Nhưng trên thực tế Việt Nam của chúng ta còn đang rất nghèo và lạc hậu và để đất
nước phát triển thì nhiệm vụ của tôi bây giờ là một học sinh đang còn ngồi trên ghế
nhà trường tôi cần phải trau dồi kiến thức, học hỏi thật nhiều. Tiếp thu những cái hay
cái tốt, bài trừ những thứ đem lại cuộc sống không lành mạnh như: tệ nạn xã hội
(HIV AIDS, ma tuý, mại dâm ).
12 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2629 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Luận văn Chủ nghĩa cộng sản đó là lý tưởng cao đẹp của con người, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Chủ nghĩa cộng sản đó là lý
tưởng cao đẹp của con người
Lời nói đầu
Lịch sử phát triển của loài người đã trải qua các hình thái kinh tế xã hội khác nhau,
bắt đầu từ cộng sản nguyên thuỷ sang chiếm hữu nô lệ rồi phong kiến, tư bản chủ
nghĩa và hiện nay là xã hội chủ nghĩa (giai đoạn dầu của hình thái kinh tế xã hội
cộng sản chủ nghĩa). Xã hội ngày càng phát triển thì những mong muốn, đòi hỏi của
con người ngày càng cao, họ không thoả mãn với những gì họ có hiện nay mà họ còn
muốn mình phát triển hơn nữa đó là hình thái kinh tế chủ nghĩa cộng sản. ở Việt
Nam ta hiện nay, là một đất nước mới đang bắt đầu chuyển mình thoát ra khỏi cảnh
nghèo nàn lạc hậu và đang trên đà phát triển, công nghiệp hóa hiện đại hoá đất nước.
Để có được như ngày nay đất nước ta đã phải trải qua nhiều thời kỳ kháng chiến
chống giặc ngoại xâm. Bác Hồ và Đảng đã lãnh đạo nhân ta kháng chiến chống giặc
xâm lược đưa nhân dân ta thoát khỏi cảnh lầm than, chịu ách nô lệ của chúng và đưa
đất nước ta độc lập tự do và tiến lên con đường XHCN_giai đoạn đầu của chủ nghĩa
cộng sản, và truyền bá tư tưởng Mác - Lênin sâu rộng trong toàn dân. Mục tiêu của
nhiều nước nói chung cũng như của Việt Nam ta nói triêng là hướng tới chủ nghĩa
cộng sản đó là lý tưởng cao đẹp của con người.
Nội dung
I> Điều kiện ra đời XHCN giai đoạn đầu của hình thái kinh tế XHCSCN và các
giai đoạn phát triển của nó:
1>Tính tất yếu của hình thái kinh tế XHCSCN (khái niệm):
Sự phát triển xã hội loài người là một quá trình phát triển lịch sử tự nhiên là sự phát
triển kế tiếp nhau của các hình thái kinh tế xã hội khác nhau đó là các hình thái kinh
tế: CSNT-CHNL-PK-TBCN và ngày nay là XHCN_giai đoạn đầu của hình thái kinh
tế XHCSCN. Sự phát triển đó là do sự phát triển của LLSX đóng vai trò quyết định.
Dưới chế độ TBCN với sự ra đời và phát triển của nền đại công nghiệp của khoa học
công nghệ ngày càng cao trình độ của LLSX phát triển mang tính xã hội hoá cao
vượt ra khỏi QHSX dựa trên chế dộ chiếm hữu tư nhân TBCN về TLSX sự phát triển
đó của LLSX đòi hỏi xoá bỏ QHSX TBCN mặt khác tạo tiền dề vật chất kỹ thuật
cho sự ra đời hình thái kinh tế xã hội mới dựa trên chế độ sở hữu xã hội đó là hình
thái kinh tế xã hội XHCS.
2> Các giai đoạn phát triển của hình thái kinh tế XHCN:
Đây là thời kỳ xây dựng giai cấp vô sản trở thành giai cấp thống trị giành lấy chính
quyền nhà nước ở đó giai cấp vô sản phải đạt được mọi tư liệu sản xuất chủ yếu,
trong giai cấp tư sản tập trung Nhà nước mở đường cho lực lượng sản xuất phát
triển. Thi hành nghĩa vụ đối với người lao động dần dần xoá bỏ sự cách biệt giữa
thành thị và nông thôn tiến hành phổ cập giáo dục kết hợp giáo dục với lao động sản
xuất.
Do tính kết quả của cách mạng XHCN. Những cơ sở kinh tế chính trị cho sự tồn tại
của Nhà nước không còn. Nhà nước tiêu vong cộng đồng xã hội mới xây dựng trong
đó sự phát triển tự do mỗi người là điều kiện để phát triển tự do của tất cả mọi người.
Từ đó không còn sự phân biệt lao động trí óc và chân tay. Lao động trở thành nhu
cầu cần thiết đối với con người. Từ quá trình lao động đó chúng ta thiết lập quan hệ
lao động mới thực hiện theo nguyên tắc làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu.
Tóm lại, mục đích của hai giai đoạn: Có cùng chung một điểm là tạo mọi điều kiện
để phát huy năng lực con người thoả mãn ngày càng đầy đủ hơn những nhu cầu ngày
càng cao của con người.
II> Những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa:
Trong quá trình xây dựng học thuyết của mình, các nhà kinh điển của chủ nghĩa xã
hội đã phác thảo ra một số nét về xã hội tương lai. Các ông đã đưa ra quan niệm về
quá trình hình thành và phát triển của chủ nghĩa cộng sản, mà chủ nghĩa xã hội là
giai đoạn thấp của nó, là điểm bắt đầu lịch sử chân chính của loài người.
Dựa trên quan niệm của Mác, Ăngghen và Lênin, có thể nêu lên 6 đặc trưng cơ bản
sau đây của chủ nghĩa xã hội:
1> Cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội là nền đại công nghiệp cơ khí:
Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin, mỗi chế độ xã hội đều có cơ sở
vật chất - kỹ thuật của nó.
Nếu công cụ thủ công là đặc trưng cho cơ sở vật chất - kỹ thuật của các xã hội tiền tư
bản chủ nghĩa thì nền đại công nghiệp cơ khí là cơ sở vật chất của chủ nghĩa tư bản.
Xã hội xã hội chủ nghĩa nảy sinh với tính cách là phủ định biện chứng chủ nghĩa tư
bản, thì cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội nhất thiết phải là nền đại công nghiệp
phát triển và hoàn thiện trên một trình độ cao của nó.
2> Chủ nghĩa xã hội xoá bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất:
Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. C.Mác, Ph.Ăngghen đã cho rằng:
thủ tiêu chế độ tư hữu là cách nói vắn tắt nhất, tổng quát nhất về thực chất của cuộc
cải tạo xã hội theo lập trường của giai cấp vô sản. Tuy nhiên, đặc trưng của chủ
nghĩa cộng sản không phải là xoá bỏ chế độ sở hữu nói chung mà là xoá bỏ chế độ tư
hữu tư bản chủ nghĩa.
Theo Ph.Ăngghen, việc thủ tiêu chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất sẽ dẫn tới việc thủ tiêu nền sản xuất hàng hoá; nèn kinh
tế có kế hoạch trên quy mô toàn xã hội sẽ được thiết lập.
ở Liên Xô, măc dù vào năm 1918 có lúc V.I.Lênin đã nêu ra tư tưởng phải phát triển
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, mở rộng quan hệ hàng hoá tiền tệ,… nhưng
thực tế bức bách của tình hình những năm 1918 - 1921, trong điều kiện nội chiến và
chiến tranh can thiệp của 14 nước đế quốc hòng bóp chết chính quyền Xô viết,
V.I.Lênin đã buộc phải áp dụng chính sách đặc biệt: Chính sách cộng sản thời chiến.
Những kết quả do chính sách đó mang lại trong chiến tranh đã khiến cho V.I.Lênin
có lúc nghĩ rằng có thể bằng những chính sách như thế mà có thể trực tiếp đạt tới
những nguyên tắc cộng sản chủ nghĩa. Đến năm 1912, sau khi kết thúc nội chiến,
trước thực tế kinh tế - xã hội khủng hoảng nghiêm trọng, V.I.Lênin đã sớm nhận ra
tính sai lầm của quan niệm đó và dứt khoát chuyển sang Chính sách kinh tế mới
(NEP). Tinh thần căn bản của NEP là đẩy mạnh phát triển nền sản xuất hàng hoá
nhiều thành phần nên sử dụng thị trường và thương nghiệp; giải phóng mọi tiềm
năng sản xuất của xã hội để phát triển lực lượng sản xuất; quan tâm lợi ích thiết thân
của người lao động…
3> Chủ nghĩa xã hội tạo ra cách tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới:
Trong sự nghiệp kiến thiết chế độ xã hội mới, các nhà kinh điển của chủ nghĩa xã hội
khoa học rất quan tâm và coi trọng việc tổ chức lao động và kỷ luật lao động nhằm
khắc phục những tàn dư của tình trạng lao động bị tha hoá trong xã hội cũ, xây dựng
thái độ lao động mới phù hợp với địa vị làm chủ của người lao động. Các ông nhấn
mạnh rằng chỉ có tổ chức hết sức chặt chẽ và kỷ luật lao động nghiêm ngặt mới dẫn
tới chủ nghĩa xã hội. Theo các ông, lao động được tổ chức có kế hoạch và kỷ luật tự
giác, tự nguyện là đặc trưng cảu xã hội xã hội chủ nghĩa.
4> Chủ nghĩa xã hội thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động:
Theo nguyên tắc này, mỗi người sản xuất sẽ được nhận từ xã hội một số lượng sản
phẩm tiêu dùng trị giá ngang số lượng, chất lượng và hiệu quả lao động mà họ đã
cung cấp cho xã hội, sau khi đã trừ đi một số khoản đóng góp nhất định cho hoạt
động vì lợi ích chung. Trong chủ nghĩa xã hội còn sử dụng nguyên tắc này, bởi vì
trong xã hội đó, của cải làm ra chưa đạt tới mức thật dồi dào như trong chủ nghĩa
cộng sản.
Phân phối theo lao động là nguyên tắc thể hiện sự công bằng dưới chủ nghĩa xã hội.
5> Nhà nước trong chủ nghĩa xã hội là nhà nước kiểu mới, thể hiện sâu sắc bản
chất giai cấp công nhân, đại biểu cho lợi ích, quyền lực và ý chí của nhân dân
lao động:
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã đề cập tới khái niệm chuyên chính
vô sản khi xác định bản chất, chức năng và nhiệm vụ của nhà nước kiều mới - nhà
nước được xác lập do thắng lợi của cách mạng xã hộ chủ nghĩa. Thực chất của
chuyên chính vô sản là sự lãnh đạo của chính đảng của giai cấp công nhân đối với
Nhà nước và toàn xã hội nhằm bảo đảm quyền dân chủ thuộc về nhân dân, trước hết
là nhân dân lao động.
6> Chủ nghĩa xã hội giải phóng con người khỏi áp bức, bóc lột, thực hiện sự
bình đẳng xã hội, tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện:
Mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là giải phóng con người khỏi mọi ách bóc lột
về kinh tế và nô dịch về tinh thần, tạo điêu kiện cho con người phát triển toàn diện.
Nhờ xoá bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất cơ bản khi lực lượng
sản xuất đã phát triển tới mức cho phép thực hiện được sự xoá bỏ đó và, do vậy, xoá
bỏ đối kháng giai cấp, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản sẽ loại bỏ tai hoạ lớn
nhất của loài người : tình trạng người bóc lột người, tình trạng nô dịch và áp bức dân
tộc; thực hiện được sự công bằng, bnình đẳng xã hội, trước hết là bình đẳng về địa vị
xã hội của con người. Chủ nghĩa xã hội tạo ra sự bình đẳng nam - nữ, thực hiện mối
quan hệ bình đẳng và hữu nghị giữa các dân tộc. Trên cơ sở toàn bộ những cải biến
xã hội lịch sử nói trên, chủ nghĩa xã hội tạo ra những điều kiện để từng bước tiến tới
giải phóng triệt để con người.
Những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội được các nhà kinh điển đưa ra là kết quả của
việc nhận thức tình hình kinh tế xã hội cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX trong sự đối
chiếu, so sánh với chủ nghĩa tư bản đương thời. Những đặc trưng đó đã thể hiện trình
độ phát triển cao hơn, tốt đẹp hơn của chủ nghĩa xã hội so với chủ nghĩa tư bản.
) Đối với chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thì đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội
chủ nghĩa mà ta đang xây dựng gồm có 6 đăc trưng sau:
- Do nhân dân lao động làm chủ .
- Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
quan hệ sản xuất dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất là chủ yếu.
- Có một nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
- Con người được giải phóng khỏi ách áp bức bất công để có điều kiện phát
triển toàn diện cá nhân.
- Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
- Có quan hệ hữu nghị hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
III> Chủ nghĩa xã hội với vấn đề con người và phát huy nguồn lực con người:
Trong giai đoạn phát triển hiện nay loài người đã tạo ra những điều kiện để nâng
mình lên một trình độ chủ thể mới, có vai trò quyết định hơn đối với tiến trình phát
triển của lịch sử. Nhưng điều đó đồng thời cũng đặt ra với mức độ bức thiết chưa
từng thấy sự lựa chon của loài người về một con đường thực sự đưa mình tới tự do,
hạnh phúc.
Chủ nghĩa tư bản đã có trên 5 thế kỷ tồn tại và phát triển. Mức độ mà chế độ đó đạt
được trong việc giải phóng con người - so với chế độ nô lệ và phong kiến - là rất to
lớn. Thế nhưng, chủ nghĩa tư bản ở giai đoạn cao nhất của nó hiện nay, đẩy phần lớn
nhân loại vào tình trạng bị áp bức, bóc lột về giai cấp và nô dịch về dân tộc. Chủ
nghĩa tư bản hiện đang lâm vào một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng về vấn đề con
người.
Xét trên tiến trình phát triển của lịch sử, chủ nghĩa xã hội xuất hiện là một hướng đi
hoàn toàn mới đưa loài người tới sự giải phóng. Thế nhưng trên bảy thập niên tồn tại
và phát triển, bên cạnh những thành tựu to lớn chưa từng có trong việc giải quyết vấn
đề con người, các nước xã hội chủ nghĩa cũng không tránh khỏi những khuyết điểm,
khiến cho mục tiêu giải phóng con người còn bị hạn chế về nhiều mặt.
Trong tình hình ấy chủ nghĩa xã hội khoa học cần khẳng định và phát triển thêm lý
luận về con người nhằm chỉ đạo việc xây dựng và thực hiện có hiệu quả một chiến
lược về con người, trong đó con người được khẳng định là mục tiêu cao nhất, đồng
thời cũng là động lực to lớn nhất để xây dựng thành công xã hội mới.
1> Con người và nhân tố con người XHCN:
a> Khái niệm con người xã hội chủ nghĩa:
Con người xã hội chủ nghĩa được xem xét từ cơ sở lý luận và xuất phát điểm từ quan
niệm của Mác về bản chất con người đó là bản chất con người không phải là một cái
gì trừu tượng cố hữu của cá nhân riên biệt trong tính hiện thực của nó, bản chất của
con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội. Trong giai đoạn hiện nay khi giai cấp
công nhân_nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã dần dần tạo
lập được những mối quan hệ mới ngày càng hoàn thiện hơn những mối quan hệ xã
hội đó. Thông qua đó để hình thành nên bản chất con người mới của xã hội chủ
nghĩa cũng dần dần được hoàn thiện. Xét theo ý nghĩa đó thì con người mới xã hội
chủ nghĩa là sản phẩm tổng hợp của các mối quan hệ xã hội, của xã hội xã hội chủ
nghĩa được từng bước hình thành trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội.
b> Những đặc trưng cơ bản của con người mới xã hội chủ nghĩa:
Con người xã hội chủ nghĩa là con người có ý thức có trình độ năng lực làm chủ
đồng thời có đầy đủ các điều kiện để thực hiện chức năng làm chủ của mình.
Con người lao động mới có tri thức sâu sắc về công việc của mình, có trình độ, có
sức khoẻ, lao động có năng suất cao biết tự đánh giá chất lượng công việc của mình.
Con người có văn hoá sống có tình nghĩa.
Con người giàu lòng yêu nước, trung thành với chủ nghĩa xã hội, với sự nghiệp cách
mạng, có tinh thần yêu giai cấp, yêu đồng loại và tinh thần quốc tế chân chính.
c> Nhân tố con người (nguồn lực con người):
Khái niệm nguồn lực con người coa phạm vi bao quát. Đó là tổng thể những yếu tố
thuộc về thể chất và tinh thần, đạo đức, phẩm chất, trình độ tri thức, vị thế xã hội …
tạo thành năng lực của con người và của công đồng người. Năng lực đó khi được sử
dụng, phát huy sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Theo đó, con người không chỉ là sản phẩm của sự phát triển tự nhiên và xã hội mà
còn là chủ thể tích cực cải biến tự nhiên và xã hội; con người là điểm khởi đầu và
điểm kết thúc của mọi quá trình lịch sử; con người là yếu tố quan trọng nhất trong
lực lượng sản xuất, là lực lượng sản xuất quyết định nhất của xã hội, và cách mạng
xã hội cũng là sự nghiệp của quần chúng lao động.
Chỉ có thể đánh giá vai trò quyết định của nguồn lực con người khi đạt nó trong mối
quan hệ với các nguồn lực khác. Sự tồn tại bền vững và sự phát triển theo con đường
tiến bộ của bất cứ quốc gia nào cũng phụ thuộc vào nhiều nhân tố: vị trí địa lý, tài
nguyên thiên nhiên, nguồn vốn đã được tích luỹ trong nước và nguồn vốn có thể
tranh thủ từ nước ngoài… Mỗi nhân tố có vai trò riêng, nhưng sự hội nhập đủ các
nhân tố cơ bản thường tạo ra kết quả lớn hơn tổng số các nhân tố cộng lại với tư cách
là “phép cộng đơn thuần”. Ngược lạ, sự thiếu hụt của một nhân tố cơ bản nào đó, có
khi gây nên sự giảm tác dụng của các nhân tố khác, nghĩa là gây nên hậu quả tiêu
cực lớn hơn vai trò của nhân tố thiếu hụt đó. Tuy thế, những nhân tố kể trên chỉ tồn
tại dưới dạng tiềm năng, tự chúng là những khách thể bất động. Chúng chỉ trở thành
nhân tố “động” và phát huy tác dụng khi kết hợp với nguồn lực con người tức là
được nguồn lực con người khơi dậy. Bởi vì, con người là nhân tố chủ động, có đầy
đủ khả năng lợi dụng các nhân tố khác, gắn kết các nhân tố khác thành một tổng thể
các nhân tố cần thiết và định hướng tác động của mọi nhân tố vào mục tiêu phát triển
đất nước.
Sở dĩ nguồn lực con người có vai trò quyết định trong các nhân tố, các nguồn lực của
sự phát triển lịch sử, trước hết là do năng lực sáng tạo, trí tuệ của bản thân con người
và cộng đồng người theo chiều hướng tiến bộ của lịch sử. Do đó, nguồn lực con
người phải được nhìn nhận trong môi trường của nền văn minh và phát triển mạnh
mẽ trong điều kiện chịu ảnh hưởng của một hệ tư tưởng tiên tiến và của một trình độ
phát triển khoa học công nghệ hiện đại trong đó chân lý khoa học không tách rời chủ
nghĩa nhân văn.
2> Con người xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
a> Phương hướng phát triên nguồn lực con người ở Việt Nam:
Trong tất cả các giai đoạn cách mạng, đặc biệt là giai đoạn hiện nay, Đảng ta luôn
đặt con người vào vị trí trung tâm với tư cách là nhân tố quyết định nhất. Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VIII đã khẳng định: Lấy việc phát huy nguồn lực con người
làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững, và chính từ đó, những thành
quả của sự phát triển đất nước lại nhằm phục vụ nhân dân Việt Nam, con người Việt
Nam và góp phần cho nhân loại.
Công cuộc đổi mới đất nước tạo ra những thuận lợi chưa từng có, đồng thời đòi hỏi
con người Việt Nam vượt qua những thách thức gay gắt để nâng cao phẩm chất toàn
diện phù hợp với đòi hỏi chung của thời đại, kế tục và nâng cao những giá trị truyền
thống của dân tộc lên một trình độ mới.
Phẩm chất toàn diện của con người Việt Nam thể hiện ở đức - trí - thể - mỹ. Cấu trúc
nhân cách con người Việt Nam hiện nay cũng bao gồm những thành tố đó, những giá
trị đó, nhưng ở mức độ đáp ứng những đòi hỏi của thời đại. Do đó, chiến lược phát
triển con người ở nước ta, về thực chất, là tổng thể những giải pháp nhằm nâng cao
nhân cách con người Việt Nam lên ngang tầm thời đại.
ở một cấp độ khái quát cao hơn, có thể nói, nhân cách là một tổng thể những giá trị
được sắp xếp trong một cấu trúc chặt chẽ với sự nổi bật của hai nhân tố cốt lõi: Đức -
Tài. Chính vì thế khi nói vê vấn đề con người, Chủ tich Hồ Chí Minh thường nói về
đức - tài . Người luôn nhấn mạnh việc trau dồi, rèn luyện đạo đức cách mạng và chỉ
rõ những nội dung cơ bản của đạo đức cách mạng là “tuyệt đối trung thành với
Đảng, với nhân dân”, “phấn đấu để thực hiện mục tiêu của Đảng”, “Gột sạch chủ
nghĩa cá nhân”, “hoà mình với quần chúng”. Nhưng, Người rất quan tâm đến tài
năng và luôn tạo mọi điều kiện để mỗi người rèn luyện tài năng, đem tài năng cống
hiến cho xã hội . Tuy vậy, Người luôn gắn tài năng với đạo đức. Theo Người, có tài
mà không có đức thì hỏng. Ngược lại, nếu không có tài thì không thể làm việc được.
Cũng như vậy, Người luôn gắn phẩm chất chính trị với trình độ học vấn chuyên
môn.
Tư tưởng trên đây của Chủ tịch Hồ Chí Minh là cơ sở của một phương hướng phát
triển con người ở nước ta.
Đại hộ đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã gắn việc phát huy nguồn lực con người với
sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc ta. Đại hội neu lên chủ trương lớn: “Thực
hiện đại đoàn kết các dân tộc, tôn giáo, giai cấp, tầng lớp, thành phần kinh tế, mọi
giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng của đất nước, người trong Đảng và người ngoài Đảng,
người đang công tác và người đã nghỉ hưu, mọi thành viên trong đại gia đình dân tộc
ở Việt Nam dù sống trong nước hay ở nước ngoài”.
b> Con người mới ở XHCN Việt Nam:
Trong xu thế phát triển và hội nhập với thế giới của Việt Nam hiện nay chúng ta cần
hội tụ những nhân tố: Đức - trí - thể - mỹ . Cần có một lối sống lành mạnh trong
sạch, trình độ học vấn chuyên môn cao, thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh. Biết học hỏi, tiếp thu những cái tốt của nước khác. Gìn giữ và
phát triển nền văn hoá dân tộc ngày càng phong phú và đa dạng.
IV> Liên hệ với bản thân:
Đối với tôi là một người Việt Nam, sống trong thời kỳ đất nước quá độ lên chủ nghĩa
xã hội. Tôi cũng như bao người Việt Nam khác đều muốn đất nước mình phát triển
ngày càng giàu mạnh, mọi người đều có cuộc sống ấm no hạnh phúc.
Nhưng trên thực tế Việt Nam của chúng ta còn đang rất nghèo và lạc hậu và để đất
nước phát triển thì nhiệm vụ của tôi bây giờ là một học sinh đang còn ngồi trên ghế
nhà trường tôi cần phải trau dồi kiến thức, học hỏi thật nhiều. Tiếp thu những cái hay
cái tốt, bài trừ những thứ đem lại cuộc sống không lành mạnh như: tệ nạn xã hội
(HIV AIDS, ma tuý, mại dâm…). Hưởng ứng các phong trào vì người nghèo,
khuyến học…Rèn luyện thể dục thể chất để có một cơ thể khoẻ mạnh để học tập và
làm việc tốt.
Trên đây là những nhiệm vụ mà một học sinh như tôi cần phải làm có thể là chưa đủ
và tuy nhỏ bé nhưng phần nào có thể có ích cho xã hội với một Việt Nam đang trên
đà phát triển và hội nhập vào thế giới hiện nay.
Kết luận
Sự hình thành và phát triển của xã hội xã hội chủ nghĩa_giai đoạn đầu của xã hội
cộng sản chủ nghĩa là tính tất yếu của quá trình phát triển của loài người. Con người
càng phát triển thì những đòi hỏi của họ ngày càng cao và hình thái kinh tế xã hội xã
hội chủ nghĩa_giai đoạn đầu của xã hội cộng sản là lý tưởng cao đẹp mà con người
cần vươn tới.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Chủ nghĩa cộng sản đó là lý tưởng cao đẹp của con người.pdf