Nông nghiệp, nông thôn và nông dân từ trước đến nay luôn là vấn đề có tầm chiến
lược của cách mạng Việt Nam. Vì vậy trong diễn văn khai mạc Hội nghị lần thứ Bảy Ban
chấp hành Trung ương (khóa X) của Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh có đoạn: “Giải quyết
vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn luôn là nhiệm vụ chiến lược của Đảng ta. Trong
quá trình CNH, HĐH đất nước theo định hướng XHCN, nông nghiệp, nông dân, nông thôn
tiếp tục giữ vị trí quan trọng: Nông nghiệp là cơ sở, nông thôn là địa bàn, nông dân là lực
lượng đông đảo góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững, ổn định chính trị - xã hội
và bảo đảm an ninh, quốc phòng”. Với ý nghĩa đó trong giai đoạn hiện nay, ra sức tập
trung phát triển nông nghiệp và KTNT là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để ổn định đời
sống nhân dân, tạo điều kiện, tiền đề cho bước phát triển tiếp theo trong tiến trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
133 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3295 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn ở tỉnh Vĩnh Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trại là hình thức tổ chức SXHH trong nông nghiệp, nông thôn, chủ
yếu dựa vào hộ gia đình, nhằm mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả sản xuất trong lĩnh
vực trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ nông
sản.
Kinh tế trang trại có vị trí quan trọng trong việc phát triển nông nghiệp và KTNT.
Phát triển Kinh tế trang trại nhằm khai thác, sử dụng có hiệu quả đất đai, vốn, kỹ thuật,
kinh nghiệm quản lý, góp phần phát triển nông nghiệp bền vững, tạo việc làm, tăng thu
nhập cho hộ nông dân. Sự ra đời phát triển KTTT gắn liền với sự phân công lại lao động ở
nông thôn, từng bước chuyển dịch lao động nông nghiệp sang các ngành phi nông nghiệp,
thúc đẩy tiến trình công nghiệp hóa trong nông nghiệp và nông thôn.
Với 361 trang trại gia đình được hình thành ở Vĩnh long đã có tác động tích cực đến
sự phát triển nông nghiệp và KTNT trong tỉnh, thể hiện :
Một là: khơi dậy và phát huy mọi tiềm năng đất đai, vốn, lao động... thúc đẩy phát
triển nền nông nghiệp toàn diện, góp phần ổn định tình hình KT-XH, từng bước nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần cho dân cư ở nông thôn.
Các trang trại ra đời và phát triển đã khai thác tối đa, đưa vào sử dụng có hiệu quả
các nguồn lực sẵn có để phát triển nông nghiệp và KTNT trên địa bàn, gần 1000 ha đất
nông nghiệp được đưa vào khai thác, với nguồn vốn đầu tư hơn 171 tỷ đồng, nhờ đó đã tạo
ra hơn 1000 chỗ làm, góp phần giải quyết lao động dôi thừa, tăng mức thu nhập cho bà con
nông dân.
Hai là: góp phần quan trọng làm CDCCKT nông nghiệp, nông thôn theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển SXHH.
Kinh tế trang trại phát triển đa dạng các loại cây trồng, vật nuôi đã tác động mạnh
mẽ tới chuyển dịch cơ cấu sản xuất và lao động theo hướng phá thế độc canh, chuyển sang
đa canh, đa ngành, từng bước xoá bỏ kinh tế TT, TC, phát triển KTHH.
Ba là: Kinh tế trang trại thúc đẩy hình thành, phát triển kinh tế tập thể và mở rộng
mối quan hệ liên kết kinh tế với các chủ thể kinh doanh trên địa bàn.
Sự phát triển Kinh tế trang trại tất yếu dẫn đến hình thành các kiểu, dạng hợp tác về
quy mô và trình độ khác nhau như: Hợp tác xã, hiệp hội trang trại, liên trang trại sản xuất -
dịch vụ, câu lạc bộ trang trại... sẽ tiếp thêm nguồn lực cho các trang trại phát triển ổn định
trong thời gian tới.
Có thể khẳng định Kinh tế trang trại gia đình ra đời và phát triển đã tạo ra thế và lực
mới cho phát triển nông nghiệp, nông thôn, đẩy mạnh SXHH, tạo nguồn vốn và tích lũy
vốn phục vụ SXKD, ứng dụng những tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp
- thuỷ sản. Ngoài ra, KTTT cũng tạo ra cách nghĩ, làm mới cho nông dân, thu hút lực
lượng lao động dôi thừa, tăng thu nhập góp phần xoá hộ đói, giảm hộ nghèo, nâng dần số
hộ đủ ăn và giàu có ở nông thôn.
Thứ hai: Kinh tế tư bản tư nhân.
Để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và KTNT cần khuyến
khích những người có vốn, có kinh nghiệm quản lý kinh doanh, đặc biệt là các nhà tư bản
tư nhân đầu tư phát triển ngành nghề, dịch vụ, công nghiệp nhất là công nghiệp chế biến
nông sản. Trên cơ sở đó, khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực sẵn có, góp phần
tạo thêm công ăn việc làm, tăng thu nhập cho dân cư nông thôn.
Khuyến khích tư bản tư nhân đầu tư vào những khâu mà hộ nông dân không đủ khả
năng đảm nhận, như: Phát triển công nghiệp chế biến, phát triển các loại dịch vụ kỹ thuật
cho nông nghiệp, nông thôn, tham gia lưu thông hàng hóa, giao thông vận tải, xây dựng
kết cấu hạ tầng kinh tế ở nông thôn...
Có thể chủ động liên kết kinh tế với tư bản tư nhân trong và ngoài nước dưới nhiều
hình thức khác nhau để khai thác tiềm năng lợi thế sinh thái của tỉnh, thúc đẩy phát triển
sản xuất nông nghiệp - thuỷ sản, gắn chế biến với tiêu thụ. Sự tham gia tích cực của kinh tế
tư bản tư nhân là một trong những nhân tố tác động mạnh mẽ đến phát triển nông nghiệp
và KTNT, chuyển đổi CCKT theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Để thu hút vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý của tư bản tư nhân, cần phải
quan tâm đến những yêu cầu cơ bản sau :
- Quán triệt đầy đủ, sâu rộng trong cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân các
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế nhiều thành phần, là
chiến lược lâu dài trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trên cơ sở đó loại
bỏ những định kiến, phân biệt đối xử, cùng những lo ngại của các chủ doanh nghiệp tư bản
tư nhân.
Xoá bỏ mọi rào cản, tạo tâm lý xã hội và môi trường kinh doanh thuận lợi cho
các loại hình doanh nghiệp của tư nhân phát triển không hạn chế quy mô trong mọi
ngành nghề, lĩnh vực, kể cả các lĩnh vực SXKD quan trọng của nền kinh tế mà pháp
luật không cấm [16, tr.86-87].
- Cần tạo ra cơ chế, chính sách thông thoáng, tránh những phiền hà, đặc biệt là
những thủ tục đầu tư rườm rà, làm nản lòng các nhà đầu tư.
- Tổ chức các mối liên kết kinh tế giữa người sản xuất, chế biến, người làm dịch vụ
và tiêu thụ sản phẩm, hình thành những tổ hợp nông - công nghiệp, dịch vụ, thương mại
trên từng địa bàn.
- Thực hiện chủ trương khuyến khích, đẩy mạnh đầu tư phát triển KTHH trong
nông nghiệp, nông thôn, tất yếu sẽ diễn ra việc tích tụ ruộng đất. Vì vậy, cần có sự quản lý
chặt chẽ quá trình này, sao cho phù hợp với quá trình CDCCKT và trình độ phát triển của
công nghiệp, dịch vụ, từng bước chuyển dần lao động nông nghiệp sang công nghiệp và
dịch vụ, không để nông dân mất ruộng đất mà không tìm được việc làm dẫn đến bần cùng
hóa.
3.2.6. Chính sách kinh tế - xã hội
3.2.6.1. Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần trong nông
nghiệp và kinh tế nông thôn
Chính sách kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta được Đại hội VI của Đảng nêu lên và các văn kiện Đại hội VII, VIII, IX, X và các
Nghị quyết của TW, của Bộ Chính trị các khóa đều khẳng định: Cần tiếp tục thực hiện
nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần, trong đó KTNN giữ vai trò chủ đạo và phát
triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN.
Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp
thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, bình đẳng trước
pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo… Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng
trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân có vai
trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế [16, tr.83].
Nhờ chính sách đúng đắn đó, đã khơi dậy mọi tiềm lực của nền kinh tế, đưa vào sử
dụng có hiệu quả, thúc đẩy LLSX phát triển, góp phần đưa nước ta phát triển vượt bậc và
hội nhập ngày càng sâu rộng vào thị trường thế giới. Vì vậy trong thời gian tới cần thể chế
hóa hơn nữa chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước về khuyến khích
phát triển đối với từng thành phần kinh tế, để các thành phần kinh tế tích cực tham gia, đặc
biệt là kinh tế tư nhân an tâm đầu tư lâu dài vào phát triển nông nghiệp và KTNT.
3.2.6.2. Chính sách đất đai
Đất đai là yếu tố cơ bản của những người sống bằng nghề nông, nó là tư liệu sản
xuất đặc biệt trong sản xuất nông nghiệp. Do đó chính sách đất đai được xem là khâu “đột
phá” tạo tiền đề cho phát triển nông nghiệp theo hướng SXHH và công nghiệp hóa.
Trong những năm qua, nhờ chính sách đất đai đúng đắn, đã có tác dụng to lớn thúc
đẩy nông nghiệp và KTNT phát triển và đạt được những thành tựu rất quan trọng, góp
phần ổn định và cải thiện đời sống của nông dân. Do yêu cầu mới của sự phát triển, cần
phải giải quyết đúng đắn quan hệ giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng ruộng đất, theo luật
đất đai 2003 xác định: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý và
giao quyền sử dụng cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân.
Ở Vĩnh long hiện còn 3.703 hộ nông dân, chủ trang trại chưa được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng ruộng đất, chiếm 2,56% hộ nông nghiệp - thuỷ sản toàn tỉnh [46]. Do
đó, họ chưa an tâm sản xuất và gặp khó khăn khi vay vốn ngân hàng để đầu tư mở rộng
sản xuất theo hướng lâu dài. Bên cạnh đó, KTHH bắt đầu phát triển mạnh mẽ dẫn đến tích
tụ, tập trung đất đai để mở rộng sản xuất, điều đó phù hợp với quy luật phát triển của nền
nông nghiệp hàng hoá, nhưng cũng làm cho một bộ phận nông dân không có đất sản xuất.
Ngoài những người có điều kiện chuyển nhượng để chuyển sang làm công nghiệp, dịch vụ,
thì còn có nhiều hộ nông dân nghèo thiếu vốn, thiếu kinh nghiệm sản xuất, làm ăn thua lỗ
phải chuyển nhượng, gán nợ rồi đi làm thuê. Vĩnh long hiện có 9.118 hộ không đất sản
xuất, chiếm 6,30% hộ nông nghiệp - thuỷ sản [23]. Như vậy, giải quyết mâu thuẫn tích tụ
ruộng đất để phát triển kinh tế hàng hóa đi lên sản xuất lớn với việc đảm bảo cho nông dân
làm nông nghiệp không bị mất đất, có đất đai để canh tác là bài toán khó, không đơn giản,
trong điều kiện công nghiệp và dịch vụ nông thôn Vĩnh Long chưa phát triển như hiện nay.
Căn cứ vào thực trạng biến động đất đai ở Vĩnh Long và để đẩy mạnh phát triển nền nông
nghiệp thương phẩm, thúc đẩy CDCCKTNT theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong
thời gian tới cần giải quyết một số vấn đề cơ bản sau đây:
Một là: Thực hiện nhanh việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng ruộng đất cho hộ
nông dân và các chủ trang trại để họ yên tâm đầu tư khai thác và sử dụng có hiệu quả tiềm
năng của đất đai, kể cả thế chấp vay vốn ngân hàng.
Hai là: Giải quyết ruộng đất cho những người sống ở nông thôn làm nông nghiệp
có đất để sản xuất, bảo đảm cuộc sống.
Cần giải quyết hài hòa giữa việc Nhà nước có chính sách bảo đảm đất cho sản xuất
nông nghiệp và nuôi trồng thủy với việc thực hiện ai giỏi nghề gì làm nghề đó. Trong bước
khởi đầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, công nghiệp và dịch vụ chưa phát triển, CCKT
nông thôn biến đổi còn chậm, cần có giải pháp vừa khuyến khích những hộ giỏi ngành
nghề phi nông nghiệp, thực hiện phương châm: “Ly nông bất ly hương, nhập xưởng bất
nhập thành”, vừa có giải pháp để hạn chế việc phải sang nhượng ruộng đất vì những khó
khăn hoặc rủi ro của những người chưa có nghề gì khác ngoài nông nghiệp, để những hộ
này không trở thành hộ mất đất phải đi làm thuê. Chống các tệ nạn xã hội: Rượu chè, cờ
bạc, nghiện hút và những tiêu cực khác khi cuộc sống gặp phải khó khăn, bức xúc... Phát
động trong nông dân phong trào “Lá lành đùm lá rách”, tương trợ lẫn nhau. Một trong
những giải pháp cơ bản lâu dài là ra sức phát triển công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn để
thu hút lực lượng lao động nông dân nghèo không có đất vào các hoạt động ngành nghề
phi nông nghiệp.
Ba là: Thực hiện chính sách “hạn điền” mềm dẻo, phù hợp với điều kiện cụ thể của
từng gia đoạn phát triển của đất nước.
Đối với một nước đông dân, chủ yếu vẫn còn sống bằng nghề nông, chính sách “hạn
điền” có giá trị và ý nghĩa của nó. Tại khoản 1 Điều 70 Luật Đất đai năm 2003 quy định:
“Hạn mức giao đất trồng cây hàng năm, đất NTTS, đất làm muối cho mỗi hộ gia đình, cá
nhân không quá ba héc ta đối với mỗi loại đất” và khoản 4 điều 70 quy định: “Trường hợp
hộ gia đình, cá nhân được giao nhiều loại đất bao gồm đất trồng cây hàng năm, đất NTTS,
đất làm muối thì tổng hạn mức giao đất không quá năm héc ta”, Nghị định 181 ngày 29
tháng 10 năm 2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai, tại khoản 1 điều 69 về hạn
mức giao đất nông nghiệp “Hạn mức giao đất trồng cây hàng năm, đất NTTS, đất làm
muối của mỗi hộ gia đình, cá nhân không quá ba (3) ha cho mỗi loại đất đối với các tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương thuộc khu vực Đông Nam bộ và khu vực ĐBSCL; không
quá hai (2) ha cho mỗi loại đất đối với các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương khác”.
Hạn mức đất nông nghiệp như trên là phù hợp với điều kiện quỹ đất đai và khả năng đầu tư
sản xuất của hộ nông dân ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên chính sách “hạn điền” cần xem
xét phù hợp với từng giai đoạn cụ thể để không làm hạn chế sự phát triển của các hộ nông
dân làm trang trại. Diện tích bình quân 1 trang trại ở Vĩnh Long là 2 ha, trong đó có những
loại trang trại diện tích bình quân đã vượt mức hạn điền, như trang trại ngành trồng trọt là
3,26 ha, trang trại tổng hợp là 3,12 ha. Thực tế có nhiều trang trại đã vượt mức hạn điền,
như trang trại trồng trọt ở xã Mỹ Thạnh Trung, huyện Tam Bình với diện tích hơn 8 ha.
Nông nghiệp Vĩnh Long phần lớn là trồng cây hàng năm và NTTS, do vậy trong tương lai
các trang trại ở Vĩnh Long sẽ gặp khó khăn trong mở rộng quy mô, nhất là các trang trại
chuyên canh. Mặt khác tại khoản 1 điều 67 Luật Đất đai 2003 quy định: “Thời hạn giao đất
trồng cây hàng năm, đất NTTS, đất làm muối cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng quy định
tại khoản 1 và 4 điều 70 của Luật nầy là hai mươi năm”. Điều nầy cũng gây lo ngại cho
các nhà đâu tư, nhất là các nhà đầu tư chiến lược, vì vậy cần thực hiện chính sách “hạn
điền” và “thời gian giao đất” mềm dẻo, phù hợp với điều kiện cụ thể của từng giai đoạn
phát triển của đất nước, có như vậy mới thu hút mạnh mẽ các nhà đầu tư và họ an tâm đầu
tư lâu dài, góp phần đẩy nhanh quá trình CDCCKTNT của tỉnh theo hướng CNH, HĐH.
Bốn là: cần quy hoạch cụ thể cho từng vùng làm cơ sở kêu gọi vốn đầu tư và bố trí
sản xuất phù hợp.
Căn cứ vào lợi thế sinh thái của bốn vùng hiện có, mà quy hoạch cụ thể các tiểu
vùng cho phù hợp với đặc điểm từng cây trồng như: lúa, màu, cây ăn trái lâu năm, cây
công nghiệp hàng năm… vùng NTTS, chăn nuôi gia súc, gia cầm… từ đó định hình việc
đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng; có chính sách thu hút đầu tư phát triển công
nghiệp chế biến phù hợp với từng loại nguyên liệu tập trung của từng vùng. Tạo sự gắn bó
chặc chẽ và lâu dài giữa người sản xuất nguyên liệu chuyên canh và các doanh nghiệp chế
biến sản phẩm nông nghiệp - thuỷ sản, thực hiện mua bán trên cơ sở các hợp đồng kinh tế
giữa doanh nghiệp chế biến với nông dân, từ đó mà ổn định nguồn nguyên liệu lâu dài cho
doanh nghiệp và cũng ổn định thị trường đầu ra cho nông dân, chính sự tác động qua lại
nầy tạo nên sự gắn bó lẫn nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển.
3.2.6.3. Chính sách về khoa học và công nghệ
Ngày nay, khoa học đã trở thành LLSX trực tiếp, đóng góp quan trọng cho sự tăng
trưởng nền kinh tế quốc dân nói chung và nông nghiệp, nông thôn nói riêng. Sự gia tăng
giá trị của sản xuất nông nghiệp trong thời gian qua một phần không nhỏ là do nông dân
tiếp thu, ứng dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ mới vào sản xuất. Một số hàng nông
sản xuất khẩu: Gạo, trái cây, thủy sản…của tỉnh trong những năm gần đây tăng nhanh về
số lượng và có chất lượng cao, bảo đảm tiêu chuẩn quốc tế, chủ yếu là nhờ ứng dụng các
tiến bộ kỹ thuật và công nghệ về giống, chế biến, bảo quản…
Để sản xuất ra khối lượng nguyên liệu lớn với chất lượng cao về: Gạo, trái cây,
khoai lang, đậu nành, rau đậu, gia súc, gia cầm, đặc biệt là thuỷ sản… là thế mạnh của
tỉnh. Trong thời gian tới tỉnh cần đầu tư đúng mức cho phát triển khoa học, công nghệ
trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn, nhất là áp dụng được các thành tựu của công
nghệ sinh học hiện đại, ưu tiên đầu tư cho nghiên cứu và lai tạo giống mới về cây trồng,
vật nuôi.
Vĩnh Long có nhiều loại cây ăn quả nổi tiếng có giá trị kinh tế cao như: Sầu riêng
Ri6, cam sành, bưởi năm roi, xoài cát, chôm chôm, nhãn, măng cụt,... nhưng hiện nay các
vườn cây và giống cây trồng đã thoái hóa, chất lượng trái giảm dần, làm mất ưu thế cạnh
tranh với nhiều loại trái cây cùng chủng loại của các nước như: Trung Quốc, Thái Lan,...
nhập vào một cách ồ ạt, được người tiêu dùng ưa chuộng. Điểm yếu nhất của nông sản
Việt Nam nói chung và Vĩnh Long nói riêng là giống chưa thuần chủng nên kích cỡ sản
phẩm không đồng đều, có trái to trái nhỏ, vị ngọt nhạt khác nhau, thời gian chín không
cùng lúc, còn bị nhiễm nhiều loại sâu bệnh, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật... quá trình thu
hoạch chưa bảo đảm kỹ thuật và vệ sinh và hầu như chưa có quy trình công nghệ bao gói
sản phẩm nông nghiệp theo đúng tiêu chuẩn quốc tế. Trong thời gian tới nếu như những
yêu cầu kỹ thuật này không được khắc phục, trái cây Vĩnh long sẽ khó “lọt” qua khe cửa
hẹp để đi vào thị trường thế giới.
3.2.6.4. Đào tạo nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,
nông thôn
Trong các nguồn lực phát triển kinh tế - xã hôi, thì nguồn nhân lực giữ vai trò quyết
định, vì vậy để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn cần tập
trung đào tạo, nâng cao trình độ về mọi mặt cho người lao động vừa là yêu cầu cấp bách đồng
thời là vấn đề có tầm chiến lược lâu dài.
Nông thôn Vĩnh Long mặc dù có mặt bằng dân trí tương đối cao, trong những năm
gần đây trình độ tay nghề lao động nông nghiệp không ngừng được nâng lên, nhưng vẫn
chưa đáp ứng cho nhu cầu phát triển mới. Chất lượng lao động nông thôn vẫn còn rất thấp,
quá trình lao động chủ yếu vẫn dựa vào kinh nghiệm của bản thân và tập quán cổ truyền.
Sự phát triển nền nông nghiệp hiện đại, mở rộng ngành nghề phi nông nghiệp, đòi hỏi phải
có đội ngũ người lao động mới có trình độ học vấn, tay nghề đáp ứng được yêu cầu kỹ
thuật ngày càng cao. Do vậy trong thời gian tới cần tập trung thực hiện một số công việc
sau đây:
- Quan tâm phát triển giáo dục ở các cấp học, đặc biệt chú trọng đến vùng sâu, vùng
đồng bào dân tộc khmer như: Trà Ôn, Tam Bình, Vũng Liêm... cần mở rộng các hoạt động
hướng nghiệp cho thanh niên sắp bước vào độ tuổi lao động, trong đó chú ý hoạt động
hướng nghiệp trong trường phổ thông với những hình thức thích hợp cho từng cấp học.
- Ưu tiên đầu tư tập trung phát triển trường Cao đẳng cộng đồng, để đào tạo đa
ngành, đa trình độ, các ngành nghề phục vụ CDCCKTNT như: Nuôi cá, tôm, chế biến thủy
sản, cơ khí, nông nghiệp, xây dựng...
- Đào tạo đội ngũ trí thức cho nông nghiệp và nông thôn, cơ cấu đội ngũ cán bộ
khoa học ở nông thôn phải phù hợp với yêu cầu quản lý điều hành nền nông nghiệp đang
trong quá trình hiện đại hóa. Trước mắt cần bố trí lại 107 kỹ sư nông học đang công tác tại
107 xã, phường cho phù hợp với trình độ, năng lực và sở trường; tiếp nhận và bố trí việc
làm cho sinh viên tốt nghiệp các ngành nông nghiệp và thuỷ sản.
- Bồi dưỡng kiến thức quản lý, khoa học và công nghệ mới, đặc biệt công nghệ sinh
học cho cán bộ HTX, các hộ nông dân, chủ trang trại và người lao động trên địa bàn. Chú
trọng đến công nghệ nuôi, trồng, chăm sóc, thu hoạch, sơ chế, bảo quản… để giúp bà con
nông dân nắm bắt được quy trình sinh trưởng của những cây trồng, vật nuôi.
- Công nghiệp hóa nông thôn được đẩy mạnh, các ngành nghề ở nông thôn ngày
càng phát triển, đặc biệt CNNT được mở rộng sẽ có nhu cầu lớn về đội ngũ lao động có kỹ
thuật, thạo tay nghề ngày càng cao. Do đó cần có chiến lược đào tạo nghề cho lực lượng
lao động “bứt ra” từ nông nghiệp, để tham gia vào các ngành nghề mới ở nông thôn. Vì
vậy trước mắt củng cố và đưa vào hoạt động có hiệu quả các trung tâm dạy nghề ở các
huyện, chú trọng đào tạo nghề cho lao động ở các khu vực thị trấn, nông thôn và vùng dân
tộc để đáp ứng nhu cầu lao động cho các khu công nghiệp, cụm công nghiệp nhất là khu
công nghiệp Hòa Phú, khu công nghiệp Bình Minh, tuyến công nghiệp Cổ Chiên và xuất
khẩu lao động, để giải quyết việc làm dôi thừa ở nông thôn hiện nay.
Ngoài ra để giải quyết lao động dôi thừa tại chỗ, hạn chế dòng người đổ xô vào thành
thị cần đặt ra một cách nghiêm túc và có chủ trương chính sách đồng bộ về việc đào tạo và
phát triển nghề tại nông thôn. Thông qua các trung tâm dạy nghề các huyện mà đào tạo nghề
cho học sinh phổ thông thôi học, các em có ý muốn lao động tại nông thôn. Qua việc đào tạo
nghề thực tế và những kiến thức sơ đẳng sẽ làm tăng khả năng lao động, bù đắp những nhược
điểm do trình độ học vấn thấp ở nông thôn.
Bên cạnh việc tuyển lựa con em nông dân gởi đi đào tạo tập trung để tạo nên lực
lượng lao động kỹ thuật ổn định ở nông thôn, cần ban hành các chính sách ưu đãi để
khuyến khích đội ngũ trí thức, các nhà khoa học về nông thôn làm việc. Đó cũng là giải
pháp nhằm tháo gỡ những khó khăn, những mâu thuẫn trong tiến trình CNH, HĐH nông
thôn, với việc thiếu hụt nghiêm trọng đội ngũ những người lao động có trình độ cao ở nông
thôn.
3.2.6.5. Chính sách xoá đói, giảm nghèo
Nhờ đường lối đổi mới của Đảng và sự đồng tình hưởng ứng của nhân dân, nên
nông nghiệp và KTNT Vĩnh Long trong những năm qua có sự phát triển đáng kể. Trong
nông thôn một bộ phận nông dân có vốn, có kiến thức, biết làm ăn, thích ứng với cơ chế
thị trường vươn lên đủ ăn và từng bước giàu có; ngược lại một bộ phận thiếu vốn, không
có đất đai, thiếu nhạy bén, năng động, không thích ứng với cơ chế mới trở nên nghèo khó.
Trong những năm qua, cùng với quá trình đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn, Vĩnh Long rất quan tâm đến công tác xoá đói giảm nghèo. Thông qua các
chương trình trình quốc gia xoá đói giảm nghèo như: Chương trình 135 về xây dựng kết
cấu hạ tầng cho các xã nghèo, chương trình 134 về xây dựng nhà ở cho đông bào dân tộc
nghèo, đến nay tỉnh đã xây dựng được 2.854 căn nhà cho các hộ nghèo. Ngoài ra tỉnh đã
đầu tư xây dựng 01 trạm cấp nước tập trung tại xã Loan Mỹ là xã nghèo của huyện Tam
Bình, phục vụ nước sinh hoạt cho 161 hộ người dân tộc khmer. Ngoài ra tỉnh còn phát
động xây dựng nhà đại đoàn kết cho các hộ nghèo, đã xây dựng trên 1.500 căn nhà đại
đoàn kết, đạt kế hoạch 75%; xây dựng quỹ “mái ấm công đoàn” để xây dựng nhà ở cho
đoàn viên công đoàn trong tỉnh có khó khăn về nhà ở. Chương trình ca nhạc với tên gọi
“Vòng tay nhân ái” đã thu hút hàng chục tỷ đồng của các nhà hảo tâm, từ thiện cho quỹ
xoá đói giảm nghèo của tỉnh. Tỉnh đã tổ chức hướng dẫn cách làm ăn cho trên 9.000 lượt
hộ nghèo; Đào tạo nghề cho 1.200 người nghèo; Tập huấn nâng cao năng lực 2.046 cán bộ
làm công tác giảm nghèo cấp huyện, thị và cấp cơ sở; hỗ trợ về giáo dục con em gia đình
nghèo miễn, giảm học phí 100% lượt em đang học tại các trường… Ngoài ra còn nhiều
chính sách khác để giúp và hỗ trợ người nghèo vươn lên khá.
Tuy nhiên, tính đến cuối năm 2007, số hộ nghèo toàn tỉnh là 21.494 hộ, chiếm tỷ lệ
9,86%. Một số vấn đề xã hội còn bất cập, việc làm cho người lao động vẫn còn bức xúc,
đời sống nhân dân vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn. Sự phân hoá giàu nghèo và
chênh lệch mức sống dân cư lớn, 20% nhóm hộ có thu nhập cao nhất gấp 4,7 lần so với
20% nhóm hộ có thu nhập thấp nhất. Còn trên 50% dân số chưa được sử dụng nước sạch
đạt chuẩn; 11 xã chưa có đường ô tô tới trung tâm xã. Tốc độ đô thị hoá chậm, dân số
thành thị năm 2007 mới chiếm 15% trong khi đó cả nước chiếm trên 27%.
Mặc dù, trong những năm gần đây tỷ lệ nghèo giảm đáng kể nhưng vẫn còn một bộ
phận nông dân vùng xa, vùng sâu, những người không có điều kiện sản xuất vẫn trong tình
trạng nghèo. Đặc biệt khoảng cách giàu nghèo có xu hướng nới rộng ra. Vì vậy trong thời
gian tới cần có sự nỗ lực của các ngành, các cấp và sự quan tâm chỉ đạo của các cấp ủy
Đảng thực hiện tốt chương trình quốc gia xoá đói giảm nghèo với những chính sách cụ thể
sau đây:
- Đối với các hộ vừa thoát nghèo, được tiếp tục hưởng các chính sách đối với hộ
nghèo trong 01 năm. Riêng việc hỗ trợ vốn, được tiếp tục vay vốn với lãi suất ưu đãi trong
3 năm để phát triển sản xuất, thoát nghèo bền vững.
- Về hỗ trợ vốn: Đa dạng hóa các hình thức tín dụng. Tăng nguồn vốn cho Ngân
hàng chính sách xã hội. Củng cố các tổ vay vốn cho người nghèo theo tổ dân cư, đoàn thể.
- Về đào tạo nghề giải quyết việc làm: Đẩy mạnh hoạt động của các Trung tâm dạy
nghề, Trung tâm giới thiệu việc làm, tổ chức hội chợ việc làm, tạo cơ hội tìm việc làm
miễn phí cho người lao động. Khuyến khích học nghề, ưu tiên và tạo điều kiện cho con em
gia đình chính sách, con em đồng bào dân tộc, con em gia đình nghèo được học nghề để có
việc làm.
- Hướng dẫn bà con nông dân những kiến thức về sản xuất, chuyển đổi cơ cấu
ngành nghề, tạo thêm việc làm ở nông thôn; tổ chức các lớp tập huấn kỹ thuật để hướng
dẫn phương thức sản xuất và kinh nghiệm làm ăn tại các Trung tâm học tập cộng đồng ở
các xã.
- Đẩy nhanh CDCCKT, cơ cấu lao động theo hướng giảm dần tỷ lệ lao động ở khu
vực nông nghiệp, nông thôn, tăng tỷ lệ lao động trong khu vực công nghiệp và dịch vụ,
bằng cách mở rộng các ngành nghề ngoài nông nghiệp, phát triển làng nghề, các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, tạo việc làm mới và việc làm thêm cho người lao động.
- Đẩy xuất khẩu lao động và chuyển giao, hỗ trợ dạy nghề, hướng dẫn cách làm ăn
giúp người lao động tiếp cận được nguồn vốn, thị trường.
- Hỗ trợ cho người nghèo về y tế: Trợ giúp cho người nghèo trong việc chăm sóc
sức khỏe ban đầu, phát triển và nâng cao chất lượng đội ngũ nhân viên y tế ở vùng sâu,
vùng căn cứ cách mạng, tiếp tục đầu tư cơ sở vật chất và đưa bác sỹ về các trạm y tế cơ sở
để nâng cao chất lượng dịch vụ y tế tại huyện, xã, phường nhất là ở các xã nghèo. Có chính
sách ưu đãi và ưu tiên đào tạo đối với cán bộ y tế vùng sâu vùng căn cứ cách mạng.
+ Bảo đảm tài chính để thực hiện việc hỗ trợ khám chữa bệnh cho người nghèo,
thông qua tài chính phân bổ ngân sách, huy động cộng đồng, đảm bảo việc mua 100% bảo
hiểm y tế cho người nghèo.
+ Huy động cộng đồng trong việc xây dựng quỹ khám chữa bệnh cho người nghèo,
quỹ hỗ trợ bệnh nhân nghèo, khám chữa bệnh nhân đạo, các thùng thuốc nam, khuyến
khích các đội y tế lưu động phục vụ ở các vùng sâu, vùng căn cứ cách mạng, trong việc
khám chữa bệnh cho người nghèo.
- Hỗ trợ về giáo dục cho con em gia đình nghèo: miễn giảm học phí và các khoản
đóng góp xây dựng trường lớp, hỗ trợ tập viết, sách giáo khoa cho học sinh thuộc diện
nghèo, khuyến khích học sinh nghèo học giỏi bằng các giải thưởng, học bổng và các chế
độ ưu đãi khác. Tăng cường cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng giáo dục ở trường dân tộc
nội trú để đào tạo cán bộ cho các xã đặc biệt khó khăn và vùng đồng bào dân tộc.
- Thực hiện tốt công tác xã hội hóa các hoạt động giáo dục; khuyến khích các tổ
chức, cá nhân tình nguyện tham gia giúp học sinh nghèo, tổ chức các lớp học phổ cập, mở
các lớp học tình thương, tạo điều kiện để các trẻ em khuyết tật nghèo được hưởng phúc lợi
về giáo dục…
- Hỗ trợ đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn: Giúp đồng bào vùng dân tộc ổn định đời
sống, phát triển sản xuất, tiếp cận phương thức sản xuất mới, nâng cao dân trí, bảo tồn và phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc, thực hiện xoá đói giảm nghèo bền vững.
- Tiếp nhận và triển khai kịp thời đầy đủ các khoản kinh phí Trung ương phân bổ
cho địa phương, đảm bảo đúng mục đích đạt yêu cầu của chương trình đề ra. Ngân sách
địa phương bố trí khoảng 1% tổng chi ngân sách hàng năm của tỉnh cho các dự án liên
quan đến công tác giảm nghèo như: Tăng vốn cho Quỹ giải quyết việc làm của tỉnh, bổ
sung vốn cho Ngân hàng Chính sách xã hội để hỗ trợ vốn cho xuất khẩu lao động, đào tạo
nghề…
- Vận động tài trợ quốc tế, lập các dự án kêu gọi các nguồn vốn tài trợ của nước
ngoài hỗ trợ cho người nghèo, thúc đẩy sản xuất, phát triển ngành nghề, nhất là các làng
nghề truyền thống.
- Mặt trận Tổ quốc và các thành viên tham gia thực hiện chương trình mỗi một tổ
chức thành viên của Mặt trận trực tiếp tham gia vào một hoặc hai vấn đề cụ thể, như phân
công hội viên, đoàn thể kềm cặp hướng dẫn, giúp đỡ hộ nghèo cách thức làm ăn, thoát
nghèo, cho vay vốn xoay vòng trong các đoàn thể, tổ chức thành tổ vay vốn của các đoàn
thể, phát động phong trào hội viên đoàn thể thoát nghèo và tiến lên làm giàu.
Bên cạnh các chính sách hỗ trợ và đầu tư vốn của Nhà nước vào các công trình ở
nông thôn, cần phát động phong trào “tương thân tương trợ”, “lá lành đùm lá rách” trong
nhân dân để hỗ trợ giúp đỡ người nghèo với nhiều hình thức đa dạng, thích hợp, đặc biệt
khơi dậy các nhân tố “nội sinh” từ những người nghèo, hộ nghèo, xã nghèo để họ tự vươn
lên, thoát ra khỏi cảnh đói nghèo từng bước có cuộc sống ổn định, góp phần xây dựng
nông thôn mới văn minh, hiện đại.
3.2.7. Nâng cao hiệu lực quản lý của chính quyền địa phương
Để thực hiện thắng lợi CDCCKTNT theo hướng CNH, HĐH, một trong những
nhân tố không kém phần quan trọng đó là tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước của chính
quyền các cấp ở địa phương. Đây là nhân tố có ảnh hưởng quan trọng đến sự chuyển
CDCCKTNT. Muốn vậy, trọng thời gian tới cần thực hiện một số công việc sau đây:
- Trên cơ sở chiến lược phát triển KT-XH của đất nước, tỉnh cần hoàn thiện và cụ
thể hóa, chi tiết hóa thành các mục tiêu chiến lược phát triển KT-XH của tỉnh, trong đó cần
chú ý chiến lược CDCCKTNT. Trong chiến lược có chia ra từng giai đoạn cụ thể để định
hướng cho các chủ trương, chính sách SXKD và tạo điều kiện cho sự phát triển ổn định và
bền vững của tỉnh. Trên cơ sở đó các ngành liên quan đến nông nghiệp, nông thôn như: Sở
nông nghiệp, sở công thương, sở khoa học và công nghệ, sở Tài nguyên và môi trường, sở
giao thông vận tải… hướng vào các mục tiêu của chiến lược mà đề ra các chương trình
phát triển của ngành cho phù hợp, từ đó thúc đẩy nhanh quá trình CDCCKTNT của tỉnh.
- Cần củng cố và nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước ở cơ sở, thực hiện tốt cơ chế
dân chủ ở nông thôn để phát huy năng lực và trí tuệ của cán bộ, các chủ thể SXKD trong
nông nghiệp, nông thôn.
Ở Vĩnh Long, hiện nay đội ngũ cán bộ nhất là cán bộ cơ sở còn yếu, thiếu cán bộ
chuyên trách, do đó năng lực hoạt động của bộ máy còn nhiều hạn chế. Để nâng cao hiệu lực
quản lý của chính quyền cấp xã trong giai đoạn cách mạng mới cần phải:
Một là: Đào tạo cán bộ và kiện toàn bộ máy cấp xã. Vì xã là cấp cơ sở gắn liền với
sản xuất nông nghiệp - thuỷ sản và các ngành công nghiệp - dịch vụ nông thôn. Do đó việc
đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kiến thức về quản lý nhà nước, quản lý nông nghiệp và phát
triển nông thôn cho cán bộ cấp cơ sở, thích ứng với cơ chế mới, có đủ năng lực để triển
khai các nhiệm vụ phát triển KT-XH trên địa bàn nông thôn là cực kỳ quan trọng.
Hai là: Cần có chính sách ưu đãi nhằm khuyến khích một bộ phận cán bộ quản lý,
các nhà khoa học, chuyên gia về nông thôn công tác. Đặc biệt hiện nay cần ổn định đội ngũ
cán bộ chuyên trách trong bộ máy cán bộ xã, trong đó chú trọng cán bộ quản lý kinh tế nông
nghiệp và phát triển nông thôn, cán bộ kỹ thuật, khuyến nông.
Ba là: Tăng cường xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch, coi đây là nhân tố
quyết định thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ ở địa phương. Nâng cao năng lực lãnh đạo của
cơ sở Đảng và vai trò tiên phong, gương mẫu của đảng viên, tăng cường kỷ luật trong
Đảng để tạo ra chỗ dựa đáng tin cậy nhằm thúc đẩy quá trình CDCCKTNT, từng bước xây
dựng nông thôn mới văn minh, hiện đại theo hướng công nghiệp và đô thị.
Tiểu kết chương 3
CDCCKTNT là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta. Việc phát triển mạnh,
vững chắc, có hiệu quả công nghiệp - dịch vụ ở nông thôn, tăng nhanh tỷ trọng của những
ngành này trong cơ cấu nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ là một quá trình có tính quy
luật, nhằm chuyển đổi nền nông nghiệp từ thuần nông, TT,TC sang nền nông nghiệp đa
canh, đa ngành và phát triển kinh tế hàng hoá.
Là một bộ phận hữu cơ cấu thành của nền nông nghiệp cả nước, nông thôn Vĩnh
Long cũng phát triển theo hướng có tính quy luật chung, đồng thời chịu sự tác động, chi
phối của vùng sinh thái đặc thù. Hướng sản xuất chính là phát triển hơn nữa các vùng
chuyên canh, tập trung nông nghiệp và thuỷ sản tạo nguồn nguyên liệu lớn, chất lượng cao
và giá thành hạ, đủ tiêu chuẩn đáp ứng yêu cầu trong nước và xuất khẩu. Sản xuất tập
trung chuyên canh đi đôi với phát triển tổng hợp, kết hợp phát triển toàn diện nông nghiệp
- thuỷ sản gắn với phát triển công nghiệp và dịch vụ nông thôn, từng bước xác lập CCKT
nông nghiệp -công nghiệp -dịch vụ hợp lý, theo hướng hiện đại ở nông thôn.
Trong quá trình phát triển nông nghiệp và KTNT, kinh tế nông hộ, KTTT hoạt động
trong mối liên kết với các thành phần kinh tế khác trong tỉnh, đồng thời vận động theo xu
hướng đi vào con đường làm ăn tập thể dưới nhiều hình thức đa dạng, trong đó nòng cốt là
HTX. Kinh tế tập thể ra đời và phát triển là tiền đề để đi lên sản xuất lớn, cùng nhau giải
quyết những khó khăn trong sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản… để nâng cao hiệu quả
SXKD, tăng thu nhập, góp phần xoá đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, văn minh,
hiện đại.
Để thực hiện có hiệu quả những nhiệm vụ trên, nhằm thúc đẩy CDCCKTNT, Vĩnh
Long cần thực hiện đồng bộ bảy giải pháp trên, trong đó vấn đề xây dựng kết cấu hạ tầng
nông thôn; giải quyết vấn đề tiêu thụ nông sản; vốn cho sản xuất; đào tạo nguồn nhân lực
cho các ngành nghề mới ở nông thôn có tầm quan trọng đặc biệt. Các chính sách KT-XH
khác của Nhà nước cũng sẽ là những tác nhân tích cực để thực hiện hóa việc CDCCKTNT
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Vĩnh Long trong thời gian tới.
KẾT LUẬN
- Nông nghiệp, nông thôn và nông dân từ trước đến nay luôn là vấn đề có tầm chiến
lược của cách mạng Việt Nam. Vì vậy trong diễn văn khai mạc Hội nghị lần thứ Bảy Ban
chấp hành Trung ương (khóa X) của Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh có đoạn: “Giải quyết
vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn luôn là nhiệm vụ chiến lược của Đảng ta. Trong
quá trình CNH, HĐH đất nước theo định hướng XHCN, nông nghiệp, nông dân, nông thôn
tiếp tục giữ vị trí quan trọng: Nông nghiệp là cơ sở, nông thôn là địa bàn, nông dân là lực
lượng đông đảo góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững, ổn định chính trị - xã hội
và bảo đảm an ninh, quốc phòng”. Với ý nghĩa đó trong giai đoạn hiện nay, ra sức tập
trung phát triển nông nghiệp và KTNT là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để ổn định đời
sống nhân dân, tạo điều kiện, tiền đề cho bước phát triển tiếp theo trong tiến trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- CDCCKTNT là một trong những nội dung trọng yếu của công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Mục tiêu của CDCCKTNT là nhằm khai thác tối đa các nguồn lực: Đất đai, vốn, công
nghệ, ngành nghề, sức lao động dồi dào, ưu thế địa lý và sinh thái của từng vùng… để tăng năng
suất cây trồng, vật nuôi, tăng hiệu quả SXKD. Trên cơ sở đó từng bước chuyển đổi nền kinh tế
nông nghiệp lạc hậu, thuần nông, mang tính TT, TC sang phát triển nông nghiệp đa dạng, kinh
doanh tổng hợp theo hướng kinh tế thị trường.
- Từ sau đổi mới đến nay, nông thôn Vĩnh Long đã đạt được những thành tựu to
lớn: Sản xuất bước đầu thoát ra khỏi tình trạng thuần nông, TT, TC; tỷ suất hàng hóa trong
sản phẩm nông nghiệp ngày càng được nâng lên; đời sống nông dân được cải thiện rõ nét,
xoá hộ đói, giảm nhanh hộ nghèo… Tuy nhiên, kinh tế thuần nông, nhỏ lẻ, phân tán, phân
đoạn, chuyên canh cây lúa là đặc trưng cơ bản của KTNT Vĩnh Long; tốc độ chuyển đổi
CCKT nông thôn còn chậm, chưa tương xứng với vị trí, tiềm năng và lợi thế so sánh của
tỉnh; công tác giống cây trồng, vật nuôi chậm được đổi mới về chất lượng cũng như công
nghệ sản xuất, nên chất lượng các mặt hàng nông sản chủ lực của địa tỉnh như: Cam sành,
bưởi Năm Roi, xoài Cát là đặc sản chính của địa phương có truyền thống, nhưng những năm
gần đây có biểu hiện giảm sút về: mức độ đồng đều, mẫu mã và một số chỉ tiêu liên quan đến
chất lượng… nên gặp khó khăn trong tiêu thụ, đặc biệt đối với các mặt hàng xuất khẩu; thị
trường không ổn định, giá cả nông sản luôn biến động v.v… Đó chính là những khó khăn,
thách thức trên con đường phát triển của KTNT Vĩnh Long.
- Là một bộ phận hữu cơ cấu thành của nền nông nghiệp cả nước, nhưng có đặc thù
riêng, nông thôn Vĩnh Long vừa chịu sự tác động chi phối bởi các quy luật chung, vừa
chịu ảnh hưởng của các quy luật mang tính đặc thù của nó, do đó phương hướng
CDCCKTNT ở tỉnh được xác định trên những hướng cơ bản sau:
Chuyển từ một nền kinh tế ở trình độ SXHH giản đơn sang đa canh, đa ngành theo
hướng phát triển kinh tế thị trường; khai thác ưu thế về điều kiện sinh thái, hướng sản xuất
đi vào tập trung chuyên canh các mặt hàng nông sản có giá trị xuất khẩu cao, đặc biệt là
nông nghiệp và thuỷ sản; phát triển toàn diện nông nghiệp - thuỷ sản gắn với phát triển
công nghiệp và dịch vụ nông thôn, từng bước xây dựng CCKT nông nghiệp - công nghiệp
- dịch vụ hiện đại ở nông thôn; khơi dậy, giải phóng và phát triển LLSX ở nông thôn,
khuyến khích kinh tế nông hộ, KTTT phát triển; sử dụng CCKT nhiều thành phần, trong
đó KTNN cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc cho sự phát
triển nhanh và bền vững ở nông thôn; giải quyết lao động dôi thừa, tăng thu nhập cho dân
cư nông thôn, giảm hộ nghèo, tăng nhanh hộ giàu có, góp phần đổi mới căn bản bộ mặt
nông thôn, xây dựng nông thôn ngày càng phồn vinh, văn minh và hiện đại.
- Để thúc đẩy nhanh quá trình CDCCKTNT ở Vĩnh Long theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, phải thực hiện đồng bộ các giải pháp chủ yếu. Đó là: Xây dựng chiến
lược và quy hoạch phát triển vùng; mở rộng thị trường trong nước và nước ngoài; xây
dựng kết cấu hạ tầng KT-XH ở nông thôn, tạo tiền đề vật chất cần thiết mở đường cho đẩy
mạnh SXHH, thúc đẩy CDCCKTNT, bằng nhiều phương thức huy động mọi nguồn vốn
trong và ngoài nước và sử dụng vốn có hiệu quả; thực hiện nhất quán chính sách kinh tế
nhiều thành phần trong nông nghiệp và KTNT, tạo mối liên kết giữa các thành phần kinh
tế để phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững; nâng cao hiệu lực quản lý bộ máy Nhà
nước ở địa phương, đồng thời xây dựng tổ chức Đảng cơ sở vững mạnh, là nhân tố quyết
định bảo đảm thúc đẩy CDCCKTNT theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, từng bước
xây dựng nông thôn Vĩnh Long theo diện mạo của công nghiệp và đô thị theo hướng hiện
đại.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Văn Bích - Chu Tấn Quang (1996),Chính sách kinh tế và vai trò của nó đối với
phát triển triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
2. Bộ Chính trị (1998), "Nghị quyết 06 về một số vấn đề phát triển nông nghiệp, nông thôn,
ngày 10-11-1998", Báo Nhân dân, ngày 23-11-1998.
3. Trần Xuân Châu (2002), Đẩy nhanh sự phát triển nền nông nghiệp hàng hoá ở Việt Nam,
Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
4. Chi cục Hợp tác xã và phát triển nông thôn tỉnh Vĩnh Long (2001), Báo cáo tổng kết
năm 2001-2007.
5. Chi cục Thủy sản Vĩnh Long (2001), Báo cáo tổng kết năm 2001-2007.
6. Con đường CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn Việt Nam (2002), Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
7. Cục Thống kê tỉnh Vĩnh Long (2007), Niên giám thống kê 2007.
8. Nguyễn Chí Cường (2005), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn ở huyện Củ Chi trong
tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
9. Nguyễn Diên (1996), Kinh tế hợp tác nông nghiệp, nông thôn trên thế giới và Việt Nam,
Nxb Thống kê, Hà Nội.
10. Đặng Ngọc Dinh (chủ biên) (1997), Vấn đề phát triển công nghiệp nông thôn nước ta,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Phạm Ngọc Dũng (2001), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp ở vùng đồng
bằng Sông Hồng, thực trạng về giải pháp, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
12. Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long (2000), Văn kiện Đại hội VII Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long, tập I.
13. Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long (2005), Văn kiện Đại hội VIII Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long, tập I.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành
Trung ương khoá IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Nguyễn Điền (1997), Công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn các nước Châu Á và
Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Nguyễn Hữu Đức (1996), Tác động của cơ chế quản lý kinh tế với việc thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, Luận án PTS khoa học kinh tế, Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
19. Trần Ngọc Hiên (1998), "Đặc điểm kinh tế - xã hội nông thôn nước ta trên con đường
phát triển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá", Tạp chí Nghiên cứu lý
luận, (4).
20. Nguyễn Thị Hiền (1996), "Những yêu cầu đặt ra cho việc tiếp tục chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông thôn", Tạp chí Thông tin lý luận, (2).
21. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (1996), "Nông thôn Việt Nam sau 10 năm
đổi mới", Thông tin chuyên đề, (6).
22. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biện soạn Giáo trình Quốc gia các bộ môn khoa học
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (1999), Giáo trình kinh tế Chính trị Mác-
Lênin, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Hội Nông dân Việt Nam tỉnh Vĩnh Long (2007), Báo cáo tổng kết năm 2007.
24. Lê Mạnh Hùng - Nguyễn Sinh Cúc - Hoàng Vĩnh Lê (1998), Thực trạng công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn Việt Nam, Nxb Thống kê, Hà Nội.
25. Phạm Hùng (2002), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn miền Đông Nam Bộ theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
26. Lâm Quang Huyên (2002), Nông nghiệp, nông thôn Nam Bộ hướng tới thế kỷ XXI, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
27. Lê Quốc Khách (2000), "Các giải pháp phát triển công nghiệp, thủ công nghiệp nông
thôn", Báo Nhân dân, (29).
28. Trần Khải - Lương Xuân Quỳ (1995), Những vất đề rút ra từ Hội khoa học - Chuyển
đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn Việt Nam, Kỷ yếu khoa học "Những
vấn đề lý luận cơ bản về chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn Việt
Nam".
29. Vũ Xuân Kiều (1996), Những vấn đề có tính quy luật trong việc xác lập và chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông thôn Việt Nam, Kỷ yếu khoa học "Những vấn đề lý luận cơ
bản về chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn Việt Nam".
30. Chử Văn Lâm (1995), "Mấy vấn đề về con đường phát triển nông nghiệp nông thôn
trong thời kỳ mới", Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, (5).
31. Nguyễn Đình Long (1995), “Thị trường - yếu tố quyết định tới quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông thôn nước ta”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, (5).
32. Hồ Trọng Luật (2000), "Huy động lực lượng khoa học công nghệ phục vụ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn", Báo Nhân dân, (22).
33. Nông Đức Mạnh (2007), Bài phát biểu tại lễ khai mạc Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp
hành Trung ương (khóa X).
34. C.Mác (1995), Tư bản, quyển 4, phần 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
36. Phạm Xuân Nam (chủ biên) (1997), Phát triển nông thôn, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội.
37. Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Vĩnh Long (2003), Báo cáo tổng kết năm 2003-
2007.
38. Ngân hàng Nhà nước tỉnh Vĩnh Long (2001), Báo cáo tổng kết năm 2001-2007.
39. Phẩm An Ninh (1999), Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trong quá trình
công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở Đồng Nai, Luận văn tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
40. Lê Du Phong (1995), Xu hướng có tính quy luật trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông thôn, Kỷ yếu khoa học, "Những vấn đề lý luận cơ bản về chuyển đổi cơ cấu
kinh tế nông nghiệp, nông thôn Việt Nam".
41. Lê Du Phong, Nguyễn Thành Độ (đồng chủ biên) (1999), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
trong điều kiện hội nhập với khu vực và thế giới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
42. Chu Hữu Quý (1996), Phát triển toàn diện kinh tế xã hội nông thôn, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
43. Đặng Kim Sơn (2001), Công nghiệp hoá từ nông nghiệp lý luận, thực tiễn và chuyển
vọng áp dụng ở Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
44. Sở Công Thương tỉnh Vĩnh Long (2007), Báo cáo tổng kết năm 2007.
45. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh vĩnh Long (2001), Báo cáo tổng kết năm
2001-2007.
46. Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Vĩnh Long (2007), Báo cáo tổng kết năm 2007.
47. Lê Quốc Sử (2001), Chuyển dịch cơ cấu và xu hướng phát triển của kinh tế nông
nghiệp Việt Nam theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá từ thế kỷ XX đến thế
kỷ XXI trong “Thời đại kinh tế tri thức”, Nxb Thống kê, Hà Nội.
48. Nguyễn Văn Tám (2000), Phát triển công nghiệp nông thôn ở huyện Nhơn Trạch - tỉnh
Đồng Nai theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Luận văn thạc sĩ kinh tế,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
49. Nguyễn Tài (1987), Vấn đề đa canh hoá trong sản xuất nông nghiệp - Thực tiễn các
tỉnh phía Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
50. Hà Tiến Thăng (2006), Chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi để phát triển nông
nghiệp hàng hoá ở tỉnh Thái Bình, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
51. Lê Đình Thắng (chủ biên) (1998), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn - những vấn
đề lý luận và thực tiễn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
52. Bùi Tất Thắng (chủ biên) (1997), Các nhân tố ảnh hưởng tới chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
53. Nguyễn Văn Tiêm (chủ biên) (1997), Báo cáo tóm tắt kết quả thực hiện dự án điều tra
khảo sát thực trạng và tìm giải pháp đối với hộ nông dân không có đất … để sản
xuất nông nghiệp ở Đồng bằng Sông Cửu Long, Trung tâm Tư vấn phát triển
nông nghiệp nông thôn.
54. Đỗ Thế Tùng (1996), Khái niệm, Nội dung và những đặc điểm cơ bản của cơ cấu
kinh tế nông thôn, Kỷ yếu khoa học "Những vấn đề lý luận cơ bản về chuyển
đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn Việt Nam".
55. Trần Văn Trường (2006), Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp ở huyện Hoà
Vang - Thành phố Đà Nẵng, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
56. Ủy ban Kế hoạch Nhà nước và Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (1995), Chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông thôn Việt Nam, Hội thảo khoa học “Những vấn đề lý luận cơ
bản về chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn Việt Nam”.
57. Hồ Trọng Viện (1997), Chuyển dịch cơ cấu sản xuất và lao động ở nông thôn miền
Đông Nam Bộ theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh - Phân viện Thành phố Hồ Chí Minh.
58. Bạch Hồng Việt (1995), "Mấy vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông
thôn vùng đồng bằng sông Hồng”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, (4).
59. Hoàng Việt (chủ biên) (1999), Vấn đề sở hữu, sử dụng đất trong nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
60. Hà Vinh (1999), Nông nghiệp Việt Nam trong bước chuyển sang kinh tế thị trường,
Nxb Khoa học kỹ thuật, Hà Nội.
PHỤ LỤC
Phụ lục 1
Quá trình hình thành và hoạt động của Hợp tác xã nông nghiệp
có đến năm 2007
Đơn vị tính: nghìn đồng
S
ố
T
T
TÊN
HUYỆN,
THỊ
LOẠI
HÌNH
HOẠT
ĐỘNG
NĂM
THÀN
H
LẬP
SỐ
XV
VỐN
KINH
DOAN
H
VỐN
ĐIỀU
LỆ
VỐN
GÓP
THỰ
C
DOA
NH
THU
LỢI
NH
UẬN
GH
I
CH
Ú
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
I
HUYỆN
MANG THÍT
1
HTX NN
Chánh An
SX & KD
tổng hợp
2007 44 106,000
150,00
0
100,0
00
129,8
00
7,50
0
Khá
2
HTX NN
Phước Lộc
SX & KD
tổng hợp
1999 52 45,000 22,000 0
125,9
00
3,75
0
Khá
3 HTX Tân Hòa
Dịch vụ
nông nghiệp
CB
GT
4
HTX Tân
Bình
Dịch vụ
nông nghiệp
CB
GT
5
HTX NN Tân
Phong
Dịch vụ
nông nghiệp
CB
GT
6
HTX thủy sản
Phú Hòa
Nuôi cá xuất
khẩu
2007 12
6,000,
000
CPL
II
HUYỆN
VŨNG LIÊM
7
HTX NN
Trung Hiếu
SX & tiêu
thụ lúa giống
2001 51 28,900
126,03
6
28,90
0
130,0
00
10,0
00
Khá
8
HTX NN Tám
Nha
SX & tiêu
thụ nấm rơm
2007 7 20,000
105,00
0
20,00
0
324,0
00
20,2
50
Khá
9
HTX NN
Hiếu Nhơn
SX & tiêu
thụ lúa giống
2006 22 20,000 20,000 0 0 0 Yếu
10
HTX NN Tân
Phước
SX & tiêu
thụ cát
2006 10 50,000 50,000
50,00
0
0 0 Yếu
11
HTX RAT TT
Vũng Liêm
SX & tiêu
thụ RAT
2007 CPL
12
HTX nuôi gà
Thuận Phát
Nuôi & tiêu
thụ gà
2007 7
100,00
0
CPL
III
HUYỆN TRÀ
ÔN
13
HTX NN
14/10
SX & KD
tổng hợp
1998 54 103,900
500,00
0
93,90
0
27,34
7
3,62
3
Khá
14
HTX NN
Đoàn Kết
SX & KD
tổng hợp
2000 20 20,000 20,000 6,332 0 0 Yếu
15
HTX NN Tích
Khánh
Nuôi và tiêu
thụ ba ba
2007 7 40,000 CPL
I
V
HUYỆN
BÌNH MINH
16 HTX NN 30/5
Sản xuất lúa
giống
1999 27 1,400 7,500 1,400 0 0 Yếu
17
HTX NN
Thuận Tiến
Dịch vụ
nông nghiệp
1999 52 4,900 13,000 4,900 600 600 TB
18
HTX RAT
Tân Quới
SX & tiêu
thụ RAT
2006 36 12,000 12,000 0 0 0 Yếu
19
HTX RAT
Thành Lợi
SX & tiêu
thụ RAT
2005 19 5,400 14,500 5,400
23,00
0
8,00
0
Khá
20
HTX bưởi Mỹ
Hòa
SX & tiêu
thụ bưởi 5
roi
2006 47 100,000
200,00
0
100,0
00
1,000,
000
50,0
00
Khá
21
HTX Tân
Thành
SX & TT
khoai lang
2007 54
160,00
0
CPL
V
HUYỆN
TAM BÌNH
22
HTX Cam
Tam Bình
SX & cung
ứng cây
giống
2004 13 252,000
310,00
0
102,0
00
0 0 Yếu
23 HTX NN 26/3
Dịch vụ
nông nghiệp
1998 7 75,260 30,000 3,100
10,74
7
1,01
2
TB
24
HTX NN Phú
Lộc
SX & KD
tổng hợp
1998 220 555,552
150,00
0
104,0
00
23,45
0
2,21
0
TB
25
HTX NN Vạn
Phát Lợi
Dịch vụ
nông nghiệp
2004 24 135,000
135,00
0
135,0
00
20,76
9
-
5,67
0
yếu
V
I
HUYỆN
LONG HỒ
26
HTX lúa
giống Long
An
SX & tiêu
thụ lúa giống
2006 24 15,000 15,000 0 0 0 Yếu
27
HTX RAT
Phước Hậu
SX & tiêu
thụ RAT
2003 32 8,200 38,200 8,200 0 0 Yếu
28
HTX thủy sản
An Bình
Nuôi cá bè
CB
GT
29
HTX cá giống
Phú Hưng
SX & tiêu
thụ cá giống
2006 8 96,000 Yếu
V
II
TX VĨNH
LONG
30
HTX NN Tân
Ngãi
SX & tiêu
thụ RAT
2006 30 3,500 70,000 3,500 1,800 -800 Yếu
31
HTX NN Vạn
Thuận
Chăn nuôi
CB
GT
Tổng cộng 879
1,562,01
2
8,384,2
36
766,63
2
1,817,
413
100,4
75
Nguồn: [4].
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 118_9061.pdf