Đầu tiên đó là để thực hiện tốt công tác đăng ký đất đai, cấp 
GCNQSDĐ một cách sâu rộng đến từng hộ gia đình cá nhân thì cần 
phải có các biệnpháp tuyên truyền về lợi ích và tầmquan trọng của việc 
đăng ký đất đai, cấp GCNQSDĐ; tuyên truyền phổ biến Luật đất đai, 
thủ tục quy trình cấp GCNQSDĐ trên các phương tiện thông tin đại 
chúng nhằm truyền tải thông tin về chủ trương chính sách của Nhà 
nước đến mọi đối tượng mọi từng lớp xã hội.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 42 trang
42 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3163 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Cơ sở khoa học của việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đai ở cho hộ gia đình cá nhân đang sử dụng đất, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận Văn 
“Cơ sở khoa học của việc cấp GCNQSDĐ ở cho hộ gia đình cá nhân 
đang sử dụng đất” 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt 
trong sản xuất nông- lâm nghiệp, là một trong những nguồn lực quan 
trọng cho chiến lược phát triển nền nông nghiệp quốc gia nói riêng cũng 
như chiến lược phát triển nền kinh tế nói chung. Nó là môi trường sống, 
là cơ sở tiến hành mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, Đối với con 
người,đất đai cũng có vị trí vô cùng quan trọng, con người không thể 
tồn tại nếu không có đất đai, mọi hoạt động đi lại, sống và làm việc đều 
gắn với đất đai . Và hiện nay đất đai từng bước được sử dụng có hiệu 
quả, đúng quy định của pháp luật và trở thành nội lực quan trọng góp 
phần thúc đẩy phát triển đô thị, kinh tế xã hội. Một trong những công 
cụ để quản lý quỹ đất đai chặt chẽ hình thành và phát triển thị trường bất 
động sản có sự quản lý của Nhà bước 
Ở Việt Nam đất đai thuộc quyền sở hữu toàn dân do nhà Nhà 
nước đại diện quản lý nhằm đảm bảo việc sử dụng đất đai một cách đầy 
đủ hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả cao nhất. 
Chính vì vậy, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là một chứng 
thư pháp lý chứng nhận quyền sử dụng đất hợp pháp, được cấp cho 
người sử dụng đát để họ yên tâm chủ động sủ dụng đất có hiệu quả cao 
nhất và thực hiện các quyền, nghĩa vụ sử dụng đất theo pháp luật. Để 
thực hiện tốt việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì các chủ 
dụng đất phải tiến hành kê khai , đăng ký ban đầu đối với diện tích của 
mình đang sử dụng. Thông qua đăng ký đất sẽ xác lập mối mối quan hệ 
pháp lý chính thức về quyền sử dụng đất đai giữa Nhà nước và người sử 
dụng đất và đăng ký đất đai là cơ sở để thiết lập hồ sơ địa chính và tiến 
tới việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. 
Hơn nữa, quá trình tổ chức việc cấp giấy chứng nhận (GCN) là 
xác lập căn cứ pháp lý đầy đủ để giải quyết mọi quan hệ về đất đai. Vì 
vậy, người được cấp GCN phải đảm bảo đủ tiêu chuẩn và điều kiện. 
Thực tế đăng ký đất đai, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất 
ở nước ta đặc biệt là đất ở diễn ra rất chậm. Hơn nữa tình hình biến 
động đất đai rất phức tạp nên vấn đề quản lý sử dụng đất gặp nhiều khó 
khăn, việc tranh chấp đất đai thường xuyên xảy ra, hiện nay có khoảng 
80% các vụ khiếu kiện thuộc lĩnh vực đất đai.Do đó việc cấp 
GCNQSDĐ đối với từng thửa đất hiện nay là vô cùng cần thiết . 
Với mục đích tìm hiểu và nghiên cứu sâu hơn về tình hình cấp 
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở và những khó khăn vướng mắc 
hiện nay. Vì vậy em đã chon đề “Cơ sở khoa học của việc cấp 
GCNQSDĐ ở cho hộ gia đình cá nhân đang sử dụng đất” 
Nội dung nghiên cứu của đề tài bao gồm: 
Mục Lục 
LỜI MỞ ĐẦU 
NỘI DUNG 
I. Cơ sở lý luận của việc cấp GCNQSDĐ ở 
1. Khái niệm GCNQSDĐ 
2. Sự cần thiết của việc cấp giấy chứng nhận 
3. Cơ sở lý luận 
4. Mục đích yêu cầu, đối tượng của việc cấp GCNQSDĐ 
II. Nhân tố tác động 
1. Nhân tố pháp lý 
2. Nhân tố kinh tế- xã hội 
III. Trình tự thủ tục cấp GCNQSDĐ 
1. Điều kiện cấp GCNQSDĐ 
2. Hồ sơ địa chính 
3. Trình tự thủ tục, thẩm quyền 
4. Nghĩa vụ tài chính trong công tác cấp GCNQSDĐ 
IV. Những nguyên nhân làm chậm tiến độ cấp GCNQSDĐ 
hiện nay 
KẾT LUẬN 
1. Những giải pháp kiến nghị 
2. Phương hướng cho năm 2005 
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 
I> CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÔNG TÁC CẤP GCNQSDĐ Ở 
1. Khái niệm: 
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là giấy chứng nhận do cơ 
quan nhà nước có thẩm quyền cấp cho người sử dụng đất để bảo hộ 
quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất. 
Theo điều 48 của bộ luật Đ Đ 2003: “Giấy chứng nhận quyền sử 
dụng đất. 
1.1. GCNQSDĐ được cấp cho người sử dụng đất theo một mẫu 
thống nhất trong cả nước đối với mọi loại đất. 
Trường hợp có tài sản gắn liền với đất thì tài sản đó được ghi nhận 
trên GCNQSDĐ; chủ sở hữu tài sản phải đăng ký quyền sở hữu tài sản 
theo quy định của pháp luật về đăng ký bất động sản. 
 1.2. GCNQSDĐ do bộ tài nguyên và Môi trường phát hành 
1.3. GCNQSDĐ được cấp theo từng thửa đất. 
Trường hợp quyền sử dụng đát là tài sản chung của vợ chồng thì 
GCNQSDĐ phải ghi cả họ, tên vợ và họ tên chồng. 
Trường hợp thửa đất có nhiều cá nhân, hộ gia đình, tổ chức cùng 
sử dụng thì GCNQSDĐ được cấp cho từng cá nhân, từng hộ gia đình, 
từng tổ chức đồng quyền sử dụng. 
Trường hợp thửa đất thuộc quyền sử dụng chung của cộng đồng 
dân cư thì GCNQSDĐ được cấp cho cộng đồng dân cư và trao cho 
người đại diện hợp pháp của cộng đồng dân cư đó. 
Trường hợp thửa đất thuộc quyền sử dụng chung của cơ sở tôn 
giáo thì GCNQSDĐ được cấp cho cơ sở tôn giáo và trao cho người có 
trách nhiệm cao nhất của cơ sở tôn giáo đó. 
Chính phủ quy định cụ thể việc cấp GCNQSDĐ đối với nhà 
chung cư, nhà tập thể. 
1.4. Trường hợp người sử dụng đất đã được cấp GCNQSDĐ, giấy 
chứng nhận quyền sở hữu nhà ở tại đô thị thì không phải cấp đổi giấy 
chứng nhận đó sang giấy chứng nhật quyền sử dụng đất theo quy định 
của Luật này. Khi chuyển quyền sử dụng đất thì người nhận chuyển 
quyền sử dụng đất đó được cấp GCNQSDĐ theo quy định của Luật này. 
2. Sự cần thiết của việc cấp GCNQSDĐ 
Theo quyết định số 201/QĐ/ĐKTK ngày 14/7/1989 của tổng cục 
quản lý ruộng đất về việc ban hành Quy định cấp GCNQSDĐ thì giấy 
GCNQSDĐ là chứng thư pháp lý xác lập mối quan hệ hợp pháp giữa 
nhà nước và người sử dụng đất”. Vì vậy, GCNQSDĐ là cơ sở pháp lý 
để nhà nước công nhận và bảo hộ quyền sử dụng đất của họ. Trong pháp 
luật về đất đai, GCNQSDĐ có vai trò quan trọng, là căn cứ để xây dựng 
các quy định cụ thể, như các quy định về đăng ký, theo dõi biến động, 
kiểm soát các giao dịch dân sự về đất đai. Trước đây do các thửa đất 
chưa có đầy đủ giấy chứng nhận nên nhà nước không thể kiểm soát 
được sự mua bán trao đổi đất đai. Nếu các hộ gia đình cá nhân sử dụng 
đất mà có đầy đủ giấy GCNQSDĐ thì khi trao đổi mua bán trên thị 
trường phải trình “ sổ đỏ” với cơ quan quản lý đất đai của nhà nước. Khi 
đó nhà nước sẽ kiểm soát đựơc thông tin về các cuộc mua bán đó và thu 
được một khoản thuế khá lớn. GCNQSDĐ không những buộc người sử 
dụng đất phải nộp nghĩa vụ tài chính mà còn giúp cho họ được đền bù 
thiệt hại về đất khi đất đai bị thu hồi. GCNQSDĐ còn giúp xử lý vi 
phạm về đất đai. 
Cấp giấy chứng nhận là vấn đề rất cần thiết hiện nay và theo quy 
định của Chính Phủ đến năm 2007 tất cả các cuộc mua bán chuyển đổi 
quyền sử dụng đất trên thực tế phải có giấy chứng nhận. Nếu không 
những mảnh đất đó coi như “ vô giá trị”, không được tham gia giao dịch 
chính thức trên thị trường. 
Đối với nhà nước: thông qua việc cấp GCNQSDĐ, nhà nước có 
thể quản lý đất đai trên toàn lãnh thổ, kiểm soát được các cuộc mua bán 
giao dịch trên thị trường và thu được nguồn tài chính lớn. Hơn nữa, nó 
là căn cứ để lập QH, KH đất đai là tiền đề trong việc phát triển KT – 
XH. 
Đối với người sử dụng đất: Giúp cho các cá nhân hộ gia đình sử 
dụng đất yên tâm đầu tư trên mảnh đất của mình. Vì trước đây, đất đai 
không có giá, chỉ sau khi có luật đất đai năm 1993 đất đai mới có giá. 
Do đó nhiều thửa đát còn ở dạng“ xin – cho”, không có giấy tờ chứng 
thực hoặc mua bán trao tay (chỉ có giấy tờ viết tay), hoặc đất đai lấn 
chiếm. Nên theo như luật đất đai năm 1993 và luật sửa đổi bổ sung năm 
2001, rất nhiều thửa đất không đủ điều kiện để cấp GCNQSDĐ nên 
người sử dụng đất rất mong muốn mảnh đất của mình được cấp 
GCNQSDĐ. Mới đây luật đất đai 2003 đã ra đời và giải quyết những 
vướng mắc đó, đã khắc phục những khó khăn trong công tác cấp 
GCNQSDĐ, để cố gắng hoàn thành việc này trong năm 2005. 
Trong những năm qua cùng với tốc độ phát triển KT – XH, tốc độ 
đô thị hoá diễn ra nhanh chóng làm cho đất đai biến động lớn và các 
quan hệ đất đai diễn ra khá phức tạp. Để đáp ứng được nhu cầu thực tế 
và tăng cường quản lý chặt chẽ đất đai, chính phủ đã ban hành nghị định 
60/CP ngày 05/7/1994 về việc cấp GCNQ sở hữu nhà ở và quyền SD Đ 
ở. Công tác này có ý nghiã thiết thực trong quản lý đất đai của Nhà 
nước, đáp ứng nguyện vọng của các tổ chức và công dân là được nhà 
nước bảo hộ tài sản hợp pháp và thuận tiện giao dịch dân sự về đất đai; 
tạo tiền đề hình thành và phát triển thị trường Bất động sản công khai 
lành mạnh. Cấp GCNQSDĐ cho nhân dân cũng là chủ trương lớn của 
đảng và nhà nước nhằm tạo động lực thúc đẩy phát triển KT –XH đồng 
thời tăng cường thiết chế nhà nước trong quản lý đất đai – tài sản vô giá 
của đất đai. 
Bằng việc cấp GCNQSDĐ thì người sử dụng đất hợp pháp có 
quyền lớn hơn đối với mảnh đất mình đang sử dụng. Điều mà trước đây 
còn hạn chế. Khi có GCNQSDĐ, người sử dụng đất có các quyền sau: 
chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, thừa kế, và góp vốn liên 
doanh bằng đất đai, trong khuôn khổ mà pháp luật cho phép. Điều này 
có tác dụng tích cực trong quản lý đất đai cũng như đảm bảo quyền lợi 
cho người sử dụng đất đai. 
3. Cơ sở lý luận của việc cấp GCNQSDĐ ở 
Có thể nói quản lý chặt chẽ nguồn tài nguyên đát đai luôn là vấn 
đề quan tâm của bất cứ một nhà nước nào. 
Hiến pháp năm 1992 của nước CHXHCNVN đã ghi nhận rằng 
toàn bộ đất đai trong phạm vi cả nước thuộc sở hữu toàn dân do nhà 
nước thóng nhất quản lý. Nhà nước giao đất cho tổ chức và cá nhân sử 
dụng ổn định lâu dài. 
Đối với nước ta sau ngày đất nước hoàn toàn thống nhất năm 1975 
cả nước cùng bắt tay vào xây dựng CNXH. Trong hoàn cảnh mới của 
đất nước, Hiến pháp cùng với văn bản pháp luật về đất đai đã được ra 
đời cho phù hợp với sự phát triển của đất nước trong tình hình mới. 
Hiến pháp năm 1980 là hiến phấp đầu tiên ra đời sau ngày đất 
nước độc lập đã quy định hình thức sở hữu duy nhất đối với đất đai, đó 
là hình thức sở hữu toàn dân. 
Điều 19 của Hiến pháp đã quy định: “ Đất đai, rừng núi sông hồ, 
hầm mỏ tài nguyên thiên nhiên trong lòng đất, ở vùng biển và thềm lục 
địa cùng các tài sản khác mà pháp luật quy định là của Nhà nước đều 
thuộc sở hữu toàn dân. 
Để quản lý đất đai được thống nhất trong cả nước và đúng pháp 
luật. Khi chưa có luật đất đai, nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy 
định chế độ quản lý đất đai. 
+ Ngày 10/11/1980, Thủ tướng chính phủ ban hành chỉ thị số 
229/TTG với nội dung đo đạc, phân hạng đất và đăng ký thống kê đất 
đai trong cả nước. 
Từ đó có thể thấy rằng, cơ sở lý luận của công tác đăng ký đất đai, 
cấp GCNQSDĐ đựơc thể hiện thông qua những quy định trong hệ thống 
các văn bản pháp luật về đất đai của nhà nước ta kể từ năm 1980. 
Sau luật đất đai 1993, Chính phủ đã ban hành hàng loạt các văn 
bản về giao đất, cấp đất, cho thuê đất sử dụng ổn định lâu dài cho các tổ 
chức, hộ gia đình cá nhân. và công tác đăng ký đất đai, lập hồ sơ địa 
chính, cấp GCNQSDĐ là nội dung quan trọng nhất trong công tác quản 
lý của Nhà nước đối với đất đai. Trên cơ sở đăng ký, cấp GCNQSDĐ để 
từng bước thiết lập và hoàn chình hệ thống tài liệu, hồ sơ về đất đai. 
Tổng cục quản lý ruộng đất đã ban hành các văn bản sau: 
+ Quyết định số 201/QĐ - ĐKTK ngày 14/7/1989 của Tổng cục 
quản lý ruộng đất hướng dẫn thi hành quyết định về cấp GCNQSDĐ. 
Để đẩy mạnh hơn nữa công tác đăng ký cấp GCNQSDĐ trong cả 
nước nhằm đáp ứng cho yêu cầu phát triển KT – XH. Từ sau luật đất đai 
năm 1993, Chính phủ và Tổng cục địa chính đã ban hành các văn bản 
luật sau: 
+ Công văn số 1427/CV - ĐK ngày 13/10/1995 của Tổng cục địa 
chính hướng dẫn xử lý một số vấn đề về đất đai để cấp GCNQSDĐ 
+ Nghị định 60/CP ngày 5/7/1994 về quyền sở hữu nhà ở và QSD 
Đ ở tại đô thị, ngành địa chính các tỉnh, thành phố trực thuộc TW được 
giao nhiệm vụ chủ trì phối hợp với các ban, ngành có kiên quan và 
chính quyền các cấp ttriển khai thực hiện NĐ 60/CP trên địa bàn thành 
phố. 
Và gần đây nhất Luật đất đai 2003 được ban hành ngày 
26/11/2003 và có hiệu lực ngày 01/7/2004. Đây là văn bản có tính hiệu 
lực cao nhất ở nước ta hiện nay. Sau luật đất đai 2003 Chính phủ đã ban 
hành Nghị định 181 về hướng dẫn thi hành luật đất đai. 
Theo luật đất đai và những hướng dẫn thi hành luật đất đai thủ tục 
cấp GCNQSDĐ (sổ đỏ) sẽ đơn giản hơn, rõ ràng hơn, thời gian ngắn 
hơn, gắn liền với trách nhiệm của từng cơ quan thực hiện các thủ tục. 
Nghị định hướng dẫn thi hành luật đất đai giao cho UBND cấp xã, 
phường, thị trấn chịu trách nhiệm đất không có tranh chấp nên người 
dân không phải tự làm. Trong trình tự, thủ tục cấp sổ đỏ, cán bộ Nhà 
nước không có quyền bắt dân phải đi làm bất cứ việc gì, ngoài việc dân 
phải đi nộp hồ sơ. Các cơ quan nhà nước tự liên hệ với nhau để phục vụ 
dân trong việc cấp sổ đỏ. Trong điều kiện không đủ điều kiện hoặc đủ 
điều kiện để cấp sổ đỏ thì phải có nghĩa vụ thông báo cho dân biết. 
Bộ Tài Chính cùng với bộ Tài Nguyên – Môi Trường sẽ xem xét 
cơ chế ghi nợ các nghĩa vụ tài chính trong từng trường hợp cụ thể nhằm 
tháo gỡ khó khăn cho các hộ dân, khi số tiền sử dụng đất và các khoản 
thuế phải nộp vượt quá khả năng của hộ khi làm sổ đỏ. Nghĩa vụ tài 
chính khi làm sổ đỏ gồm một hoặc một số loại: tiền sử dụng đất, lệ phí 
trước bạ, thuế chuyển quyền sử dụng đất, và có sự khác nhau trong từng 
trường hợp đất cấp mới , đất hợp thức hoá, đất nhận chuyển nhượng, đất 
chuyển mục đích sử dụng. 
Như vậy cùng với quyết tâm xoá bỏ thủ tục rườm rà, việc xem xét 
đến cơ chế ghi nợ nghĩa vụ tài chính là một bước tiến và nỗ lực khá lớn 
nhằm tách bạch giữa vấn đề cấp sổ đỏ và thực hiện nghĩa vụ tài chính. 
Mục tiêu là tạo điều kiện thuận lợi cho dân. 
4. Mục đích, yêu cầu , điều kiện, đối tượng của việc cấp 
GCNQSDĐ 
4.1) Mục đích yêu cầu 
Việc cấp GCNQSDĐ phải đạt được các mục đích sau: 
- Đối với Nhà nước: Vừa xác lập cơ sở pháp lý cho việc tiến hành 
các biện pháp quản lý, vừa nắm chắc tài nguyên đất đai. 
- Đối với người sử dụng đất: Yên tâm chủ động khai thác tốt nhất 
mọi tiềm năng của khu đất được giao, hiểu và chấp hành tốt pháp luật về 
đất đai. 
- GCNQSDĐ là chứng thủ pháp lý xác nhận mối quan hệ hợp 
pháp giữa Nhà nước – người quản lý chủ sở hữu đất đai với người được 
nhà nước giao đất để sử dụng. Quá trình tổ chức việc cấp GCN là quá 
trình xác lập căn cứ pháp lý đầy đủ để giải quyết mọi quan hệ về đất đai 
theo đúng pháp luật. Vì vậy người được cấp GCN phải đảm bảo đủ tiêu 
chuẩn và điều kiện theo quy định của pháp luật. 
- Việc cấp GCNQSDĐ là công việc hết sức quan trọng, nó phải 
được tiến hành lần lượt từng bước vững chắc không nóng vội ồ ạt theo 
phong trào, đủ điều kiện đến đâu cấp GCN đến đó. Chưa đủ điều kiện 
thì để lại đưa vào trường hợp xét cấp và có kế hoạch xử lý những trường 
hợp đó bằng tài chính để cấp GCN cho họ, chứ không thể bỏ lại được, 
làm như vậy sẽ không bao giờ cấp được. Phải chủ động tạo điều kiện để 
mọi người sử dụng đất thuộc mọi đại phương đều lần lượt được cấp 
GCNQSDĐ. Đồng thời phải được sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của cấp 
Uỷ Đảng và chính quyền các cấp. 
4.2) Điều kiện, đối tượng được cấp GCNQSDĐ ở 
Điều 50 luật đất đai 2003 
Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình cá nhân, 
cộng đồng dân cư đang sử dụng đất. 
1. Hộ gia đình cá nhân đang sử dụng đát ổn định, được UBND xã, 
phường thị trấn xác nhận không có tranh chấp mà có một trong các loại 
giấy tờ sau thì được cấp GCNQSDĐ và không phải nộp tiền sử dụng 
đất: 
a/. Những giấy tờ về quyền sử dụng đất đai trước ngày 
15/10/1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện 
chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, Chính 
Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hoà miền Nam Việt Nam và Nhà nước 
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam. 
 b/. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan 
nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong 
sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính. 
c/. Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất; giấy 
tờ giao nhà tình nghĩa gắn liền với đất 
d/. Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở 
gắn liền với đất ở trứoc ngày 15/10/93, nay được UBND xã, phường ,thị 
trấn xác nhận là đã sử dụng trước ngày 15/10/93 
e/. Giấy tờ về thanh lý, hoá giá nhà ở gắn liền với đất ở theo quy 
định của pháp luật; 
f/. Giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế đọ cũ cấp cho 
người sử dụng đất. 
2. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có một trong các loại 
giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này mà trên giấy tờ đó ghi tên người 
khác, kèm theo giấy tờ về việc chuyển quyền sử dụng đất có chữ ký của 
các bên có liên quan, nhưng đến trước ngày luật này có hiệu lực thi 
hành chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền sử dụng đất theo quy định 
của nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp 
thì được cấp giấy chứng nhậ quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền 
sủ dụng đất. 
3. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có hộ khẩu thường trú 
tại địa phương và trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi 
trồng thuỷ sản, làm muối tại vùng có điều kiện kinh tế- xã hội khó khăn 
ở miền núi, hải đảo, nay thuộc Uỷ ban nhân dân xã nơi có đất xác nhận 
là người đã sử dụng đất ổn định, không có tranh chấp thì đựoc cấp giấy 
chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất. 
4. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các loại giấy 
tờ quy định theo khoản 1 Điều này nhưng đất đã được sử dụng ổn định 
từ trước ngày 15/10/93, nay được Uỷ ban nhân dân xã, thị trấn xác 
nhận là đất không có tranh chấp thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử 
dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất. 
5. Hộ gia đình, cá nhân được sử dụng đát theo bản án hoặc quyết 
định của Toà án của cơ quan thi hành án, quyết định giả quyết tranh 
chấp đất đai của cơ quan nhà nước có thẩm quỳên đã được thi hành thì 
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sau khi thực hiện nghĩa vụ 
tìa chính theo quy định của pháp luạt. 
6. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các loịa giấy 
tờ quy định tại khoản 1 Điều này nhưng đất đã được sử dụng từ ngày 
15/10/93 đến trước ngày luật này thi hành 01/7/ 04 nay được uỷ ban 
nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận quyền sử dụng đất không có 
tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất xét duyệt đối với nơi đẫ 
có quy hoạch sử dụng đất thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng 
đất và phải nộp tiền sử dụng đất theo quy định của Chính Phủ. 
7. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất đựoc nhà nước giao đất, 
cho thuê đất từ ngày 15/10/93 đến trước ngày luật này có hiệu lực thi 
hành mà chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì phải 
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; trường hợp chưa thực 
hiện nghĩa vụ tài chính thì phải thực hiện theo quy định của pháp luật. 
8. Cộng đồng dân cư đang sử dụng đất có các cong trình là điình, 
đền, miếu, am, từ đường, nhà thờ họ được cấp giấy chứng nhận quyền 
sử dụng đất khi có các điêuf kiện sau đây: 
 a) Có đơn đề nghị xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. 
 b) Được uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất xác nhạn là 
đấyt sử dụng chung cho cộng đồng và không có tranh chấp. 
II) Nhân tố tác dộng đến công tác cấp GCNQSDĐ ở 
1. Nhân tố pháp lý 
“GCNQSDĐ là một chứng thư pháp lý xác lập mối quan hệ hợp 
pháp giữa Nhà nước và người sử dụng đất”.Điều này có nghĩa là 
GCNQSDĐ luôn có quan hệ trực tiếp tới các văn bản pháp luật của Nhà 
nước. Nhà nước chỉ có thể quản lý được công tác này thông qua các văn 
bản pháp luật và các chính sách. Đó là các Nghị định, thông tư hướng 
dẫn thi hành...Công tác cấp GCNQSDĐ này có đạt được kết quả tốt hay 
không chính là nhờ sự chỉ đạo sát sao của Nhà nước. Chính phủ, Bộ Tài 
Nguyên Môi Trường đã tập trung chỉ đạo giao trách nhiệm cụ thể cho 
các ngành các cấp trong công tác cấp GCNQSDĐ ở, để tạo sự phối hợp 
chặt chẽ các ngành với các cấp Uỷ Đảng và UBND các tỉnh thành phố, 
các quận huyện, phường xã, thị trấn đã tạo nên sức mạnh tổng hợp 
xuyên suốt từ trung ương đến địa phương. 
Trước đây, khi thẩm định hồ sơ đăng ký cấp GCNQSDĐ phải có 
nhiều ngành tham gia, phức tạp mà hiệu quả không cao, cụ thể là quản 
lý đất riêng, quản lý nhà riêng. Để thống nhất quản lý nhà đất về một 
mối, ngày 29/1/1999 THủ Tướng Chính Phủ có quyết định số 
10/1999/QĐ-TTg thành lập tổng cục địa chính và sở địa chính nhà đất ở 
các tỉnh thành phố. 
Điều này đã tạo điều kiện rất cơ bản thống nhất tập trung chỉ đạo 
cấp GCNQSDĐ đất ở và QSHN ở. 
Và theo Luật đất đai 2003, Chính Phủ đã thống nhất sát nhập 
Tổng cục địa chính với bộ Tài Nguyên Môi Trường. Đây cũng là một 
việc làm rất thuận lợi, giúp cho công tác quản lý đất đai của Nhà nước 
nói chung được tăng cường hơn và công tác cấp GCNQSDĐ nói riêng 
được đẩy nhanh tiến độ 
2.Nhân tố KTXH 
Nhìn chung trong các nhân tố trên, nhân tố “con người” vẫn là 
quan trọng nhất. Con người là tổng hoà của các quan hệ xã hội. Con 
người tham gia vào công tác này với vai trò như: Người sử dụng đất, 
cán bộ địa chính ở các cấp và các cán bộ của các ngành có liên quan, 
những người giúp chính Phủ đề ra những Nghị Định thông tư ....Trong 
đó thì đội ngũ cán bộ địa chính là những người tiếp xúc trực tiếp tới 
công việc này và họ cũng có ảnh hưởng rất lớn đến tiến độ cấp giấy 
chứng nhận . 
Bên cạnh nhân tố con người thì máy móc thiết bị phục vụ cho 
công tác đo đạc đất đai, đo vẽ bản đồ và quản lý hồ sơ địa chính cũng rất 
quan trọng. Hiện nay đất đai có nhiều biến động nếu chúng ta chỉ quản 
lý bằng phương pháp thủ công như trước kia thì không thể làm nổi mà 
phải áp dụng khoa học kỹ thuật vào quản lý đất đai như công nghệ bản 
đồ số,....ứngdụng công nghệ thông tin là một bước hiện đại hoá công 
nghệ trong quản lý: Máy vi tính, máy in , máy vẽ pholer khổ Ao và các 
thiết bị đo đạc điện tử như TC- 600, TC- 307 và các trương trình phần 
mềm đo GPS. 
Nếu áp dụng những tiến bộ khoa học của ngành công nghệ thông 
tin thì thời gian xử lý hồ sơ, cấp GCNQSDĐ được rút ngắn; hạn chế 
mức tháp nhất những sai sót trong quá trình đo vẽ, xử lý nội nghiệp, viết 
GCN. 
Và một nhân tố nữa cũng ảnh hưởng đến quá trình cấp 
GCNQSDĐ ở đó là vị trí đất đai của từng vùng , ví như đất ở Đô thị có 
nhiều biến động về hình thể, diện tích, chủ sử dụng đất và giá đất ở đô 
thị cao. Nên công tác cấp GCNQSDĐ ở là rất khó khăn. Còn ở nông 
thôn, giá đất thấp lại ít biến động, phần lớn đất đai do ông cha để lại nên 
công tác cấp GCNQSDĐ nhanh hơn 
III) Trình tự thủ tục cấp GCNQSDĐ 
1. Đăng ký QSDĐKhâu đầu tiên trong công tác cấp GCNQSDĐ ở là 
việc đăng ký QSDĐ. 
Theo điều 46 luật ĐĐ năm 2003: “ Việc đăng ký QSDĐ được thực 
hiện tại văn phòng đăng ký QSDĐ trong các trường hợp sau đây: 
1. Người đang sử dụng đất được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng 
đất. 
2. Người sử dụng đất thực hiện quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, 
thừa kế, tặng cho, cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất; thế 
chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất theo quy định 
Luật này. 
3. Nguời nhận chuyển quyền sử dụng đất. 
4. Người sử dụng đất đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được 
cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép đổi tên, chuyển mục 
đích sủ dụng đất, thay đổi thời hạn sử dụng đất hoặc có thay đổi 
đường ranh giới thửa đất. 
5. Ngưòi được sử dụng đất theo bản án hoặc quyết định của toà án 
nhân dân, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án, quyết 
định giải quyết tranh chấp đất đai của cơ quan nhà nước có thẩm 
quyền đã được thi hành. 
Trong một bộ hồ sơ xin cấp sổ đỏ bao giờ cũng phải có một tờ đơn 
xin đăng ký QSDĐ kèm theo đó là biên bản xác định hiện trạng sử dụng 
đất ( có trích lục bản đồ của thửa đất ở mặt sau biên bản đó). Ngoài ra 
còn một số giấy tờ khác liên quan (nếu có). Công tác đăng ký cấp 
GCNQSDĐ này là một khâu rất quan trọng trong việc cấp GCNQSDĐ. 
Các hồ sơ đăng ký này được đưa đến từng hộ gia đình cá nhân đang sử 
dụng đất để họ kê khai ( về số tờ bản đồ, số thửa, diện tích thửa) cán bộ 
địa chính cấp xã, phường, thị trấn có trách nhiệm đo đạc lại diện tích 
thửa đất xem có khớp với bản đồ 94 không. Nếu có sai số bản đồ thì 
phải nộp biên bản xác định diện tích tăng giảm (có mẫu sẵn) 
2) Lập và quản lý hồ sơ địa chính 
Lập và quản lý hồ sơ đại chính là việc tổng hợp các tài liệu có liên 
quan của thửa đất đủ để có thể chính thức hoá nó trong quan hệ KT-XH 
mà thể hiện cụ thể là cấp GCNQSDĐ. Điều này càng quan trọng và 
thậm chí có tính quyết định trong nền kinh tế thị trường khi cần chuyển 
một số tài sản vật lý để tạo thành vốn (tư bản). Nói cách khác những 
thông tin tổng hợp từ hồ sơ đại chính được tích tụ lại trong GCNQSDĐ 
để xác nhận cái “đang là” của tài sản và chuẩn bị cho nó trở thành cái 
“sẽ là” (vốn). Vậy là, một khi đã cấp được GCNQSDĐ rồi thì những 
thông tin trước đó trở thành “ lịch sử”. Theo Đ 47 luật đất đai. 
Trên thực tế nhiều nước đã có kinh nghiệm về lập và quản lý hồ 
sơ địa chính. Hàng trăm năm nay, tuỳ vào tình hình KT – XH của họ để 
chọn ra hình thức và nội dung phù hợp ( hồ sơ địa chính kiểu pháp – 
bằng khoán, hồ sơ địa chính kiểu Đức – xác nhận quyền; hồ sơ địa chính 
kiểu Torrens – giấy chứng nhận...). Tuy còn nhiều điểm khác nhâu về cả 
nội dung và hình thức nhưng đều có thể chuyển hoá theo sự phát triển 
của kỹ thuật tin học hiện đại. Theo đó sở địa chính, bản đồ địa chính có 
thể có trước hay sau khi lập xong hồ sơ địa chính thửa đất và là công cụ 
quản lý “thứ cấp”, với kỹ thuật tin học hiện đại, các công cụ này dễ 
được “ số hoá” và “ nối mạng” để quản lý và điều hành nhất là khi có 
thay đổi trong hồ sơ địa chính. Trước đây, Triều Đình nhà Nguyễn 
phong kiến Việt Nam đã từng quy định địa bạ của mỗi làng phải lập 
thành ba bản “ Giáp” , “ất”, “Bính” để lưu ở ba cấp quản lý. 
 Lập và quản lý hồ sơ địa chính là một hoạt động chuyên sâu, có 
tính chuyên nghiệp rõ ràng nên cần có một hệ thống tổ chức hợp lý và 
một đội ngũ kỹ thuật viên được đào tạo kỹ càng đảm nhiệm, Luật đất 
đai 2003 quy định đó là “Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất (Đ64). 
Tuy nhiên khi triển khai cụ thể cần phân biệt rõ đâu là phần chính công ( 
quản lý nhà nước) và đâu là phần dịch vụ công (hoạt động sự nghiệp 
công) để có thể “Xã hội hoá” một phàn nhiệm vụ này- xây dựng một cơ 
chế hoạt động thông thoáng phù hợp với xu hướng phát triển thị trường 
bất động sản nước nhà. 
 Cả nước có khoảng 100 triệu thửa đất, để hoàn thành việc lập hồ 
sơ địa chính theo một quy trình thống nhất khong thể là việc của một, 
hai năm mà là công việc lâu dài của một vài thế hệ. 
3. Trình tự thủ tục cáp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. 
3.1. Trình tự thủ tục cấp GCNQSDĐ ở cho hộ gia đình, cá nhân 
đang sử dụng đất tại xã ,thị trấn. 
 Theo Điều 135. nghị định 181/ CP: 
1. Hộ gia đình cá nhân nộp tại Uỷ ban nhân dân xã nơi có đất 
một(01) bộ hồ sơ gồm có: 
a) Đơn xin cấp GCNQSDĐ ; 
b) Một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại 
các khoản 1,2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai (nếu có ); 
c) Văn bản uỷ quyền xin cấp GCNQSDĐ(nếu có) 
2. Việc cấp GCNQSDĐ được quy định như sau: 
a) Uỷ ban nhân dân xã thị trấn có trách nhiệm thẩm tra, xãc nhận 
vào đơn câp GCNQSDĐ về tình trạng tranh chấp đất đai đối với thửa 
đất;trường hợp người đang sử dụng đất không có giấy tờ về quyền sử 
dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai 
thì thẩm tra, xác nhận về nguồn gốc và thời điểm sử dụng đất, tình 
trạng tranh chấp đối với thửa đất, sự phù hợp với quy hoạch sử dụng 
đất đã được xét duyệt; công bố công khai danh sách các trường hợp đủ 
điều kiện và không đủ diều kiện cấp GCNQSDĐ tại trụ sở Uỷ ban 
nhân dân xã, thị trấn trong thời gian 15 ngày; xem xét các ý kiến đóng 
góp với các trường hợp xin cấp GCNQSDĐ ; gửi hồ sơ đến Văn phòng 
đăng ký quyền sử dụng đất thuộc phòng Tài Nguyên và Môi Trường ; 
b) Văn phòng đăng ký QSDĐcó trách nhiệm kiểm tra hồ sơ; xác 
nhận vào đơn xin cấp GCNQSDĐ và ghi ý kiến đối với trường hợp đủ 
điều kiện và ghi ý kiến đối với trường hợp không đủ điều kiện; trường 
hợp đủ điều kiện cấp GCNQSDĐ thì làm trích lục bản đồ địa chính 
hoặc trích đo địa chính thửa đất đối với nơi chưa có bản đồ địa chính, 
trích sao hồ sơ địa chính; gủi số liệu đến cơ quan thuế để xác định 
nghĩa vụ tài chính đối với trường hợp người sử dụng đất phải thực 
hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật; gửi hồ sơ những 
trường hợp đủ điều kiện và không đủ điều kiện cấp GCNQSDĐ kèm 
theo trích lục bản đồ địa chính, trích sao hồ sơ địa chính đến Phòng 
Tài Nguyên Môi Trường ; 
c) Phòng Tài Nguyên Môi Trường có trách nhiệm kiểm tra hồ sơ, 
trình Uỷ ban nhân dân cùng cấp quyết định cấp GCNQSDĐ; ký hợp 
đồng thuê đất đối với trường hợp được Nhà nước cho thuê đất; 
d) Thời gian thực hiện các công việc quy định tại điểm a, b và c 
khoản này không quá 55 ngày làm việc (không kể thời gian công bố 
công khai danh sách các trường hợp xin cấp GCNQSDĐ và thời gian 
người sử dụng đất thực hiện nghĩa vụ tài chính ) kể từ ngày Uỷ ban 
nhân dân xã, thị trấn nộp đủ hồ sơ hợp lệ cho tơi ngày người sử dụng 
đất nhận được GCNQSDĐ. 
3. Đối với trường hợp cấp GCNQSDĐ cho trang trại thì trước khi 
cấp GCNQSDĐ theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này phải 
thực hiện rà soát hiện trạng sử dụng đất theo quy dịnh tại điều 50 của 
Nghị định này. 
3.2Trình tự thủ tục cấp GCNQSDĐ ở tại cấp phường tương tự 
như ở cấp xã chỉ khác một số điều: 
Ở cấp phường có thành lập văn phòng đăng ký QSDĐ, văn phòng 
này có chức năng thẩm tra hồ sơ, lấy ý kiến của UBND phường về tình 
trạng tranh chấp đất đai. Còn ở cấp xã, thị trấn không thành lập văn 
phòng đăng ký đất đai, mà giao trực tiếp quyền hạn và trách nhiệm cho 
UBND cấp xã có trách nhiệm thẩm tra hồ sơ, xác nhận vào đơn xin đăng 
ký QSDĐ còn cán bộ địa chính xã giúp UBND xã làm công việc 
chuyên môn. những hồ sơ đăng ký cấp GCNQSDĐ đã có chứng thực 
của UBND xã gửi lên văn phòng đăng ký thộc phòng Tài Ngưyên Môi 
Trường ở cấp huyện để trẩm tra lại và xác nhận. Những hồ sơ đựơc 
duyệt, phòng Tài nguyên môi trường lấy ý kiến xác nhận của UBND 
cấp huyện và xin xem xét cấp GCNQSDĐ. 
Còn đối với cấp phường, văn phòng dăng ký QSDĐ thẩm tra hồ 
sơ xin xác nhận của UBND phường về nguồn gốc, thời điểm sử dụng 
đất, tình trạng tranh chấp, phù hợp với quy hoạch. Sau đó trình những 
hồ sơ hợp lệ lên UBND cấp Quận để xin cấp GCN. 
4. Thẩm quyền cấp GCNQSDĐ. 
Luật đất đai 2003 so với luật đất đai năm 1993 đã có những đổi 
mới, rất phù hợp với thực tế nhất là sự phân cấp trong việc xét và cấp 
GCNQSDĐ. Điều 52 luật ĐĐ 2003 quy định: Thẩm quyền cấp giấy 
chứng nhận quyền sử dụng đất 
1. Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cấp giấy 
chứng nhận quyền sử dụng đất cho tổ chức, cơ sở tôn giáo, người 
Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức cá nhân nước ngoài ytừ 
trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này. 
2. Uỷ ban nhân dân huyện quận thị xã, thành phố thuộc tỉnh cấp 
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình cá nhân, cộng 
đồng dân cư, người Việt Nam định cư ở nước ngoài mua nhà ở 
gắn liền với quyền sử dụng đất ở. 
3. Cơ quan có thẩm quyền cấp GCNQSDĐ quy định tại khoản 1 
Điều này được uỷ quyền cho cơ qua quản lý đất đai cùng cấp. 
 Chính phủ quy định diều kiện được uỷ quyền cấp GCNQSDĐ 
Điều này đã giảm nhẹ bớt công việc cho sở Tài Nguyên môi 
trường ở các tỉnh, thành phố. Trước đây khối lượng công việc khá lớn, 
lại tập trung vào Sở Địa Chính Nhà Đất (nay là Sở Tài nguyên- môi 
trường), gây sức ép về thời gian, công việc trong khi đó lực lượng cán 
bộ đi chuyên môn ở đây lại mỏng. 
4. Nghĩa vụ tài chính. 
Theo luật đất đai mới, mức phí đối với người làm sơ đỏ theo công 
thức: 
 Phí sổ đỏ = tiền sử dụng đất + 4% phí chuyển nhượng + 1% lệ 
phí đất + 1% lệ phí nhà 
 Theo quy định hiện hành, khi cá nhân, tổ chức muốn làm sổ đỏ 
phải thực hiện những nghĩa vụ tài chính bao gồm: tiền thuế sử dụng đất 
( theo quy định): phí chuyển quyền sử dụng đất nếu người làm sổ đỏ là 
nhận chuyển nhượng (mua) mảnh đất từ người khác và quy định bằng 
4% của giá trị chuyển nhượng; lệ phí trước bạ nhà (nếu đã xây nhà) – 
mỗi thứ tính bắng 1% giá chuyển nhượng. 
 Thông thường, bên mua và bên bán ghi mức giá thoả thuận thấp 
hơn khung giá nhà Nước quy định để giảm múc nộp lệ phí. Trong 
trường hợp đó cơ quan thuế sẽ lấy mức giá quy định theo khung giá nhà 
nước để làm căn cứ áp thuế. Một trong những khoản tài chính lớn nhất 
mà người làm sổ đỏ phải đóng hiện nay là tiền sử dụng đất, có khi lên 
tới hàng chục triệu đồng với một mảnh đất chỉ vài chục mét vuông. 
 Từ năm 1999 Chính phủ đã cho phép ghi nợ lại các khoản nghĩa 
vụ tài chính đối với người làm sổ đỏ, trong đó có tiền sử dụng đất việc 
cho nợ này cũng được ghi hẳn trên sơ đỏ. 
 Đây là giải pháp khuyến khích người dân làm sổ đỏ, đặc biệt đối 
với những hộ dân ven đô và nông thôn đang sinh sống trên mảnh đất thổ 
cư từ thời cha ông họ. 
 Tuy nhiên cần phải hiểu rằng, mặc dù đã được cấp sổ đỏ, nhưng 
sổ đỏ đó còn nợ lại một trong các khoản phí như trên thì chủ nhân của 
nó sẽ chưa được tham gia giao dịch, trừ trường hợp giao dịch “ chui” vì 
chưa hoàn thành với nghĩa vụ với nhà nước. Ngân hàng cũng không 
nhận sự thế chấp của sổ đỏ khi còn ghi nợ về tài chính như trên. 
 Như vậy, nếu có sổ đỏ rồi, người sử dụng đất phải tiếp tục thực 
hiện nghĩa vụ tài chính với nhà nước, tức là nộp tiền sử dụng đất, phí 
chuyển quyền, lệ phí đất và nhà, thì sổ đỏ này mới được giao dịch bình 
thường. 
 Bắt đầu từ 2007, các trường hợp chưa có sổ đỏ không được thực 
hiện một số quyền đối với mảnh đất đó, tức là không được tham gia mua 
bán, chuyển nhượng, thế chấp, bảo lãnh ... 
 IV. NHỮNG NGUYÊN NHÂN CỦA VIỆC CHẬM CẤP 
GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT. 
 Trong những năm qua, công tác quản lý Nhà Nước vế đất đai của 
nước ta đã đạt được kết quả nhất định, đất đai từng bước sử dụng có 
hiệu quả, đúng quy định của pháp luật và trở thành một nội lực quan 
trọng góp phần thúc đẩy một Đô thị, kinh tế xã hội. Với mục tiêu đó, và 
UBND các tỉnh Thành Phố đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các ngành các 
cấp đẩy mạnh công tác cấp GCN. Trong quá trình thực hiện, các sở ban 
nghành đã cố gắng chủ động tháo gỡ những vướng mắc phấn đấu hoàn 
thành chỉ tiêu kế hoạch hàng năm đề ra. Tuy vậy, tién bộ thưc hiện vẫn 
chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác quản lý đất đai. Phần lớn các 
tỉnh Thành phố trong cả nước đều chưa cấp xong giấy chứng nhận cho 
các hộ gia đình cá nhân đang sử dụng đất. Lấy ví dụ tiêu biểu- tình hình 
cấp GCNQSDĐ ở trên địa bàn thành phố Hà Nội. 
 Thủ đô Hà Nội là trung tâm chính trị, văn hoá của cả nước, có 
tổng diện tích là 92 097,45ha với gần 3 triệu dân trong đó đất đô thị là 
9848,79 ha, chiếm 10,7% tổng diện tích đất tự nhiên; Diện tích đất ở đô 
thị là 2871,9 ha chiếm 24,6% tổng diện tích đất ở và diện tích đất ở 
nông thôn là 8816,7 ha chiếm 75,4% điện tích đất ở. 
 Với quỹ đất như trên, do tồn tại lịch sử để lại, công tác quản lý đất 
đai, nhà cửa, nhất là ở khu vực đô thị bị buông lỏng nhiều năm. Đặc biệt 
có tới 90% chủ dùng đát không có giấy tờ hợp lệ, tự chuyển nhượng 
nhiều lần trong các năm ttrước đây nên cơ quan nhà nước không......... 
 Kết quả cấp giấy chứng nhận ở khu vực đô thị 
 Tính đến nay, toàn thành phố đã cấp được 247.829 GCNQSD bao 
gồm: 
 - 168.908 GCN cấp theo NĐ 60/CP đạt 88,29% số hộ đã kê khai 
đăng ký năm 1998. 
 - 15.316 GCN cấp theo QĐ 65/2001/QĐ - UB tại khu vực các xã 
chuyển thành phường tại hai quận Long biên và Hoàng mai. 
 - 63.605 GCN mua nhà theo NĐ 61/CP 
 Số
T
T 
Quận, huyện 
Tổng hồ 
sơ kê khai 
1998 
Tổng hồ 
sơ phát 
sinh đến 
2004 
Thực 
hiện đến 
hết 
31/7/200
4 
Đạt chỉ 
tiêu so với 
kê khai 
1998 
(%) 
Số GCN 
còn phải 
cấp 
 Hoàn Kiếm 5593 6114 6026 107,74 88 
 Hai bà trưng 47548 35324 24777 71,73 10547 
 Ba Đình 18011 18853 16461 91,39 2392 
 Đống Đa 33000 40720 29559 89,57 11161 
 Tây Hồ 18146 18548 16229 89,44 2319 
 Cầu Giáy 16924 16924 16379 96,78 545 
 Thanh Xuân 17844 17844 13346 74,79 4498 
 Long Biên 30881 13068 17813 
 Hoàng Mai 38314 21456 16858 
 Từ Liêm 2840 2840 2403 86,23 437 
 Gia Lâm 9323 2245 1058 74,31 1187 
 Đông Anh 2445 2445 2437 99,67 8 
 Sóc Sơn 680 680 671 98,68 9 
 Thanh Trì 1950 3752 3752 102,41 0 
 Quân Đội 17000 20000 16602 94,72 3807 
Tổng 191304 255484 184224 88,29 71260 
 Cấp GCNQSDĐ ở tại khu vực nông thôn 
 Toàn thành phố đã cấp được 109.417 GCNQSDĐ ở, đất ao, và 
vườn liền kề khu vực nông thôn, đạt 50,18% số hộ cần cấp GCN 
trong đó năm 2002 cấp được 69.726 giấy, năm 2003 cấp được 
35.222 giấy chứng nhận. 
KH năm 2004 Số 
T
T 
Tên 
huyện 
Số GCN 
cần cấp Kế hoạch Kết quả 
Đã cấp 
đến 
31/7/2004 
Số GCN 
cần cấp 
 Sóc Sơn 55800 8000 4241 24676 31124 
 Từ Liêm 38948 7000 1923 21211 17737 
 Đông 
Anh 
54517 10000 5989 43350 11167 
 Gia Lâm 40786 8000 1068 7091 33695 
 Thanh 
Trì 
28000 7000 4500 13089 14911 
Tổng 218051 40000 17721 109417 108634 
Bên cạnh những mặt thuận lợi thì cũng có không ít những khó 
khăn làm ảnh hưởng tới tiến độ xét cấp GCNQSDĐ hiện nay của Nhà 
nước. Đó là những nguyên nhân: 
1.Về mặt quản lý đất đai 
Từ trước những năm 1986 sự quản lý đất đai của Nhà nước rất 
lỏng lẻo. Toàn bộ đất đai đều do HTX (đại diện cho 1 tập thể chứ không 
phải đại diện cho Nhà nước). Chỉ mãi đến năm 1986 luật đất đai đầu 
tiên ra đời và đến năm 1998 mới có hiệu lực rồi được sửa đổi, bổ sung 
(năm 1993) đã công nhận 3 hình thức sở hữu: 
- Sở hữu tập thể 
- Sở hữu Nhà nước 
- Sở hữu cá nhân 
2.Về hồ sơ địa chính 
2.1 Giữa các hệ thống bản đồ có sự không khớp với nhau: Hệ 
thống bản đồ giải thửa 299 lập năm 1986 được đo vẽ đơn giản là dùng 
hệ thống tọa độ Gau-xơ của pháp. 
Đến năm 1994 có bản đồ 1994 (gọi tắt là bản đồ 94) đã dùng hệ 
tọa độ lưới Nhà nước dùng máy kinh vĩ để đo vẽ nên độ chính xác cao 
hơn. Do đó, 2 hệ bản đồ này không khớp nhau về diện tích của thửa đất, 
có thửa diện tích tăng, có thửa diện tích lại giảm. Sự sai số bản đồ này 
do nhiều nguyên nhân, có thể là do khi do đạc để lập bản đồ cán bộ địa 
chính không kiểm tra lại chính xác sự kê khai của các chủ sử dụng đất 
có khi đất hẹp, người ta lại khai man thêm vài m2 (hoặc vài chục m2 
đất). Đây chính là nguyên nhân dẫn đến, hiện nay việc cấp GCN rất khó 
khăn do diện tích trên bản đồ và thực địa là không khớp nhau. Mà theo 
quy định thì phải cấp theo bản đồ 94. Vì vậy, các cán bộ không dám cấp 
ngay, phải để lại những trường hợp này chờ ý kiến của hội đồng, việc 
này cũng mất khá nhiều thời gian. 
2.2. Sự biến đổi về hình thể và chủ thể 
Theo thời gian từ 1986-2004 là quãng thời gian dài mà trong suốt 
18 năm đó đất đai đã có những thay đổi về hình thể và chủ thể (nhiều ao 
hồ đã trở thành đất ở, nhiếu mảnh đất đã qua các chủ sử dụng...vv. Nếu 
cán bộ địa chính khôn nắm vững thông tin đó thì khó có thể cấp 
GCNQSDĐ cho các chủ họ mới. Mà do trước đây, công tác quản lý đất 
đai ở cấp phường xã chưa được quan tâm đúng mức nên hiện tượng 
người dân lấn chiếm đất ao, đất công là khá phổ biến. 
Những trường hợp này chắc chắn sẽ bị xử lý, tuy nhiên xử lý thế 
nào để những chủ sử dụng khác không thắc mắc mới là điều quan trọng. 
Vì có trường hợp chủ sử dụng đất lấn chiếm dần dần (lấn ao mỗi năm 
lấn một ít) nên không thể xác định rõ thời điểm lấn chiếm chính xác để 
xử phạt hành chính. Vì theo quy định pháp luật , có các mức nộp tiền sử 
dụng đất khác nhau: 100%, 40%, 20% ...vv mức này tùy thuộc vào thời 
gian sử dụng (thời gian lấn chiếm). Nếu giải quyết không đúng hoặc qua 
loa thì những chủ thửa khác lại thắc mắc khiếu kiện. Trường hợp này 
phải đưa ra hội đồng cấp xã xem xét giải quyết. Đây là công việc cũng 
mất khá nhiều thời gian. 
3. Về những giấy tờ bắt buộc để được cấp GCNQSDĐ 
Về GCNQSDĐ là một loại giấy tờ rất quan trọng nên khi cấp 
GCN này các chính quyền Nhà nước có thẩm quyền phải rất thận trọng, 
các văn bản pháp luật đều đưa ra những điều kiện hết sức khắt khe. 
Những giấy tờ liên quan đến nguồn gốc của những mảnh đất để tránh 
những tình trạng khiếu kiện sau khi đất đã được cấp sổ đỏ. Tuy nhiên, 
chính những yêu cầu đó lại gây ra những vững mắc trong việc cấp GCN, 
đó là đất đai không có đủ giấy tờ về nguồn gốc. 
3.1. Sau khi mua bán, chuyển nhượng đất mà người chủ mới 
muốn được cấp GCNQSDĐ thì anh ta phải trình giấy tờ mua bán có sự 
chứng thực của chính quyền địa phương. Nhưng thực tế có rất nhiều 
trường hợp người ta mua bán trao tay có hoặc không có sự chứng nhận 
của chính quyền địa phương. Điều này đã gây ảnh hưởng tới việc xét 
cấp giấy chứng nhận cho chủ hộ sử dụng mới. 
3.2. Khi chủ hộ mới muốn sang tên đổi chủ để đứng tên chính chủ 
thì cán bộ địa chính yêu cầu chủ hộ đó xuất trình bản copy hộ khẩu và 
biên bản họp gia đình nhưng có trường hợp ông bà đứng tên trong sổ địa 
chính đã thừa kế (không có giấy di chúc cho con) nay người cháu (cháu 
nội hoặc ngoại) muốn đứng tên chủ sở hữu thì không thể coppy đựơc 
bản hộ khẩu gia đình ông bà. Hoặc có trường hợp người ông có 2 vợ mà 
mỗi bà vợ lại có nhiều con, nay cháu cảu con bà cả (bà hai)đứng tên chủ 
sở hữu thì hỏi sẽ họp gia đình nào để lập biên bản họp gia đình. 
3.3. Hoặc có trường hợp cấp lại giấy quyền sử dụng đất thì chủ sử 
dụng phải đưa ra GCN của chế độ cũ. Nhưng thực tế, đại đa số các chủ 
hộ không còn giữ được những giấy tờ đó vì bị rách nát hoặc thất lạc. 
Nên việc xuất trình giấy tờ đó không thể có được. Điều này làm ảnh 
hưởng đến quá trình xét cấp GCNQSDĐ. 
4. Về nghĩa vụ tài chính 
Khó khăn lớn nhất hiện nay là việc kết hợp thu tiền sử dụng đất, 
thu thuế quyền sử dụng đất và lệ phí trước bạ trong khi làm thủ tục cấp 
GCNQSDĐ. Người dân không đến làm nghĩa vụ tài chính khi được báo, 
phần lớn hồ sơ đăng ký đất đai ở đô thị phải chịu thuế trước bạ, chuyển 
quyền sử dụng đất, tiền sử dụng trong khi ở nông thôn nghành thuế 
không áp dụng sắc thuế này và đã làm giấy rồi không phải đóng tiền sử 
dụng đất. Để khắc phục tình trạng trên thông tư liên tịch 1442, ngày 
21/9/1999 của tổng cục địa chính và bộ tài chính đã được ban hành để 
xử lý các nghĩa vụ tài chính (lệ phí trước bạ, tiền sử dụng đất, thuế 
quyền sử dụng đất...vv) khi cấp GCNQSDĐ. Trong đó, các hộ đang sử 
dụng đất trước 1/7/0999 sẽ được ghi nợ các nghĩa vụ tài chính về đất 
trên GCN (GCN này vẫn có giá trị như các GCN không ghi nợ). Tuy 
nhiên, liên nghành thuế -địa chính các tỉnh thành phố lại quy định: 
không được ghi nợ lệ phí trước bạ và chỉ có các hộ nghèo và các hộ có 
khó khăn đột xuất mới được xét ghi nợ tiền sử dụng đất, thuế chuyển 
quyền sử dụng đất. 
5. UBND các cấp ký GCNQSDĐ chậm do bận việc quan trọng và 
lực lượng chuyên môn lại mỏng. Trước đây, tất cả hồ sơ xin cấp GCN 
đều phải nộp lên UBND tỉnh, Thành phố trực thuộc TW ký và cấp 
GCN. Nhưng hiện nay luật đất đai năm 2003 đã quy định giao cho 
UBND cấp huyện ký giấy. 
6. Nguyên nhân quan trọng nữa là người làm GCNQSDĐ phải có 
cái tâm trong sáng. Nhưng trên thực tế nhiều nơi cán bộ địa chính, cán 
bộ phường gây khó khăn, có hiện tượng nhũng nhiễu để ảnh hưởng đến 
lòng tin của nhân dân. Ở một số nơi còn mang nặng tư tưởng xin cho, 
xét cấp chưa xác định được mục đích cấp GCN là để phục vụ công tác 
quản lý Nhà nước và phục vụ nguyện vọng của nhân dân nên có những 
yêu cầu thủ tục phiền hà, phức tạp làm ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện. 
Bên cạch đó, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ địa chính còn 
yếu, không đồng đều, nhất là ở cấp xã, phường đã yếu lại còn thiếu, 
không đủ lực lượng để thực hiện, đội ngũ này lại hay thay đổi , ảnh 
hưởng đến quá trình giải quyết thủ tục do đó giải quyết hồ sơ còn chậm. 
7. Một nguyên nhân cuối cùng nữa là sự phối hợp giữa các nghành 
liên quan với các cấp chính quyền thành phố đặc biệt là sự phối hợp 
giữa hai nghành địa chính và xây dựng chưa đồng bộ, chưa thống nhất 
trong lĩnh vực chỉ đạo triển khai và xử lý những trường hợp cụ thể đã 
làm ảnh hưởng đáng kể đến tiến độ cấp GCN trên địa bàn. 
 KẾT LUẬN 
 Tóm lại việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đang là vấn 
đề cấp bách hiện nay. Mặc dù Nhà nước đã bân hành nhiều quyết định 
để nhanh tién độ cấp giấy chứng nhận nhưng vệc này còn gặp nhiều khó 
khăn vướng mắc. Trong bối cảnh đó, luật đất đai 2003 đã ra đời giải 
quyết một phần những khó khăn vướng mắc hiện nay và nghị định số 
181/NĐ- CP hướng dẫn thi hành Luật đất đai 2003 đã quy định rõ 
quyền hạn và nghĩa vụ của người sử dụng đất; trình tự thủ tục của việc 
cấp GCNQSDĐcho các đối tượng sử dụng đất được tách riêng cấp 
phường riêng, cấp xã, thị trấn riêng. diều này rất phù hợp với thực tế. 
 Để khắc phục tình trạng này, chúng ta phải đưa ra những giải 
pháp tháo gỡ những vướng mắc trong công tác cấp giấy chứng nhận 
hiện nay: 
 1. Công tác đăng ký cấp GCNQSDĐ 
 Đầu tiên đó là để thực hiện tốt công tác đăng ký đất đai, cấp 
GCNQSDĐ một cách sâu rộng đến từng hộ gia đình cá nhân thì cần 
phải có các biện pháp tuyên truyền về lợi ích và tầmquan trọng của việc 
đăng ký đất đai, cấp GCNQSDĐ; tuyên truyền phổ biến Luật đất đai, 
thủ tục quy trình cấp GCNQSDĐ trên các phương tiện thông tin đại 
chúng nhằm truyền tải thông tin về chủ trương chính sách của Nhà 
nước đến mọi đối tượng mọi từng lớp xã hội. 
 2.Về thủ tục hành chính : 
 Kết hợp với cải cách hành chính thực hiện thủ tục một cửa nhằm 
đẩy nhanh công tác cấp GCNQSDĐ, cụ thể: 
 + Giảm việc xét duyệt hội đồng cấp quận và phường do Luật đất đai 
2003 quy định, các trường hợp sử dụngdaats ổn định đất từ 15/10/1993 
không phải nộp nghĩa vụ tài chính nên các trường hợp sử dụng trước 
ngày 15/10/1993 không phải xét thời gian sử dụng đát, chỉ xem xét yếu 
tố có hay không tranh chấp khiếu kiện. 
 + Các hộ gia đình nằm trong vùng kgong phù hợp với quy hoạch sẽ 
xét cấp GCNQSDĐ nhưng ghi điều kiện hạn chế thực hiện quyền sử 
dụng đất. 
 + Mục tiêu cấp xong GCN cho những trường hợp đã sử dụng đất 
từ 15/10/1993 trởvề trước, cấp gọn tùng địa bàn từng phường xã. 
Nghiên cứu quy trình phối hợp để giao nhiệm vụ xét duyệt cấp 
GCNQSDĐ. Triệt để cho các quận huyện, nghiên cứu tổ chức khoán 
hồ sơ cấp GCNQSDĐ, tạo sự chủ động cho các phường xã thị trấn; có 
hình thức khen thưởng đối với những đơn vị làm tốt, hoàn thành sớm 
hơn so với kế hoạch. Những đơn vị nào làm tốt sẽ được khen thưởng. 
Văn phòng đăng ký QSDĐ của quận huyện nên phân công cán bộ của 
phòng mỗi người phụ trách một vài xã, phường và đi đến tận cơ sở để 
thẩm tra hồ sơ. Điều này ở Hà Nội đã làm và thu được kết quả khá cao. 
 3. Đảm bảo đủ kinh phí và lực lượng để các tỉnh thành phố, quận 
huyện hoàn thành công tác cấp GCNQSDĐ trong năm 2005. Sở Tài 
Nguyên Môi Trường và nhà đất phối hợp vớ các quận huyện tổ chức 
tập huấn chuyên môn nghiệp vụ cho cho lực lượng hợp đồng để tổ 
chức triển khai công tác cấp GCNQSDĐ. 
 4. Tăng cường công tác thanh tra kiểm tra về tình quản lý và sử 
dụng đất đai để kịp thời ngăn chặn và xử lý các trường hợp vi phạm 
theo pháp luật hiện hành. Các sở tài nguyên môi trường và nhà đất, 
UBND các quận huyện thiết lập đường dây nóng để kịp thời tiếp nhận 
ý kiến của nhân dân, giải quyết những khó khăn vướng mắc và sử lý 
cán bộ địa chính có hành vi gây khó khăn cho công tác cấp 
GCNQSDĐ trên địa bàn quản lý. 
Và phương hướng trong thời gian tới là tiếp tục đẩy mạnh và hoàn 
thành kế hoạch cấp GCNQSDĐ vào năm 2005 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 Luận Văn- Cơ sở khoa học của việc cấp GCNQSDĐ ở cho hộ gia đình cá nhân đang sử dụng đất.pdf Luận Văn- Cơ sở khoa học của việc cấp GCNQSDĐ ở cho hộ gia đình cá nhân đang sử dụng đất.pdf