơn nữa hoạt động kiểm tra nội bộ. Triển khai thực hiện 
 175 
tốt hoạt động kiểm tra nội bộ trong các tập đoàn, tổng công ty sẽ là một trong những 
biện pháp ngăn ngừa hữu hiệu nhất tình trạng vi phạm pháp luật nói chung, vi phạm 
kỷ luật của người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp ở các công ty con nói 
riêng. 
3.3.5. Xử lý nhanh chóng, kịp thời, đúng tính chất, mức độ các hành vi vi phạm 
pháp luật trong đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp 
Đẩy mạnh công tác đấu tranh chống vi phạm pháp luật trong đại diện phần vốn 
nhà nước tại doanh nghiệp. Công khai hóa hơn nữa việc xử lý vi phạm pháp luật của 
người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Việc xử lý những vụ vi phạm 
pháp luật điển hình cần được đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng. Những 
công việc trên sẽ góp phần tích cực đến việc nâng cao và hoàn thiện nhận thức về 
trách nhiệm pháp lý nói riêng, nâng cao và hoàn thiện ý thức pháp luật nói chung. 
Tăng cường chế độ cho người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp, gắn 
với hiệu quả trong sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Tạo điều kiện thúc đẩy 
người đại diện đặc biệt là những người được giao giữ các chức vụ tại doanh nghiệp 
năng động, sáng tạo hoàn thành tốt nhiệm vụ mang lại hiệu quả cao trong hoạt động 
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 
 176 
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 
Nhu cầu hoàn thiện trách nhiệm pháp lý của người đại diện phần vốn nhà nước 
tại doanh nghiệp bắt nguồn từ yêu cầu của việc xây dựng nhà nước pháp quyền, cải 
cách việc quản lý vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp, khắc phục thực trạng những 
hạn chế trong quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về trách nhiệm pháp 
lý của người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp. 
Việc hoàn thiện trách nhiệm pháp lý của người đại diện phần vốn nhà nước tại 
doanh nghiệp trong điều kiện hiện nay phải bảo đảm các mục tiêu và phương hướng 
hoàn thiện. Căn cứ nhu cầu, phương hướng hoàn thiện, giải pháp hoàn thiện về trách 
nhiệm pháp lý của người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp đã được cụ thể 
hóa thành hai nhóm giải pháp: nhóm giải pháp hoàn thiện pháp luật và nhóm giải pháp 
về tổ chức thực hiện các quy định về trách nhiệm pháp lý của người đại diện phần vốn 
nhà nước. 
Nhóm giải pháp hoàn thiện quy định về trách nhiệm pháp lý của người đại diện 
phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp bao gồm: Sửa đổi, bổ sung các quy định về tính 
chất, phạm vi hoạt động của người đại diện; Hoàn thiện quy định về nghĩa vụ của 
người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp; Hoàn thiện các quy định về các 
hình thức trách nhiệm pháp lý của người đại diện bao gồm trách nhiệm bồi thường 
thiệt hại, trách nhiệm kỷ luật, trách nhiệm hành chính và trách nhiệm hình sự; Quy 
định cụ thể thẩm quyền, trình tự, thủ tục trong thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, giám 
sát, xử lý trách nhiệm của người đại diện phần vốn nhà nước; Quy định rõ mối quan 
hệ giữa trách nhiệm pháp lý của người đại diện với trách nhiệm chính trị của đảng 
viên tránh những mâu thuẫn, chồng chéo; Xây dựng quy định cơ sở pháp lý cho việc 
thống kê, công khai trách nhiệm pháp lý của người đại diện phần vốn nhà nước tại 
doanh nghiệp; Hoàn thiện quy định về mối quan hệ trách nhiệm pháp lý giữa người 
đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp với các chủ thể khác;.. 
Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện quy định về trách nhiệm 
pháp lý của người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp bao gồm: Tăng cường 
việc quản lý người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp; Kiện toàn các cơ 
quan thanh tra, kiểm tra, giám sát đối với doanh nghiệp, người đại diện phần vốn nhà 
nước tại doanh nghiệp; Nâng cao ý thức pháp luật của người đại diện phần vốn nhà 
nước tại doanh nghiệp; Nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với người 
 177 
đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp; Xử lý nhanh chóng, kịp thời, đúng tính 
chất, mức độ các hành vi vi phạm pháp luật trong đại diện phần vốn nhà nước tại 
doanh nghiệp. 
Việc tiến hành một cách mạnh mẽ và đồng bộ các giải pháp là cơ sở cho việc 
hoàn thiện quy định về trách nhiệm pháp lý của người đại diện phần vốn nhà nước tại 
doanh nghiệp, đồng thời nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về trách nhiệm pháp 
lý của người đại diện ở nước ta hiện nay. 
 178 
D. KẾT LUẬN 
Trên cơ sở cơ chế quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, luận án triển khai phân 
tích cơ sở lý luận của sự tồn tại trách nhiệm pháp lý của người đại diện phần vốn nhà 
nước tại doanh nghiệp. Theo đó, mối quan hệ giữa người đại diện phần vốn nhà nước 
với nhà nước là quan hệ đại diện. Trong đó, người đại diện phần vốn nhà nước đại 
diện cho nhà nước thực hiện các quyền của cổ đông nhà nước tại DNCVNN theo quy 
định của pháp luật. Trong mối quan hệ này người đại diện phần vốn nhà nước phải 
thực hiện nhiệm vụ công do nhà nước giao, họ phải ghánh chịu các trách nhiệm pháp 
lý nếu có vi phạm. Người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp có thể sẽ vi tư 
lợi mà xâm phạm lợi ích của nhà nước nếu không được kiểm soát. Vì vậy, trách nhiệm 
pháp lý là công cụ nhằm ngăn chặn người đại diện phần vốn nhà nước có hành vi vi 
phạm. Luận án cũng chỉ ra rằng bên cạnh trách nhiệm pháp lý của người đại diện phần 
vốn nhà nước tại doanh nghiệp, phải xem xét trách nhiệm pháp lý của các chủ thể khác 
có nghĩa vụ trong quản lý vốn nhà nước như: cơ quan đại diện chủ sở hữu, cơ quan 
quản lý nhà nước 
Pháp luật về trách nhiệm pháp lý của người đại diện phần vốn nhà nước là tổng 
thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ về nghĩa vụ và hậu quả pháp lý của 
người đại diện phần vốn nhà nước nếu có hành vi vi phạm. Xét về mặt cấu trúc, pháp 
luật về trách nhiệm pháp lý của người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp 
bao gồm văn bản quy phạm pháp luật mà nòng cốt là Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà 
nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp ngày 26/11/2014 và các văn 
bản hướng dẫn thi hành. 
Nội dung của pháp luật về trách nhiệm pháp lý của người đại diện phần vốn nhà 
nước tại doanh nghiệp bao gồm: 1) Các quy định về nghĩa vụ của người đại diện phần 
vốn nhà nước tại doanh nghiệp; 2) Các quy định về trách nhiệm pháp lý của người đại 
diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp bao gồm: trách nhiệm bồi thường thiệt hại, 
trách nhiệm kỷ luật và trách nhiệm hình sự; 3) Nội dung quy định về miễn trách nhiệm 
pháp lý; 4) Nội dung pháp luật về thực thi pháp luật về trách nhiệm pháp lý của người 
đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp. 
Qua khảo cứu thực trạng pháp luật về trách nhiệm pháp lý của người đại diện 
phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp, thực tiễn thi hành pháp luật về trách nhiệm pháp 
lý của người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp, luận án chỉ ra một số mặt 
 179 
tích cực cũng như một số mặt còn tồn tại của pháp luật về trách nhiệm pháp lý của 
người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp ở Việt Nam. Từ đó, luận án đưa 
ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật trách nhiệm pháp lý của người đại diện 
phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Trong đó có một số kiến nghị sau: 
Thứ nhất, về phương hướng pháp luật về trách nhiệm pháp lý của người đại diện 
phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp phải phù hợp với đường lối phát triển nền kinh 
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng, phù hợp với nguyên tắc quản trị 
tốt được thừa nhận rộng rãi trên thế giới và phù hợp với thực trạng DNCVNN ở Việt 
Nam. 
Thứ hai, luận án đưa ra một số kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện một số nội dung 
cụ thể của pháp luật về trách nhiệm pháp lý của người đại diện phần vốn nhà nước tại 
doanh nghiệp. 
Thứ ba, bên cạnh đó luận án cũng đưa ra một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả 
thực hiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý của người đại diện phần vốn nhà nước tại 
doanh nghiệp. 
 180 
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 
I. Tài liệu tham khảo tiếng Việt 
1. Chính phủ (2015), Nghị định số 106/2015/NĐ-CP ngày 23/10/2015 Về quản lý 
người đại diện phần vốn nhà nước giữ các chức danh quản lý tại doanh nghiệp mà 
Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ, Hà Nội. 
2. Chính phủ (2015), Nghị định số 97/2015/NĐ-CP ngày 19/10/2015 Về quản lý 
người giữ chức danh, chức vụ tại doanh nghiệp là công ty trách nhiệm hữu hạn 
một thành viên mà Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, Hà Nội. 
3. Chính phủ (2015), Nghị định số 91/2015/NĐ-CP ngày 13/10/2015 Về đầu tư vốn 
nhà nước vào doanh nghiệp và quản lý, sử dụng vốn, tài sản tại doanh nghiệp 
4. Chính phủ (2015), Nghị định số 87/2015/NĐ-CP ngày 06/10/2015 Về giám sát 
đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp; giám sát tài chính, đánh giá hiệu quả hoạt 
động và công khai thông tin tài chính của doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp 
có vốn nhà nước 
5. Chính phủ (2014), Nghị định số 128/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 Về bán, giao 
và chuyển giao doanh nghiệp 100% vốn nhà nước 
6. Chính phủ (2014), Nghị định số 57/2014/NĐ-CP ngày 16/06/2014 Về Điều lệ tổ 
chức và hoạt động của Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước 
7. Chính phủ (2013), Nghị định 151/2013/NĐ-CP ngày 01/11/2013 Về chức năng, 
nhiệm vụ và cơ chế hoạt động của Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà 
nước 
8. Chính phủ (2012), Nghị định 99/2012/NĐ-CP ngày 15/11/2012 Về phân công, 
phân cấp thực hiện các quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối 
với doanh nghiệp nhà nước và vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp 
9. Chính phủ (2011), Nghị định 66/2011/NĐ-CP ngày 01/08/2011 Quy định việc áp 
dụng Luật Cán bộ, công chức đối với các chức danh lãnh đạo, quản lý công ty 
trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu và người được 
cử làm đại diện chủ sở hữu phần vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp có vốn góp 
của Nhà nước 
10. Chính phủ (2016), Nghị định số 50/2016/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm 
hành chính trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư năm 2016 
 181 
11. Chính phủ (2018,) Báo cáo số 217/BC-CP về việc thực hiện chính sách, pháp luật 
về quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại doanh nghiệp và cổ phần hóa doanh 
nghiệp nhà nước giai đoạn 2011 – 2016 
12. Chính phủ (2018), Nghị định số 149/2013/NĐ-CP Về Điều lệ tổ chức và hoạt động 
của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam 
13. Chính phủ (2018), Báo cáo về công tác quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp 
năm 2018 
14. Nguyễn Đình Cung và Bùi Văn Dũng (2013), Đổi mới mô hình thực hiện chức 
năng chủ sở hữu nhà nước đối với DNNN: lý luận, kinh nghiệm quốc tế và ứng 
dụng vào Việt Nam, sách tham khảo – NXB Từ điển Bách khoa. 
15. Trần tiến Cường (2005), Doanh nghiệp có vốn đầu tư nhà nước, pháp luật điều 
chỉnh và mô hình chủ sở hữu theo kinh nghiệm quốc tế, Nxb Thống kê, Hà Nội. 
16. TS. Trần Tiến Cường (2013), “Mô hình hoạt động và quản lý tập đoàn kinh tế nhà 
nước: Kinh nghiệm của Trung Quốc và Singapore và bài học tham khảo đối với 
Việt Nam” Nxb Thống kê, Hà Nội. 
17. Nguyễn Thị Dung (2009), "Bản chất của cơ chế thực thi quyền đại diện chủ sở 
hữu nhà nước tại doanh nghiệp có vốn nhà nước", Luật học, (7), (110), tr. 8-13. 
18. TS. Trần Thanh Hồng (2016), “Kinh nghiệm quản lý và đầu tư vốn nhà nước của 
Temasek”, Trang thông tin điện tử tổng hợp Ban Kinh tế trung ương 
19. Phạm Thị Thanh Hòa (2012), Cơ chế quản lý vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp 
ở Việt Nam, Luận án tiến sỹ kinh tế, Học viện Tài chính, Hà Nội. 
20. Nguyễn Ngọc Hòa (2015), Tội phạm và cấu thành tội phạm, Nxb Tư pháp năm 
2015 
21. Phùng Thế Hùng “Giám sát vốn nhà nước: Nhìn từ sai phạm của VNPT”. Tạp chí 
Kinh tế và Dự báo số 17/2013 
22. Nguyễn Thị Thu Hương (2009), Quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp sau 
cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, Luận án tiến sỹ kinh tế, học viện Tài chính, 
Hà Nội. 
23. Trần Thị Mai Hương (2006), Cơ chế quản lý phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp 
nhà nước Việt Nam, Luận án tiến sỹ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế quốc dân. 
 182 
24. Nguyễn Thị Lan Hương (2013), Những vấn đề pháp lý về tài chính doanh nghiệp, 
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
25. Nguyễn Thị Quỳnh Hương (2014), Xác định rõ quyền, trách nhiệm của người đại 
diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp, Tạp chí Tài chính, số 4 năm 2014, Trang 
35-36. 
26. Bùi Văn Huyền (2009), "Doanh nghiệp có vốn đầu tư nhà nước ở Xingapo", 
Nghiên cứu kinh tế, 11(378), tr. 63-72. 
27. Phạm Thị Huyền (2017), Cơ quan đại diện chủ sở hữu phần vốn nhà nước tại 
doanh nghiệp, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 4 năm 2017 
28. Nguyễn Thị Luyến (2012), Đổi mới quản lý của chủ sở hữu nhà nước đối với 
“công ty mẹ - công ty con” trong khu vực doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam, 
Luận án tiến sỹ kinh tế, Viện Nghiên cứu và quản lý kinh tế trung ương, Hà Nội. 
29. Trường Đại học Luật Hà Nội (2007), Giáo trình Lí luận chung về nhà nước và 
pháp luật, Nxb Công An nhân dân năm 2007 
30. Trường Đại học Luật Hà Nội (2013), Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam Tập 2, 
Nxb Công An nhân dân năm 2013 
31. Báo Nhân dân (2019) Bài “Công tác cán bộ trong doanh nghiệp nhà nước” số ra 
ngày 11/4/2019 
32. Nguyễn Xuân Nam (2005), Luận án tiến sĩ "Đổi mới cơ chế quản lý vốn và tài sản 
đối với Tổng công ty 91 phát triển theo mô hình tập đoàn kinh doanh ở Việt Nam", 
năm 2005 
33. PGS.TS. Nguyễn Đăng Nam (2009), Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ năm 2009 
của Bộ tài Chính "Chính sách và cơ chế quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp 
giai đoạn đến 2020" 
34. Nguyễn Thị Hồng Nhung (2016), Luận án tiến sĩ Luật học “Pháp luật quản lý phần 
vốn Nhà nước tại doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay” Học viện khoa học xã hội, 
năm 2016. 
35. Nguyễn Thị Mỵ (2012), Quản lý vốn nhà nước trong các doanh nghiệp nhà nước 
trên địa bàn thành phố Hải Phòng, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị Quốc 
gia Hồ Chí Minh. 
 183 
36. Quang Minh (2010), "Ai thực hiện quyền chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà 
nước", Thời báo kinh tế Sài Gòn, ngày 23/9/2010. 
37. Nguyễn Xuân Phúc (2012), Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp kinh tế 
quốc phòng, Luận án tiến sĩ kinh tế, Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội 
38. Nhà pháp luật Việt – Pháp, Quỹ pháp luật Châu âu lục địa và tổ chức quốc tế Pháp 
ngữ (2011), Các thuật ngữ hợp đồng thông dụng, Nxb Từ điển Bách khoa, Trang 
468 
39. Quốc hội (2005), Luật Đầu tư năm 2005; 
40. Quốc hội (2005), Luật Doanh nghiệp năm 2005; 
41. Quốc hội (2014), Luật Doanh nghiệp năm 2014 
42. Quốc hội (2020), Luật Doanh nghiệp năm 2020 
43. Quốc hội (2014), Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh 
doanh tại doanh nghiệp năm 2014 
44. Quốc hội (2003), Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003 
45. Quốc hội (2010), Luật Thanh tra năm 2010 
46. Quốc hội (2012), Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 
47. Quốc hội (2018), Luật phòng, chống tham nhũng, năm 2018 
48. Quốc hội (2003), Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003 
49. Quốc hội (2015), Bộ luật Hình sự năm 2015 
50. Quốc hội (2018) Nghị quyết số 60/2018/QH14 về tiếp tục hoàn thiện và đẩy mạnh 
việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại 
doanh nghiệp và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước 
51. Nguyễn Mạnh Quân, Tái cấu trúc Doanh nghiệp nhà nước – một số vấn đề về 
nguyên tắc và phương pháp tiếp cận, Tạp chí Kinh tế & Phát triển, số 193 tháng 
7/2013, trang 29 
52. Ngân hàng thế giới (1999), Báo cáo nghiên cứu chính sách của Ngân hàng Thế 
giới: Giới quan chức trong kinh doanh, ý nghĩa kinh tế và chính trị của sở hữu nhà 
nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 
53. Ngân hàng thế giới (1999), Giới quan chức trong kinh doanh - Ý nghĩa kinh tế và 
chính trị của sở hữu nhà nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
 184 
54. Ngân hàng phát triển Châu á và Bộ Tài chính (2013) Báo cáo so sánh kinh nghiệm 
trên thế giới về quản lý vốn nhà nước năm 2013 
55. SCIC (2010), Định hướng phát triển giai đoạn 2011- 2015 và tầm nhìn đến năm 
2020, Hà Nội. 
56. Thanh tra Chính phủ (2018), Văn bản số 355/KL-TTCP về Kết luận thanh tra Dự 
án Tổng công ty Viễn thông Mobifone mua 95% cổ phần của Công ty cổ phần 
nghe nhìn Toàn Cầu. 
57. Thanh tra Chính phủ (2019), Văn bản số 105/KL-TTCP về Kết luận thanh tra Quá 
trình cổ phần hóa Tổng công ty Thiết bị y tế Việt Nam; việc thoái vốn Nhà nước 
tại Công ty Cổ phần Nhựa y tế (Mediplast), Tổng công ty Cổ phần Y tế 
(Danameco); việc sáp nhập Công ty Cổ phần Nhựa y tế vào Tổng công ty Thiết bị 
y tế Việt Nam. 
58. Thanh tra Chính phủ (2017), Văn bản số 2810/KL-TTCP về Kết luận thanh tra về 
việc chấp hành chính sách, pháp luật, nhiệm vụ tại Tập đoàn Công nghiệp Than - 
Khoáng sản Việt Nam và một số đơn vị thành viên. 
59. Thanh tra Chính phủ (2017), Văn bản số 2569/KL-TTCP về Kết luận thanh tra về 
việc chấp hành chính sách, pháp luật về quản lý, sử dụng vốn, tài sản, cổ phần hóa, 
thoái vốn và tái cơ cấu Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam. 
60. Thanh tra Chính phủ (2017), Văn bản số 2819/KL-TTCP về Kết luận thanh tra về 
việc chấp hành chính sách, pháp luật tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại 
thương VIệt Nam. 
61. Thanh tra Chính phủ (2016), Văn bản số 2105/KL-TTCP về Kết luận thanh tra về 
việc chấp hành chính sách, pháp luật và thực hiện nhiệm vụ đối với Tổng công ty 
Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC) 
62. Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội (2019), Bản án số 32/2019/HSST về hành vi 
lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản tại CTCP Lọc hóa dầu Bình Sơn, 
Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam 
63. Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội (2019), Bản án số 53/2019/HS-PT về hành vi 
“cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm 
trọng” và “Nhận hối lộ” 
 185 
64. Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội (2017), Bản án số 551/2017/HS-PT về hành 
vi “cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm 
trọng” tại Tổng công ty xuất nhập khẩu và đầu tư phát triển Hà Nội. 
65. Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội (2018), Bản án số 57/2018/HS-PT về hành vi 
“cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm 
trọng” đối với Ông Đinh La Thăng và đồng phạm xảy ra ở Tập đoàn Dầu khí Quốc 
gia Việt Nam. 
66. Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội (2018), Bản án số 43/2018/HS-PT về hành vi 
"Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm 
trọng’’ và "Tham ô tài sản" xảy ra tại Tổng công ty cổ phần xây lắp dầu khí (PVC) 
67. Nguyễn Bích Thủy (2008), Đề cao trách nhiệm của người đại diện phần vốn nhà 
nước, Tạp chí Xây dựng số 6/2008. 
68. Lê Nguyễn Hương Trinh (2006), Về vai trò Nhà nước trong nền kinh tế thị trường, 
Tạp chí Triết học số 5/2006. 
69. Nguyễn Kế Tuấn (Chủ nhiệm) (2010), Đề tài KX04.09/06-10, giai đoạn 2006-
2010 - Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa 
Việt Nam, Hà Nội. 
70. Phạm Thị Tường Vân (Chủ biên) (2014), Đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp: 
Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam, Nxb Tài chính, Hà Nội. 
71. Viện Ngôn ngữ học (2003), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng 
72. Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách khoa và Nxb 
Tư pháp, Hà Nội. 
73. Viện Khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp, PGS.TS. Hoàng Thế Liên (chủ biên) (2010), 
Bình luận khoa học Bộ luật dân sự năm 2005 (tập I), Nxb Chính trị quốc gia HN 
năm 2010 
74. Viện Khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp, PGS.TS. Hoàng Thế Liên (chủ biên) (2010), 
Bình luận khoa học Bộ luật dân sự năm 2005 (tập II), Nxb Chính trị quốc gia HN 
năm 2010 
75. Võ Khánh Vinh (chủ biên) (2014), Luật hình sự Việt Nam (phần chung), Nxb 
Khoa học xã hội năm 2014 
76. Ủy ban kiểm tra Trung ương (khóa 12) Kết luận kỳ họp thứ 15. 
 186 
II. Tài liệu tham khảo Tiếng Anh 
77. World Bank (2014). Corporate Governance of State-Owned Enterprises in Latin 
America Current Trends and Country Cases. July 2014 
78. IMF Working Paper (2017). European Department State-Owned Enterprises in 
Emerging Europe: The Good, the Bad, and the Ugly. October 2017 
79. Dr. Sanzhu Zhu, Dr Carol G. S. Tan, Prof. Peter Muchlinski (2013). Corporate 
Governance: A Legal Study on the Reform of State-Owned Enterprises in China. 
Song Xiaolei, 2013 
80. Dag Detter (2006), Valuable Companies Create valuable jobs: The Swedish 
Reforms of State owned enterprises – A case study in corporate governance, June 
2006. 
81. Fang Hu and Sidney C. M. Leung (2011), Appointment of Politically Connected 
Top Executives and Subsequent firm performance and corporate governance: 
Evidence from China’s Listed SOEs. 
82. Fang Hu and Sid OECD (2005a), Corporate governance of state owned 
enterprises: A survey of OECD countries, ISBN 92-64-00942-6. 
83. Government Office of Swenden (2011), Annual Report State owned companies 
2010. 
84. Maria Vagliasindi (2008), Governance Arrangements for State Owned 
Enterprises, Policy Research Working Paper No. 4542, The World Bank, 
Sustainable Development Network, March 2008. 
85. Simon C. Y. Wong (2004), Improving Corporate Governance in SOEs: An 
Integrated Approach, Corporate Governance International, Volume 7, Issue 2, 
June 2004. 
86. William P. Mako and Chunlin Zhang (2004), State Equity Ownership and 
Management in China: Issues and Lessons from International Experience, Policy 
Dialogue on Corporate Governance in China, Hosted by The Shanghai Stock 
Exchange and OECD, Shanghai, China, 25-26/2/2004. 
87. A World bank country study. China's Management of Enterprise Assets: The State 
as Shareholder. Washington DC, 1997 
 187 
88. Michelle Welsh & Helen Anderson (2005), Directors’ personal liability for 
corporate fault: an alternative model, Adelaide Law Review 
89. Rees Ray (1989), Public Enterprise Economics, 2nd Ed., Philip Allan, 
Deddington, Oxford, trang 1 
90. Michael C. Jensen & William H. Meckling (1976), The Theory of the Firm: 
Managerial Behavior, Agency Costs, and Ownership Structure, 3 J. FIN. ECON 
91. Kathleen M. Eisenhardt, Agency Theory: An Academy and Review, The 
Academy of Managem Review, Vol.14, No.1 (Jan, 1989) 
92. OECD (2008), Using the OECD Principles of Corporate Governance – a 
boardroom perspective 
93. Michael C. Jensen & William H. Meckling (1976), The Theory of the Firm: 
Managerial Behavior, Agency Costs, and Ownership Structure, 3 J. FIN. ECON. 
Trang 305 
94. Kathleen M. Eisenhardt, Agency Theory: An Academy and Review, The 
Academy of Managem Review, Vol.14, No.1 (Jan, 1989), trang 60 
95. Michelle Welsh & Helen Anderson (2005), Directors’ personal liability for 
corporate fault: an alternative model, Adelaide Law Review, vol 26. Trang 310 
96. Michelle Welsh & Helen Anderson (2005), Directors’ personal liability for 
corporate fault: an alternative model, Adelaide Law Review, vol 26. Trang 315 
97. Michael Bradley & Cindy A. Schipani (1989), The Relevance of the Duty of Care 
Standard in Corporate Governance, Jowa Law Review, Vol, 75:1 
98. Michael C. Jensen & William H. Meckling (1976), The Theory of the Firm: 
Manangerial Behavior, Agency Costs, and Ownership Structure, 3 J.FIN. 
ECON.305 (1976) 
99. Wendi J. Powell (2007), Corporate governance and fiduclary duty: The “Mickey 
mouse rule” or legal conslutency, protection of sharcholder expectations, and 
balanced director autonomy, GEO, MASON I. REV. Vol. 14:3 
100. Z.Jill Barclift (2006), Senior corporate officers and the duty of condor: do the 
CEO and CFO have a duty to inform?, Valparaiso University Law Review, Vol. 
41 
 188 
101. Jae Yeol Kwon (2004), Corporate governance from a comparative perspective: 
specific application of the duty of loyelty in Korea, Pacific Basin Law Journal, 
Vol.22 
102. G20/OECD Principle of Gorporate Governance, 2015 
103. OECD, State-Owned Enterprises in Asia: National Practices for Performance 
Evaluation and Management. Paris