Sự phân tích về cả phương diện lý thuyết và thực tiễn của CSCN đã tạo
điều kiện cho tác giả đề xuất một số kiến nghị đối với CSCN Việt nam trong
bối cảnh mới. Bối cảnh mới của CSCN Việt Nam được cấu thành bởi các xu
hướng quốc tế và các nền tảng kinh tế trong nước. Trong đó, xu hướng toàn
cầu hoá và xuất phát điểm của các ngành của Việt Nam là hai nhân tố quan
trọng nhất tác động đến việc hoạch định và thực hiện CSCN.
87 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2388 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chính sách công nghiệp - Lý luận và kinh nghiệm quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
động trong sáng, hiệu
quả. Nếu hệ thống này còn thiếu thống nhất, thủ tục hành chính còn phức
tạp hoặc không vì mục đích vì dân thì việc hoạch định và thực thi các chính
55
sách sẽ gặp nhiều vướng mắc, nhất là sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt
động sản xuất, kinh doanh…
- Thứ tư, luôn sáng tạo những biện pháp và công cụ của chính sách
công nghiệp. Kinh nghiệm từ Trung Quốc cho thấy khi không có điều kiện
để phát triển tổng thể toàn bộ nền kinh tế, ta có thể thay đổi các điều kiện
ban đầu để tạo ra một môi trường mới phù hợp cho sự phát triển hơn. Với
việc thành lập các ĐKKT, Chính phủ Trung Quốc đã tạo ra một khu vực có
khả năng thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài nước.
Vì vậy, nó đã khiến những ngành được lựa chọn trong khu vực này có khả
năng phát triển cao hơn mà nhờ đó kéo theo sự phát triển của các ngành
khác trong nền kinh tế.
- Thứ năm, chính sách công nghiệp cần phải linh hoạt phù hợp với các
bối cảnh mới. Việc hoạch định và thực thi CSCN của Nhật Bản và Trung
Quốc đã cho thấy CSCN của các nước này đã thay đổi theo từng thời kỳ,
phù hợp với xu thế hội nhập nền kinh tế khu vực và nền kinh tế thế giới. Các
CSCN thời kỳ đầu mặc dù là hướng nội nhưng chỉ là điều kiện để chuẩn bị
cho việc tham gia cạnh tranh toàn cầu khi thực hiện chính sách hướng về
xuất khẩu trong thời gian sau. Với những CSCN như vậy, Chính phủ các
nước đã chú trọng tới vấn đề lợi thế so sánh của mình trong từng giai đoạn
phát triển. Trong những giai đoạn đầu, các nước chủ yếu là tận dụng những
lợi thế so sánh tĩnh như tài nguyên, lao động để phát triển các ngành công
nghiệp của mình. Sau đó, các nước này đã có những chính sách thích hợp để
tạo ra những lợi thế so sánh động, phát triển các ngành công nghiệp có hàm
lượng khoa học và công nghệ cao với trình độ đi từ thấp đến cao, đi từ nhập
khẩu công nghệ đến cải tiến và tạo ra công nghệ mới. Các Chính phủ cũng
đã tận dụng các nguồn đầu tư nước ngoài để phát triển các ngành công
nghiệp nhưng bao giờ cũng có sự kiểm soát chặt chẽ để vừa tăng được năng
56
lực sản xuất của các ngành công nghiệp mà không bị phụ thuộc nhiều vào
nước ngoài.
Chương 3:
Một số kiến nghị nhằm góp phần xây dựng và hoàn thiện chính sách
công nghiệp Việt nam trong giai đoạn từ nay đến năm 2020.
3.1. Bối cảnh mới và ảnh hưởng của nó tới chính sách công nghiệp Việt
Nam.
Sau hơn một thập kỷ thực hiện “đổi mới”, Việt Nam đã đạt được những
thành tựu đáng kể trong quá trình phát triển kinh tế. Những thành tựu đó
cùng với các xu hướng quốc tế đang nổi lên đã tạo ra một bối cảnh mới cho
việc hoạch định và thực thi các chính sách kinh tế - xã hội. Sau đây ta sẽ
xem xét các nhân tố trong bối cảnh mới trong việc tác động tới các chính
sách phát triển kinh tế nói chung cũng như các chính sách công nghiệp nói
riêng.
57
3.1.1. Các xu hướng quốc tế.
3.1.1.1. Xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá
Toàn cầu hoá và khu vực hoá là xu thế khách quan ngày càng tác động
mạnh, thậm chí chi phối sự phát triển kinh tế của các nước. Xu thế này được
thể hiện rõ thông qua quá trình tự do hoá thương mại, đầu tư và tài chính.
- Thứ nhất, thực hiện tự do hoá thương mại có nghĩa là các quốc gia sẽ
phải tuân thủ một lịch trình giảm thuế và các hàng rào phi thuế quan. Điều
đó cũng có nghĩa là các doanh nghiệp trong nước sẽ không nhận được
những ưu thế từ các chính sách bảo hộ của Chính phủ. Do đó, nếu những
doanh nghiệp nào không có đủ sức cạnh tranh thì không thể hoạt động trong
môi trường này. Đối với Việt Nam, việc tham gia vào AFTA (khu vực mậu
dịch tự do ASEAN), nộp đơn xin làm thành viên của APEC và WTO, thực
hiện ký kết Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ thể hiện là một bước đi dứt
khoát tham gia vào quá trình tự do hoá thương mại. Bên cạnh những thuận
lợi to lớn có thể đạt được, Việt Nam sẽ phải đối diện với những thách thức
về năng lực và thời gian để thực hiện các cam kết quốc tế. Đến thời điểm
thực hiện AFTA vào năm 2006, Việt Nam phải xoá bỏ các hàng rào phi thuế
(NTBs) và giảm thuế suất nhập khẩu của hầu hết các mặt hàng nhập khẩu
xuống tới 0 - 5%. Trong một môi trường như vậy, rất có khả năng nhiều
doanh nghiệp của Việt Nam sẽ không thể cạnh tranh được so với các doanh
nghiệp của các nước trong khu vực. Chính vì vậy, Việt Nam cần nhanh
chóng xúc tiến những CSCN nhằm tăng cường sức cạnh tranh cho các
ngành cũng như các doanh nghiệp của mình. Những chính sách này một mặt
phải đáp ứng các yêu cầu của quá trình tự do hoá, còn mặt kia phải đảm bảo
tận dụng tối đa các lợi ích mà tự do hoá đem lại. Các biện pháp tài chính và
các khuyến khích như tín dụng thương mại, chuyển giao thông tin, công
nghệ và xây dựng cơ sở hạ tầng…là những công cụ chính sách chủ yếu,
58
trong khi việc sử dụng các công cụ bảo hộ sẽ phải rất hạn chế trong môi
trường tự do hoá hiện nay.
- Thứ hai, hiện nay, trong các luồng vốn quốc tế, vai trò của FDI là rất
lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp, các
ngành nói riêng. Do đó, sự cạnh tranh thu hút FDI là rất gay gắt không chỉ
giữa các quốc gia mà còn giữa các ngành trong một nền kinh tế. Những
ngành nào hoạt động hiệu quả, có ưu thế cạnh tranh sẽ thu hút được nhiều
FDI. Đối với Việt Nam hiện nay, sự cạnh tranh thu hút FDI là rất quyết liệt,
nhất là sau khi Trung Quốc gia nhập WTO và trở thành một cực lớn thu hút
FDI. Vì vậy, CSCN nhất định phải tính tới những đặc điểm đó. CSCN phải
được định hướng trên cơ sở đảm bảo việc thu hút và sử dụng nguồn vốn này
đạt hiệu quả cao nhất bên cạnh vẫn thu hút các luồng vốn khác.
3.1.1.2. Tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ trên thế
giới
Cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI này, cách mạng khoa học công nghệ
có những bước nhảy vọt khó lường. Trong những điều kiện đó, chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước cần phải được triển khai theo tư duy
mới, phù hợp với giai đoạn mới. Việc thúc đẩy những ngành công nghiệp
mũi nhọn phải dựa trên cơ sở các lợi thế cũ và mới trong qua trình phát
triển. Nhờ vậy, Việt Nam có thể sẽ tiếp nhận được những thành tựu khoa
học và công nghệ, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, chủ
động tạo ra những lợi thế mới trong quá trình hội nhập quốc tế để vươn lên,
đạt trình độ phát triển cao hơn trong khu vực và thế giới.
3.1.1.3. Những biến đổi môi trường và yêu cầu phát triển bền vững
toàn cầu.
Hiện nay, sự ô nhiễm môi trường là vấn đề hàng đầu không chỉ ở mức
độ quốc gia mà còn ở cấp độ toàn cầu. Vì vậy, các quốc gia không thể chỉ
đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, phát triển công nghiệp mà không tính các yêu
59
cầu bảo vệ môi trường. Nói cách khác, hiện nay chính sách phát triển kinh tế
nói chung hay CSCN nói riêng cần phải chú trọng đến phát triển bền vững
hơn rất nhiều so với trước kia. Mặc dù là một nước chưa rơi vào tình trạng
nguy cấp của ô nhiễm môi trường, bởi nguyên nhân chính là nền công
nghiệp chưa phát triển, nhưng với mức tăng GDP của nền kinh tế Việt Nam
như hiện nay khoảng 7 - 8%/ năm, nếu không có những biện pháp bảo vệ
môi trường thì mức độ ô nhiễm môi trường vào 2020 có thể gấp 4 - 5 lần
mức độ hiện nay, vượt quá mức độ cho phép. Do đó, việc lựa chọn trong
CSCN của Việt Nam cần cân nhắc một cách thận trọng các chi phí - lợi ích
của sự can thiệp, trong đó sự trả giá cho ô nhiễm môi trường phải được tính
đến.
3.1.2. Các nhân tố trong nước.
3.1.2.1. Nền tảng kinh tế vĩ mô.
Xét theo hầu hết các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô và các chỉ tiêu xã hội, Việt
Nam đã đạt được những thành tựu hết sức nổi bật đối với một nền kinh tế
đang chuyển đổi. Từ sau khi đổi mới, tốc độ tăng trưởng GDP trung bình
hàng năm của Việt Nam là trên 7%, mức thâm hụt ngân sách thấp và tỷ lệ
lạm phát chỉ ở một con số, tỷ lệ tích lũy, đầu tư của Việt Nam tăng lên hai
lần. Sự tăng trưởng trên còn là kết quả của các yếu tố nước ngoài. Trong
thời kỳ này, ngoại thương được mở rộng nhanh chóng và trở nên đa dạng.
Trong thời gian từ năm 1991 đến 1997, kim ngạch ngoại thương bình quân
tăng khoảng 20%/ năm và đóng góp một phần rất quan trọng vào tốc độ tăng
trưởng kinh tế. Bên cạnh đó, nền kinh tế đã thu hút một khối lượng lớn các
nguồn vốn nước ngoài để phát triển kinh tế, quan trọng nhất là các nguồn
vốn từ FDI và ODA. Cho đến năm 1997, nguồn vốn nước ngoài đã chiếm
1/3 tổng vốn đầu tư xã hội. Cùng với quá trình phát triển kinh tế, cơ cấu
ngành kinh tế đã có sự chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, trong đó, công nghiệp, dịch vụ ngày càng đóng vai trò chủ đạo đối với
60
quá trình phát triển kinh tế. (Bảng 3.1). Sự chuyển dịch cơ cấu ngành dẫn
đến sự hình thành các vùng kinh tế trọng điểm, chuyên môn hóa thúc đẩy
phát triển kinh tế của cả nước.
Bảng 3.1. Cơ cấu GDP theo 3 nhóm ngành trong năm 1986-2002.
Đơn vị: %
1986 1990 1995 2000 2001 2002
Nông nghiệp 38,06 38,74 27,18 24,53 23 23,0
Công nghiệp 28,88 22,67 28,76 36,73 38 38,5
Dịch vụ 33,06 38,59 44,06 38,74 39 38,5
Nguồn: - Niên giám thống kê năm 1989, 1994, 2001. Nxb Thống kê, năm 1990-2002.
- Niên giám thống kê, Nxb Thống kê, năm 2002.
Mặc dù đạt được những thành tựu kể trên nhưng Việt Nam vẫn gặp
phải nhiều khó khăn và thách thức nghiêm trọng: Việt Nam vẫn là một trong
những nước có mức thu nhập bình quân thấp nhất trên thế giới với 400USD
(năm 2000). Nền kinh tế Việt Nam đang nằm ở giữa giai đoạn chuyển đổi
sang nền kinh tế thị trường. Vì vậy, các thể chế quan trọng như hệ thống
pháp lý, ngân hàng, các thị trường vốn, lao động, bất động sản và tài sản trí
tuệ còn chưa phát triển đầy đủ. Môi trường kinh doanh ở Việt Nam chưa hấp
dẫn vì chưa có tính cạnh tranh cao, hiệu quả của nền kinh tế còn thấp. Các
doanh nghiệp Việt Nam phần lớn hoạt động thiếu hiệu quả và không đủ khả
năng cạnh tranh quốc tế. Chất lượng đầu tư còn thấp, hệ thống cơ sở hạ tầng
cứng và mềm còn nhiều yếu kém, các thủ tục hành chính còn rườm rà…Bộ
máy hành chính còn quan liêu, kỹ năng chuyên môn chưa đủ và vẫn đang
hoạt động trong một môi trường thiếu sự nhất quán và minh bạch…Những
xu hướng nội tại trong bản thân nền kinh tế đã cho thấy năng lực cạnh tranh
quốc gia của Việt Nam là rất thấp và chưa có triển vọng cải thiện nhanh.
(xem bảng 3.2). [64, 24].
Bảng 3.2. Xếp hạng năng lực cạnh tranh trong 60 nước chọn lọc.
Nước 1996 1998 2000
61
Hàn Quốc 21 22 26
Thái Lan 18 30 27
Malaysia 9 16 32
ấn Độ 45 53 45
Trung Quốc 29 32 46
Việt Nam 49 48 52
Nguồn: Trích World Competitiveness Report and EIU, 2000.
3.1.2.2. Thực trạng phát triển các ngành kinh tế Việt Nam trong thời
gian qua.
Như đã đề cập ở trên, sự phát triển các ngành của Việt Nam trong thời
gian qua đã có những dấu hiệu tích cực, xu thế chuyển dịch theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong lĩnh vực nông nghiệp nói chung, cơ cấu
kinh tế nông, lâm, ngư nghiệp có những bước phát triển quan trọng đảm bảo
được an ninh lương thực đồng thời tạo tiền đề cơ bản cho sự phát triển kinh
tế của đất nước. Các sản phẩm xuất khẩu ở khu vực nông nghiệp có sức
cạnh tranh khá như gạo, cà phê, hạt điều …đã có chỗ đứng trên thị trường
quốc tế. Ngành thủy, hải sản có xu hướng phát triển ổn định với tỷ trọng kim
ngạch xuất khẩu ngày càng tăng.
Trong lĩnh vực công nghiệp - xây dựng, qua hơn 10 năm đổi mới, tốc
độ tăng trưởng của khu vực này đã tăng rất nhanh. Bảng 3.3 cho thấy tăng
trưởng của khu vực II trong các năm 1986-1990 là 4,7%, 1991-1995 là 12%
và 1996-2000 là 10,6%. Về cơ cấu công nghiệp, có sự biến đổi theo hướng
tăng dần tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo và giảm dần tỷ trọng công
nghiệp khai thác. [27]. Trong đó, sự phát triển của các ngành công nghiệp chế
biến, các ngành sử dụng nhiều lao động như: dệt may, da giày, điện tử, chế
biến nông lâm hải sản… đã đóng góp một phần rất quan trọng vào kim ngạch
xuất khẩu, giải quyết việc làm và qua đó đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Bên cạnh đó, có sự gia tăng mạnh mẽ của các ngành quan trọng như: điện, sắt
thép, phân bón, dầu thô, xi măng, than, đường, các sản phẩm lắp ráp... ( Bảng
3.4 ) [74, 24]. Đây là những ngành thuộc nhóm ngành thay thế nhập khẩu nên
62
đã tạo cơ sở quan trọng cho sự phát triển của các ngành khác. Ngoài ra, trong
thời gian qua, cơ cấu công nghiệp theo vùng bước đầu đã có sự điều chỉnh
theo hướng khai thác thế mạnh từng vùng, hình thành các vùng phát triển
trọng điểm. Các vùng sâu, vùng xa cũng có những tiến bộ đáng khích lệ,
nhờ vào các chương trình hỗ trợ đầu tư của Chính phủ.
Khu vực dịch vụ, thương mại có sự phát triển mạnh, sự đóng góp của
khu vực này trong GDP ngày càng quan trọng, không kém gì so với khu vực
công nghiệp. Nền kinh tế đã bắt đầu hình thành và phát triển một số ngành
quan trọng như ngành bưu điện, viễn thông và công nghệ thông tin. Bên
cạnh đó, các ngành du lịch, kinh doanh khách sạn…tiếp tục khẳng định vị trí
của chúng trong sự phát triển kinh tế của đất nước.
Bảng 3.3. Tăng trưởng và cơ cấu các ngành khu vực II từ năm 1986-2000.
Đơn vị tính: %
Năm 1986 1991 1995 2000 86-90 91-95 96-2000
Tăng trưởng GDP 10,9 5,8 9,5 6,7 5,2 8,2 6,9
KVII 19,4 7,7 13,6 10,1 4,7 12 10,6
CN khai thác mỏ 12,6 26 13,5 4,5 39,4 17,6 11,7
CN chế biến 11,5 5,6 13,6 13,2 1,8 10,3 11,4
Sx, pp điện, nước 5,8 -4,5 18,5 10,5 6,8 10,1 12,4
Xây dựng -- 5,2 12,7 7,5 2,3 12,7 7,2
Cơ cấu GDP 100 100 100 100 100 100 100
KV II 28,9 23,8 28,8 36,6 25,4 27,5 33,1
CN khai thác mỏ 1,84 5,4 4,81 9,5 2,62 5,01 7,31
CN chế biến 22,4 13,1 15,0 18,7 18,0 14,7 17,0
Sx, pp điện, nước 1,84 1,3 2,05 2,9 1,52 1,56 2,77
Xây dựng 2,84 4,0 6,90 5,5 3,18 6,27 5,96
Nguồn: Tổng cục thống kê: Kinh tế Việt Nam trong những năm đổi mới, Hà Nội 2001.
Song nhìn chung, sự phát triển các ngành kinh tế trong thời gian qua
vẫn còn tồn tại những hạn chế sau:
- Các ngành sản xuất trong nông nghiệp vẫn cơ bản phát triển theo
chiều rộng, năng suất lao động và hiệu quả thấp. Sản phẩm hàng hoá tuy đa
dạng nhưng manh mún, có tính thời vụ và chưa tương thích với nhu cầu thị
63
trường. Chất lượng nhiều mặt hàng nông sản xuất khẩu hiện vẫn còn kém
sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Bên cạnh đó, sự phát triển một số
ngành dịch vụ chưa thích ứng với quá trình chuyển sang nền kinh tế thị
trường như các ngành trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, còn thiếu sức cạnh
tranh như lĩnh vực bưu chính viễn thông và rất hạn chế đối với các ngành tư
vấn pháp lý, quản lý doanh nghiệp. [105, 4].
- Cơ cấu công nghiệp của Việt Nam còn rất đáng ngại, sự thay đổi của
công nghiệp chế biến, chế tạo theo hướng xuất khẩu chưa đủ mạnh để làm
chuyển biến cơ cấu ngoại thương tạo động lực cho sự phát triển.
Bảng 3.4 cho thấy đa số các ngành tăng trưởng nhanh là những ngành
đòi hỏi vốn đầu tư lớn và có xu hướng tiêu dùng trên thị trường nội địa như
thép, mía đường, xi măng. Trong khi đó, loại ngành công nghiệp có tỷ lệ
xuất khẩu cao và sử dụng nhiều lao động như dệt - may, một trong số ít
những ngành có sức cạnh tranh khả dĩ trên thị trường quốc tế, có tốc độ phát
triển vào mức trung bình thấp. Các ngành điện - điện tử và một số ngành cơ
khí (chế tạo ô tô, xe máy) những ngành đại diện cho triển vọng phát triển, có
hàm lượng công nghệ - kỹ thuật và lao động cao từ chưa đủ sức cạnh tranh
quốc tế. Các ngành công nghiệp đóng vai trò then chốt với nền kinh tế là các
ngành công nghiệp nặng sản xuất máy móc, các ngành công nghiệp hoá chất
như hoá dầu, lọc dầu, phân đạm… chưa phát triển và chiếm tỷ trọng thấp
trong tổng giá trị sản lượng công nghiệp.
64
Bảng 3.4. Tốc độ tăng trưởng của các sản phẩm công nghiệp chủ yếu
(1990-2000).
Đơn vị: %
1995/1990 1999/1995 1999/1990 2000/1999
Nhóm sản phẩm
hướng nội
Thép 465,3 260,4 1.211,9 17,2
Xi măng 230,0 178,1 409,7 27,3
Gạch 198,3 116,5 231,0 24,5
Giấy bìa 274,1 156,5 428,9 10,2
Dầu thực phẩm 133,1 266,3 354,5 ---
Đường tinh luyện 344,4 158,1 544,4 24,2
Bia 465,0 139,3 648,0 6,5
Xe máy lắp ráp 154,9 --- 65,4
Ti vi lắp ráp 546,1 86,0 469,5 13,0
Xà phòng 234,5 179,1 420,0 19,1
Nhóm sản phẩm
hướng nội
Dầu thô 282,2 196,8 555,5 6,9
Quần áo may sẵn 137,5 177,4 243,9 15,1
Giày dép da 176,1 --- ---
Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam: động thái và thực trạng kinh tế - xã hội Việt
Nam 10 năm đổi mới ( 1986- 1995); Niên giám thống kê 1999; Tình hình kinh tế xã hội
năm 2000).
Sự phát triển của các ngành công nghiệp còn được biểu hiện rõ rệt qua
cơ cấu xuất khẩu. Qua hơn 10 năm thực hiện đổi mới, cơ cấu xuất khẩu gần
như không thay đổi, chủ yếu vẫn xuất khẩu các sản phẩm “ thô ” (khoáng
sản, nông lâm, hải sản ) như dầu thô, than, gạo, cà phê còn các sản phẩm có
triển vọng cho việc nâng cấp công nghệ kỹ thuật và tạo ra năng lực cạnh
tranh quốc tế hiện vẫn chưa hoặc chỉ tham gia không đáng kể. Tuy nhiên, có
thể thấy các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam có chất lượng rất
thấp, chưa được chế biến với công nghệ cao, các hàng dệt may, điện tử …sử
65
dụng nguyên liệu ngoại nhập và trình độ chỉ ở mức gia công lắp ráp. (Bảng
3.5).
Bảng 3.5: Tỷ trọng trong kim ngạch xuất khẩu của một số sản phẩm
chính (1998 - 2001)
Đơn vị: %
1998 1999 2000 2001
Tổng kim ngạch xuất khẩu (triệu USD) 9.145,9 9.338,6 11.520,2 14.308
Dầu thô 15,4 13,2 18,2 25,0
Than đá 1,2 1,1 0,8 0,4
Dệt may 14,7 14,5 15,2 12,7
Giày dép 10,5 10,7 12,1 9,8
Hàng điện tử, máy vi tính và linh kiện 5,1 5,1 5,5
Sản phẩm thủ công mỹ nghệ 1,3 1,2 1,5 1,6
Gạo 9,5 11,0 9,0 4,7
Cà phê + Cao su + Hạt tiêu + Hạt điều 9,6 9,7 8,5 6,5
Rau quả 0,7 0,6 0,9 1,4
Thuỷ sản 8,5 8,8 8,3 1,3
Nguồn: Tổng cục Thống kê: Tình hình kinh tế - xã hội năm 2001.
Thực trạng phát triển kinh tế nói chung và phát triển các ngành nói
riêng trong thời gian qua đã phản ánh phần nào việc thực hiện CSCN ở Việt
Nam. Nói chung, các chính sách đã tạo ra những điều kiện thuận lợi nhất
định cho sự phát triển của các ngành mà chủ yếu là các ngành công nghiệp
của Việt Nam. Tuy nhiên, những yếu kém trong những phân tích trên còn
cho thấy có nhiều bất cập trong việc thực hiện CSCN. Các chính sách bảo
hộ tỏ ra không rõ ràng. Phương châm bảo hộ có chọn lọc, có thời hạn vẫn
chỉ dừng lại ở nguyên tắc chung. Việc ưu tiên phát triển các ngành then
chốt, các ngành xuất khẩu không đạt hiệu quả đã khiến Việt Nam hiện vẫn
chưa có những ngành mũi nhọn tạo đà cho sự phát triển kinh tế. Các chính
sách thúc đẩy công nghiệp nhẹ, công nghiệp chế biến, những ngành sản xuất
các sản phẩm chủ yếu cho tiêu dùng và xuất khẩu, chưa đủ mạnh, chưa có
trọng tâm để các ngành này đạt được tốc độ tăng trưởng cao và có sức cạnh
tranh quốc tế. Bên cạnh đó, các chính sách khuyến khích các doanh nghiệp
66
vừa và nhỏ không được thực hiện bài bản cũng như tầm quan trọng của
chúng không được đánh giá đúng mức đã khiến lực lượng này không đáp
ứng được các yêu cầu phát triển của bản thân cũng như phối hợp cùng các
hãng lớn phát huy toàn bộ tiềm lực của nền kinh tế. Các chính sách ưu đãi
không hợp lý đối với các ngành thay thế nhập khẩu đã dẫn đến sự gia tăng
sản lượng quá mức, tình trạng đầu tư tràn lan, không qui hoạch như các
ngành mía đường, thép, xi măng…mà hậu quả của nó là gây ra lãng phí đầu
tư, mất cân đối cơ cấu ngành và nền kinh tế không thể phát triển bền vững.
Ngoài ra, các công cụ bảo hộ như các biện pháp kiểm soát giá, các hàng rào
thuế và phi thuế đã gây ra sự méo mó trong hệ thống giá cả, hạn chế cạnh
tranh và phát triển nền kinh tế thị trường. Mặt khác, sự lạc hậu và chênh lệch
lớn về trình độ công nghệ của nhiều ngành cũng như các khu vực kinh tế
cho thấy sự thiếu thốn các chính sách hỗ trợ và ứng dụng R&D, các biện
pháp chuyển giao công nghệ đồng thời các chính sách này không gắn liền
với sản xuất cũng như không đáp ứng được các yêu cầu của sản xuất. Bên
cạnh đó, nguồn nhân lực đáp ứng cho yêu cầu phát triển các ngành công
nghệ cao cũng còn thiếu, hạn chế về trình độ cũng như trong việc chủ động
tiếp nhận chuyển giao công nghệ của nước ngoài.
3.2. Một số kiến nghị nhằm góp phần xây dựng và hoàn thiện chính
sách công nghiệp Việt Nam trong giai đoạn từ nay đến năm 2020.
Những phân tích về bối cảnh mới của nền kinh tế cho thấy có những
thách thức và khó khăn to lớn đặt ra đối với quá trình phát triển kinh tế của
Việt Nam nói chung cũng như khả năng hoàn thành mục tiêu “ đưa đất nước
Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020 ” như Đảng
và Nhà nước ta đề ra nói riêng. Những thách thức này cùng với các thất bại
thị trường của một nền kinh tế đang chuyển đổi đã biện minh cho sự cần
thiết phải có của chính sách công nghiệp của Việt Nam trong thời gian tới.
Dưới đây là một số kiến nghị của tác giả nhằm xây dựng và hoàn thiện
67
CSCN của Việt Nam trong giai đoạn tới. Nó tập trung vào hai nội dung, bao
gồm: những vấn đề của CSCN Việt Nam, những biện pháp và chính sách hỗ
trợ CSCN trên.
3.2.1. Những vấn đề của chính sách công nghiệp Việt Nam trong giai
đoạn tới.
3.2.1.1. Nguyên tắc của chính sách công nghiệp.
Nguyên tắc của CSCN của Việt Nam được được bắt nguồn từ những
yêu cầu của quá trình hoạch định và thực thi CSCN trong bối cảnh mới.
Trên cơ sở phân tích lý luận và thực tiễn của CSCN, có thể thấy rằng CSCN
của Việt Nam cần phải đảm bảo những nguyên tắc sau:
- Chính sách công nghiệp phải được thực hiện nhằm phát triển thị
trường (nguyên tắc phụ thuộc thị trường ): nguyên tắc này cho rằng Nhà
nước không cần thiết phải là những gì mà thị trường có thể tự làm được và
sự can thiệp của Nhà nước cần phải tuân theo các yêu cầu phát triển của thị
trường. CSCN chỉ có hiệu quả khi nó tạo ra được các điều kiện cơ bản cho
các lực lượng thị trường xuất hiện và cho phép khắc phục thất bại thị trường.
ở Việt Nam hiện nay, nền kinh tế đang trong giai đoạn chuyển đổi sang nền
kinh tế thị trường nên CSCN phải được xác định theo hướng tạo ra các động
lực để phát triển kinh tế thị trường.
- Chính sách công nghiệp không được hạn chế cạnh tranh (nguyên tắc
cạnh tranh ): Cạnh tranh là động lực của sự phát triển, vì vậy, mặc dù Nhà
nước có thể thúc đẩy một số ngành phát triển khiến nó trở thành đầu tàu của
nền kinh tế nhưng vẫn phải duy trì tính cạnh tranh của thị trường nội địa.
Điều này đã được minh chứng qua kinh nghiệm về CSCN của các nước
Nhật Bản, Trung Quốc…
- Chính sách công nghiệp phải phù hợp với năng lực của Nhà nước:
như trong chương một đã phân tích mặc dù có thất bại thị trường nhưng việc
can thiệp của Nhà nước rất có khả năng sẽ thất bại. Tình hình hiện nay cho
68
thấy rằng, Nhà nước cần tạo điều kiện cho thị trường hoạt động nhiều hơn
chứ không chỉ cố gắng sửa chữa các trục trặc của thị trường. Do đó, việc
thực hiện CSCN phải có trọng điểm, có lựa chọn.
- Chính sách công nghiệp được thực hiện trên cơ sở sự chuyển dịch lợi
thế so sánh. Nguyên tắc này có nghĩa là, việc xác định những ngành được
lựa chọn cần dựa trên sự thay đổi về lợi thế so sánh. Chính sách công nghiệp
cần hướng tới những ngành có thể tạo ra lợi thế cạnh tranh của Việt Nam
trên thị trường thế giới. Ví dụ, việc thúc đẩy những ngành công nghệ cao rất
có lợi cho sự phát triển kinh tế của Việt Nam vì những ngành này có giá trị
gia tăng rất cao và có hiệu ứng lan toả kích thích các ngành khác phát triển.
Tuy nhiên, nếu lợi thế so sánh hiện thời của Việt Nam mới chỉ là các ngành
sử dụng nhiều khoáng sản hay lao động thì việc tập trung thúc đẩy các
ngành công nghệ cao sẽ không có hiệu quả. Rõ ràng, CSCN cần phải được
thực hiện từng bước một cho phù hợp với các lợi thế so sánh và không nhất
thiết phải phát triển tất cả những ngành hay tạo ra một cơ cấu ngành hoàn
chỉnh trong bối cảnh hiện nay.
Ngoài các nguyên tắc cơ bản được đề cập ở trên, CSCN còn phải đảm
bảo các nguyên tắc chung của một chính sách kinh tế như phát triển bền
vững, phát huy sức mạnh toàn dân…
3.2.1.2. Nội dung của chính sách công nghiệp Việt Nam.
Căn cứ vào hàm lượng các yếu tố sản xuất trong sản phẩm của một
ngành có thể chia các ngành trong nền kinh tế thành ba loại: các ngành sử
dụng nhiều lao động và tài nguyên, các ngành sử dụng nhiều vốn và các
ngành có hàm lượng công nghệ cao. Sự phân loại này cũng thể hiện trình độ
phát triển của các ngành, từ nhóm ngành loại một đến nhóm ngành loại ba
có sự gia tăng dần hàm lượng chất xám hay trình độ lao động.
Việc lựa chọn các ngành để ưu tiên thúc đẩy phải căn cứ vào các
nguyên tắc của CSCN được đề cập ở trên. Đối với Việt Nam hiện nay, cần
69
tiếp tục đẩy mạnh phát triển những ngành sử dụng nhiều lao động và tài
nguyên theo hướng hiện đại hơn để tận dụng lợi thế so sánh của đất nước.
Cụ thể là:
- Trong nông nghiệp, phát triển các ngành có triển vọng trên thị trường,
có giá trị gia tăng cao và thúc đẩy sự phát triển công nghiệp nông thôn như
thuỷ sản, rau hoa quả nhiệt đới, gạo và cà phê có chất lượng cao…
- Trong công nghiệp, lĩnh vực chủ chốt của nền kinh tế, trong thời gian
tới vẫn phát triển những ngành công nghiệp chế biến nông, lâm, hải sản như
dầu, gạo, cà phê… và các ngành khai khoáng như khai thác than, dầu thô,
quặng kim loại…Những ngành này mặc dù có giá trị gia tăng thấp nhưng lại
là những ngành có khả năng cạnh tranh của Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay, vì vậy, chúng vẫn được đưa vào xem xét trong CSCN nhưng sự ưu tiên
phát triển sẽ giảm dần. Bên cạnh đó, việc chuyển dần sang các ngành công
nghiệp sử dụng nhiều vốn và lao động có trình độ như ngành điện tử, thiết bị
điện, dệt may, cơ khí… cần phải được ưu tiên hơn nữa vì các ngành này sẽ
phát huy được lợi thế tương đối về nguồn nhân lực có chất lượng trong các
công việc đòi hỏi kỹ năng cao. Việc xây dựng và phát triển các ngành công
nghiệp mũi nhọn này sẽ tạo điều kiện để toàn bộ ngành công nghiệp phát
triển và nó tăng cường khả năng thu hút vốn, tiếp nhận chuyển giao công
nghệ cũng như giúp nền kinh tế của đất nước đối phó được với các tác động
từ bên ngoài. Để thực hiện mục tiêu trở thành nước công nghiệp vào 2020
thì chắc chắn trong thời gian tới phải chuẩn bị điều kiện cho việc phát triển
các ngành thuộc nhóm ba như các ngành công nghiệp nặng, hoá chất và
công nghệ cao như vi tính, lắp ráp…, những ngành có khả năng phát triển và
tận dụng hiệu quả nguồn vốn và công nghệ. Việc phát triển các ngành công
nghiệp này ở nước ta chỉ có thể thực hiện khi mà nền công nghiệp đã có
những tiến bộ nhất định và lúc đó cũng nên chỉ chọn một hoặc một vài
ngành để ưu tiên phát triển để có hiệu quả cao nhất. Vì vậy, giải pháp hữu
70
hiệu nhất hiện nay là phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt chú ý đào tạo lĩnh
vực công nghệ thông tin.
Song song với việc xác định những ngành cần ưu tiên, CSCN trong
thời gian tới cần xây dựng các chương trình như sau:
- Xúc tiến những ngành xuất khẩu: chương trình này không chỉ dừng
lại ở thúc đẩy những ngành xuất khẩu trực tiếp mà nó còn phải phát triển
những ngành công nghiệp cơ cở, ngành công nghiệp hỗ trợ. Trước hết, tập
trung xuất khẩu những sản phẩm truyền thống, những sản phẩm mà nước ta
có lợi thế cạnh tranh. Đó là các sản phẩm thuộc các ngành công nghiệp chế
biến hàng nông sản, khoáng sản… Một số giải pháp chính là xúc tiến các
doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc các ngành đó tham gia tích cực vào hoạt
động này; thành lập các trung tâm xúc tiến xuất khẩu cung cấp, tư vấn về
thông tin, công nghệ; coi việc tăng cường áp dụng công nghệ là nội dung
quan trọng trong việc phát triển ngành đồng thời sử dụng tối đa FDI bằng
cách chuyển hướng đầu tư từ những ngành thay thế nhập khẩu, vốn được
thực hiện một cách tràn lan, sang các ngành này ... Bên cạnh đó, kết hợp bổ
sung các sản phẩm mới vào danh mục xuất khẩu. Quá trình này phải được
thực hiện từng bước chắc chắn.
- Phát triển các ngành then chốt: những ngành này hiện nay nước ta
chưa có khả năng sản xuất vì vậy phải tiến hành các biện pháp bảo hộ. Tuy
nhiên, lịch trình bảo hộ phải hợp lý, các tiêu chuẩn đưa ra phải được giả
trình phù hợp với các qui định quốc tế. Bên cạnh đó, thực hiện các biện pháp
như tích lũy vốn, tăng cường chuyển giao công nghệ, đào tạo nguồn nhân
lực, thiết lập các tiêu chuẩn hỗ trợ vốn và cung cấp tín dụng thương mại chặt
chẽ…và đặc biệt là cải cách các DNNN.
Tóm lại, các ngành được lựa chọn để thúc đẩy trong phạm vi CSCN chỉ
nên tập trung vào một số ngành để tạo ra ưu thế cạnh tranh cho Việt Nam.
Điều này phù hợp với năng lực, ngân sách của Nhà nước Việt Nam và các
71
qui định của quốc tế. Ngoài ra, bên cạnh các biện pháp thúc đẩy từ phía Nhà
nước thì mỗi ngành, mỗi doanh nghiệp phải có kế hoạch phát triển riêng để
phát huy tối đa hiệu quả hoạt động.
3.2.1.3. Về các công cụ của chính sách công nghiệp:
Với các nguyên tắc của CSCN được xác định như trên, trong bối cảnh
mới hiện nay, các công cụ chính sách được sử dụng chủ yếu là các công can
thiệp gián tiếp. Vì vậy, sẽ là hợp lý nếu khi thực hiện CSCN, chúng ta loại
bỏ được những công cụ như hạn ngạch, các giấy phép xuất nhập khẩu cũng
như việc đưa ra các biện pháp hành chính luật pháp không dựa trên cơ chế
thị trường để phân bổ nguồn lực. Đối với công cụ trợ cấp, trợ giá cần tránh
lạm dụng để giảm thiểu nguy cơ lạm phát cao vì các công cụ này thường dẫn
đến tình trạng ngân sách phình lên và sự mất ổn định của giá cả. Nói chung,
các công cụ chủ yếu của CSCN trong thời gian tới là thuế, tín dụng thương
mại, các biện pháp phát triển cơ sở hạ tầng và thu hút đầu tư nước ngoài.
Tuy nhiên, bên cạnh việc thực hiện các công cụ này phải thực hiện các công
việc sau:
+ Phải cải cách hệ thống thuế một cách mạnh mẽ hơn nữa trên phương
diện xem xét lại toàn bộ các loại thuế để huy động nguồn lực một cách hiệu
quả. Có những biện pháp hợp lý để phát huy tối đa lợi thế của hệ thống khấu
hao.
+ Đối với việc cung cấp tín dụng, phải cải cách hệ thống ngân hàng
triệt để theo hướng tổ chức lại các ngân hàng hoạt động không hiệu quả để
tăng cường năng lực cho các ngân hàng trong vai trò người trung gian.
+ Đối với nguồn vốn nước ngoài, đặc biệt là FDI, Nhà nước tăng cường
thu hút và sử dụng hiệu quả trong các ngành công nghiệp thông qua việc cải
thiện môi trường đầu tư hấp dẫn hơn. Các biện pháp chủ yếu là xây dựng hệ
thống pháp lý chính sách minh bạch, ổn định, đẩy mạnh phát triển và hoàn
72
thiện cơ sở hạ tầng cứng cũng như mềm đồng thời tăng cường các chính
sách ưu đãi cho các khu chế xuất, khu công nghiệp.
Ngoài ra, một số công cụ như cung cấp thông tin, xúc tiến chuyển giao
thông tin cần được tăng cường. Các định hướng kế hoạch phát triển phải rõ
ràng có cơ sở khoa học để hướng cho các doanh nghiệp đầu tư và ra quyết
định một cách hợp lý, có hiệu quả.
73
3.2.2. Những biện pháp, chính sách hỗ trợ chính sách công nghiệp.
3.2.2.1. Nâng cao vai trò và hiệu lực hoạt động của Nhà nước.
Nhà nước cần phải tạo ra một khuôn khổ kinh tế vĩ mô thật tốt đảm bảo
cho sự phát triển. Đó là một môi trường chính trị, xã hội và một chính sách
kinh tế vĩ mô ổn định kéo theo nền tài chính vững mạnh có sự tăng trưởng
hợp lý về tiền tệ và tín dụng, một mức nợ có thể kiểm soát được, lạm phát
tương đối thấp cùng với sự mở cửa với các thị trường quốc tế. Bên cạnh đó,
để thị trường hoạt động hiệu quả Nhà nước cần nhanh chóng xây dựng hệ
thống pháp lý vững chắc, không chỉ là một hệ thống luật lệ và quy định, mà
còn là các định chế cần thiết để thực hiện và cưỡng chế việc thi hành pháp
luật và giải quyết tranh chấp thực hiện trong quá trình chuyển đổi từ nền
kinh tế kế hoạch sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường.
3.2.2.2. Xây dựng chính sách cạnh tranh.
Nhà nước cần nhanh chóng xây dựng và hoàn thiện chính sách cạnh
tranh song song với CSCN vì hai chính sách này có mối quan hệ chặt chẽ bổ
sung cho nhau. Chính sách cạnh tranh sẽ giúp cho việc thực hiện CSCN có
hiệu quả hơn khi tạo ra một sân chơi bình đẳng, giúp các doanh nghiệp hoạt
động hiệu quả và khắc phục các hậu quả của CSCN. Trong thời gian tới,
chính sách cạnh tranh cần được tập trung vào những hướng sau: xử lý các
quy định hạn chế cạnh tranh, kiểm soát độc quyền kể cả độc quyền tự nhiên,
ban hành luật cạnh tranh.
3.2.2.3. Hoàn thiện các biện pháp chống tham nhũng.
Việc lựa chọn và thúc đẩy ngành thường được quyết định bởi cơ cấu
chính trị. Do đó, CSCN có thể gặp phải những sự ích kỷ mà có thể dẫn đến
các lựa chọn sai lầm. Trong nhiều trường hợp, sự ích kỷ là một kết quả của
tệ nạn tham nhũng. Vì vậy, Nhà nước cần phải có những phương thức, biện
pháp hạn chế tình trạng này để tăng cường hiệu quả của CSCN. Đối với Việt
Nam hiện nay, khi mà năng lực quản lý Nhà nước còn nhiều yếu kém thì
74
hạn chế tham nhũng trỏ thành một vấn đề cấp thiết. ở đây, những biện pháp
chủ yếu để khắc phục tình trạng này là xây dựng hệ thống pháp luật chặt
chẽ, nghiêm minh; ban hành các quy định về kiểm soát tài chính đối với công
chức, cải cách tiền lương …
3.2.2.4. Chính sách đối với doanh nghiệp:
Các chính sách đối với doanh nghiệp phải tạo điều kiện cho khu vực tư
nhân phát triển mạnh mẽ hơn nữa. Đây là điều kiện tiên quyết để phát triển
cho bất cứ một nền kinh tế nào. Các biện pháp chủ yếu là việc tháo bỏ
những rào cản phân biệt đối với khu vực này, tổ chức các hiệp hội doanh
nghiệp, hỗ trợ R&D…Bên cạnh đó, tiếp tục đẩy mạnh cải cách các DNNN.
Tuy nhiên, việc đơn giản trước hết mà Nhà nước có thể làm là tách bộ máy
hành chính ra khỏi hoạt động kinh doanh, đưa DNNN vào thị
trường…Ngoài ra, Nhà nước cần phải thực hiện chính sách khuyến khích
các doanh nghiệp vừa và nhỏ để phát huy tối đa vai trò của lực lượng này.
Các chính sách đối với SMEs nên tập trung vào những vấn đề sau: thiết lập
các tiêu chuẩn để phân loại hợp lý từng quy mô của doanh nghiệp và các
chính sách ưu đãi tương ứng, các biện pháp sửa chữa những bất lợi trong
kinh doanh của SMEs liên quan đến hoạt động tài chính kế toán, thị trường
tiêu thụ, các vấn đề cạnh tranh …
3.2.2.5. Chính sách công nghệ:
Tăng cường áp dụng các tiến bộ công nghệ trong các ngành công
nghiệp, trong hoạt động sản xuất kinh doanh và đảm bảo rằng sự lựa chọn
đó là quyết định của doanh nghiệp chứ không phải của các quan chức chính
phủ. Tuy nhiên cần phải thiết lập các tiêu chuẩn công nghệ để sự lựa chọn
này lành mạnh và bền vững. Đồng thời, đẩy mạnh các biện pháp chuyển
giao công nghệ kết hợp với việc tăng cường hỗ trợ nghiên cứu, triển khai và
thực hiện nghiêm ngặt vấn đề sở hữu trí tuệ.
3.2.2.6. Phát triển nguồn nhân lực.
75
Phát triển nguồn nhân lực là một yếu tố quyết định then chốt đối với
quá trình tăng trưởng cũng như tăng cường khả năng cạnh tranh cho ngành
và các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Ngoài ra, nó cũng là điều kiện tiên
quyết để Việt Nam có thể phát triển kinh tế một cách nhanh chóng và bền
vững. Các chính sách phát triển nguồn nhân lực cần được triển khai theo hai
hướng sau:
+ Đổi mới hệ thống giáo dục, đặc biệt là hệ đại học, đồng thời phát
triển các loại hình đào tạo nghề. Để có nguồn nhân lực chất lượng cao, cải
cách từ dưới lên là hướng đi cần thiết.
+ Xây dựng các chính sách thu hút và sử dụng nhân tài hợp lý, hiệu quả
và nghiêm túc, tránh tình trạng lãng phí nhân tài, chảy máu chất xám… Các
chính sách này sẽ khiến nguồn nhân lực của nước ta dồi dào, chất lượng và
có khả năng phát triển cao.
76
Kết luận
Trong hệ thống chính sách phát triển kinh tế của các quốc gia hiện nay,
CSCN là một chính sách quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế nói
chung và các doanh nghiệp, các ngành nói riêng. Sự phát triển này đạt được
dựa trên việc CSCN đã tạo ra sự phân bổ nguồn lực hợp lý, có hiệu quả đối
với các ngành được lựa chọn. Một số công cụ chủ yếu để CSCN thực hiện
mục tiêu là thuế, thuế quan, trợ cấp, tín dụng chính sách, các biện pháp phát
triển cơ sở hạ tầng…Xét về lý thuyết kinh tế, các thất bại của thị trường nội
địa là sự biện minh chính đáng cho sự cần thiết phải có CSCN trong một số
lĩnh vực như công nghệ, lĩnh vực đòi hỏi kinh tế quy mô… Bên cạnh đó, các
tiêu chuẩn mang tính thực tế như thúc đẩy các ngành công nghiệp có giá trị
gia tăng cao, có tính liên kết, có triển vọng…là những tiêu chuẩn hữu ích khi
nghiên cứu và hoạch định CSCN cho các nước đang phát triển. Tuy nhiên,
có thể thấy rằng, trong bất cứ trường hợp nào CSCN cũng tiềm ẩn khả năng
thất bại. Những phân tích trong chương một đã chỉ ra rằng, có những giới
hạn đối với CSCN. Đó là các điều kiện, bao gồm: các ngành, các lĩnh vực có
những thất bại thị trường kể trên kết hợp với một Nhà nước có năng lực, có
sự nhất trí về mục tiêu với khả năng sử dụng công cụ rộng rãi, các chi phí
quản lý, tuân thủ nhỏ… CSCN sẽ khả thi và có hiệu quả khi được thực hiện
trong giới hạn này. Tuy nhiên, vấn đề sẽ rất phức tạp để chỉ ra giới hạn của
CSCN khi nghiên cứu thất bại thị trường trên bình diện thế giới với sự thay
đổi các điều kiện khung ban đầu, sự liên kết giữa các ngành của các nước
khác nhau. Đây là hạn chế về mặt lý thuyết của đề tài.
Xem xét trong thực tiễn với đối tượng nghiên cứu là Nhật Bản và
Trung Quốc, có thể thấy mặc dù các nền kinh tế đều thành công nhưng
thành công đó bắt nguồn chủ yếu từ sự phát triển của khu vực tư nhân trong
một môi trường cạnh tranh cao. Vì vậy, nếu cho rằng sự phát triển kinh tế
của hai nước đạt được trong thời kỳ tương ứng là kết quả của việc thực hiện
77
CSCN thì có thể kết luận nhận định này đã thổi phồng quá mức vai trò của
CSCN. Những phân tích trong chương hai cho thấy các CSCN của Nhật Bản
và Trung Quốc đều có những dấu hiệu tích cực và tiêu cực nhất định. Vấn
đề quan trọng ở đây là xem những chính sách nào đã thành công, mức độ
thành công và những điều kiện quyết định thành công đó. Một cách tương tự
đối với các trường hợp CSCN thất bại. Điều đó sẽ giúp chúng ta có được
những bài học kinh nghiệm quan trọng cho quá trình hoạch định và thực thi
CSCN. Đối với Nhật Bản, có thể thấy rằng một số CSCN đã thành công
trong giai đoạn trước những năm 1970 như chính sách tái thiết (1945 –
1949), chính sách hợp lý hoá ngành (1950 - 1955)… khi nó được xem xét
trên cơ sở có thất bại thị trường và trong những điều kiện hết sức đặc biệt
của nền kinh tế sau chiến tranh. Còn sau những năm 1970, tầm quan trọng
của các CSCN Nhật Bản đối với nền kinh tế là không lớn. Điều này được lý
giải bởi số ngành được CSCN hướng đích là một bộ phận rất nhỏ trong tổng
thể nền kinh tế và sự phát triển của các ngành khác trong nền kinh tế mà
không cần sự trợ giúp của CSCN…So với Nhật Bản, Trung Quốc có hệ
thống CSCN kém rõ ràng hơn rất nhiều và mức độ thành công cũng không
bằng. Các CSCN thành công của Trung Quốc được thể hiện chủ yếu qua các
biện pháp thúc đẩy sự phát triển của các XNHT, các biện pháp định hướng
đầu tư, đặc biệt đối với FDI vào các khu vực như ĐKKT có hiệu quả cao
trong giai đoạn đầu của nền kinh tế đang chuyển đổi. Ngoài ra, đa số các
CSCN Trung Quốc đều tỏ ra không hiệu quả. Đến nay, Trung Quốc chưa có
những ngành mũi nhọn thực sự, cơ cấu ngành vẫn mất cân đối, trình độ công
nghệ lạc hậu và các nhà sản xuất Trung Quốc mới chỉ là các nhà sản xuất
hạng hai, hạng ba trên thị trường thế giới.
Những phân tích về CSCN của hai nước Nhật Bản và Trung Quốc
trong chương hai đã cho thấy có những bài học kinh nghiệm trong quá trình
hoạch định và thực thi CSCN. Đó là:
78
- Chính sách công nghiệp phải thể hiện một cách hợp lý vai trò của
Nhà nước đối với quá trình phát triển kinh tế nói chung và phát triển các
ngành công nghiệp nói riêng trong từng thời kỳ nhất định.
- Hoạch định chính sách công nghiệp phải dựa trên nguyên tắc cạnh
tranh và lợi thế so sánh của quốc gia mình.
- Chính sách công nghiệp phải được thực hiện trên nền tảng cơ chế thị
trường và bộ máy hành chính hoạt động trong sáng, hiệu quả.
- Luôn sáng tạo những biện pháp mới cho chính sách công nghiệp .
- Chính sách công nghiệp cần phải linh hoạt phù hợp với các bối cảnh
mới.
Sự phân tích về cả phương diện lý thuyết và thực tiễn của CSCN đã tạo
điều kiện cho tác giả đề xuất một số kiến nghị đối với CSCN Việt nam trong
bối cảnh mới. Bối cảnh mới của CSCN Việt Nam được cấu thành bởi các xu
hướng quốc tế và các nền tảng kinh tế trong nước. Trong đó, xu hướng toàn
cầu hoá và xuất phát điểm của các ngành của Việt Nam là hai nhân tố quan
trọng nhất tác động đến việc hoạch định và thực hiện CSCN. Nội dung của
kiến nghị tập trung vào việc xây dựng CSCN của Việt Nam trong thời gian
tới và một số biện pháp hỗ trợ để có thể thực hiện thành công các chính sách
này. Đối với CSCN Việt Nam, việc lựa chọn các ngành để thúc đẩy cần đảm
bảo các nguyên tắc của chính sách là nguyên tắc cạnh tranh, phụ thuộc thị
trường, lợi thế so sánh đồng thời phù hợp với năng lực của Nhà nước. Bên
cạnh đó, để nâng cao sức cạnh tranh, khắc phục khuynh hướng phản xuất
khẩu và những yếu kém của một nền kinh tế đang phát triển, CSCN cần đặt
trọng tâm vào hai chương trình: thúc đẩy các ngành xuất khẩu và phát triển
một số ngành then chốt tạo đà tăng trưởng trong tương lai. Đối với các biện
pháp hỗ trợ, cần phải đảm bảo một môi trường vĩ mô thuận lợi, hành lang
pháp lý minh bạch, chặt chẽ, xây dựng được các chính sách cạnh tranh,
chống tham nhũng, phát triển nguồn nhân lực một cách có hiệu quả. Những
79
chính sách này không chỉ góp phần đảm bảo thành công cho CSCN mà còn
tạo ra môi trường thuận lợi đối với sự phát triển kinh tế nói chung của nước
ta.
80
Tài liệu tham khảo
1. David Begg: Kinh tế học, Tập 1 - NXB Giáo dục, 1995.
2. Bộ Kế hoạch Đầu tư - Viện Nghiên cứu Chiến lược Phát triển: Lựa chọn và
thực hiện chính sách phát triển kinh tế ở Việt Nam - NXB Chính trị QG,
1998.
3. Bạch Thụ Cường: Bàn về cạnh tranh toàn cầu - NXB Thông tin Hà nội, 2002.
4. TS. Nguyễn Duy Dũng: Một số định hướng để đẩy mạnh công nghiệp hóa -
hiện đại hoá ở Việt Nam giai đoạn 2001-2010 - NXB Khoa học Xã hội, 2002.
5. Chủ biên Ts. Đỗ Đức Định - Một số vấn đề về chiến lược công nghiệp
hoá và lý thuyết phát triển - NXB Thế giới, 1999.
6. Francois Gipouloux: Trung Quốc đi tới kinh tế thị trường? Cuộc Trường
chinh sau Mao - NXB Thế giới, 1998.
7. Chủ biên TS. Đoàn Thị Thu Hà và TS. Nguyễn Thị Ngọc Huyền: Giáo
trình Chính sách Kinh tế - Xã hội - NXB Khoa học và Kỹ thuật, 2000.
8. Chủ biên GS.TS Dương Phú Hiệp và TS. Nguyễn Duy Dũng: Điều chỉnh
chính sách kinh tế của Nhật Bản - NXB Chính trị Quốc gia, 2002.
9. TS. Phạm Thái Quốc: Trung Quốc - Quá trình công nghiệp hoá trong 20
năm cuối thế kỷ XX - NXB Khoa học Xã hội Hà nội, 2001.
10. Chủ biên Ryuichiro Inoue, Hirohisa Kohama và Shujiro Urata: Chính
sách công nghiệp ở Đông á - Trung tâm Kinh tế Châu á - Thái Bình
Dương - NXB Khoa học Xã hội Hà nội,1997.
11. P. Kgrucman: Kinh tế học quốc tế - Lý thuyết và chính sách, Tập 1. NXB
Chính trị quốc gia, 1996.
81
12. Lưu Lực: Toàn cầu hoá kinh tế lối thoát của Trung Quốc là ở đâu - NXB
Khoa học Xã hội, 2001
13. Chủ biên TS. Võ Đại Lược: Chính sách phát triển công nghiệp của Việt
Nam trong quá trình đổi mới - NXB Khoa học Xã hội Hà nội, 1994.
14. Trần Quang Minh: Lý thuyết về lợi thế so sánh: Sự vận dụng trong chính
sách công nghiệp và thương mại của Nhật Bản 1955-1990 - NXB Khoa
học Xã hội Hà nội, 2000.
15. NXB Chính trị Quốc gia: Chính sách công nghiệp của Nhật Bản - 1999.
16. Ts. Hoàng Thị Thanh Nhàn: Công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu -
Kinh nghiệm của các NIEs - NXB thế giới, 2000.
17. Kim Ngọc - Ngọc Trịnh: Chính sách công nghiệp trong các nền kinh tế
thị trường phát triển: Những cách tiếp cận mới - NXB Khoa học Xã hội
Hà nội, 1994.
18. Gs. Goro Ono: Chính sách công nghiệp cho công cuộc đổi mới - Một số
kinh nghiệm của Nhật Bản, 1998.
19. Bradley R. Schiller: Kinh tế ngày nay - NXB Đại học quốc gia Hà Nội.
20. Biên tập Joseph E. Stiglitz và Shahid Yusuf: Suy ngẫm lại sự thần kỳ
Đông á - NXB Chính trị Quốc gia, 2002.
21. Đồng chủ biên GS.TS. Lê Hữu Tầng - GS. Lưu Hàm Nhạc: Nghiên cứu
so sánh đổi mới kinh tế ở Việt Nam và cải cách kinh tế ở Trung Quốc -
NXB Chính trị Quốc gia, 2002
22. Bùi Tất Thắng: Các nhân tố ảnh hưởng tới sự chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế trong thời kỳ công nghiệp hoá ở Việt Nam - NXB Khoa học xã
hội, 1997.
23. Chủ biên TS. Nguyễn Minh Tú - ThS. Vũ Xuân Nguyệt Hồng: Chính
sách công nghiệp và các công cụ chính sách công nghiệp: Kinh nghiệm
82
của Nhật Bản và bài học kinh nghiệm rút cho công nghiệp hoá của Việt
Nam - NXB Lao động, 2001.
24. Chủ biên TS. Trần Đình Thiên: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt
Nam: Phác thảo lộ trình - NXB Chính trị Quốc gia, 2002
25. UNDP - MPI/DSI: Tổng quan về cạnh tranh công nghiệp Việt Nam -
NXB Chính trị quốc gia, 1999.
26. UNDP - MPI/DSI: Việt Nam hướng tới 2010 - tập 1, tập 2 - NXB Chính
trị Quốc gia, 2001.
27. Một số báo cáo về chủ đề công nghiệp, thương mại tại Hội thảo - JICA
và Bộ Thương mại - 12/2000. Các bản tin, tạp chí và thông tin kinh tế …
83
Danh mục chữ viết tắt
Afta Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
Apec Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình Dương
Cscn Chính sách công nghiệp
Dnnn Doanh nghiệp Nhà nước
đkkt Đặc khu kinh tế
đtnn Đầu tư nước ngoài
Fdi Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Imf Quỹ tiền tệ quốc tế
Nies Các nền kinh tế công nghiệp mới
Miti Bộ Công nghiệp và Thương mại Quốc tế Nhật Bản
Ntbs Hàng rào phi thuế quan
Oda Tài trợ chính thức
R&D Nghiên cứu và triển khai
Smes Doanh nghiệp vừa và nhỏ
Xnht Xí nghiệp Hưng trấn
Wb Ngân hàng thế giới
Wto Tổ chức thương mại thế giới
84
mục lục
Mở đầu ................................................................................................ 1
Chương 1: Những vấn đề lý luận của Chính sách công nghiệp ............. 4
1.1. Tổng quan về chính sách công nghiệp. ................................................... 4
1.1.1. Khái niệm về chính sách công nghiệp. .................................. 4
1.1.2. Mục tiêu và công cụ của chính sách công nghiệp ................ 7
1.2. Cơ sở và giới hạn của chính sách công nghiệp. ................................... 12
1.2.1. Cơ sở của chính sách công nghiệp ..................................... 12
1.2.2. Giới hạn của chính sách công nghiệp. ................................... 20
chương 2: Kinh nghiệm quốc tế - Chính sách công nghiệp của
Nhật Bản và Trung Quốc.................................................... 25
2.1. Chính sách công nghiệp Nhật Bản. ....................................................... 26
2.1.1. Thời kỳ tái thiết. ................................................................... 26
2.1.2. Thời kỳ tăng trưởng nhanh. ................................................... 34
2.1.3. Thời kỳ sau khủng hoảng dầu mỏ (1973) cho đến trước
1990. .............................................................................................. 38
2.2. Chính sách công nghiệp Trung Quốc từ khi cải cách kinh tế cho
đến nay. ................................................................................................. 41
2.2.1. Giai đoạn kế hoạch hóa từ năm 1978 đến 1992. .................... 42
2.2.2. Giai đoạn kinh tế thị trường từ năm 1992 đến nay. ............... 48
2.3 Các bài học kinh nghiệm từ chính sách công nghiệp của Nhật Bản
và Trung Quốc....................................................................................... 53
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm góp phần xây dựng và hoàn
thiện chính sách công nghiệp Việt nam trong giai đoạn
từ nay đến năm 2020. .......................................................... 56
3.1. Bối cảnh mới và ảnh hưởng của nó tới chính sách công nghiệp Việt
Nam. ...................................................................................................... 56
85
3.1.1. Các xu hướng quốc tế. .......................................................... 57
3.1.2. Các nhân tố trong nước. ........................................................ 59
3.2. Một số kiến nghị nhằm góp phần xây dựng và hoàn thiện chính
sách công nghiệp Việt Nam trong giai đoạn từ nay đến năm 2020. ..... 66
3.2.1. Những vấn đề của chính sách công nghiệp Việt Nam trong
giai đoạn tới. ................................................................................... 67
3.2.2. Những biện pháp, chính sách hỗ trợ chính sách công
nghiệp. ............................................................................................ 73
Kết luận .............................................................................................. 76
Tài liệu tham khảo
86
Bảng 16: Tình hình thay đổi tỷ trọng vốn và giá trị sản phẩm của các ngành công nghiệp chủ yếu ở Trung Quốc
Giá tài sản và tỷ trọng vốn lu động
(%)
Vị trí Tỷ trọng giá trị sản phẩm công nghiệp
(%)
Vị trí
Năm 1995 1985 1995 1985 1995 1985 1995 1985
Khai thác than 6.4 3.5 7 11 2.6 2.0 17 18
Khai thác dầu khí 3.7 3.9 10 10 2.3 2.1 18 17
Công nghiệp rừng 2.4 1.5 13 19 2.1 1.7 19 19
Thực phẩm, đồ uống, thuốc lá 6.0 8.3 8 4 12.0 10.9 2 1
Dệt 7.7 6.8 4 6 12.1 8.2 1 4
May mặc, giày da 1.9 3.0 17 13 3.2 5.3 12 8
Chế tạo, giấy, in ấn 2.3 2.5 16 17 2.8 2.9 14 15
Chế tạo dầu khí 1.5 2.5 19 16 2.7 3.2 16 14
Hoá học 7.2 6.2 5 7 6.3 6.6 6 6
Thuốc y học 1.0 1.6 21 18 1.4 1.5 20 20
Sợi hoá học 1.1 1.5 20 20 0.9 1.3 21 21
Cao su và sản phẩm nhựa 2.3 2.8 15 15 3.3 3.6 11 13
Vật liệu xây dựng 7.1 6.0 5 69 7.7 5.0 5 5
Luyện kim 10.6 11.0 2 2 8.6 9.5 4 2
Sản phẩm kim loại 2.3 2.8 14 14 3.0 3.9 13 12
Máy móc 13.2 8.7 1 3 10.9 8.2 3 3
Thiết bị giao thông vận tải 4.8 5.3 9 8 4.1 5.3 7 7
Máy móc khí tài điện khí 2.8 4.0 11 9 3.8 4.7 8 9
Điện tử và thiết bị thông tin 2.5 3.5 12 12 2.7 4.5 15 11
Thiết bị đo lờng 1.0 0.9 22 22 0.8 0.7 22 22
Điện lực, khí đốt 10.4 11.2 3 1 3.7 4.0 10 10
Các ngành khác 1.8 1.4 18 21 3.8 2.4 9 16
Nguồn: Niên giám thống kê Trung Quốc 1995
87
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Chính sách công nghiệp - Lý luận và kinh nghiệm quốc tế.pdf