Nhu cầu về thông tin được coi là một nhu cầu bức thiết hàng ngày của
người dân, giải quyết tốt vấn đề thông tin sẽ góp phần đắc lực trong việc tạo
sự đồng thuận và ổn định xã hội, là tiền đề quan trọng cho sự phát triển bền
vững. Đặc biệt trong thời đại bùng nổ về công nghệ thông tin hiện nay, thông
tin có thể được tiếp cận từ nhiều nguồn khác nhau và do đó mà việc xác định
đâu là nguồn thông tin chính thống hay không chính thống rất khó khăn.
Chính sự đa chiều về thông tin sẽ làm nảy sinh tiêu cực, tham nhũng, thậm chí
bị lợi dụng để xuyên tạc, gây bức xúc trong xã hội và là yếu tố có thể gây mất
ổn định an ninh - chính trị. Quyền TCTT là quyền của công dân trong một xã
hội dân chủ pháp quyền, là chuẩn mực xác nhận của một xã hội trong đó
người dân có tự do, có quyền lực thực sự. Quyền này có ý nghĩa quan trọng
trong cơ cấu các quyền con người cũng như quyền công dân. Nhận thức được
điều này, trong thời gian qua, Nhà nước ta đã rất chú trọng đến quyền được
tiếp cận thông tin của người dân, đến trách nhiệm của cơ quan nhà nước phải
công khai thông tin do mình nắm giữ. Thông qua các quy định pháp luật, chủ
trương “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đã từng bước đi vào cuộc
sống. Luật TCTT được ban hành là một bước thể hiện sự quan tâm đúng mực
của nhà nước trong việc bảo đảm quyền TCTT của người dân.
Vấn đề tiếp cận thông tin không phải là vấn đề mới mẻ ở Việt Nam
nhưng lại là vấn đề còn khá xa lạ với cán bộ, công chức và người dân tỉnh Phú
Yên. Vì vậy, việc thực hiện quyền và bảo đảm thực hiện quyền ở đây còn rất
hạn chế. Người dân không biết mình có quyền còn cơ quan nhà nước lại dè
dặt, e ngại khi nhắc đến vấn đề cung cấp thông tin. Những khó khăn, tồn tại
trong bảo đảm pháp lý quyền TCTT tại Phú Yên đã đặt ra cho chính quyền
địa phương, cán bộ, công chức một bài toán cho việc vận dụng, thực hiện
Luật một cách hợp pháp và hợp lý, phù hợp với tình hình, đặc điểm địa74
phương. Căn cứ trên quy định của pháp luật, chính quyền địa phương cần xây
dựng những văn bản chỉ đạo thực hiện một cách nghiêm túc quyền TCTT.
Nâng cao nhận thức, năng lực của người dân và cán bộ nhà nước về quyền
TCTT, tuyên truyền, phổ biến nhằm đưa nội dung của Luật TCTT đi vào đời
sống. Tăng cường trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong bảo đảm quyền
TCTT, cung cấp các điều kiện về pháp lý và cơ sở vật chất tạo điều kiện cho
người dân thực hiện quyền. Đẩy mạnh công khai, minh bạch, nâng cao hiệu
quả cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin trong việc cung cấp
thông tin. Kiểm tra, phát hiện và xử lý kịp thời những hành vi vi phạm đến
việc thực hiện quyền TCTT của người dân nếu có. Với những giải pháp được
nêu, hy vọng quyền TCTT sẽ thực sự đi vào đời sống, phát huy vai trò làm
chủ của nhân dân, tạo đà cho sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội tỉnh Phú
Yên trong thời gian sắp tới
91 trang |
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 536 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Bảo đảm pháp lý thực hiện quyền tiếp cận thông tin ở tỉnh Phú Yên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u này tạo cơ hội cho báo chí, công chúng tiếp cận đầy đủ hơn những
nguồn thông tin chính thống, hữu ích, chính xác nhất là đối với những sự
kiện, vấn đề nóng, nhạy cảm; giúp các cơ quan báo chí nắm rõ tình hình, từ
đó định hướng kịp thời và chính xác. Người dân được cung cấp thông tin qua
báo chí về mọi mặt của đời sống, xã hội một cách chính xác từ các cơ quan
quản lý nhà nước ở Trung ương và địa phương, đồng thời hiểu thêm về công
tác quản lý nhà nước đối với các lĩnh vực của các cơ quan liên quan, những
chính sách, pháp luật của Nhà nước về các lĩnh vực của đời sống xã hội,
Cơ quan hành chính nhà nước các cấp ở địa phương đã giải quyết cơ
bản những yêu cầu của nhân dân và doanh nghiệp trong các lĩnh vực đăng ký
kinh doanh, cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất, cấp
giấy phép xây dựng, các quyết định về đầu tư, các lĩnh vực về đăng ký hộ
khẩu, hộ tịch, chính sách xã hội,... Thời gian được rút ngắn, chất lượng giải
55
quyết công việc được nâng lên, người dân chỉ cần đến một nơi, với thời gian
nhất định, để được giải quyết công việc đúng nguyện vọng, không phải đi lại
nhiều lần. Trong năm 2016, chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp
tỉnh (PAPI) của tỉnh Phú Yên xếp thứ 48/63 tỉnh, thành phố trong cả nước,
tăng 6 bậc so với năm 2015 (55/63) [26]. Chỉ số PAPI gồm sáu chỉ số lĩnh
vực nội dung: tham gia của người dân ở cấp cơ sở, công khai, minh bạch,
trách nhiệm giải trình với người dân, kiểm soát tham nhũng, thủ tục hành
chính công và cung cấp dịch vụ công. Việc chỉ số PAPI của tỉnh Phú Yên
tăng lên là một dấu hiệu cho thấy tiếng nói của người dân về mức độ hiệu quả
điều hành, quản lý nhà nước, thực thi chính sách, công khai, minh bạch, cải
cách thủ tục hành chính, quyền tham gia của người dân và cung ứng dịch vụ
công của chính quyền các cấp của tỉnh Phú Yên đang ngày càng tăng. Đây là
một tín hiệu lạc quan đối với hoạt động của cơ quan nhà nước nói chung và
đối với hiệu quả của bảo đảm quyền TCTT nói riêng.
2.1.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân
Bên cạnh những điểm tích cực kể trên, các bảo đảm pháp lý thực hiện
quyền TCTT ở tỉnh Phú Yên còn những hạn chế sau:
Thứ nhất, trước khi Luật TCTT được ban hành, các văn bản của chính
quyền tỉnh Phú Yên tuy có đề cập đến một số nội dung đảm bảo thực hiện
TCTT của người dân nhưng các văn bản này chủ yếu chỉ dừng lại ở việc quy
định ở nguyên tắc chung, về trách nhiệm công khai, minh bạch và cung cấp
thông tin về một lĩnh vực cụ thể, chưa có quy định cụ thể về thủ tục, trình tự
yêu cầu, hay biện pháp xử lý vi phạm của cơ quan nhà nước trong trường hợp
không công khai thông tin và trách nhiệm cung cấp thông tin cho người dân.
Các văn bản pháp luật đều mới có hiệu lực, hoặc chỉ được thực hiện trong một
vài năm trở lại đây nên chưa thể đánh giá được tính hiệu quả trong việc bảo
đảm quyền TCTT của người dân. Điều này dẫn tới tình trạng các quy định
56
liên quan đến quyền TCTT tuy có, nhưng không hoặc ít đi vào cuộc sống, quy
định vẫn chỉ dừng lại ở quy định khung, do đó cơ quan, tổ chức, cán bộ công
chức nhà nước vẫn chưa thực hiện tốt trách nhiệm của họ và người dân vẫn
khó tiếp cận thông tin.
Hơn nữa, việc liệt kê phạm vi, nội dung các vấn đề cơ quan, tổ chức
của nhà nước phải công khai, minh bạch trong các các lĩnh vực là cần thiết
nhưng lại không bao quát được hết các lĩnh vực/phạm vi hoạt động nhà nước,
không tránh khỏi sẽ có những lĩnh vực chưa được quy định là phải công khai,
và chế độ trách nhiệm cung cấp thông tin cho người dân. Một số thông tin có
trong các văn bản, tài liệu theo quy định pháp luật hiện hành là phải công
khai, song các quy định về công khai các văn kiện, tài liệu này nằm rãi rác ở
trong nhiều văn bản khác nhau gây khó khăn cho việc tìm kiếm của người
dân, đồng thời gây khó khăn cho các cơ quan nhà nước khi xác định trách
nhiệm của mình trong việc xác định thông tin nào phải công khai, công khai
dưới hình thức nào và khi nào.
Từ khi Luật TCTT được ban hành, chính quyền tỉnh Phú Yên chỉ mới
có những văn bản lập kế hoạch về tuyên truyền, phổ biến Luật TCTT chứ
chưa có những văn bản đề cập đến tiếp cận thông tin một cách cụ thể. Có thể
lý giải rằng vì các cơ quan nhà nước cũng như người dân có tâm lý chờ đợi
đến khi có luật và có các văn bản hướng dẫn mới triển khai thực hiện.
Thứ hai, các cơ quan nhà nước đã chủ động công khai thông tin dưới
nhiều hình thức khác nhau nhằm bảo đảm quyền TCTT của người dân. Tuy
nhiên, mức độ công khai thông tin của các cơ quan, đơn vị còn có sự chênh
lệch; có đơn vị thực hiện tốt nhưng cũng có đơn vị thực hiện chưa tốt, chưa
hiệu quả do nhiều nguyên nhân khác nhau. Việc niêm yết tại trụ sở của cơ
quan, tổ chức, đơn vị nơi tiếp dân của cơ quan nhà nước được thực hiện khá
đầy đủ theo quy định về cải cách và công khai thủ tục hành chính. Tuy nhiên,
57
do hạn chế về diện tích, trụ sở làm việc nên một số cơ quan chưa bố trí được
nơi niêm yết công khai thủ tục hành chính, công khai hoạt động của cơ quan.
Hơn nữa, người dân thường tìm thông tin qua bạn bè, người quen, qua dịch vụ
và mạng internet mà không có nhiều người tìm đến tận trụ sở cơ quan nhà
nước để tìm hiểu thông tin. Vì vậy, mức độ cập nhập thông tin bằng hình thức
này tương đối thấp. Các cơ quan nhà nước trong quá trình đảm bảo thực hiện
quyền TCTT chưa phát huy vai trò của mình, nhiều cơ quan còn thụ động,
chưa có trách nhiệm trong việc công khai thông tin. Nhiều cán bộ nhà nước
còn lúng túng trong việc xử lý các yêu cầu cung cấp thông tin, thiếu kỹ năng
truyền đạt thông tin, còn mang tâm lý đối phó.
Thứ ba, quyền TCTT của người dân là một quyền tương đối mới tại
Phú Yên trong khi đó công tác tuyên truyền về quyền TCTT chưa phủ sóng
đầy đủ, còn nặng tính hình thức và không sát từng đối tượng dẫn đến chưa đạt
được hiệu quả như mong muốn. Kết quả khảo sát cho thấy, có gần 77% số
người được hỏi không biết về quyền TCTT, hơn 10% trong số này là cán bộ,
công chức (số liệu do học viên tự thu thập, tổng hợp).
Bên cạnh nguyên nhân xuất phát từ thực trạng quy định pháp luật và
công tác tuyên truyền, nhận thức về quyền TCTT còn hạn chế do từ cả hai
phía người dân – đối tượng có quyền và cán bộ cơ quan nhà nước – đối tượng
có nghĩa vụ cũng phần nào cản trở hoạt động tiếp cận thông tin. Trước hết, về
phía người dân, nhận thức chưa đầy đủ về quyền TCTT của mình theo quy
định của pháp luật, thậm chí có người không hề biết đến việc mình có quyền
TCTT mà cụ thể là quyền được yêu cầu cung cấp, tìm kiếm thông tin nên
nhiều khi quyền này không được thực hiện một cách đầy đủ trên thực tế. Đa
số người dân chưa phân biệt được, hay bị nhầm lẫn về tin tức chung, tin tức
thời sự (như thời tiết, giao thông,) với thông tin được đề cập dưới góc độ
quyền TCTT. Ý thức pháp luật và năng lực thực hiện quyền TCTT của người
58
dân còn hạn chế, nhất là người dân ở nông thôn, vùng núi, vùng dân tộc thiểu
số,... họ có suy nghĩ “ vô phúc đáo tụng đình”, họ không muốn hoặc không
dám lên tiếng để bảo vệ quyền lợi của mình vì sợ rằng sẽ bị vạ lây, sẽ bị xử
lý. Bên cạnh đó, thái độ thờ ơ với chính trị, với pháp luật của người dân cũng
là một yếu ảnh hưởng đến quyền TCTT. Có những thông tin đã được cơ quan
nhà nước công bố, nhưng cá nhân, tổ chức không quan tâm, không tìm hiểu
nhưng lại cho rằng đó là những thông tin không được cung cấp. Người dân
không biết quyền TCTT sẽ làm cho cơ quan nhà nước gặp áp lực trong quá
trình giải quyết công việc vì phải hướng dẫn, giải thích nhiều lần.
Về phía cán bộ, công chức, cơ quan nhà nước, họ chưa hiểu hết và chưa
hình thành thói quen cung cấp thông tin cho người dân, dễ bị quan liêu, thiếu
tinh thần phục vụ, khó chấp nhận việc người dân giám sát hoạt động của
mình. Họ không nhận thức được rằng người dân là bên có quyền yêu cầu còn
cán bộ, cơ quan nhà nước là bên có nghĩa vụ cung cấp thông tin, vì vậy, người
dân luôn trong tư thế là người đi xin thông tin. Một bộ phận cán bộ nhà nước
e ngại, giấu giếm thông tin, không rõ ràng minh bạch khi công khai hoạt
động, công việc của mình. Họ sợ nói ra sẽ ảnh hưởng đến công việc, sợ ảnh
hưởng đến cơ quan của mình. Cán bộ, công chức từ chối cung cấp thông tin
sẽ dẫn đến tình trạng khiếu nại không cần thiết từ phía người dân.
Thứ tư, phương thức tiếp nhận thông tin của người dân Phú Yên hiện
nay vẫn còn đơn giản. Cho dù các phương tiện truyền thông đang ngày càng
phát triển (internet, báo chí, các loại ấn phẩm khác ...), nhiều người dân địa
phương vẫn phụ thuộc phần lớn vào đài phát thanh và truyền hình địa
phương. Việc tiếp nhận qua các phương tiện truyền thông chưa hiệu quả.
Những thông tin mà người dân thu thập qua phương tiện truyền thông thường
là những thông tin chung chung, khái quát và đôi khi là thông tin đã cũ, không
được cập nhật mới. Một vấn đề cần lưu ý là trong thời gian gần đây, các
59
nguồn thông tin không chính thức liên quan đến hoạt động quản lý nhà nước
phát triển rất nhanh, nhưng trước sự “im lặng” của một số cơ quan nhà nước,
nỗi bức xúc của người dân về nhu cầu được thông tin giải trình đang ngày trở
nên cấp thiết hơn.
Thứ năm, việc quy định về chức danh người phát ngôn của các cơ quan
nhà nước là cần thiết, song nhiệm vụ của người phát ngôn chỉ mới là cung cấp
thông tin cho báo chí chứ không bao gồm việc tiếp nhận và giải quyết các yêu
cầu cung cấp thông tin của người dân. Việc thực hiện quy định này cũng
không đồng đều giữa các địa phương, cơ quan, đơn vị. Một số cơ quan, đơn vị
chưa thực hiện nghiêm túc, chưa thực hiện việc tổ chức họp báo định kỳ, chưa
tận dụng được Cổng thông tin điện tử trong việc cung cấp thông tin cho báo
chí. Thêm vào đó, về cơ bản, hoạt động của người phát ngôn là kiêm nhiệm,
không thường xuyên, chỉ mang tính định kỳ và theo một số vụ việc nhất định.
Chính vì thế, cơ chế người phát ngôn chưa thực sự là một giải pháp hữu hiệu
để tăng cường, bảo đảm quyền TCTT của người dân địa phương.
Nhìn chung, Phú Yên chưa thực sự có một biện pháp cụ thể nào để bảo
vệ quyền TCTT. Các nội dung về quyền TCTT chỉ mới triển khai trong một
số lĩnh vực nhỏ, chưa được các cơ quan nhà nước coi trọng đúng mức. Các cơ
quan nhà nước chưa có bộ phận hoặc cán bộ chuyên trách, theo dõi, giải quyết
và tổng hợp tình hình tiếp cận thông tin. Ngay cả người dân cũng không nhận
thức được quyền mà mình được hưởng. Vì vậy, việc bảo đảm thực hiện quyền
TCTT ở Phú Yên vẫn còn nhiều việc phải giải quyết trong thời gian tới, nhất
là khi Luật TCTT chính thức có hiệu lực thi hành.
2.2. Giải pháp tăng cƣờng bảo đảm pháp lý về quyền TCTT ở tỉnh Phú Yên
2.2.1. Ti tục h àn thi n h u t v u n TCTT
Trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật về các lĩnh vực cụ thể đã được ban
hành cũng như Luật TCTT và những quy định hướng dẫn thực hiện sẽ được
60
ban hành trong thời gian sắp đến, chính quyền tỉnh Phú Yên cần tiếp tục triển
khai thực hiện các quy định có liên quan đến tiếp cận thông tin đã được thực
hiện trong thời gia qua, như: quy định về thực hiện Pháp lệnh Thực hiện dân
chủ ở xã, phường, thị trấn, quy chế tiếp công dân trên địa bàn tỉnh, quy định
về thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống
lãng phí, quy chế về người phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí, đầu
tư phát triển công nghệ thông tin, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, công
khai, minh bạch, Rà soát các văn bản hiện hành trên tất cả các lĩnh vực, đặc
biệt là các lĩnh vực liên quan đến hoạt động quản lý nhà nước, lĩnh vực hành
chính công và cả trong lĩnh vực tư pháp; từng bước sửa đổi, bổ sung các văn
bản hiện hành theo hướng bảo đảm tính công khai, minh bạch trong hoạt động
nhà nước phù hợp với quy chuẩn chung của quốc tế, quy định của Hiến pháp,
pháp luật Việt Nam. Đặc biệt việc thực hiện các quy định liên quan đến quyền
tự do ngôn luận trên báo chí; bảo đảm báo chí, các phương tiện thông tin đại
chúng là kênh chuyển tải thông tin chính thức về hoạt động của nhà nước và
thể hiện được quan điểm, ý kiến khác nhau của các tầng lớp nhân dân, của
mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức. Bên cạnh đó cần chuẩn bị những điều kiện cụ
thể, phù hợp với đặc điểm của tỉnh nhà, đặc biệt là trong các lĩnh vực quan
trọng, liên quan đến phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội nhằm thực hiện có
hiệu quả Luật TCTT khi có hiệu lực thi hành.
2.2.2. Nâng ca nh n thức v u n TCTT
Để có thể thực hiện được quyền TCTT của người dân theo đúng quy
định pháp luật, đòi hỏi người cung cấp thông tin và người được tiếp nhận
thông tin phải có một trình độ nhận thức pháp luật nhất định. Nhận thức pháp
luật được xem là điều kiện quan trọng, là tiền đề tư tưởng trực tiếp cho việc
xây dựng, phát triển và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Đây cũng là cơ sở hình
thành văn hóa pháp lý của các chủ thể pháp luật, tạo cho chủ thể có khả năng
61
và kỹ năng sử dụng có hiệu quả cơ chế điều chỉnh pháp luật để bảo vệ lợi ích
cho bản thân mình, cho nhà nước, cho xã hội, xử sự đúng đắn, phù hợp trong
các mối quan hệ xã hội. Việc nâng cao nhận thức pháp luật nói chung, nhận
thức về quyền TCTT nói riêng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền
là vô cùng quan trọng. Bởi nếu nhận thức pháp luật thấp thì khó có thể xây
dựng và hoàn thiện được một hệ thống pháp luật khoa học, phù hợp đồng thời
các chủ thể cũng khó có thể thực hiện và áp dụng pháp luật chính xác, có hiệu
quả cao.
Đối với quyền TCTT, cần nhận thức rõ đây là quyền, tức là hành vi
được Nhà nước cho phép thực hiện và bảo đảm cho sự thực hiện đó. Người
dân không nên e ngại thực hiện quyền khi có nhu cầu một cách chính đáng.
Người dân cần phải làm quen với nếp sống chủ động đòi hỏi các cơ quan nhà
nước phải đáp ứng các yêu cầu tìm kiếm thông tin phục vụ cho cuộc sống
của mình chứ không thụ động, “mặc kệ” trước thông tin. Đồng thời, quyền
bao giờ cũng có giới hạn và việc thực hiện quyền luôn phải tuân theo trật tự
nhất định nên người thực hiện quyền không thể sử dụng quyền này để đòi hỏi,
yêu sách Nhà nước đáp ứng mọi đề nghị theo bất cứ cách nào mà người thực
hiện quyền đưa ra. Nói cách khác, nếu người dân nhận thức đúng đắn về việc
thực hiện quyền TCTT, về mối quan hệ hợp tác giữa Nhà nước và Nhân dân
trong quá trình thực hiện quyền thì quyền TCTT có thể được thực hiện dễ
dàng, mang lại những tác động tích cực cho xã hội. Ngược lại, nếu nhận thức
không đúng đắn thì việc thực hiện quyền có thể gặp những khó khăn từ cả hai
phía: nhà nước và người dân.
So với nhận thức của người dân, nhận thức của cán bộ, công chức nhà
nước ảnh hưởng mạnh mẽ hơn đến việc thực hiện quyền TCTT vì người dân
chỉ thực hiện được quyền này khi cán bộ, công chức nhà nước thực hiện nghĩa
vụ tương ứng của mình. Nếu nhìn nhận một cách tích cực, quyền TCTT là
62
nhân tố quan trọng góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của cơ quan nhà
nước. Một mặt, quyền này tác động ngược trở lại hoạt động của cơ quan nhà
nước ở chỗ buộc các cán bộ, công chức phải thận trọng trong tất cả các công
việc của mình. Mặt khác, quyền này giúp cho việc phát hiện những sai sót
trong hoạt động của cơ quan nhà nước được nhanh chóng, kịp thời, hạn chế
bớt hậu quả xấu do các hoạt động sai trái gây ra. Do đó, nếu cán bộ, công
chức nhà nước thấm nhuần quan điểm nhà nước có chức năng cơ bản là phục
vụ và thỏa mãn các nhu cầu thiết yếu chung của xã hội và của từng thành viên
trong đó, công chức nhà nước là công bộc của Nhân dân thì không chỉ thấy
việc Nhân dân kiểm soát hoạt động của nhà nước là tất yếu mà việc thừa nhận
và sửa chữa những sai sót của mình cũng trở nên đơn giản, nhẹ nhàng. Khi
đó, cán bộ, công chức sẽ tạo thuận lợi cho Nhân dân thực hiện quyền TCTT.
Trong trường hợp ngược lại, nếu cán bộ, công chức vẫn có tư duy thiên về
chức năng cai trị của nhà nước, cán bộ, công chức là các quan cách mạng, là
những người thuộc đẳng cấp cao hơn so với người dân thì việc thực hiện
quyền TCTT của người dân đương nhiên sẽ gặp nhiều khó khăn.
Hiện nay, nhu cầu về thông tin của người dân tỉnh Phú Yên vẫn rất lớn.
Hơn 90% người được hỏi cho rằng các cơ quan nhà nước cần có trách nhiệm
cung cấp thông tin; thông tin được được mong chờ nhất là chính sách hỗ trợ
của Nhà nước đối với người dân địa phương về vốn, giống cây trồng, kinh
doanh sản xuất, với tần suất 216 lần (90,76%), tiếp đó là các thông tin về đền
bù, giải phóng mặt bằng (35,71%), cơ hội việc làm, các vị trí tuyển dụng
(32,35%), các chính sách liên quan đến giáo dục, y tế (36,97%) (các kết quả
do học viên tự thu thập). Kết quả này không có gì bất ngờ khi hơn 70% dân số
của tỉnh Phú Yên sống ở nông thôn, chủ yếu là lao động trong lĩnh vực nông
nghiệp [7]. Vì vậy các chính sách hỗ trợ về nông nghiệp được người dân
mong chờ nhất, tiếp đó là các thông tin về giáo dục y tế, đất đai, việc làm –
63
những yếu tố tác động trực tiếp đến cuộc sống của người dân. Để quyền
TCTT được thực hiện đúng nội dung, mục đích thì phải tiếp tục thay đổi nhận
thức, phải giáo dục cho cả người dân và cán bộ, công chức nhà nước về địa vị
của người dân, vai trò của nhà nước trong xã hội, về mối quan hệ giữa nhà
nước và người dân trong những điều kiện, hoàn cảnh quản lí mới, về mục
đích, giá trị của quyền TCTT để người dân không thờ ơ cũng không lợi dụng
quyền và cán bộ, công chức không gây trở ngại cho việc thực hiện quyền
quan trọng này. Một số nội dung cụ thể bao gồm:
Thứ nhất, cần quán triệt quyền TCTT cho cán bộ, công chức với yêu
cầu tất cả cán bộ, công chức phải tôn trọng và thực hiện pháp luật về quyền
TCTT. Thường xuyên tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng và trang bị kiến thức về lý
luận và pháp luật về quyền TCTT đến cán bộ, công chức nhất là những người
liên quan trực tiếp đến việc thực hiện quyền TCTT của công dân.
Thứ hai, việc giáo dục, tuyên truyền pháp luật nói chung, giáo dục,
tuyên truyền về quyền TCTT của công dân nói riêng, cần được thực hiện
thường xuyên, sâu rộng đến tận người dân. Tuyên truyền bằng những chiến
dịch sâu rộng với những hình thức phù hợp với các nhóm đối tượng khác
nhau để thay đổi nhận thức của người dân về giá trị của quyền TCTT. Phối
hợp tuyên truyền, hỗ trợ pháp luật giữa các cơ quan nhà nước, các tổ chức
chính trị - xã hội đến người dân về quyền lợi và nghĩa vụ của mình khi thực
hiện quyền TCTT. Đa dạng hóa hình thức tuyên truyền phù hợp với khu vực
thành thị và nông thôn
để tạo thuận lợi cho việc tiếp cận thông tin, việc thiết lập trang
thông tin điện tử của các cơ quan, tổ chức nhằm công bố, đăng tải,
phổ biến rộng rãi thông tin. Đây cũng là một trong những phương
thức hữu hiệu để người dân có thể chủ động, dễ dàng tiếp cận thông
64
tin mà không phải mất nhiều thời gian hay phải yêu cầu các cơ quan
tổ chức cung cấp [28].
Khi tuyên truyền, phổ biến giáo dục về quyền TCTT cần giải thích,
phân tích cho người dân hiểu được rằng đây là những quyền rất cơ bản của
chính bản thân họ, được pháp luật công nhận mà người dân cần được hiểu và
thực hiện. Việc thực hiện đầy đủ quyền này cũng là việc thực hiện nghĩa vụ
công dân trong tham gia xây dựng chính quyền, xây dựng và phát triển địa
phương, cơ quan mình đang sống và làm việc. Từ đó, họ tự nguyện chấp hành
nghiêm túc các quyết định áp dụng pháp luật nói riêng và chấp hành pháp luật
nói chung, hình thành niềm tin và nâng cao ý thức trong thực hiện quyền.
2.2.3. Tổ chức th c hi n có hi u c, hi u u Lu t TCTT
Bên cạnh việc tiếp tục thực hiện các quy định về bảo đảm TCTT trong
một số lĩnh vực cụ thể đã được quy định trong các văn bản đã nêu trên, cần
triển khai tổ chức thực hiện một cách có hiệu quả Luật TCTT ngay khi nó có
hiệu lực kèm theo đó là các quy định, hướng dẫn thi hành. Trên cơ sở Kế
hoạch số 128/KH-UBND, ngày 22/8/2016 của UBND tỉnh Phú Yên về triển
khai thi hành Luật TCTT, các cơ quan, đơn vị, cán bộ, công chức cần xác
định cụ thể nội dung công việc, thời hạn, tiến độ hoàn thành và trách nhiệm
của các cơ quan, tổ chức có liên quan trong việc tổ chức triển khai thi hành
Luật TCTT, bảo đảm tính kịp thời, đồng bộ, thống nhất và hiệu quả; xác định
cơ chế phối hợp giữa các sở, ban, ngành, địa phương, cơ quan, tổ chức có liên
quan trong việc tiến hành các hoạt động triển khai thi hành Luật TCTT trên
phạm vi toàn tỉnh ngay khi Luật có hiệu lực. Cụ thể:
Một là, tổ chức quán triệt việc thi hành, phổ biến và tập huấn về các nội
dung của Luật.
Hai là, tổ chức rà soát các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành liên
quan đến quyền tiếp cận thông tin của công dân; đề xuất sửa đổi, bổ sung,
65
thay thế, bãi bỏ hoặc ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật để bảo
đảm phù hợp với Điều 3 của Luật TCTT.
Ba là, xây dựng Quy chế nội bộ của các cơ quan, đơn vị để thực hiện
việc cung cấp thông tin theo quy định của Luật.
Bốn là, vận hành cổng thông tin điện tử, trang thông tin điện tử.
Thường xuyên rà soát, phân loại, lập danh mục các thông tin phải được công
khai và thông tin không được công khai; xây dựng, vận hành cơ sở dữ liệu
thông tin mà cơ quan có trách nhiệm cung cấp, không cung cấp; duy trì, lưu
giữ, cập nhật cơ sở dữ liệu thông tin do cơ quan mình tạo ra. Số hóa các văn
bản, hồ sơ, tài liệu và kết nối với mạng điện tử trên toàn quốc để có thể truy
cập thông tin dễ dàng từ các hệ thống khác nhau nhằm tăng cường cung cấp
thông tin qua mạng điện tử. Đối với các thông tin đã được tạo ra trước thời
điểm Luật có hiệu lực, tiến hành số hóa theo quy định của pháp luật về lưu trữ
và lộ trình ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà
nước. Đối với các thông tin được tạo ra sau khi Luật có hiệu lực: thường
xuyên số hóa và ngay sau khi thông tin được tạo ra. Quan tâm đúng mức đến
vấn đề bảo đảm an toàn thông tin, dữ liệu điện tử.
Năm là, các sở, ban, ngành tỉnh và UBND cấp huyện, cấp xã rà soát đội
ngũ cán bộ, công chức, viên chức để có biện pháp bố trí bộ phận hoặc cán bộ,
công chức, viên chức đủ năng lực, trình độ làm đầu mối cung cấp thông tin;
ưu tiên bố trí những người có kinh nghiệm làm công tác pháp luật và tin học.
2.2.4. Đẩ ạnh c ng khai, inh bạch h ạt ộng của chính u n ịa hương
Công khai, minh bạch là một nguyên tắc trong hoạt động của các cơ
quan nhà nước, bên cạnh đó, đây cũng là một phương thức thực hiện quyền
TCTT của công dân. Công khai, minh bạch không chỉ là đòi hỏi, yêu cầu từ
phía người dân, từ phía xã hội mà còn là nguyên tắc và yêu cầu trong chính
bản thân các cơ quan, tổ chức. Qua công khai các thông tin về hoạt động của
66
mình, các cơ quan, tổ chức tự điều chỉnh để bảo đảm tổ chức và hoạt động
của mình đúng pháp luật, phục vụ người dân và xã hội. Những tiêu cực sẽ dễ
dàng bị phát hiện và ngăn chặn trên cơ sở sự giám sát của người dân cũng như
kiểm tra, giám sát trong hệ thống. Là một phương thức thực hiện quyền TCTT
của người dân, điều này đòi hỏi các cơ quan nhà nước phải công khai những
nội dung thông tin theo quy định của pháp luật. Các cơ quan, tổ chức, đơn vị
phải công khai, minh bạch chính sách, pháp luật và việc thực hiện chính sách,
pháp luật, bảo đảm công bằng, dân chủ; phải công khai hoạt động của mình,
trừ nội dung thuộc bí mật nhà nước và những nội dung khác theo quy định
của pháp luật. Hình thức công khai: công bố tại cuộc họp của cơ quan, tổ
chức, đơn vị; thông báo bằng văn bản đến cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân
có liên quan; niêm yết tại trụ sở làm việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị; phát
hành ấn phẩm; thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng; đưa lên
trang thông tin điện tử; cung cấp thông tin theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức,
cá nhân. Ngoài việc quy định về hình thức công khai thông tin, còn quy định
về các nội dung khác như thời điểm công khai, thời gian công khai, trách
nhiệm của các cơ quan, tổ chức thực hiện việc công khai, cùng các bảo đảm
việc công khai thông tin. Pháp luật cũng quy định về các biện pháp bảo đảm
thực hiện việc công khai, minh bạch hoạt động của các cơ quan nhà nước như
quy định quyền khiếu nại của người dân khi có sự vi phạm, quy định các chế
tài đối với các trường hợp vi phạm về hình thức, nội dung thực hiện công
khai, minh bạch, Và với những bảo đảm này, việc công khai, minh bạch
các thông tin về tổ chức, hoạt động của các cơ quan nhà nước được thực hiện
đúng đắn hơn, qua đó góp phần bảo đảm quyền TCTT của người dân.
Về trách nhiệm giải trình, khi có yêu cầu, cơ quan nhà nước có thẩm
quyền phải giải trình về quyết định, hành vi của mình trong việc thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn được giao trước cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền, lợi
67
ích hợp pháp bị tác động trực tiếp bởi quyết định, hành vi đó. Giải trình là
việc cơ quan nhà nước cung cấp, giải thích, làm rõ các thông tin về thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn được giao và trách nhiệm của mình trong việc thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn đó. Người giải trình là người đứng đầu cơ quan nhà
nước hoặc người được người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước ủy
quyền thực hiện việc giải trình. Người yêu cầu giải trình là cơ quan, tổ chức,
cá nhân có yêu cầu cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền giải trình về
những nội dung liên quan đến việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình.
Cần có sự phối hợp trong việc giải trình các nội dung liên quan đến nhiều cơ
quan. Thực tiễn cho thấy có nhiều trường hợp một vấn đề có liên quan đến
nhiều cơ quan cùng thực hiện do đó, cần có quy định về việc phối hợp giải
trình của nhiều cơ quan đảm bảo quyền TCTT của người dân được đầy đủ.
Để việc thực hiện công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của
các cơ quan nhà nước đạt hiệu quả cần nâng cao ý thức trách nhiệm của người
có thẩm quyền và các cán bộ, công chức, viên chức trong quá trình thực hiện.
Nếu ý thức trách nhiệm không cao, sẽ dẫn đến tình trạng không thực hiện
hoặc thực hiện không đầy đủ các quy định về công khai, minh bạch và trách
nhiệm giải trình, làm ảnh hưởng đến quyền TCTT của người dân. Để nâng
cao ý thức trách nhiệm cho những người có thẩm quyền, các cán bộ, công
chức, viên chức trong quá trình triển khai thực hiện các quy định về vấn đề
này, cần thực hiện tốt một số nội dung như: thứ nhất, thực hiện quán triệt các
quy định pháp luật về quyền TCTT và nâng cao nhận thức về vai trò của việc
thực hiện công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình, bảo đảm thực hiện
quyền TCTT của người dân; thứ hai, thường xuyên giám sát quá trình thực
hiện công khai, minh bạch cũng như tiếp nhận và thực hiện giải trình theo yêu
cầu của các cán bộ, công chức, viên chức. Nhắc nhở hoặc xử lý nghiêm minh
những trường hợp thiếu trách nhiệm, thực hiện không đúng, không đầy đủ các
68
trình tự, thủ tục, gây hạn chế đối với việc tiếp cận thông tin của người dân;
thứ ba, khen thưởng và có các hình thức khuyến khích các cán bộ, công chức,
viên chức có ý thức trách nhiệm trong việc thực hiện công khai, minh bạch và
trách nhiệm giải trình trong cơ quan. Thường xuyên có sự động viên, nhắc
nhở của lãnh đạo cơ quan và của tổ chức công đoàn trong việc thực hiện các
chức trách, nhiệm vụ được giao, trong đó có việc thực hiện các quy định pháp
luật về công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình.
2.2.5. Tăng cường gi s t, thanh tra, xử vi hạ h u t v u n TCTT
Thực tiễn cho thấy, các cơ quan nắm giữ thông tin thường có xu hướng
không muốn cung cấp hoặc trì hoãn việc cung cấp thông tin nếu không có cơ
chế giám sát chặt chẽ. Để quyền TCTT của người dân được thực thi, đồng
thời, hạn chế việc các cơ quan nắm giữ thông tin lạm dụng quyền hạn của
mình từ chối hoặc không kịp thời cung cấp thông tin, cần có một cơ chế thanh
tra, giám sát, xử lý vi phạm nếu xảy ra đủ mạnh để bảo đảm quyền TCTT của
người dân.
Để bảo đảm quyền TCTT của người dân trong điều kiện Việt Nam nói
chung và Phú Yên nói riêng không thành lập một cơ quan hoàn toàn độc lập
chuyên trách giám sát việc bảo đảm quyền TCTT phải có cơ chế theo dõi, đôn
đốc, kiểm tra việc bảo đảm quyền TCTT. Thứ nhất, tăng cường giám sát của
Đảng đối với việc thực hiện quyền con người, quyền công dân nói chung,
quyền TCTT của người dân nói riêng. Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước và xã hội được quy định trong Điều 4 của Hiến pháp 2013. Giám sát là
một trong những phương thức để Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội điều này
được khẳng định trong Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam khóa X, XI. Các tổ
chức Đảng không trực tiếp giám sát việc thực thi quyền lực nhà nước nhưng
thực hiện hoạt động giám sát đối với tổ chức Đảng cấp dưới và các đảng viên.
Thứ hai, có thể thực hiện cơ chế giám sát của cơ quan quyền lực với các cơ
69
quan hành chính. Theo đó, HĐND giám sát việc bảo đảm thực hiện quyền
TCTT của nhân dân địa phương; định kỳ hằng năm, xem xét báo cáo của
UBND cùng cấp về tình hình thực hiện quyền tiếp cận thông tin của công dân
trên địa bàn. Thứ ba, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên
các cấp có trách nhiệm giám sát, phản biện xã hội trong việc bảo đảm thực
hiện quyền TCTT của người dân. Giám sát và phản biện xã hội chính là
phương thức đơn giản để giúp người dân tham gia vào các công việc của nhà
nước nói chung và qua đó thực hiện quyền làm chủ của mình. Chính vì nhận
thức như vậy nên Đại hội Đảng lần thứ X đã đặt ra yêu cầu cho các cơ quan
nhà nước phải tạo lập cơ chế để Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể
nhân dân có thể thực hiện tốt vai trò giám sát, tăng cường tiếp xúc, đối thoại
với nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân về những vấn đề mà người dân
quan tâm. Mọi chủ trương, chính sách cũng không hẳn luôn bám sát với sự
biến đổi nhanh chóng của đời sống thực tiễn, cho nên những phản ánh từ thực
tiễn là vô cùng cần thiết cho những điều chỉnh về chính sách, pháp luật. Giám
sát và phản biện ở Việt Nam hiện nay còn là một vấn đề khá mới mẻ nên chưa
có những tác động rõ rệt. Tuy vậy, cần tiếp tục tạo điều kiện cho cơ chế này
có thể hoạt động hiệu quả.
2.2.6. C c gi i h kh c
Thứ nhất, xây dựng và đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng. Chú
trọng đến công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nhằm nâng cao năng
lực thực thi công vụ, đảm bảo thực hiện hiệu quả chức năng, nhiệm vụ, đẩy
mạnh cải cách hành chính. Đối với những vị trí cần phải tiếp xúc với người
dân ở mật độ cao thì không những phải đảm bảo được chất lượng về chuyên
môn mà còn cần được đảm bảo về những kỹ năng tiếp xúc với người dân -
vốn đa số không có nhiều hiểu biết và đang rất cần sự giúp đỡ, hướng dẫn của
các cán bộ, công chức thực hiện nhiệm vụ tiếp nhận yêu cầu cung cấp thông
70
tin đặc biệt là đội ngũ cán bộ, công chức ở cơ sở. Bởi lẽ, lực lượng cán bộ,
công chức cấp cơ sở là nhưng người ngoài việc trực tiếp tổ chức thực hiện
mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước còn
phải trực tiếp giải quyết những vấn đề phát sinh hàng ngày tại địa phương.
Đặc biệt đối với những địa phương nghèo, ở vùng sâu, vùng xa thì nhu cầu
đội ngũ cán bộ có năng lực cao lại càng cần thiết. Do vậy, việc xây dựng đội
ngũ cán bộ, công chức là yêu cầu cơ bản và cấp bách nhằm đảm bảo ổn định
chính trị - xã hội, tạo ra nguồn động lực mới giúp phát huy nội lực ở cơ sở,
đáp ứng đòi hỏi nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, góp phần vào
công cuộc đổi mới đất nước.
Thứ hai, các cơ quan báo chí có trách nhiệm đăng, phát sóng tác phẩm,
ý kiến của người dân; trong trường hợp không đăng hay phát sóng phải trả lời
và nói rõ lý do; trả lời hoặc yêu cầu tổ chức, người có thẩm quyền trả lời bằng
thư hoặc trên báo chí về kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của người dân. Cung cấp
thông tin cho báo chí vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của các cơ quan và công
chức nhà nước. Các chính quyền cơ sở có trách nhiệm công khai kế hoạch
kinh tế xã hội, phương án cơ cấu kinh tế và dự toán, quyết toán ngân sách
hằng năm; dự án đầu tư, phương án đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, tái
định cư; quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất.
Thứ ba, ứng dụng thành tựu khoa học, công nghệ bảo đảm quyền
TCTT; xây dựng và duy trì việc cung cấp thông tin qua các trang thông tin
điện tử của các sở, ban, ngành, các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh tạo điều
kiện thuận lợi để tổ chức, cá nhân dễ dàng truy nhập thông tin và dịch vụ
hành chính công trên môi trường mạng. Tăng cường hướng dẫn phương pháp
truy nhập và sử dụng thông tin, dịch vụ hành chính công trên môi trường
mạng. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong xử lý công việc, tăng
cường sử dụng văn bản điện tử trong công tác quản lý, điều hành và trao đổi
71
thông tin; đẩy mạnh ứng dụng chữ ký số. Tăng cường sử dụng, khai thác các
hệ thống thông tin. Đẩy nhanh việc xây dựng cơ sở dữ liệu chuyên ngành,
đồng thời số hóa những nguồn thông tin chưa ở dạng số nhằm đáp ứng yêu
cầu cung cấp thông tin, phục vụ quản lý, nghiên cứu và tích hợp vào cơ sở dữ
liệu chung. Đây là cách thức kinh tế và hiệu quả nhất hiện nay, nếu áp dụng
tốt sẽ giúp giảm thiểu số lượng yêu cầu cung cấp thông tin của người dân gửi
đến các cơ quan nhà nước. Cần quy định việc kết nối các trang thông tin điện
tử của các cơ quan trong bộ máy nhà nước để tạo mạng lưới thông tin hoàn
chỉnh, thuận lợi tối đa cho người dân tiếp cận thông tin.
Thứ tư, củng cố, kiện toàn công tác văn thư, lưu trữ, thống kê; tạo điều
kiện thuận lợi nhất về địa điểm, không gian nơi cung cấp, tiếp nhận thông tin;
trang bị phương tiện kỹ thuật, công nghệ thông tin và điều kiện cần thiết khác
để người dân có nhu cầu về thông tin có thể trực tiếp đọc, xem, nghe, ghi
chép, sao chép, chụp tài liệu tại trụ sở cơ quan nhà nước đồng thời góp phần
nâng cao chất lượng, hiệu suất làm việc cho cán bộ, công chức, người làm
nhiệm vụ công khai và cung cấp thông tin, đảm bảo quyền TCTT của người
dân được thực hiện thuận lợi, hiệu quả.
72
Tiểu k t chương 2
Các bảo đảm pháp lý thực hiện quyền TCTT ở Phú Yên chỉ mới đạt
được những bước đi đầu tiên, tạo cơ sở cho việc thực thi Luật TCTT sắp có
hiệu lực. Nguyên nhân chủ yếu do trình độ người dân trên địa bàn tỉnh còn
thấp, thiếu quan tâm đến pháp luật trong khi quyền TCTT là một quyền mới
với người dân địa phương, ý nghĩa, vai trò và lợi ích quyền TCTT chưa đi
vào cuộc sống. Mặt khác, nhận thức của cán bộ, công chức, cơ quan nhà
nước trên địa bàn tỉnh về quyền TCTT chưa cao, chưa hiểu hết về quyền của
người dân và trách nhiệm bảo đảm thực hiện quyền TCTT của cơ quan nhà
nước; chưa chủ động về các biện pháp đưa quy định Luật vào đời sống, còn
tâm lý mong chờ, ỷ lại vào cấp trên. Trong thời gian tới, các cơ quan đơn vị
trên địa bàn tỉnh cần nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ công chức về
quyền TCTT, tiếp tục cải cách hành chính, công khai thông tin theo quy
định, đẩy mạnh công khai, minh bạch, tạo điều kiện cho người dân địa
phương thực hiện quyền TCTT của mình sao cho quyền này vừa là phương
thức để người dân kiểm soát hoạt động của nhà nước một cách hữu hiệu, vừa
thu hút mọi người dân tham gia tích cực vào việc giải quyết các công việc
chung của địa phương, của cộng đồng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế,
xã hội của tỉnh nhà.
73
KẾT LUẬN
Nhu cầu về thông tin được coi là một nhu cầu bức thiết hàng ngày của
người dân, giải quyết tốt vấn đề thông tin sẽ góp phần đắc lực trong việc tạo
sự đồng thuận và ổn định xã hội, là tiền đề quan trọng cho sự phát triển bền
vững. Đặc biệt trong thời đại bùng nổ về công nghệ thông tin hiện nay, thông
tin có thể được tiếp cận từ nhiều nguồn khác nhau và do đó mà việc xác định
đâu là nguồn thông tin chính thống hay không chính thống rất khó khăn.
Chính sự đa chiều về thông tin sẽ làm nảy sinh tiêu cực, tham nhũng, thậm chí
bị lợi dụng để xuyên tạc, gây bức xúc trong xã hội và là yếu tố có thể gây mất
ổn định an ninh - chính trị. Quyền TCTT là quyền của công dân trong một xã
hội dân chủ pháp quyền, là chuẩn mực xác nhận của một xã hội trong đó
người dân có tự do, có quyền lực thực sự. Quyền này có ý nghĩa quan trọng
trong cơ cấu các quyền con người cũng như quyền công dân. Nhận thức được
điều này, trong thời gian qua, Nhà nước ta đã rất chú trọng đến quyền được
tiếp cận thông tin của người dân, đến trách nhiệm của cơ quan nhà nước phải
công khai thông tin do mình nắm giữ. Thông qua các quy định pháp luật, chủ
trương “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đã từng bước đi vào cuộc
sống. Luật TCTT được ban hành là một bước thể hiện sự quan tâm đúng mực
của nhà nước trong việc bảo đảm quyền TCTT của người dân.
Vấn đề tiếp cận thông tin không phải là vấn đề mới mẻ ở Việt Nam
nhưng lại là vấn đề còn khá xa lạ với cán bộ, công chức và người dân tỉnh Phú
Yên. Vì vậy, việc thực hiện quyền và bảo đảm thực hiện quyền ở đây còn rất
hạn chế. Người dân không biết mình có quyền còn cơ quan nhà nước lại dè
dặt, e ngại khi nhắc đến vấn đề cung cấp thông tin. Những khó khăn, tồn tại
trong bảo đảm pháp lý quyền TCTT tại Phú Yên đã đặt ra cho chính quyền
địa phương, cán bộ, công chức một bài toán cho việc vận dụng, thực hiện
Luật một cách hợp pháp và hợp lý, phù hợp với tình hình, đặc điểm địa
74
phương. Căn cứ trên quy định của pháp luật, chính quyền địa phương cần xây
dựng những văn bản chỉ đạo thực hiện một cách nghiêm túc quyền TCTT.
Nâng cao nhận thức, năng lực của người dân và cán bộ nhà nước về quyền
TCTT, tuyên truyền, phổ biến nhằm đưa nội dung của Luật TCTT đi vào đời
sống. Tăng cường trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong bảo đảm quyền
TCTT, cung cấp các điều kiện về pháp lý và cơ sở vật chất tạo điều kiện cho
người dân thực hiện quyền. Đẩy mạnh công khai, minh bạch, nâng cao hiệu
quả cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin trong việc cung cấp
thông tin. Kiểm tra, phát hiện và xử lý kịp thời những hành vi vi phạm đến
việc thực hiện quyền TCTT của người dân nếu có. Với những giải pháp được
nêu, hy vọng quyền TCTT sẽ thực sự đi vào đời sống, phát huy vai trò làm
chủ của nhân dân, tạo đà cho sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội tỉnh Phú
Yên trong thời gian sắp tới.
75
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dương Thị Bình (2009), “Thực trạng quyền tiếp cận thông tin ở Việt
Nam”, Nghiên cứu lập pháp, số 17 (154).
2. Lê Bí Bo (2008), “Quyền tiếp cận thông tin lý luận và thực tiễn ở Việt
Nam”, Hội thảo khoa học: Quyền tiếp cận thông tin- Lý luận và thực
tiễn ở Việt Nam, Viện nghiên cứu quyền con người - Học viện Chính
trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh - Đại sứ quán Anh, Hà Nội.
3. Bộ Tư pháp (2011), Báo cáo phục vụ báo cáo phục vụ dự án xây dựng luật
tiếp cận thông tin, Hà Nội.
4. Bộ Tư pháp (2011), Đề tài khoa học cấp Bộ “Cơ sở lý luận và thực tiễn của
việc hoàn thiện luật về tiếp cận thông tin phục vụ xây dựng luật tiếp
cận thông tin”, Hà Nội.
5. Bộ Tư pháp (2015), Báo cáo Đánh giá thực trạng pháp luật về bảo đảm
quyền tiếp cận thông tin của công dân, Hà Nội.
6. Bộ Tư pháp (2016), Giới thiệu Luật Tiếp cận thông tin số 104/2016/QH13
được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 06/4/2016].
7. Chi cục Thống kê tỉnh Phú Yên (2016), Niên giám thống kê tỉnh Phú Yên
2015, Nxb Thống kê, Hà Nội.
8. Chính phủ (2003), Nghị định số 79/2003/NĐ-CP ngày 07/7/2003 ban hành
quy chế dân chủ thực hiện dân chủ ở xã, Hà Nội.
9. Đoàn Văn Chung (2014), Quyền tiếp cận thông tin và việc bảo đảm thực
hiện ở Việt Nam, Luận án Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật – Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
10. Nguyễn Đăng Dung (2011), “Những hạn chế và bất cập của pháp luật về
tiếp cận thông tin ở Việt Nam hiện nay”, Đề tài khoa học cấp bộ năm
2009-2010 Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện pháp luật về
76
TCTT phục vụ xây dựng Luật TCTT, Viện Khoa học pháp lý – Bộ Tư
pháp chủ trì.
11. Thái Thị Tuyết Dung (2014), Quyền được thông tin của công dân ở Việt
Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật TP. Hồ
Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991) , Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VII, Hà Nội.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006) , Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Hà Nội.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011) , Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Hà Nội.
15. Vũ Công Giao (2010), “Luật Tiếp cận thông tin: Một số vấn đề lý luận,
pháp lý và thực tiễn trên thế giới”, Khoa học Đại học Quốc gia Hà
Nội, Luật học 26, tr. 180-192.
16. Chu Thị Thái Hà (2009), “Thông tin được tiếp cận và nội hàm của quyền
tiếp cận thông tin”, Nghiên cứu lập pháp, số 17 (154), tr. 35-44.
17. Bùi Thị Hải (2016), Quyền tiếp cận thông tin trong quản lý hành chính
nhà nước, Luận văn Tiến sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội, Hà
Nội.
18. Nguyễn Thị Hạnh (2009), “Sự cần thiết ban hành Luật tiếp cận thông tin”,
Nghiên cứu lập pháp, số 17(154).
19. Nguyễn Quang Hiền (2004), “Pháp luật – phương tiện quan trọng bảo vệ
quyền con người”, Khoa học pháp lý, số 01.
20. Phạm Quang Hòa (2010), Quyền Tiếp cận thông tin của công dân, Luận
văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
21. Tô Văn Hòa (2011), “Những nguyên tắc cơ bản của dự luật TCTT”, Đề
tài khoa học cấp bộ năm 2009-2010 Cơ sở lý luận và thực tiễn của
77
việc hoàn thiện pháp luật về TCTT phục vụ xây dựng Luật TCTT, Viện
Khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp chủ trì.
22. Hội đồng nhân dân tỉnh Phú Yên (2007), Nghị quyết số 90/2007/NQ-
HĐND, ngày 07/12/2007 về việc tiếp tục chỉ đạo thực hiện Luật
Phòng, chống tham nhũng; Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí
trên địa bàn tỉnh, Phú Yên.
23. Hội đồng nhân dân tỉnh Phú Yên (2010), Nghị quyết số 156/2010/NQ-
HĐND, ngày 16/7/2010 về phát triển công nghệ thông tin giai đoạn
2011-2015 và định hướng đến năm 2020 tỉnh Phú Yên, Phú Yên.
24. Hội đồng nhân dân tỉnh Phú Yên (2017), Nghị quyết số 83/NQ-HĐND,
ngày 22/02/2017 Ban hành Quy chế tiếp công dân của Thường trực
HĐND và đại biểu HĐND tỉnh Phú Yên khóa VII, nhiệm kỳ 2016 –
2021, Phú Yên.
25. Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật Trung ương (2016), Đặc
san tuyên truyền pháp luật, số 07.
26. Lạc Hồng (2017), Chỉ số PAPI Phú Yên tăng 6 bậc, Trang thông tin điện
tử Báo Phú Yên.
28. Nguyễn Công Hồng, Hoàng Thị Ngân (2010), “Nhà nước pháp quyền và
đảm bảo quyền tiếp cận thông tin của công dân”, Dân chủ và pháp
luật, số chuyên đề Xây dựng Luật tiếp cận thông tin.
29. Mai Thị Kim Huế (2009), “Phạm vi chủ thể có trách nhiệm cung cấp
thông tin”, Nghiên cứu lập pháp, số 17 (154), tr. 28-34.
30. Đỗ Thu Hương (2012), Quyền Tiếp cận thông tin trong pháp luật quốc tế
và pháp luật Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Lý luận và lịch sử Nhà nước
và Pháp luật, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
31. Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội (2011), Giáo trình Lý luận và pháp
luật về quyền con người, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
78
32. Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội (2011), Tiếp cận Thông tin: Pháp
luật và thực tiễn trên thế giới và ở Việt Nam, Trung tâm Nghiên cứu
quyền con người – Quyền Công dân và Trung tâm Luật So sánh, Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
33. Tường Duy Kiên (2008), "Quyền tiếp cận thông tin: Quy định quốc tế và
đặc điểm chung của Luật một số nước", Nghiên cứu lập pháp, số 7
(112-114).
34. Đinh Quỳnh Mây (2014), Xây dựng cơ chế bảo đảm quyền Tiếp cận thông
tin ở Việt Nam từ kinh nghiệm các nước trên thế giới. Luận văn Thạc
sỹ Luật học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội]
35. Lê Thị Hồng Nhung (2011), “Tiếp cận quyền TCTT dưới góc độ quyền
con người”, Nghiên cứu lập pháp, số 5, tr. 22-32.
36. Quốc hội (1946), Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Hà Nội.
37. Quốc hội (1992), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
Hà Nội.
38. Quốc hội (2005), Luật Phòng chống tham nhũng (được sửa đổi, bổ sung
năm 2007, 2012), Hà Nội.
39. Quốc hội (2012), Luật Xuất bản, Hà Nội
40. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
Hà Nội.
41. Quốc hội (2013), Luật Thực hành tiết kiệm chống lãng phí, Hà Nội.
42. Quốc hội (2014), Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Hà Nội.
43. Quốc hội (2014), Luật Nhà ở, Hà Nội.
44. Quốc hội (2015), Luật Kiểm toán nhà nước, Hà Nội.
45. Quốc hội (2016), Luật Báo chí, Hà Nội.
46. Quốc hội (2016), Luật Tiếp cận thông tin, Hà Nội.
79
47. Sở Tư pháp tỉnh Phú Yên (2017), Trang thông tin điện tử
www.sotuphap.phuyen.gov.vn.
48. Đoàn Phan Tân (2001), “Về khái niệm thông tin và các thuộc tính làm
nên giá trị của thông tin”, Tạp chí Văn hóa – Nghệ thuật, số 3, Hà Nội.
49. Thái Vĩnh Thắng (2009), “Quyền TCTT – Điều kiện thực hiện các quyền
con người và quyền công dân”, Nghiên cứu lập pháp, số 17 (154), tr.
3-9.
50. Thủ tướng Chính phủ (2003), Quyết định số 181/2003/QĐ-TTg ngày
04/9/2003 về việc ban hành Quy chế thực hiện cơ chế "một cửa" tại cơ
quan hành chính nhà nước ở địa phương, Hà Nội.
51. Trung tâm Pháp luật và Dân chủ (2015), Việt Nam: Báo cáo phân tích Dự
thảo Luật Tiếp cận thông tin.
52. Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Yên (2007), Chỉ thị số 42/2007/CT-UBND,
ngày 21/12/2007 về việc chấn chỉnh việc thực hiện chế độ thông tin,
báo cáo trong hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước trên
địa bàn tỉnh, Phú Yên.
53. Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Yên (2008), Chỉ thị số 20/CT-UBND, ngày
03/7/2008 về việc triển khai thực hiện Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở
xã, phường, thị trấn số 34-PL/UBTVQH11 ngày 20/4/2007 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội và Nghị định số 87/2007/NĐ-CP ngày
28/5/2007 của Chính phủ ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở công
ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, Phú Yên.
54. Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Yên (2013), Quyết định số 25/2013/QĐ-UBND,
ngày 16/9/2013 ban hành Quy chế hoạt động của hệ thống cán bộ,
công chức làm đầu mối thực hiện nhiệm vụ kiểm soát thủ tục hành
chính trên địa bàn tỉnh Phú Yên, Phú Yên.
80
55. Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Yên (2013), Quyết định số 24/2013/QĐ-UBND,
ngày 16/8/2013 ban hành Quy chế phát ngôn và cung cấp thông tin
cho báo chí trên địa bàn tỉnh Phú Yên, Phú Yên.
56. Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Yên (2016), Kế hoạch số 128/KH-UBND, ngày
22/8/2016 về triển khai thi hành Luật Tiếp cận thông tin, Phú Yên.
57. Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Yên (2017), Công văn số 2362/UBND-KGVX,
ngày 10/05/2017 yêu cầu Thủ trưởng các sở, ban, ngành; Chủ tịch
UBND các huyện, thị xã, thành phố thực hiện công tác phát ngôn,
cung cấp thông tin cho báo chí, Phú Yên.
58. Ủy Ban Thường vụ Quốc hội (2007), Pháp lệnh số 34/2007/PL-
UBTVQH11 ngày 05/4/2007 thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn
năm 2007, Hà Nội.
58. Nguyễn Như Ý (Chủ biên) (1998), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa,
Hà Nội.
81
PHỤ LỤC 1
KẾT QUẢ KHẢO SÁT NHẬN THỨC VÀ NHU CẦU
CỦA NGƢỜI DÂN VỀ QUYỀN TCTT Ở PHÚ YÊN
1. Đối tƣợng: cán bộ, công chức và người dân ở 03 huyện, thành phố ở
tỉnh Phú Yên.
2. Địa bàn khảo sát: thành phố Tuy Hòa, huyện Tây Hòa và huyện
Sông Hinh.
3. Hình thức khảo sát: phát phiếu, hỗ trợ ghi chép phiếu ( trong trường hợp
cần thiết). Trong đó:
- Số lượng phiếu phát ra: 250 phiếu.
- Số lượng phiếu thu vào: 238 phiếu.
4. Thời gian thực hiện: tháng 3/2017.
5. Kết quả
Về độ tuổi:
82
Về nghề nghiệp:
Về nội dung chính:
Câu 1: Ông/bà có biết về quyền TCTT của công dân không?
- 56/238 người trả lời có biết, chiếm tỷ lệ 23,53% (trong đó có 28
người là cán bộ, công chức).
- 182 người trả lời không biết, chiếm tỷ lệ 76,47% (trong đó có 19
người là cán bộ, công chức
Câu 2: Theo ông/bà, cơ quan nhà nước có trách nhiệm phải cung cấp
thông tin cho người dân không?
- 215/238 người trả lời có, chiếm tỷ lệ 90,34%.
- 23/238 người trả lời không, chiếm tỷ lệ 9,66%.
Câu 3: Ông/bà tìm kiếm, tiếp nhận thông tin về kinh tế, văn hóa, xã hội
địa phương, thông tin về các quy trình, thủ tục hành chính bằng hình thức
nào? (Có thể chọn nhiều đáp án).
- Đọc báo: 32 người, tỷ lệ 13,45%.
- Xem ti vi: 179 người, tỷ lệ 75,21%.
- Đài phát thanh: 147 người, tỷ lệ 61,76%.
- Các cuộc họp thôn, khu phố: 96 người, tỷ lệ 40,34%.
83
- Qua Internet: 82 người, tỷ lệ 34,45%.
- Bẳng niêm yết tại các cơ quan nhà nước: 35 người, 14,71%.
- Trực tiếp đến cơ quan nhà nước, gặp cán bộ, công chức để hỏi: 17
người, 7,14%.
- Nhờ người quen là cán bộ, công chức: 28 người, tỷ lệ 11,76%.
Câu 4: Những thông tin mà ông/bà muốn cơ quan nhà nước cung cấp?
(có thể chọn nhiều đáp án)
Nội dung Tần suất Tỷ lệ
1. Chính sách hỗ trợ của nhà nước đối với người
dân địa phương về vốn, giống cây trồng, kinh
doanh sản xuất
216 90.76%
2. Đền bù, giải phóng mặt bằng 85 35.71%
3. Cơ hội việc làm, các vị trí tuyển dụng 77 32.35%
4. Các chính sách liên quan đến giáo dục, y tế 88 36.97%
5. Các thông tin khác 19 7.98%
84
PHỤ LỤC 2
PHIẾU KHẢO SÁT
NHẬN THỨC VÀ NHU CẦU CỦA NGƢỜI DÂN VỀ QUYỀN TIẾP
CẬN THÔNG TIN
I. Thông tin chung của ngƣời đƣợc khảo sát
Ông/bà vui lòng điền thông tin vào ô trống bên dưới
II. Nội dung câu hỏi
Ông/bà vui lòng đánh dấu (x) vào ô có sự lựa chọn tương ứng
Câu 1. Ông/bà có biết về quyền tiếp cận thông tin của công dân?
☐ Có ☐ Không
Câu 2: Theo ông/bà, cơ quan nhà nước có trách nhiệm phải cung cấp
thông tin cho người dân.
☐ Có ☐ Không
Câu 3: Ông/bà tìm kiếm, tiếp nhận thông tin về kinh tế, văn hóa, xã hội
địa phương, thông tin về các quy trình, thủ tục hành chính bằng hình thức
nào? (Có thể chọn nhiều đáp án).
☐ Đọc báo ☐ Xem ti vi
☐ Đài phát thanh ☐ Các cuộc họp thôn, khu phố
☐ Qua mạng internet
☐ Bảng niê3m yết tại cơ quan nhà nước
85
☐ Trực tiếp đến cơ quan nhà nước để hỏi
☐ Nhờ người quen là cán bộ, công chức
Câu 4: Những thông tin mà ông/bà muốn cơ quan nhà nước cung cấp?
(có thể chọn nhiều đáp án)
☐ Chính sách hỗ trợ của nhà nước đối với người dân địa
phương về vốn, giống cây trồng, kinh doanh sản xuất
☐ Đền bù, giải phóng mặt bằng
☐ Cơ hội việc làm, các vị trí tuyển dụng
☐ Các chính sách liên quan đến giáo dục, y tế
☐ Các thông tin khác:
Cảm ơn ông/bà đã tham gia khảo sát !
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_bao_dam_phap_ly_thuc_hien_quyen_tiep_can_thong_tin.pdf