Luận văn Cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” tại Ủy ban nhân dân cấp phường tại quận Nam Từ Liêm

Trong những năm vừa qua, cải cách hành chính đạt được những kết quả tích cực; đã kiện toàn tổ chức bộ máy, đề cao trách nhiệm của người đứng đầu và cán bộ, công chức; tập trung cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin, công khai, đơn giản hóa thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian thực hiện, tạo điều kiện thuận lợi, giảm chi phí, tiết kiệm thời gian cho người dân, doanh nghiệp; tiếp tục hoàn thiện phương thức hoạt động và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong các cơ quan hành chính nhà nước. Tuy nhiên, cải cách hành chính, đặc biệt là cải cách TTHC còn nhiều hạn chế, ở một số mặt chưa đạt yêu cầu. Thủ tục hành chính trong nhiều lĩnh vực vẫn còn phiền hà, gây bức xúc cho người dân, tổ chức. Trong bối cảnh đất nước tham gia hội nhập sâu vào các nền kinh tế thế giới, hệ thống thể chế, hệ thống thủ tục hành chính rườm rà, khác biệt cùng phương thức quản lý, tổ chức bộ máy, phong cách, lề lối làm việc xưa cũ bắt buộc phải được thay đổi một cách căn bản, nếu không sẽ là lực cản trên con đường xây dựng đất nước. Cấp phường là đơn vị hành chính cơ sở trực tiếp và gần dân nhất, mọi thủ tục hành chính đều gắn liền với quyền lợi của người dân, và qua công việc se tạo những hình ảnh về người cán bộ, công chức trước người dân. Do đó, để nghiên cứu đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện hiệu quả hoạt động của cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” các phường tại quận Nam Từ Liêm.

pdf120 trang | Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 2771 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” tại Ủy ban nhân dân cấp phường tại quận Nam Từ Liêm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt của cả nhiệm kỳ công tác; xây dựng kế hoạch thực hiện cụ thể trong từng thời gian, từng lĩnh vực; phân công rõ trách nhiệm của từng cơ quan, tổ chức và cán bộ, công chức, viên chức; tăng cường kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện Chương trình. - Tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức bằng các hình thức phù hợp, có hiệu quả. Quy định rõ và đề cao trách nhiệm của người đứng đầu. Tiếp tục ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quy 90 định về chức danh, tiêu chuẩn của từng vị trí việc làm của cán bộ, công chức, viên chức trong từng cơ quan, tổ chức, từng ngành, từng lĩnh vực, từng địa phương, làm cơ sở cho tinh giản tổ chức và tinh giản biên chế. Tăng cường tính công khai, minh bạch, trách nhiệm của hoạt động công vụ. Có chính sách đãi ngộ, động viên, khuyến khích cán bộ, công chức, viên chức hoàn thành tốt nhiệm vụ và có cơ chế loại bỏ, bãi miễn những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật, mất uy tín với nhân dân. - Nâng cao năng lực, trình độ đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác cải cách hành chính ở các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, chính quyền địa phương các cấp. Đồng thời, có chế độ, chính sách hợp lý đối với đội ngũ cán bộ, công chức chuyên trách làm công tác cải cách hành chính các cấp. - Thường xuyên kiểm tra, đánh giá việc thực hiện cải cách hành chính để có những giải pháp thích hợp nhằm đẩy mạnh cải cách hành chính. Xây dựng Bộ chỉ số theo dõi, đánh giá cải cách hành chính ở các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Quy định kết quả thực hiện cải cách hành chính là tiêu chí để đánh giá công tác thi đua, khen thưởng và bổ nhiệm cán bộ, công chức, viên chức. - Phát triển đồng bộ và song hành, tương hỗ ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông với cải cách hành chính nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cơ quan hành chính nhà nước, đơn vị sự nghiệp dịch vụ công, của cán bộ, công chức, viên chức trong thực thi công vụ, của tổ chức, cá nhân tham gia vào công tác cải cách hành chính và giám sát chất lượng thực thi công vụ của cán bộ, công chức, viên chức. - Đảm bảo kinh phí cho việc thực hiện Chương trình. - Cải cách chính sách tiền lương nhằm tạo động lực thực sự để cán bộ, công chức, viên chức thực hiện công vụ có chất lượng và hiệu quả cao. 91 Đối với thành phố Hà Nội, Thành ủy Hà Nội đã đề ra những chỉ tiêu riêng về cải cách TTHC tại Chương trình 08-CTr/TU của Thành ủy Hà Nội khóa XVI về đẩy mạnh cải cách hành chính, tạo bước chuyển mạnh về kỷ luật, kỷ cương, ý thức trách nhiệm, chất lượng phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2016 – 2020 theo lộ trình như sau:  Đến cuối năm 2017, cung cấp từ 40% - 50% dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4; đến năm 2020 cung cấp từ 70% - 80% dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4 tại tất cả các sở, ban, ngành, cấp huyện và cấp xã.  Đến năm 2018, mức độ hài lòng của người dân, doanh nghiệp về sự phục vụ của cơ quan hành chính và giải quyết TTHC đạt trên 80%.  Đến năm 2019, phấn đấu 25% số lượng TTHC được tinh gọn, đơn giản hóa về thành phần hồ sơ, quy trình, rút ngắn thời gian và tiết giảm chi phí tuân thủ TTHC, tập trung vào các nhóm TTHC về đầu tư, xây dựng, du lịch, đất đai, hạ tầng kỹ thuật đô thị, đường bộ, lưu thông hàng hóa và tiêu dùng, xuất bản, báo chí, viễn thông, văn hóa, thể thao  Đến năm 2020, 100% các TTHC có liên quan đến tổ chức và cá nhân được thực hiện thông qua cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông; được chuẩn hóa, kịp thời công bố, công khai trên cơ sở dữ liệu quốc gia về TTHC và niêm yết đồng bộ, thống nhất tại nơi tiếp nhận, giải quyết TTHC. Phấn đấu 100% số lượng hồ sơ hành chính được giải quyết đúng hạn hoặc trước hạn. Riêng đối với quận Nam Từ Liêm, từ kết quả và những tác động tích cực đối với nền HCNN do thực hiện cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” đem lại, chính quyền quận Nam Từ Liêm nhận thấy cần tiếp tục duy trì, phát triển cơ chế này trong giải quyết các công việc của người dân, tổ chức tại các cấp hành chính địa phương với những quy định chặt chẽ và chất lượng phục vụ tốt hơn. Để đẩy mạnh cải cách TTHC theo cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông”, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và tổ chức, UBND quận Nam Từ Liêm cần thực hiện một số phương hướng như sau: 92 3.1.1. Chỉ đạo thống nhất việc thực hiện cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” UBND quận Nam Từ Liêm đã chỉ đạo UBND các phường thống nhất thực hiện cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” tập trung tại các cấp hành chính theo đúng quy định, trong đó ở cấp phường chỉ tổ chức một bộ phận tiếp nhận và trả kết quả tập trung tại bộ phận một cửa cấp phường. Khi công dân đến nộp hồ sơ tại bộ phận một cửa, nếu hồ sơ đủ điều kiện thụ lý, cán bộ tại tiếp nhận sẽ thông báo ngày hẹn trả cùng các hình thức trả hồ sơ để công dân lựa chọn. Cụ thể, công dân theo giấy hẹn có thể đến nhận kết quả trực tiếp tại Bộ phận một cửa và nộp các khoản phí theo quy định. Ngoài ra, công dân có thể đăng ký dịch vụ nhận kết quả tại nhà sau khi đã thanh toán các khoản phí theo quy định. Công tác triển khai thực hiện dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, đặc biệt là mức độ 4 thể hiện sự quyết tâm của UBND quận trong đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng chính quyền điện tử với mục tiêu tất cả vì lợi ích của nhân dân. Việc triển khai còn có những khó khăn nhất định liên quan đến hạ tầng kỹ thuật công nghệ thông tin; cơ chế thu phí dịch vụ chuyển phát (do cơ quan hành chính không có chức năng làm dịch vụ); khó khăn liên quan đến bố trí cán bộ thực hiện các nhiệm vụ liên hệ với tổ chức, công dân; xác thực hồ sơ tại nhà khi thực hiện dịch vụ công trực tuyến mức độ 4. Bên cạnh đó, mức độ tiếp cận của công dân trên địa bàn đối với các dịch vụ này còn rất hạn chế, đòi hỏi các cơ quan của quận và UBND các phường phải tăng cường và thực hiện hiệu quả công tác tuyên truyền, vận động, hướng dẫn, hỗ trợ người dân ứng dụng dịch vụ, qua đó góp phần tiết kiệm công sức, chi phí của công dân cũng như của cơ quan nhà nước. Năm 2014, lãnh đạo UBND quận đã chỉ đạo các phòng, ngành chức năng rà soát, nỗ lực giảm thời gian giải quyết đối với nhiều loại TTHC. Để đảm bảo giảm thời gian giải quyết cho người dân, các phòng, ngành chuyên môn của UBND quận đã tích cực, chủ động rà soát toàn bộ quy trình giải 93 quyết các TTHC có khối lượng giao dịch thường xuyên với công dân. Cũng trong năm 2014, UBND quận đã triển khai hiệu quả việc thanh tra, kiểm tra công vụ đột xuất không báo trước nhằm nâng cao ý thức, trách nhiệm, thái độ phục vụ Nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong cơ quan, đơn vị Nhà nước nhằm chấn chỉnh những thiếu sót, khuyết điểm và xử lý nghiêm những trường hợp cán bộ, công chức gây phiền hà, sách nhiễu trong quá trình giải quyết TTHC cho công dân, đặc biệt là lĩnh vực tài nguyên môi trường, xây dựng đô thị. Tại UBND quận và UBND các phường thuộc quận Nam Từ Liêm, 100% TTHC thuộc thẩm quyền được niêm yết công khai tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả của UBND quận và UBND các phường, cung cấp trực tiếp trên cổng thông tin giao tiếp điện tử. 10 phường thuộc quận đã niêm yết công khai quy trình giải quyết các TTHC, các quy định liên quan đến TTHC, tiếp nhận, phản ánh khiếu nại của tổ chức và công dân tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả tại phường, nhà văn hóa và nơi sinh hoạt công cộng để công dân dễ tiếp cận. Trong năm 2015, quận Nam Từ Liêm tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền, trong đó, tập trung nội dung công khai, minh bạch thông tin và chi phí thời gian trong việc giải quyết các TTHC cho công dân, tổ chức và doanh nghiệp. Các giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh cũng được quan tâm. Lãnh đạo UBND quận khẳng định sẽ tiếp tục tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, đặc biệt là thanh tra công vụ, thanh tra đột xuất việc thực hiện cải cách dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4. Hiện nay có nhiều quy định khác nhau về việc thực hiện cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” tại các cơ quan HCNN các cấp, đặc biệt là ở hai lĩnh vực đất đai và đăng ký kinh doanh, gây nên sự chồng chéo và sự nhận thức chưa thống nhất trong tổ chức thực hiện cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” tại UBND cấp quận. Thực tế đã có một số nơi chuyển công việc đất 94 đai, đăng ký kinh doanh về Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất và phòng Tài chính - kế hoạch, do đó, ở những nơi này tồn tại đồng thời hai kiểu tổ chức “một cửa”, “một cửa liên thông”: - Kiểu thứ nhất phổ biến như hiện nay là Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả thuộc Văn phòng UBND cấp quận/phường. - Kiểu thứ hai là tại từng phòng chuyên môn của cấp quận/phường. Theo đó, tại các phòng chuyên môn của quận sẽ có thể có các Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả riêng, có cơ sở vật chất, bố trí công chức để hướng dẫn và tiếp nhận hồ sơ TTHC, và phải thực hiện công khai các TTHC, biểu mẫu, giấy tờ, hồ sơ theo quy định. Dễ thấy rằng tổ chức bộ máy theo kiểu thứ nhất sẽ gọn nhẹ hơn kiểu thứ hai vì chỉ có duy nhất một Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả. - Trong điều kiện về trụ sở, diện tích phòng làm việc như hiện nay ở cấp quận, nếu bố trí Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả ở tất cả các phòng chuyên môn thì sẽ rất khó khăn, khó đảm bảo đủ điều kiện để các bộ phận này làm việc có hiệu quả. Trong khi đó, tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả theo kiểu thứ nhất, vấn đề này dễ đảm bảo hơn. - Kiểu thứ nhất có khả năng tốt hơn trong việc phòng, chống tiêu cực đối với công chức khi giải quyết công việc của cá nhân, tổ chức, phù hợp với nguyên tắc của cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” là người dân chỉ tiếp xúc, nộp hồ sơ cho cán bộ, công chức ở Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả, tránh tiếp xúc với CBCC trực tiếp giải quyết công việc. - Cơ chế “một cửa” tại các phòng chuyên môn không có khả năng phát huy tối đa việc đầu tư và đưa công nghệ thông tin vào hoạt động so với cơ chế “một cửa” tập trung. Chính vì những lợi thế như trên của cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” tập trung mà nhiều địa phương kiến nghị với Chính phủ tiếp tục duy trì cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” như hiện nay. Theo báo cáo số 1459/BC-BNV ngày 27/4/2011 của Bộ nội vụ, phần lớn các tỉnh, thành phố 95 trực thuộc Trung ương đều đề nghị Chính phủ tiếp tục duy trì cơ chế tập trung như hiện nay. 3.1.2. Xác định rõ vị trí, vai trò của cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” trong việc giải quyết thủ tục hành chính Việc xác định rõ vị trí, vai trò của cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” trong việc giải quyết TTHC có ý nghĩa quan trọng, tác động đến hiệu quả của việc thực hiện cơ chế này. Thực tế ở một số địa phương cho thấy cần xây dựng kế hoạch tách Bộ phận “một cửa”, “một cửa liên thông” thành đơn vị sự nghiệp hoặc bộ phận có tư cách pháp nhân riêng, chuyên thực hiện các chức năng cung cấp các dịch vụ hành chính cho người dân như chứng thực, cấp phép... Các đơn vị này được sự ủy nhiệm của cơ quan hành chính giải quyết một số loại công việc hoặc một số công đoạn trong quy trình xử lý một công việc nào đó. Cán bộ, công chức làm việc ở đây được đảm bảo các quyền lợi như các công chức trong bộ máy công quyền. Đồng thời, cần xây dựng cơ chế đánh giá dựa trên hiệu quả, chất lượng công việc của từng cán bộ, công chức. Tuy nhiên, cần phải phân loại rõ ràng việc gì giao cho các đơn vị dịch vụ hành chính công này giải quyết, việc gì vẫn giữ lại cơ quan hành chính công quyền giải quyết nhằm tránh xu hướng trong một cơ quan hay từng cá nhân chỉ ưu tiên giải quyết công việc dịch vụ, gác lại công việc quản lý hoặc có sự mâu thuẫn xảy ra giữa cán bộ, công chức làm dịch vụ và cán bộ, công chức chỉ làm quản lý. Về mặt xã hội, đơn vị dịch vụ hành chính công có tư cách pháp nhân riêng sẽ tự chịu trách nhiệm đối với hành vi của mình, là một đảm bảo về mặt tài chính khi cán bộ, công chức gây thiệt hại cho cá nhân tổ chức khi làm nhiệm vụ. Vì vậy, khi người của cơ quan gây thiệt hại thì phải có khoản kinh phí riêng để đảm bảo việc bồi thường, sản phẩm dịch vụ bảo hiểm sẽ cung cấp sự đảm bảo này, tránh những thiệt hại cho cá nhân, tổ chức không do lỗi của họ gây ra. 96 3.1.3. Phân công trách nhiệm các ban, ngành, bộ phận chuyên môn trong việc thực hiện cơ chế “một cửa” “một cửa liên thông” UBND thành phố và UBND quận cần chỉ đạo các cơ quan chuyên môn, bộ phận chuyên môn trong giải quyết các công việc có liên quan trực tiếp đến người dân và tổ chức phải thực hiện tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả theo đúng các quy định của pháp luật. Các cơ quan chuyên môn, bộ phận chuyên môn cần phối hợp với nhau trong giải quyết TTHC phục vụ công dân. Trưởng bộ phận tiếp nhận và trả kết quả tại UBND quận và UBND các phường cần tổ chức tốt việc tiếp dân, hướng dẫn, tiếp nhận, trả kết quả giải quyết hồ sơ hành chính cho tổ chức, công dân theo đúng nội quy, quy chế; mở sổ theo dõi tình hình tiếp, hướng dẫn, tiếp nhận, trả kết quả cho tổ chức, công dân, kịp thời báo cáo những vướng mắc, phát sinh trong quá trình thực hiện; chấp hành nghiêm chỉ đạo của lãnh đạo quận trong thực hiện TTHC cho tổ chức, công dân; Nghiên cứu đề xuất các biện pháp cải tiến phương pháp làm việc nhằm không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ hành chính công; Phối hợp với Phòng nội vụ tổ chức, quán triệt cho cán bộ, công chức, nhân viên bộ phận một cửa học tập, thực hiện nghiêm túc quy chế, niêm yết công khai quy chế để tổ chức, công dân tiện theo dõi, giám sát; Triển khai các ứng dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO và công nghệ thông tin trong việc tiếp dân, tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả phù hợp với chương trình ứng dụng công nghệ thông tin của quận. Các cơ quan chuyên môn, bộ phận chuyên môn cần có trách nhiệm phối hợp với Bộ phận một cửa giải quyết TTHC thuộc lĩnh vực chuyên ngành cho công dân, thường xuyên rà soát TTHC và kịp thời tham mưu cho chủ tịch UBND quận và chủ tịch UBND các phường ban hành hướng dẫn việc thực hiện các TTHC theo cơ chế một cửa và một cửa liên thông, đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng ISO và ưu tiên ứng dụng công nghệ thông tin. 97 3.1.4. UBND quận Nam Từ Liêm và UBND các phường quan tâm chỉ đạo, không ngừng cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế mới Để đảm bảo giải quyết TTHC nhanh gọn, thuận tiện cho công dân, UBND quận Nam Từ Liêm và UBND các phường thuộc quận cần quan tâm chỉ đạo các nội dung sau: - Chỉ đạo kiện toàn tổ chức và hoạt động của bộ phận tiếp nhận và trả kết quả, đặc biệt là bộ phận tiếp nhận và trả kết quả của quận Nam Từ Liêm theo đúng quy định của Quyết định 07/2016/QĐ-UBND của UBND thành phố Hà Nội. - Tiếp tục mở rộng các loại việc cần giải quyết theo cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” nhằm giải quyết kịp thời các yêu cầu và lợi ích của công dân. Cần tập trung xây dựng cơ chế “một cửa liên thông” giữa UBND các phường với Công an quận, Bảo hiểm xã hội quận và UBND quận. - Việc đánh giá tác động quy định về TTHC theo đúng hướng dẫn tại công văn 7416/VPCP-TCCV của Văn phòng Chính phủ ngày 15/10/2010 cần được thực hiện nghiêm túc; xây dựng năng lực nghiệp vụ kiểm soát TTHC cho tất cả cán bộ, công chức về kỹ năng rà soát, đánh giá tác động và tính toán chi phí đối với các quy định về TTHC, từ đó chỉ ban hành và áp dụng các TTHC đảm bảo yêu cầu hợp lý, hợp pháp và hiệu quả. - Cần công bố, công khai TTHC một cách đầy đủ, kịp thời và thường xuyên cập nhật khi TTHC được sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ, bãi bỏ vào cơ sở dữ liệu quốc gia về TTHC. - Cần đẩy mạnh công tác truyền thông, niêm yết công khai địa chỉ tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị về TTHC nhằm góp phần tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính trong thi hành công vụ; nâng cao chất lượng công tác tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị, đồng thời huy động sự tham gia tích cực, chủ động của nhân dân vào hoạt động kiểm soát TTHC. - Tăng cường kiểm tra hoạt động kiểm soát TTHC tại UBND các phường. Tổ chức giao ban hàng quý với lãnh đạo UBND quận, lãnh đạo các 98 cơ quan, bộ phận chuyên môn, lãnh đạo UBND các phường về công tác kiểm soát TTHC nhằm trao đổi công tác và nghiệp vụ chuyên môn với cán bộ đầu mối kiểm soát TTHC. - Cần phát huy vai trò của Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội trong việc giám sát công tác cải cách TTHC trên địa bàn quận Nam Từ Liêm; đưa nội dung thực hiện hoạt động kiểm soát TTHC là một trong những tiêu chí để xem xét thi đua, khen thưởng, bổ nhiệm, đề bạt cán bộ. 3.2. Các giải pháp nhằm đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” tại UBND quận Nam Từ Liêm 3.2.1. Hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ chế phối hợp của các bộ phận, phòng ban thuộc UBND cấp quận và phường Cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” được đánh giá là bước cải tiến cơ bản làm thay đổi tư duy quản lý, phong cách làm việc của CBCC và suy nghĩ của người dân. Cơ chế này đã đạt được hiệu quả tích cực, được nhân dân các phường trong quận ghi nhận và đánh giá cao. Việc xác định vị trí, tính chất và vai trò của từng bộ phận thuộc UBND cấp phường là vấn đề rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định trong việc tổ chức hợp lý chính quyền địa phương nói chung và quận Nam Từ Liêm nói riêng. Cơ chế “một cửa” xuất phát từ nhu cầu của chính người dân, khi mà họ phải đi quá nhiều nơi để giải quyết một TTHC. Từ đó nảy sinh ý tưởng gom tất cả các công việc về bộ phận “một cửa”, chuyển các phần việc tương ứng của các bộ phận khác nhau đến đúng bộ phận “một cửa” để giải quyết. Công việc đi đến từng nơi lúc trước thuộc về người dân thì nay thuộc về trách nhiệm của công chức làm việc tại bộ phận “một cửa”. Điều này đã tạo nhiều thuận tiện cho người dân do không phải đi lại nhiều lần nhưng vẫn có thể giải quyết được các TTHC. Khi triển khai thực hiện cơ chế “một cửa”, người ta đã quá chú trọng đến đầu ra và số lượng hồ sơ được giải quyết, thời gian giải quyết, chi phí... mà không quan tâm đến những bất cập trong chính nội bộ của các cơ quan 99 nhà nước (về chức năng, nhiệm vụ, cơ chế phối hợp...). Thực tế cho thấy, cơ chế “một cửa” được xây dựng với mong muốn giảm sự nhũng nhiễu, phiền hà của công chức khi thực thi công vụ đối với người dân nhưng nếu không giải quyết tốt những vấn đề nội tại của các cơ quan nhà nước thì tình trạng hách dịch, cửa quyền, tham nhũng vẫn có thể xảy ra. Vì thế, để thực hiện thành công cơ chế “một cửa” không chỉ giải quyết phần nổi của vấn đề cải cách TTHC mà cần rà soát lại chức năng, nhiệm vụ của các phòng, ban chuyên môn để khắc phục tình trạng chồng chéo, bỏ sót, một công việc lại giao cho nhiều đơn vị thực hiện. Các bộ phận chuyên môn cấp phường được thành lập từ một hệ thống ngành dọc xuyên suốt từ Trung ương xuống cấp tỉnh và cấp quận. UBND cấp phường quy định chức năng, nhiệm vụ của cácbộ phận chuyên môn đều dựa theo hướng dẫn của các Sở chuyên ngành. Vì thế, cần đẩy mạnh phân cấp theo hướng giao cho UBND cấp phường được quyền chủ động hơn trong vấn đề phân giao chức năng, nhiệm vụ chuyên môn trực thuộc, nhằm tạo điều kiện cho UBND cấp phường có đủ thực quyền tiến hành rà soát và điều chỉnh những vấn đề còn bất cập hiện nay. 3.2.2. Lãnh đạo UBND quận cần chỉ đạo rà soát lại quy trình giải quyết thủ tục hành chính của cấp phường theo hướng mỗi thủ tục hành chính chỉ giao cho một cấp giải quyết Các TTHC thực hiện theo cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” hiện nay không đáp ứng yêu cầu về thời gian, nhất là những thủ tục mà UBND cấp phường cần phải phối hợp với các cơ quan liên quan, Ví dụ, việc giải quyết chế độ ưu đãi trong giáo dục đào tạo đối với con người có công với cách mạng thường bị kéo dài hơn so với quy định. Hiện nay thời gian giải quyết thủ tục này là 25 ngày kể từ khi nhận đủ hồ sơ hợp lệ (5 ngày tại cấp quận, huyện, 20 ngày tại Sở lao động - thương binh và xã hội). Thường khi nhận được hồ sơ thì phòng không chuyển ngay mà chờ có 3 - 4 hồ sơ thì mới chuyển lên sở. Sau khi tổng hợp, xem xét, cho ý kiến hồ sơ của cấp quận, 100 huyện, sở mới trình UBND tỉnh ra quyết định nên thời gian giải quyết hồ sơ thường chậm so với quy định. Do vậy, để khắc phục tình trạng này, cần nghiên cứu giao cho cấp nào có khả năng giải quyết tốt nhất các loại TTHC theo ba nguyên tắc sau: - Các công việc mà cấp nào có điều kiện và khả năng thực hiện tốt nhất thì giao đầy đủ quyền hạn và bảo đảm những điều kiện cần thiết cho cấp đó giải quyết. - Cơ quan nào được giao thẩm quyền giải quyết các TTHC phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về các quyết định của mình. - Các cơ quan nhà nước cấp trên tăng cường kiểm tra, giám sát công việc của cơ quan cấp dưới, nhưng không can thiệp, làm thay cấp dưới. Qua nghiên cứu đối với các TTHC áp dụng theo cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” tại cấp phường, tác giả có một số đề xuất như sau: - Lĩnh vực đăng ký kinh doanh cần phân cấp cho cấp phường thực hiện hoàn toàn thủ tục này vì theo như quy định thì các khâu quan trọng đều đã được thực hiện tại cấp phường, cấp phường có thể biết rõ nhất việc người đăng ký kinh doanh có đáp ứng được các yêu cầu đề ra hay không. - Về các thủ tục thuộc các lĩnh vực còn lại do UBND cấp quận trực tiếp xử lý thì cần nghiên cứu hoàn thiện quy trình để thực hiện tốt hơn. Trong đó, cần chú trọng hoàn thiện quy trình giải quyết đối với từng thủ tục về thời gian, trình tự, trách nhiệm của từng bộ phận, cá nhân trong quá trình giải quyết hồ sơ hành chính của tổ chức và công dân. 3.2.3. Xác định lại số lượng hợp lý các thủ tục hành chính thực hiện theo cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông”. Bộ phận “một cửa” ra đời nhằm tránh sự tiếp xúc trực tiếp giữa các tổ chức, công dân với cán bộ, công chức thụ lý hồ sơ nhằm hạn chế những hành vi tiêu cực từ phía cán bộ, công chức. Và kết quả là các cơ quan nhà nước đã cố gắng đưa tất cả các thủ tục về bộ phận “một cửa” như là một giải pháp cho vấn đề này. Tuy nhiên, nguyên nhân chính của hiện tượng tiêu cực lại thuộc về 101 cơ chế: Các quy định của pháp luật của nước ta hiện nay chưa thật sự nghiêm minh, chưa có chế tài và cơ chế kiểm soát hiệu quả đối với hoạt động của cán bộ, công chức và đặc biệt là đạo đức công chức của nước ta còn kém, chế độ đãi ngộ chưa tương xứng. Trước đây, khi người dân đến trực tiếp tại các phòng chuyên môn để nộp hồ sơ hồ sơ không đủ thủ tục hay không đảm bảo về mặt pháp lý thì trách nhiệm sẽ thuộc về công chức trực tiếp thụ lý hồ sơ. Nhưng sau khi chuyển việc tiếp nhận hồ sơ về bộ phận “một cửa” nếu xảy ra tình trạng này thì trách nhiệm sẽ bị đùn đẩy giữa bộ phận “một cửa” và phòng, bộ phận chuyên môn, dẫn đến thời gian hoàn thành thủ tục bị chậm trễ. Cuối cùng, người dân để được việc nhanh chóng, đúng thời hạn, lại bằng nhiều cách tìm đến công chức thụ lý hồ sơ “nhờ vả” và kết quả là vẫn xảy ra tiêu cực. Ngoài ra, trước đây đối với những thủ tục đơn giản, tổ chức, công dân chỉ cần đến trực tiếp phòng, bộ phận chuyên môn nếu đầy đủ hồ sơ thì phòng, bộ phận chuyên môn sẽ giải quyết và trả kết quả luôn cho công dân. Tuy nhiên, khi đã giao cho bộ phận “một cửa” thì cần phải có thời gian chuyển hồ sơ, buộc người dân phải chờ đợi lâu hơn. Vì vậy, nên đưa vào bộ phận “một cửa” những thủ tục có liên quan đến nhiều cơ quan, bộ phận nhằm giúp cho người dân không mất nhiều thời gian và chi phi do phải đến nhiều nơi để giải quyết công việc. Đối với những thủ tục đơn giản, số lượng hồ sơ tiếp nhận ít, không thường xuyên, do một cơ quan giải quyết thì không nên đưa vào bộ phận “một cửa” mà nên đưa về các phòng chuyên môn trực tiếp tiếp nhận. Điều này còn giúp cho bộ phận “một cửa” được chuyên môn hóa, cán bộ, công chức thực hiện tiếp nhận hồ sơ nắm bắt quy trình thủ tục tốt hơn, tránh được những sai sót khi tiếp nhận hồ sơ. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả đề xuất đưa TTHC của một số các lĩnh vực để áp dụng thực hiện tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả tại UBND các phường theo cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” như sau: - Lĩnh vực tư pháp, chứng thực các giấy tờ, văn bản; 102 - Đăng ký kinh doanh không có Điều kiện và một số ngành, nghề kinh doanh có Điều kiện; - Lĩnh vực cấp giấy phép xây dựng; - Lĩnh vực cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở; - Lĩnh vực bảo trợ xã hội, chính sách xã hội: xác nhận hồ sơ thương binh, liệt sỹ, thân nhân liệt sỹ, người có công, hộ nghèo, thủ tục xin cấp lại thẻ thương binh, bệnh binh 3.2.4. Đơn giản hóa hồ sơ, rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục hành chính, mẫu hóa một số giấy tờ của thủ tục hành chính Để cần phải tiến hành rà soát lại toàn bộ hệ thống TTHC nhằm đơn giản hóa hồ sơ, xác định những loại việc nào còn yêu cầu các loại giấy tờ ngoài quy định, nhiều yêu cầu hoặc điều kiện không thực tế, không khả thi cần hủy bỏ. Chẳng hạn, khi xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất, việc công dân phải đến UBND phường khai vào tờ khai về nguồn gốc đất có xác nhận của chính quyền địa phương là không có trong quy định chung của nhà nước, cần hủy bỏ; Với các việc đơn giản như chứng thực bản sao từ bản chính các loại giấy tờ, đăng ký giao dịch có bảo đảm là quyền sử dụng đất... không cần thiết phải có thời gian xác minh thì nên rút ngắn thời gian giải quyết có thể tiến hành trong vòng vài giờ để tạo điều kiện cho công dân. Các loại hồ sơ, biểu mẫu và các yêu cầu, điều kiện của TTHC, lệ phí giải quyết hồ sơ tại Ủy ban nhân dân quận, và UBND các phường cần được tiếp tục được niêm yết công khai tại trụ sở cơ quan để đảm bảo tính công khai, minh bạch và hiệu quả. Khi công dân có yêu cầu liên quan đến TTHC thì chỉ cần liên hệ tại Ủy ban nhân dân phường thì có thể nắm đầy đủ thông tin về hồ sơ cần phải có khi đến Ủy ban nhân dân quận mà không cần phải trực tiếp đến trụ sở Ủy ban nhân dân quận để xem; hoặc khi có nhu cầu thì công dân chỉ cần truy cập vào trang thông tin điện tử của quận nơi mình cần 103 liên hệ giải quyết công việc và tìm những yêu cầu thủ tục cần thiết để chuẩn bị, tránh phải đi lại nhiều lần, nhiều nơi. Khi xử lý các loại hồ sơ có liên quan đến nhiều cơ quan chuyên môn khác nhau thì trách nhiệm của từng cơ quan ở từng khâu phải được xác định rõ. Nếu khâu nào chậm trễ thì Thủ trưởng cơ quan phụ trách khâu đó sẽ phải chịu trách nhiệm trước người dân và lãnh đạo Ủy ban nhân dân quận. Cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” đặt ra yêu cầu phối hợp công tác giữa các cơ quan, các bộ phận, giữa các CBCC có liên quan về lĩnh vực chuyên môn và về thời gian thực hiện. Mỗi phòng, bộ phận chuyên môn là một mắt xích không thể thiếu trong quá trình giải quyết TTHC. Bởi vậy, đề cao tinh thần, thái độ, trách nhiệm trong công việc giữa các cơ quan và các nhân là thực sự cần thiết, quan trọng để quản lý và nâng cao chất lượng giải quyết TTHC của bộ phận “một cửa” tại UBND các phường. Mặt khác, việc các loại hồ sơ, giấy tờ được mẫu hóa, công khai rất quan trọng trong cơ chế giải quyết TTHC liên thông giữa các cấp với nhau và giữa các bộ phận có liên quan trong giải quyết TTHC. Các loại hồ sơ, biểu mẫu liên quan đến TTHC cần phải được mẫu hóa để tạo tính thống nhất chung đối với từng loại việc cụ thể và thống nhất giữa các đơn vị với nhau, thống nhất giữa cấp quận và cấp phường, giúp người dân dễ dàng đáp ứng yêu cầu của TTHC, đảm bảo việc giải quyết TTHC đạt hiệu quả hơn. UBND các phường cần thường xuyên rà soát các quy định, TTHC; kịp thời sửa đổi, bổ sung theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung văn bản pháp luật quy định về TTHC để hoàn thiện hệ thống pháp luật, chỉ duy trì những TTHC thực sự cần thiết, hợp lý. Đồng thời cần quy định rõ ràng, cụ thể và công khai hóa những giấy tờ cần thiết cho việc giải quyết TTHC, loại bỏ các giấy tờ bất hợp lý, không thật sự cần thiết nhằm giảm bớt sự phiền hà trong việc giải quyết TTHC nhưng vẫn đảm bảo tính thống nhất, chặt chẽ của TTHC. 104 - Cần xây dựng một quy trình tiếp nhận và giải quyết hồ sơ hợp lý, khoa học và mang tính ổn định. Phân định rõ thẩm quyền và quy định thời gian giải quyết cụ thể để tránh tình trạng giải quyết TTHC kéo dài. - Cần chuẩn hóa, ban hành đồng bộ và công bố công khai trên mạng internet các biểu mẫu giấy tờ hành chính cần giải quyết. Các biểu mẫu giấy tờ hành chính phải thống nhất về thể thức và kỹ thuật trình bày, đơn giản, dễ hiểu, dễ sử dụng. - Cần đẩy mạnh sự lãnh đạo của Quận ủy, Đảng ủy các phường đối với công cuộc cải cách hành chính nói chung và cải cách TTHC nói riêng ở địa phương để mọi chủ trương đưa ra phải được thực hiện thống nhất và triệt để. Cần duy trì công tác kiểm tra, thực hiện chế độ báo cáo thường xuyên đối với hoạt động triển khai thực hiện cơ chế này, nhằm tránh hoạt động một cách hình thức và cầm chừng không đảm bảo hoàn thành mục tiêu đã đề ra. - Cần đẩy mạnh xã hội hóa một số hoạt động cung cấp dịch vụ như công chứng, chứng thực, trợ giúp pháp lý nhằm huy động sức mạnh của xã hội tham gia vào quá trình cải cách TTHC, giúp giảm bớt gánh nặng cho cơ quan nhà nước bằng cách nghiên cứu, cân nhắc chuyển giao một số dịch vụ hành chính công cho khu vực tư thực hiện. Nhà nước chỉ giữ vai trò điều tiết, kiểm tra, nhằm đảm bảo tốt hơn việc cung cấp dịch vụ hành chính cho chức, công dân. 3.2.5. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức; cải cách chế độ tiền lương và các chế độ đãi ngộ cho cán bộ, công chức làm việc ở Bộ phận “một cửa” Để hướng tới mục tiêu xây dựng cơ chế “một cửa” và “một cửa liên thông” thì đội ngũ cán bộ, công chức phải có trình độ nhất định đảm bảo yêu cầu đặt ra. Khi cán bộ, công chức ở cấp phường có đủ trình độ thẩm định cơ bản hồ sơ ban đầu thì người dân sẽ không phải đi lại nhiều lần, mang lại hiệu quả cho việc giải quyết TTHC. Do đó, việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức là một giải pháp cơ bản, quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả hoạt 105 động của cơ chế “một cửa” và “một cửa liên thông”. Nội dung bồi dưỡng cán bộ, công chức ở bộ phận “một cửa” phải đảm bảo yêu cầu đặc thù cho đối tượng, phải có trọng tâm, trọng điểm không nên thực hiện dàn trải vừa mất thời gian vừa không hiệu quả. Nội dung đào tạo, nâng cao, bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng cho cán bộ, công chức hiện nay nên bao gồm ba phần sau: - Kiến thức cơ bản: về công vụ, công chức, đạo đức công vụ, TTHC, dịch vụ hành chính công - Kỹ năng hành chính: Kỹ năng giao tiếp hành chính, kỹ năng tiếp nhận và xử lý hồ sơ hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin trong xử lý hồ sơ hành chính. Đây là những kỹ năng thiết thực, như kỹ năng giao tiếp hành chính, từ những khóa huấn luyện này người học là công chức có thể biết cách xử lý các tình huống đặt ra trong thực tê, hiểu hơn về giá trị và trách nhiệm của người công chức trong nền công vụ phục vụ nhân dân, để từ đó có thái độ và những ứng xử văn hóa, văn minh với công dân và các tổ chức, doanh nghiệp. - Cập nhật kiến thức: Thường xuyên tổ chức các lớp bổ sung kiến thức pháp luật tạo điều kiện để CBCC luôn cập nhật được với các chủ trương, chính sách mới của Nhà nước. Xây dựng năng lực nghiệp vụ kiểm soát TTHC cho tất cả công chức về kỹ năng rà soát, đánh giá tác động và tính toán chi phí đối với các quy định về TTHC. Tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng CBCC đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ công tác tại bộ phận “một cửa” bao gồm cả công chức cấp quận và công chức cấp phường. Nhân sự của bộ phận “một cửa” thuộc, Văn phòng UBND phường là cán bộ, công chức ở các, bộ phận chuyên môn được trao quyền theo chế độ điều động. Cán bộ, công chức tại bộ phận “một cửa” có trách nhiệm thẩm định tính hợp pháp của hồ sơ và phải kiêm nhiệm công tác tiếp công dân nên sức ép công việc rất cao so với các bộ phận khác. Do đó, cần có những cơ chế đãi ngộ đối với lực lượng này; có chính sách về tiền lương và chế độ chính 106 sách phụ cấp khác mang yếu tố động viên, khuyến khích đối với đội ngũ cán bộ, công chức, tránh tình trạng vì lý do công tác tại bộ “một cửa” mà những quyền lợi cụ thể, hợp pháp của cán bộ, công chức bị giảm đi. 3.2.6. Xây dựng bộ tiêu chí để giám sát, đánh giá hiệu quả làm việc của cán bộ công chức ở Bộ phận “một cửa” các phường Hiện nay, UBND quận và UBND các phường đã thành lập bộ phận hoặc cử cán bộ đầu mối chuyên trách thực hiện kiểm soát TTHC nhằm thường xuyên thực hiện việc rà soát các loại thủ tục, giấy tờ và quy trình tiếp nhận xử lý công việc của các phòng, bộ phận chuyên môn và giám sát việc áp dụng thực hiện của các CBCC. Trên cơ sở kết quả ra soát, tổng hợp đề xuất ý kiến đơn giản, cải tiến hợp lý đối với từng loại thủ tục cụ thể, quy trình cụ thể phục vụ cho công tác của bộ phận “một cửa” và nhiệm vụ cải cách hành chính nói chung. Bộ phận này cũng thực hiện chức năng thu thập ý kiến của công dân khi đến làm việc tại bộ phận một cửa với các nội dung đánh giá cụ thể như: sự hài lòng đối với thái độ của cán bộ, công chức bộ phận “một cửa”, quy trình TTHC còn những điểm nào chưa hợp lý... nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính nói chung và bộ phận “một cửa” nói riêng. Dựa trên tình hình thực tế của quận Nam Từ Liêm nói chung và UBND các phường nói riêng, trong phạm vi nghiên cứu của mình tác giả đề xuất các tiêu chí đánh giá như sau: - Đánh giá đối với cán bộ, công chức làm việc tại bộ phận “một cửa”: + Chất lượng của đội ngũ làm việc tại bộ phận “một cửa” cần đánh giá trên các mặt: trình độ, năng lực thì giải quyết công việc và thái độ phục vụ công dân. Cán bộ, công chức làm việc tại bộ phận một cửa phải là những người thật sự am hiểu về các TTHC mà bộ phận “một cửa” cấp quận, phường phải thực hiện. Để đánh giá thực tế cần thông qua tỷ lệ hồ sơ sai sót và phiếu thăm dò ý kiến của tổ chức, cá nhân về thái độ phục vụ của cán bộ, công chức khi liên hệ giải quyết TTHC tại bộ phận “một cửa”. 107 + Số lượng cán bộ, công chức làm việc tại bộ phận “một cửa”: đánh giá dựa trên số hồ sơ bình quân hàng ngày mà bộ phận “một cửa” ở mỗi địa phương tiếp nhận. Không thể áp dụng một cách cào bằng, ở quận hay các phường đều phải có số lượng cán bộ, công chức như nhau. + Năng lực thực thi công việc: thể hiện qua tiêu chuẩn như tốt nghiệp đại học, cao đẳng chuyên ngành hành chính, luật, quản lý đất đai Ngoài ra, trong quá trình làm việc, nên tiến hành kiểm tra thông qua những bài trắc nghiệm kiến thức định kỳ 03 hoặc 06 tháng một lần dựa trên tỷ lệ hồ sơ sai sót trong tháng. + Thái độ phục vụ đối với nhân dân: được đánh giá qua phiếu thăm dò ý kiến của người dân. Nếu có ý kiến phản hồi từ người dân, tổ chức về việc cán bộ, công chức đó có thái độ không đúng mực, tiêu cực thì cần xem xét, xác minh, áp dụng biện pháp xử lý, thay thế khi có cơ sở. - Đánh giá sự phối hợp giữa các cơ quan cấp quận, phường trong giải quyết TTHC Thời gian, tiến độ giải quyết TTHC chịu tác động rất lớn của cơ chế phối hợp giữa các cơ quan cấp quận, phường. Sự phối hợp kém giữa các phòng, bộ phận chuyên môn của UBND cấp quận, UBND các phường khiến một số trường hợp công việc được thực hiện không trôi chảy. Do đó, cần xây dựng một quy trình chặt chẽ và khoa học gồm trình tự các bước, thời gian thực hiện, trách nhiệm của từng phòng, bộ phận chuyên môn trong tất cả các khâu mà một TTHC phải trải qua. - Đánh giá hiệu quả giải quyết TTHC của bộ phận “một cửa” Việc đánh giá hiệu quả giải quyết TTHC của bộ phận “một cửa” được thực hiện qua những tiêu chí sau: + Thời gian phải chờ đợi để được làm TTHC tại bộ phận “một cửa”; + Tổ chức, cá nhân phải đi lại bao nhiêu lần để được giải quyết một TTHC; + Tổ chức, cá nhân phải đến bao nhiêu nơi để được giải quyết một TTHC; 108 + Kết quả giải quyết TTHC tại bộ phận “một cửa” có đạt yêu cầu không. 3.2.7. Đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin trong giải quyết các thủ tục hành chính . Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý HCNN là một giải pháp để hiện đại hóa bộ máy HCNN. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 10/2006/CT-TTg ngày 23 tháng 03 năm 2006 quy định về việc giảm công văn giấy tờ trong giải quyết công việc hành chính và yêu cầu: “Thủ trưởng cơ quan hành chính ở các cấp, các ngành có trách nhiệm chỉ đạo việc nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ thông tin vào xử lý công việc, từng bước thay thế cho việc dùng văn bản, giấy tờ hành chính trong truyền đạt thông tin, giải quyết công việc có liên quan. Các cơ quan thực hiện việc gửi, trao đổi và xử lý văn bản, giấy tờ hành chính trong cơ quan và với các cơ quan tổ chức khác thông qua mạng tin học, tiến tới chủ yếu. Những cơ quan chưa xây dựng được mạng tin học nội bộ cần khẩn trương xây dựng để nhanh chóng thực hiện được việc nêu trên”. Như phần thực trạng đã nêu, ý kiến từ phía công chức và công dân đều cho rằng cần cải thiện trang thiết bị tin học hiện đại và tôt hơn. Vì thế giải pháp ứng dụng công nghệ thông tin được tiến hành trên hai phương diện là đầu tư máy móc, trang thiết bị và thiết kế, sử dụng phần mềm quản lý, giải quyết hồ sơ. Ở bộ phận “một cửa”, cần trang bị cho mỗi cán bộ, công chức một máy vi tính riêng có kết nối mạng nội bộ. Đồng thời trang bị một máy chủ cho phép truy cập mạng Internet để thu thập thông tin phục vụ công tác. Khi cán bộ, công chức tiếp nhận cần trao đổi thêm với bộ phận thẩm định hồ sơ tại các phòng, bộ phận chuyên môn thì không phải mang toàn bộ hồ sơ đến gặp trực tiếp mà chỉ cần trao đổi thông qua mạng nội bộ. Cán bộ, công chức tại phòng, bộ phận chuyên môn có trách nhiệm trả lời và chịu trách nhiệm đối với vấn đề mình trả lời. Quy trình này được thực hiện nhanh chóng, người dân không phải chờ đợi lâu, trách nhiệm thẩm định, đề xuất, tham mưu tại các 109 phòng, ban chuyên môn và lãnh đạo được phân định rõ ràng, tạo cơ sở để đánh giá mức độ hoàn thành công việc của cán bộ, công chức từ đó có căn cứ khen thưởng và phê bình phù hợp. Việc xây dựng và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn ISO 9001:2000 đối với Ủy ban nhân dân phường, quận khi thực hiện cơ chế “một cửa” và “một cửa liên thông” đã được triển khai và đã đạt được những kết quả nhất định. Hiện nay, tại UBND các phường thuộc quận đã và đang áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001:2008, một trong những cách thức đánh giá có hiệu quả nhất chất lượng của bộ phận một cửa liên thông và của các cán bộ, công chức khi thực thi công vụ. Việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng (ISO 9001:2008) vào hoạt động của các cơ quan hành chính tại UBND quận và UBND các phường đã tạo bước chuyển tích cực trong hoạt động quản lý, giúp loại bỏ được những TTHC không cần thiết, rút ngắn thời gian xử lý công việc, giảm chi phí; nâng cao năng lực, trách nhiệm, ý thức phục vụ của công chức nhà nước. Mặt khác, tiêu chuẩn ISO 9001:2008 sẽ giúp lãnh đạo Ủy ban nhân dân quận, phường và Thủ trưởng các cơ quan chuyên môn kiểm tra, kiểm soát được quá trình giải quyết công việc trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình nhằm nâng cao được chất lượng công tác. Ngoài ra, cần luôn cập nhật, cải tiến nội dung trang thông tin điện tử của Ủy ban nhân dân quận và niêm yết thủ tục giải quyết hồ sơ và các vấn đề có liên quan trên trang thông tin điện tử này. Hiện tại, tại UBND các phường đều đã thực hiện việc công khai các loại hồ sơ, TTHC tại bộ phận một cửa của phường mình, tuy nhiên việc cung cấp dịch vụ hành chính công thông qua bộ phận “một cửa điện tử” vẫn chưa thực hiện được một cách bài bản. Để khai thác và quản lý có hiệu quả chất lượng cơ chế “một cửa” và “một cửa liên thông” thì việc áp dụng triệt để, khai thác cơ chế giải quyết TTHC, cung cấp dịch vụ hành chính thông qua “một cửa” và “một cửa liên thông” điện tử là cần thiết. Cá nhân, tổ chức chỉ cần đăng ký thông qua bất kỳ cổng giao tiếp 110 Internet nào bằng cách truy cập vào trang web của Ủy ban nhân dân quận, điền các thông số cá nhân, đánh dấu vào các ô yêu cầu phải có theo từng loại thủ tục, từng loại dịch vụ hành chính công và gửi các thông số này đến bộ phận “một cửa” và “một cửa liên thông” điện tử, bộ phận này sẽ kiểm tra và trả lời bằng một email. Khi cá nhân, tổ chức đến nhận hồ sơ thì phải mang các loại giấy tờ có liên quan như đã kê khai để cán bộ, công chức trả kết quả đối chiếu, nếu đúng và đầy đủ thì trả kết quả và thu phí, lệ phí theo quy định. Đội ngũ cán bộ phường còn mỏng, trình độ công nghệ thông tin hạn chế, Vì vậy, rất mong các đơn vị liên quan “mở cửa” kết nối liên thông trong việc trao đổi, chuyển tiếp dữ liệu hoặc thành phố cho xây dựng một phần mềm chung, để dữ liệu được chuyển tiếp liên thông, giảm bớt hơn nữa thời gian, công sức giải quyết thủ tục hành chính. Bên cạnh đó, cần bổ sung mã thủ tục hành chính liên thông để người dân có thể tự tra cứu kết quả mà không cần phải xếp hàng chờ đợi giải đáp của bộ phận một cửa. Đối với quy trình “một cửa” và “một cửa liên thông”, yếu tố công nghệ thông tin là rất quan trọng trong quá trình triển khai thực hiện cơ chế này. Để áp dụng, vận hành có hiệu quả thường xuyên, liên tục cơ chế một cửa, một cửa liên thông thì chất lượng hệ thống công nghệ thông tin, phần mềm tác nghiệp cần được đầu tư, nâng cấp, cải tạo thường xuyên mới có thể đáp ứng nhu cầu công việc, nếu được vận dụng, khai thác tốt sẽ mang lại hiệu quả cao trong giải quyết TTHC cho công dân. 3.2.8. Học tập, trao đổi kinh nghiệm điều hành hoạt động của Bộ phận “một cửa”, “một cửa liên thông” với một số địa phương Các phường thuộc Quận Nam Từ Liêm là một trong các đơn vị đầu tiên của thành phố Hà Nội tiến hành cải cách hành chính được đánh giá cao cả về mặt chất lượng và hình thức. Tuy nhiên để đạt được và duy trì tiến tới nâng cao hơn nữa những giá trị đã đạt được, quận Nam Từ Liêm nói chung và UBND các phường nói riêng cần tiếp tục học tập kinh nghiệm vận hành bộ phận “một cửa” và “một cửa liên thông” của một số địa phương đi đầu trong 111 công tác cải cách hành chính ở nước ta, tiêu biểu như thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Đà Nẵng, thành phố Hải Phòng... Từ đó, xem xét, nhìn nhận lại những mặt đã làm được, chưa làm được cần phải khắc phục, để chất lượng giải quyết TTHC tại bộ phận “một cửa” và “một cửa liên thông” ngày càng tốt hơn. Bên cạnh đó cần tuyên truyền về cải cách thủ tục hành chính một cách thường xuyên và liên tục dưới nhiều hình thức khác nhau. Cần chú trọng công tác tuyên truyền trong lực lượng cán bộ, công chức để họ yên tâm hoàn thành nhiệm vụ. Trong các tầng lớp nhân dân, công tác tuyên truyền cũng cần được quan tâm nhằm nâng cao ý thức của người dân khi đến làm việc tại bộ phận “một cửa”, kịp thời phản ánh những biểu hiện quan liêu, hách dịch, nhũng nhiễu của cán bộ, công chức, nâng cao ý thức trong việc đấu tranh chống tiêu cực trong bộ máy hành chính. 112 KẾT LUẬN Trong những năm vừa qua, cải cách hành chính đạt được những kết quả tích cực; đã kiện toàn tổ chức bộ máy, đề cao trách nhiệm của người đứng đầu và cán bộ, công chức; tập trung cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin, công khai, đơn giản hóa thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian thực hiện, tạo điều kiện thuận lợi, giảm chi phí, tiết kiệm thời gian cho người dân, doanh nghiệp; tiếp tục hoàn thiện phương thức hoạt động và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong các cơ quan hành chính nhà nước. Tuy nhiên, cải cách hành chính, đặc biệt là cải cách TTHC còn nhiều hạn chế, ở một số mặt chưa đạt yêu cầu. Thủ tục hành chính trong nhiều lĩnh vực vẫn còn phiền hà, gây bức xúc cho người dân, tổ chức. Trong bối cảnh đất nước tham gia hội nhập sâu vào các nền kinh tế thế giới, hệ thống thể chế, hệ thống thủ tục hành chính rườm rà, khác biệt cùng phương thức quản lý, tổ chức bộ máy, phong cách, lề lối làm việc xưa cũ bắt buộc phải được thay đổi một cách căn bản, nếu không sẽ là lực cản trên con đường xây dựng đất nước. Cấp phường là đơn vị hành chính cơ sở trực tiếp và gần dân nhất, mọi thủ tục hành chính đều gắn liền với quyền lợi của người dân, và qua công việc se tạo những hình ảnh về người cán bộ, công chức trước người dân. Do đó, để nghiên cứu đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện hiệu quả hoạt động của cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” các phường tại quận Nam Từ Liêm. 113 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Chính phủ (2010), Nghị định số 63/2010/NĐ-CP ngày 8/6/2010 về kiểm soát thủ tục hành chính, Hà Nội. 2. Chính phủ (2011), Nghị quyết 30c/NQ-CP ngày 08/11/2011 về Chương trình tổng thể cải cách hành chính giai đoạn 2011 -2020, Hà Nội. 3. Chính phủ (2007), Quyết định số 93/2007/QĐ-TTg ngày 26/6/2007 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành Quy chế thực hiện cơ chế “một cửa”, cơ chế “một cửa liên thông” tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, Hà Nội 4. Học viện Báo chí và tuyên truyền (2006), Giáo trình Quản lý hành chính nhà nước, Hà Nội. 5. Học viện Hành chính Quốc gia (2003), Giáo trình Thủ tục hành chính, Hà Nội. 6. Học viện Hành chính Quốc gia (2002), Thuật ngữ Hành chính, Hà Nội 7. Học viện hành chính (2005), Giáo trình luật hành chính (giáo trình đại học), NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội. 8. Học viện hành chính (2008), Giáo trình hành chính công (dành cho đào tạo sau đại học), NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội. 9. Học viện hành chính (2008), Giáo trình hành chính đại cương (dành cho đào tạo sau đại học), NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội. 10. Học viện hành chính (2010), Giáo trình lý luận hành chính Nhà nước, Hà Nội. 11. Nguyễn Ngọc Hiến (2000), Giải pháp cải cách hành chính ở Việt Nam, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội. 12. Nguyễn Ngọc Hiến (2001), Các giải pháp thúc đẩy cải cách hành chính ở Việt Nam, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội. 13. Luật Tổ chức Chính quyền địa phương (2015), số 77/2015/QH13, ngày 19 tháng 06 năm 2015, Hà Nội 14. Nguyễn Xuân Phúc (2013), “ Tiếp tục cải cách hành chính ở Việt Nam 114 thời gian tới”, Tạp chí cộng sản 15. Thang Văn Phúc (2001), Cải cách hành chính nhà nước, thực trạng, nguyên nhân và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 16. Đỗ Thị Hồng Tâm (2013), Cải cách thủ tục hành chính đối với dịch vụ đăng ký tờ khai nhận khẩu tại cục hải quan thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ, Học viện Hành chính quốc gia, Hà Nội. 17. Trần Thị Thanh (2011), “ Cải cách thủ tục hành chính theo mô hình “một cửa” tại một số UBND huyện tại tỉnh Quảng Ninh” Luận văn thạc sỹ, Học viện hành chính quốc gia, Hà Nội. 18. Nguyễn Văn Thâm (2004), Tiếp cận và giải quyết công việc cho dân trong tiến trình đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 19. Nguyễn Văn Thâm, Võ Kim Sơn (2001), Thủ tục hành chính - Lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 20. Vũ Thư, Lê Hồng Sơn (2000), Cải cách thủ tục hành chính thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân hiện nay ở nước ta, Nxb Lao động, Hà Nội. 21. Thủ tướng Chính phủ (2016), Chỉ thị 26/CT-TTg Về việc tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong các cơ quan hành chính nhà nước các cấp, Hà Nội. 22. Thủ tướng Chính phủ (2007), Quyết định số 93/2007/QĐ-TTg ngày 22/6/2007 về việc Ban hành quy chế thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông tại cơ quan hành chính nhà nước tại địa phương, Hà Nội. 23. Thủ tướng Chính phủ (2008), Quyết định số 30/QĐ-TTg ngày 10/01/2007 Về việc phê duyệt đề án đơn giản hóa thủ tục hành chính trên các lĩnh vực quản lý nhà nước giai đoạn 2007- 2010, Hà Nội. 24. Thủ tướng Chính phủ (2015), Quyết định số 09/2015/QĐ-TTg ngày 25/3/2015 Ban hành quy chế thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông tại cơ quan hành chính nhà nước tại địa phương, Hà Nội. 25. Trung tâm Từ điển ngôn ngữ Hà Nội (1992), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội 26. Đào Trí Úc (2006), Mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp 115 quyền xã hội chủ nghĩa, Nxb Tư pháp, Hà Nội. 27. UBND thành phố Hà Nội (2016), Quyết định 07/2016/QĐ-UBND về việc ban hành Quy định thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông trong giải quyết công việc của cá nhân, tổ chức tại các cơ quan hành chính nhà nước thuộc thành phố Hà Nội. 28. UBND quận Nam Từ Liêm (2016), Quyết định số 4716/QĐ-UBND ngày 19/8/2016 về việc ban hành Quy định quy chế hoạt động của Bộ phận Tiếp nhận và trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính. 29. Ủy ban nhân dân quận Nam Từ Liêm (2015), Hướng dẫn số 159/HD- UBND Thực hiện nhận kết quả hồ sơ, trả kết quả thủ tục hành chính theo cơ chế “Một cửa liên thông: Đăng kí khai sinh, đăng kí thường trú, cấp thẻ Bảo hiểm Y tế cho trẻ em dưới 6 tuổi; Đăng kí khai tử, xóa đăng kí thường trú; Cấp lại bản chính khai sinh trên địa bàn quận Nam Từ Liêm. 30. Ủy ban nhân dân quận Nam Từ Liêm (2016), Quyết định số 1140/QĐ- UBND ngày 25 tháng 3 năm 2016 Ban hành quy trình tiếp nhận, giải quyết, trả hồ sơ giải quyết thủ tục hành chính trong lĩnh vực tài nguyên môi trường theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông thực hiện theo tiêu chuẩn quản lý chất lượng ISO 9001:2008 trên địa bàn quận Nam Từ Liêm 31. Văn phòng Chính phủ (2010), Công văn 7416/VPCP-TCCV năm 2010 về hướng dẫn đánh giá tác động quy định về thủ tục hành chính, Hà Nội. 32. Văn phòng Chính phủ (2011), Công văn số 4667/VPCP-KSTT ngày 11/7/2011 về hướng dẫn kiểm tra việc thực hiện hoạt động kiểm soát TTHC, Hà Nội. 33. Văn phòng Chính phủ (2011), Công văn số 195/KSTT-VP ngày 23/8/2011 về tài liệu hướng dẫn kiểm tra việc thực hiện hoạt động kiểm soát thủ tục hành chính, Hà Nội. 34. Bùi Thế Vĩnh (2005), Một số vấn đề cần quan tâm khi triển khai và thực hiện cơ chế “một cửa”, Thông tin khoa học hành chính số 3/2005, trang 7.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_cai_cach_thu_tuc_hanh_chinh_theo_co_che_mot_cua_mot.pdf
Luận văn liên quan