Trong quá trình giáo dục và đào tạo, cần tạo ra các động lực kích 
thích học sinh, sinh viên hăng say học tập. Ví dụ như chính sách về việc làm. Theo 
thống kê năm 2001, từ 38 trường đại học, chỉ có 67% số sinh viên ra trường tìm 
được việc làm ổn định; 62% trong số này được tuyển dụng làm nghiên cứu viên 
mới, và chỉ có 4% trí thức trẻ trong số này được đào tạo tiếp. Một bộ phận trí thức 
trẻ vẫn đứng ngoài cuộc. Vì vậy chính sách này sẽ có tác động tích cực đến mục 
đích, động cơ học tập của học sinh, sinh viên.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 21 trang
21 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3904 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại – Yếu tố tiền đề chủ yếu của kinh tế tri thức, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: 
Cuộc cách mạng khoa học và công 
nghệ hiện đại – Yếu tố tiền đề chủ 
yếu của kinh tế tri thức 
Nội dung 
I. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại – Yếu tố tiền đề chủ 
yếu của kinh tế tri thức 
Các Mác từng nói: “ Khoa học là tinh hoa của tiến trình phát triển chung 
của lịch sử. Hơn thế nữa, đó là đòn bẩy mạnh mẽ của lịch sử, là một lực lượng 
cách mạng, theo ý nghĩa chính xác nhất của từ đó”. Lịch sử phát triển của xã hội 
loài người đã chứng minh điều đó là đúng. 
Ngay từ thế kỉ XVII, khoa học đã từng bước đưa ngành trồng trọt chăn nuôi 
trở thành cốt lõi của nền kinh tế nông nghiệp, phát triển chủ yếu dựa vào tài 
nguyên thiên nhiên. Đến giữa thế kỉ XVII, nền kinh tế công nghiệp bắt đầu được 
hình thành. Từ đó đã có hai cuộc cách mạng công nghiệp nổ ra nhờ sự phát triển 
vượt bậc của khoa học kĩ thuật, được đánh dấu bằng sự ra đời của máy hơi nước 
và máy phát điện. Và đặc biệt, với cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật đầu thế kỉ 
XX, loài người đã đi sâu nghiên cứu thế giới từ vi mô đến vĩ mô, tất cả những sự 
vật nằm ngoài khả năng quan sát của giác quan con người. Hàng loạt những phát 
kiến vĩ đại về phân tử, nguyên tử, hạt nhân, các hạt cơ bản... đến những hiểu biết 
về vũ trụ: các vì sao, thiên hà, đại thiên hà, sự giãn nở của vũ trụ... Người ta ước 
tính rằng trong thế kỉ XX toàn bộ lượng thông tin, tri thức tăng thêm khoảng 1000 
lần so với đầu thế kỉ và vượt trội tất cả các tri thức mà loài người tích lũy được 
trong suốt lịch sử phát triển từ thế kỉ XIX trở về trước. Cuộc cách mạng khoa học 
kĩ thuật đó tất yếu sẽ dẫn đến cuộc cách mạng về lực lượng sản xuất mà ngày nay 
chúng ta gọi là cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, bắt đầu vào 
khoảng từ sau đại chiến thế giới lần thứ hai. 
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại được mở đầu bằng công 
nghệ thông tin (CNTT). CNTT là nhân lõi của cuộc cách mạng khoa học và công 
nghệ hiện đại, nó phản ánh giai đoạn phát triển mới về chất của sản xuất trong đó 
hàm lượng trí tuệ là thành phần chủ yếu trong sản phẩm. 
CNTT bao gồm từ phần cứng như chế tạo các mạch vi điện tử, các máy vi 
tính, máy siêu tính... các dây chuyền sản xuất tự động hóa, các thiết bị ngoại vi 
cho đến các phần mềm ứng dụng và các phần mềm hệ thống. Một phần quan trọng 
nữa trong CNTT phải kể đến là các loại thiết bị viễn thông, điện tử công nghiệp, 
điện tử tiêu dùng... Mạng máy tính và internet đã và đang trở thành hệ thống huyết 
mạch quan trọng trong mọi hoạt động kinh tế, văn hóa – xã hội. Năm 1993 đã có 1 
triệu người nối mạng, đến tháng 3 – 2000 số người dùng đã lên tới 280 triệu. Rõ 
ràng là mạng internet không còn là một phương tiện kĩ thuật thuần túy mà đã 
thành một môi trường mới cho mọi hoạt động của con người và có tác động rất 
lớn đến sự chuyển biến nhanh chóng của đời sống con người trên khắp hành tinh. 
Thứ đến là công nghệ sinh học (CNSH), đây là một bước đột phá vào thế 
giới đầy bí ẩn của sự sống. Nó bắt đầu bằng việc khám phá ra các phân tử hình 
xoắn kép (ADN). Công nghệ cao này đã tạo ra một tiềm năng vô tận cho sản xuất 
ra các loại lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh và các vật liệu công nghiệp 
nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người. 
Cùng với CNTT và CNSH là một loạt các công nghệ cao khác: công nghệ 
vật liệu mới, công nghệ năng lượng công nghệ hàng không – vũ trụ... Nhiều loại 
vật liệu mới với các tính năng ưu việt không thể tìm thấy trong tự nhiên đã được 
tạo ra: vật liệu tổ hợp, vật liệu com-pô-zit, các chất bán dẫn... Nhiều nguồn năng 
lượng mới được tạo ra để thay thế các nguồn năng lượng tự nhiên sắp cạn kiệt, đặc 
biệt là năng lượng nguyên tử. Đáng chú ý là công nghiệp hàng không-vũ trụ với 
triển vọng đưa con người đến với các hành tinh khác trong vũ trụ.... 
Nhờ các công nghệ cao đó, nền kinh tế thế giới đạt mức tăng trưởng chưa 
từng có. Ngày nay, tổng sản phẩm của thế giới ước tính khoảng 30.000 tỉ USD 
nghĩa là gấp khoảng 123 lần so với tổng sản phẩm thế giới những năm 50 (1300 tỉ 
USD). Có thể nói, bộ phận cách mạng nhất tạo ra ngày càng nhiều giá trị thặng dư 
của lực lượng sản xuất to lớn của loài người ngày nay là khoa học công nghệ. Các 
Mác đã dự báo rằng khoa học sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và đã trở 
thành hiện thực. Chính điều đó đã tạo tiền đề cho sự hình thành kinh tế tri thức. 
II. Một số vấn đề chung về nền kinh tế tri thức 
1. Khái niệm kinh tế tri thức 
Kinh tế tri thức là một sản phẩm trực tiếp của cuộc cách mạng khoa học và 
công nghệ hiện đại. Nền kinh tế đó đang dần được hình thành, có nhiều tên gọi 
khác nhau nhưng phổ biến hơn cả là thuật ngữ “kinh tế tri thức”(knowledge 
economy) hay “kinh tế dựa trên tri thức”(knowledge based economy). 
Theo cách định nghĩa của tổ chức quốc tế về hợp tác và phát triển kinh tế 
(viết tắt là OECD): Kinh tế tri thức là một dạng hình kinh tế trong đó sự sản sinh, 
phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của 
nền kinh tế nhằm tạo ra của cải vật chất, nâng cao chất lượng cuộc sống con 
người. 
Cũng có thể định nghĩa đơn giản hơn: Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong 
đó khoa học, kĩ thuật và công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, là yếu tố 
hàng đầu quyết định việc sản xuất ra của cải, sức cạnh tranh và triển vọng phát 
triển. 
Như vậy trong nền kinh tế tri thức, vấn đề không chỉ ở việc tạo ra tri thức, 
mà phải thu nhận, sử dụng và truyền bá tri thức. Kinh tế tri thức không chỉ bao 
hàm duy nhất các lĩnh vực lao động với công nghệ cao, sử dụng lao động có tri 
thức và lao động có kĩ năng cao là chính, mà còn quá trình tri thức xâm nhập và 
chi phối tất cả mọi hoat động kinh tế. Nghĩa là không phải tất cả các ngành đều 
phải dựa trên nền tảng công nghệ kĩ thuật cao, song điều chắc chắn là tất cả các 
ngành đều hoạt động dưới sự chi phối của tri thức. Tóm lại, tri thức vừa là nội 
dung vừa lầ động lực của nền kinh tế. 
Có thể hình dung một cách cụ thể về nền kinh tế tri thức thông qua bảng so 
sánh sau: 
Stt 
Hình thái 
kinh tế Đặc 
trưng 
Hình thái thứ 
nhất 
(Kinh tế sức 
người) 
Hình thái thứ hai 
(Kinh tế tài 
nguyên) 
Hình thái thứ ba 
(Kinh tế thị 
trường) 
1 Định vị 
trong sơ đồ 
Kinh tế tự nhiên, 
tương đương với 
nền kinh tế nông 
nghiệp và xã hội 
nông dân cổ 
truyền. 
Hình thái thị trường, 
tương đương với 
nền kinh tế thị 
trường của đại công 
nghiệp cơ khí và Xã 
hội công nghiệp. 
Hình thái Cộng 
sản chủ nghĩa 
(CSCN), tương 
đương với nền 
kinh tế có tốc độ 
phát triển cao và 
xã hội tự do chân 
chính. 
2 Phương thức 
tồn tại 
Tự cấp tự túc, 
khép kín trong 
từng cộng đồng 
riêng biệt. 
Phân công lao động 
và trao đổi bị giới 
hạn bởi các biên 
giới địa phương, 
quốc gia. 
Phân công và 
trao đổi phổ biến 
thông qua mạng 
kiên kết toàn cầu 
không biên giới. 
3 Lợi thế phát 
triển chủ yếu 
Tài nguyên thiên 
nhiên 
Công cụ kĩ thuật Tri thức của con 
người (Khoa học 
– Công nghệ), kĩ 
năng lao động. 
4 Tầm quan 
trọng của 
khoa học 
Nhỏ Lớn Rất lớn 
5 Tỷ lệ đóng 
góp của khoa 
học - công 
nghệ cho 
Dưới 10% Trên 40 % Trên 70% 
tăng trưởng 
kinh tế 
6 Tầm quan 
trọng của 
giáo dục 
Nhỏ Lớn Rất lớn 
7 Bình quân 
trình độ văn 
hóa 
Tỷ lệ mù chữ cao Trung học Trung học 
chuyên nghiệp 
8 Kết cấu công 
nghệ: 
 - Công nghệ 
thông tin 
 3 -5% 15% 
 -Công nghệ 
sinh học 
 2% 10% 
 -Công nghệ 
năng lượng 
 2% 10% 
 -Công nghệ 
biển 
 2% 10% 
 - Công nghệ 
sạch 
 1% 5% 
 - Công nghệ 
vật liệu mới 
 1% 5% 
 - Công nghệ 
không gian 
 5% 
 Công nghệ 
mềm 
 5% 
9 Vai trò của 
truyền thống 
Không lớn Lớn Rất lớn 
10 Kết cấu sức 
lao động: 
 - Nông 
nghiệp 
Trên 50% 10 – 20% Dưới 10% 
 - Công 
nghiệp 
Khoảng 15 -20% Trên 30% Dưới 20% 
 - Công nghệ 
cao 
 10 -15% Trên 40% 
11 Trình độ tổ 
chức xã hội 
Đơn giản Phức tạp Rất phức tạp 
12 Mức độ toàn 
cầu hóa kinh 
tế thế giới 
Thấp Khá cao Rất cao 
2. Một số phạm trù trong kinh tế thị trường 
Mỗi một hình thái kinh tế mới ta đời đều có những phạm trù kinh tế riêng 
đặc trưng cho nó. Đối với nền kinh tế tri thức, chúng ta có thể tìm hiểu một số 
phạm trù sau đây. 
 Thông tin và tri thức: 
- Đây là hai nguồn lực chủ yếu của kinh tế tri thức. Vấn đề đặt ra là 
phải phân biệt hai phạm trù này vì như John Naribett nói: “ Chìm ngập trong 
thông tin mà vẫn thiếu tri thức”. 
+ Thông tin là dữ liệu được xếp thành trật tự có nghĩa, có thể thu nhận 
được, có thể dùng hoặc không. 
+ Tri thức là thông tin đã được thu thập, xử lí và nhận thức, là việc áp dụng 
và sử dụng một cách có ích các thông tin. 
Theo quan điểm triết học, tri thức được hiểu là kết quả của quá trình nhận 
thức, là phản ánh trung thực của thực tiễn vào tư duy con người, tính đúng đắn của 
nó thể hiện bằng sự kiểm nghiệm thực tế, đồng thời phù hợp với các nguyên lí của 
lí luận về nhận thức trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng. 
- Thông tin là nội dung của tri thức được truyền đạt nhưng khi tri thức 
được hệ thống hóa lại trở thành thông tin. Thông tin là đầu vào của quá trình sản 
xuất ra tri thức. 
 Sản phẩm tri thức: 
Tri thức là sản phẩm của lao động, là biểu hiện cụ thể về năng lực tư duy 
mà chỉ duy nhất loài người mới có. Sản phẩm tri thức có nhiều tính chất đặc biệt 
khác với vật thể thông thường: 
- Vì tri thức thuộc phạm trù tinh thần nên nó luôn được mang, chứa 
trong những hình thức hiện vật nhất định: bộ nhớ trong não, băng từ, đĩa... 
- Đối với sản phẩm thông thường, người mua có quyền sở hữu về nó, 
nghĩa là có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt. Còn đối với sản phẩm tri 
thức, người mua chỉ có quyền sở hữu vật mang nó và có quyền sử dụng đối với 
nội dung tri thức. Đặc tính này có nguồn gốc sâu xa ở chỗ chỉ duy nhất con người 
mới có khả năng tư duy. 
- Quá trình tiêu dùng sản phẩm tri thức dù là tiêu dùng sản xuất hay 
tiêu dùng cho cá nhân, nói chung đều mang tính chất cuả một quá trình nghiên 
cứu, học tập và trực tiếp hoàn thiện sản phẩm tri thức đó. Đôi khi người tiêu dùng 
còn phát hiện ra tính năng mà chính tác giả của nó không ngờ tới. 
- Việc sản xuất ra các loại sản phẩm tri thức thường tạo ra giá trị gia 
tăng rất lớn. Đây là một đặc điểm tạo nên ưu thế vượt trội của sản phẩm tri thức so 
với các sản phẩm thông thường khác. Chẳng hạn E. Sanchez và D. Mync sản xuất 
bộ phim “ Đồ án Blair Witch” bằng kĩ thuật số, phát hành trên internet, chỉ riêng 
trong nước Mĩ đã thu được 140 triệu USD, và chỉ với chi phí 500.000 USD, nghĩa 
là có tỷ suất lợi nhuận 280. Theo ước tính, trong ngành chế tạo thiết bị điện tử, tỷ 
suất giá trị gia tăng trên giá trị đầu vào là khoảng 300, còn trong ngành công nghệ 
phần mềm tỷ suất đó tiến tới vô hạn (!). 
Nền kinh tế tri thức được nuôi dưỡng bằng nguồn năng lượng vô tận và 
năng động là tri thức nên phát triển nhanh và khả năng bền vững rất cao. 
 Công nhân tri thức 
Phạm trù này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế tri thức, 
bởi đây là lực lượng trực tiếp tiếp thu tri thức, khoa học – công nghệ để tiến hành 
sản xuất theo phương thức hiện đại. Sự ra đời của công nhân tri thức là tất yếu 
khách quan cùng với sự ra đời của nền kinh tế tri thức đồng thời cũng là sự phủ 
định có kế thừa của giai cấp công nhân trong nền kĩ thuật - công nghệ hiện đại thế 
kỉ XX. Công nhân tri thức có nhiều điểm tiến bộ so với công nhân trước đó, biểu 
hiện: 
- Công nhân tri thức có sở hữu trí tuệ. Sở hữu này cho phép họ có thu 
nhập cao hơn công nhân công nghiệp bình thường khiến họ có tư hữu chứ không 
còn là vô sản nữa. 
- Công nhân tri thức làm chủ một nền kĩ thuật mà phần lớn các ngành 
kĩ thuật đều dựa vào các thành tựu mới nhất của khoa học. 
- Giai cấp công nhân có sự tăng tiến cả về mặt số lượng lẫn chất 
lượng. Trên cơ sở tri thức khoa học đang dần dần trở thành lực lượng sản xuất trực 
tiếp, số lượng công nhân có tri thức, có tay nghề cao ngày càng tăng. Đồng thời 
nền kinh tế tri thức mang đặc tính sáng tạo, thích hợp với bản chất của người công 
nhân, do đó sẽ kích thích họ không ngừng học hỏi, nghiên cứu nâng cao trình độ 
khoa học – kĩ thuật của mình. Như vậy, tri thức sẽ đóng vai trò động lực thúc đẩy 
sự phát triển chất lượng người công nhân. 
 Các ngành kinh tế tri thức 
Chúng ta đã đề cập nhiều đến kinh tế tri thức, vậy trong nền kinh tế hiện 
nay những ngành kinh tế nào thì được coi là ngành kinh tế tri thức? – Theo giáo 
sư, viện sĩ Đặng Hữu: Các ngành sản xuất và dịch vụ do công nghệ cao tạo ra như 
các dịch vụ khoa học và công nghệ, dịch vụ tin học, các ngành công nghiệp công 
nghệ cao... được gọi là ngành kinh tế tri thức. 
 Các tiêu chí cơ bản của một nền kinh tế tri thức 
- Về cơ cấu GDP: hơn 70% do các ngành sản xuất, dịch vụ và ứng 
dụng công nghệ cao. 
- Cơ cấu giá trị gia tăng: hơn 70% do lao động trí óc đem lại. 
- Cơ cấu lao động: hơn 70% công nhân tri thức. 
- Cơ cấu tư bản: hơn 70% là vốn con người. 
Ngoài ra còn có các tiêu chí khác, trong đó có tiêu trí về vai trò rất quan 
trọng của giáo dục và bình quân trình độ văn hóa là trung học chuyên nghiệp. 
 3. Đặc trưng cơ bản của kinh tế tri thức 
Là một hình thái kinh tế mới của xã hội loài người, kinh tế tri thức có nhiều 
đặc điểm cơ bản khác biệt so với các nền kinh tế trước đó. Những đặc điểm này 
còn đang được định hình và tiếp tục phát triển. Nhưng ta có thể thấy điều cốt yếu 
trong kinh tế tri thức đó là việc thu thập, sử dụng và truyền bá các thông tin tri 
thức. Dưới đây là một số đặc trưng của kinh tế tri thức: 
- Tri thức, đặc biệt là khoa học và công nghệ trở thành lực lượng sản 
xuất trực tiếp. Nhờ cuộc cách mạng khoa học -công nghệ hiện đại, hàng lọat các 
công nghệ cao đã được phát minh và ứng dụng ngay vào quá trình sản xuất tạo 
nên sự thay đổi rõ rệt cả về số lượng lẫn chất lượng. Các yếu tố vật chất của quá 
trình sản xuất cũng như giá trị của hàm lượng vật chất trong các sản phẩm ngày 
càng giảm để nhường chỗ cho các yếu tố tri thức. Chính vì vậy trình độ khoa học-
công nghệ và vốn con người trong cuộc đua tranh, cạnh tranh phát triển. 
- Sự chuyển đổi cơ cấu sản xuất sang các ngành kinh tế tri thức: Nền 
kinh tế nông nghiệp dựa trên sản xuất nông nghiệp, nền kinh tế công nghiệp thì 
công nghiệp và dịch vụ là chủ yếu, còn trong nền kinh tế tri thức, các ngành kinh 
tế tri thức sẽ chiếm vai trò thống trị, nhất là các dịch vụ trí tuệ (nghiên cứu khoa 
học, kĩ thuật, tư vấn thiết kế, y tế, tài chính, thông tin liên lạc....) sẽ trở thành họat 
động kinh tế chiếm phần chủ yếu với số người tham gia nhiều nhất. 
- Kinh tế tri thức là nền kinh tế mở cao, mang tính chất toàn cầu hóa. 
Với sự phát triển cao của CNTT, các tri thức mới, đặc biệt là thành tựu khoa học-
công nghệ được phổ biến và ứng dụng một cách nhanh chóng trên phạm vi toàn 
cầu. Hoạt động kinh tế và phân công lao động sẽ vượt ra khỏi biên giới các quốc 
gia và trở thành hoạt động mang tính toàn cầu. Nền kinh tế thế giới sẽ trở thành 
một mạng lưới gồm nhiều quan hệ đan xen giữa các nền kinh tế quỗc gia. Tuy 
nhiên, trong mạng kinh tế toàn cầu đó, vẫn tồn tại những mảng, vùng có trình độ 
phát triển còn kém xa những mảng, vùng khác. Việc tham gia vào mạng lưới này 
có thể giúp các quốc gia kém phát triển tạo được sự bứt phá nhưng đồng thời cũng 
đưa đến những rủi ro tụt hậu rất lớn, tùy thuộc vào khả năng của từng quốc gia. 
- Kinh tế tri thức là nền kinh tế năng động với tốc độ biến đổi cực kì 
cao. Nó thể hiện ở tốc độ sản sinh tri thức tăng theo cấp số nhân, ở tốc độ ứng 
dụng các phát minh khoa học vào quá trình sản xuất và ở sự biến đổi của giá cả 
trên thị trường. Điều này đòi hỏi các nền kinh tế, các doanh nghiệp không ngừng 
sáng tạo, đổi mới công nghệ sản xuất (sáng tạo và đổi mới là linh hồn của nền 
kinh tế), nâng cao trình độ quản lí, thực hiện chiến lược đi tắt đón đầu.... để bắt 
kịp với tốc độ phát triển chung. Những biến đổi trên cũng đồng thời kéo theo biến 
đổi về cấu trúc giai cấp-xã hội ở các quốc gia. 
- Kinh tế tri thức phải dựa trên cơ sở pháp luật rõ ràng, có hiệu lực và 
có đầy đủ thông tin. Cần tránh hiện tượng lừa đảo, chụp giật, gây nhiễu thông tin. 
Kinh nghiệm các nước chỉ rõ rằng CNTT cho phép kiểm soát rất có hiệu quả mọi 
giao dịch, giảm bớt tình trạng trốn lậu thuế. 
4. Tác động của xu thế phát triển kinh tế tri thức đến quan hệ kinh tế 
quốc tế 
Quá trình chuyển từ kinh tế công nghệ công nghiệp sang kinh tế tri thức có 
tác động mạnh đến quan hệ kinh tế quốc tế, từ phương thức hoạt động đến nội 
dung, cấu trúc các mối quan hệ đó. Có thể đưa ra một số tác động chủ yếu như 
sau: 
- Kinh tế tri thức đẩy nhanh quá trình toàn cầu hóa, làm cho nó trở 
thành xu thế bao trùm quan hệ quốc tế hiện đại. Do kinh tế tri thức chủ yếu dựa 
trên việc tạo ra và sử dụng tri thức vốn mang tính chất năng động, lan tỏa không 
biên giới, trước hết là khoa học-công nghệ nên lực lượng sản xuất thế giới và các 
hoạt động kinh tế của con người ngày càng được đa dạng hóa, đa phương hóa trên 
phạm vi toàn cầu. 
 Trên thực tế, không ít công trình nghiên cứu đã chỉ ra rằng toàn cầu hóa 
ngày nay là một xu thế khách quan và phổ biến, được thúc đẩy chủ yếu bởi những 
tiến bộ của khoa học và công nghệ. Hiện nay, mỗi ngày tổng giá trị các giao dịch 
tài chính quốc tế lên tới 3500 tỉ USD. Trên 50.000 công ty xuyên quốc gia với 
khoảng 300.000 công ty con nằm khắp các nước trên thế giới. Các công ty con 
cũng ra sức nắm bắt và ứng dụngnhững tiến bộ mới về khoa học và công nghệ để 
tăng sức cạnh tranh và mở rộng thị trường của mình. Trên phương diện vĩ mô, các 
nước đều tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế để tận dụng tối đa các cơ hội và hạn 
chế các bất lợi của quá trình toàn cầu hóa. 
- Quá trình phát triển kinh tế tri thức làm cho phân công lao động trở 
nên sâu sắc và rộng khắp toàn cầu. Cùng với quá trình chuyển từ kinh tế công 
nghiệp sang kinh tế tri thức, tri thức mà trước hết là khoa học và công nghệ sẽ 
phát triển nhanh chóng, làm cho phân công lao động quốc tế phát triển cả về chiều 
rộng lẫn chiều sâu. Bởi vì trong thời đại kinh tế này, khoa học-công nghệ và con 
người sẽ áp đảo các lợi thế về đất đai, tài nguyên.... Một xu thế khác là sự phân 
công chuyên sâu trong hợp tác quốc tế cũng được tăng cường theo hướng ngày 
càng có nhiều công ty đi chuyên sâu vào sản xuất một mặt hàng, một chi tiết cụ 
thể nào đó của một sản phẩm hoặc chỉ cung cấp một dịch vụ chuyên môn nhất 
định. 
- Phát triển kinh tế tri thức sẽ làm thay đổi sâu sắc cơ cấu kinh tế thế 
giới và cấu trúc của quan hệ kinh tế quốc tế. Trong những năm 60, cơ cấu sản 
phẩm thế giới với các ngành nông nghiệp – công nghiệp – dịch vụ có tỉ lệ là 
10,4%-28,4%-50,4% thì đến những năm 90, cơ cấu này đã có sự thay đổi mạnh 
mẽ với tỉ lệ 4,4%-21%-62,4%. Chiếm vị trí ngày càng quan trọng trong cơ cấu 
kinh tế thế giới là các ngành kinh tế dựa vào tri thức. Sự thay đổi trong cơ cấu của 
kinh tế các nước và kinh tế thế giới kéo theo sự biến đổi trong cấu trúc kinh tế 
quốc tế, thể hiện ở một số khía cạnh sau: 
 + Hàng hóa dịch vụ có hàm lượng trí tuệ cao ngày càng chiếm vị trí 
chủ chốt trong thương mại quốc tế. Năm 1990, trao đổi kinh tế và công nghiệp 
trao đổi khoa học và công nghệ giữa các nước đạt 110 tỉ USD, năm 1995 là 250 tỉ 
USD và 500 tỉ USD năm 2000. 
 + Thương mại điện tử là lĩnh vực phát triển nhanh nhất và sẽ đóng vai 
trò hàng đầu trong thương mại thế giới. Thực tế cho thấy, từ năm 1997 đến năm 
2002, thương mại điện tử đã phát triển với tốc độ ghê gớm từ 17 tỉ USD đến gần 
1000 tỉ USD. 
 + Tình trạng vừa cạnh tranh vừa hợp tác giữa các doanh nghiệp và tính 
năng động, linh hoạt trên phạm vi quốc tế của chúng ngày càng tăng. Để tồn tại và 
phát triển trong quá trình toàn cầu hóa, các công ty luôn tìm cách đổi mới công 
nghệ và nâng cao năng lực cạnh tranh. Hai xu hướng sáp nhập và chia nhỏ các 
công ty đang cùng diễn ra, tạo nên sự linh hoạt của nền kinh tế. 
 + Lợi thế so sánh của các quốc gia trong thương mại quốc tế thay đổi 
theo hướng giảm dần các lợi thế truyền thống như đất đai, tài nguyên, nhân công 
rẻ, vị trí địa lý... và tăng vai trò của các yếu tố tri thức. Trong điều kiện hiện tại, 
cấc nước phát sẽ có lợi thế hơn các nước đang phát triển vì trình độ khoa học công 
nghệ của họ nhìn chung là phát triển hơn, lại nắm giữ hầu hết các nguồn vốn và 
có đội ngũ công nhân tri thức đông đảo. Tuy nhiên, quá trình này cũng mở ra 
nhiều cơ hội để các nước đang phát triển có thể tận dụng “đi tắt, đón đầu” trên con 
đường phát triển kinh tế và thu hẹp khoảng cách so với các nước đi trước. 
- Đặc tính tăng trưởng bền vững của nền kinh tế thị trường sẽ tạo nên 
sự biến đổi lớn về chất trong quan hệ kinh tế quốc tế. Kinh tế quốc tế sẽ phát 
triển một cách ổn định, nguy cơ về khủng hoảng sẽ không còn là một bóng đen 
bao trùm lên quan hệ kinh tế quốc tế nữa. 
 Dưới tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiện 
đại, xu hướng chuyển sang kinh tế thị trường đã và đang là một thực tế và ngày 
càng được khẳng định trước hết là trong các nước phát triển và các nước công 
nghiệp. Khi kinh tế thị trường được khẳng định một cách mạnh mẽ và vững chắc, 
nhất định nó sẽ kéo theo sự biến chuyển về mặt xã hội, dẫn tới sự thay đổi phương 
thức sản xuất. Vì lẽ đó có nhiều nhà khoa học cho rằng kinh tế tri thức đang được 
hình thành một cách tất yếu, khách quan trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Khi kinh 
tế tri thức phát triển lan rộng sẽ làm sâu sắc thêm những mâu thuẫn cơ bản của 
chủ nghĩa tư bản, mặt khác sẽ tạo ra tiền đề vật chất to lớn cho một xã hội cao hơn 
xã hội tư bản chủ nghĩa. 
III- Việt Nam với xu thế hình thành và phát triển nền kinh tế tri thức 
1. Kinh tế tri thức là một tất yếu khách quan đối với các nước đang 
phát triển, trong đó có Việt Nam 
Với những biểu hịên thay đổi như hiện nay của nền kinh tế thế giới, chúng 
ta có thể thấy kinh tế tri thức đang dần trở thành xu thế phổ biến trên toàn cầu. ở 
những nền kinh tế lớn trên thế giới, các ngành kinh tế tri thức chiếm tỉ lệ ngày 
càng cao trong cơ cấu GDP. Tỉ lệ này là 57,3% ở Xin-ga-po, 55,3% ở Mĩ, 53% ở 
Nhật Bản, 51% ở Canađa và 48% ở Ô-xtrây-lia. Và một điều tất yếu là kinh tế tri 
thức phát triển sẽ cuốn vào vòng xoáy của nó tất cả các nước đang phát triển và 
kém phát triển. Do kinh tế tri thức có tốc độ biến đổi cực kì cao, thuộc tính tốc độ 
biến đổi nói lên rằng khả năng bắt kịp các nước cũng như khả năng tụt hậu sẽ lớn. 
Kinh tế tri thức có thể là chiếc chìa khóa vàng cho các nước nghèo, chậm phát mở 
lối đi tắt, đón đầu, vươn lên bằng trí tuệ của mình. Việc gia nhập vào mạng toàn 
cầu hàm chứa khả năng phải chịu “rủi ro”. Trình độ phát triển càng cách xa tiến độ 
phát triển chung của mạng thì độ “rủi ro” càng lớn. Song kinh nghiệm cho thấy 
rằng, trong khi những “rủi ro” khi tham gia vào mạng là tiềm ẩn thì những “rủi ro” 
do không tham gia vào mạng là chắc chắn và lớn hơn bất kì “rủi ro” nào khi tham 
gia vào mạng. 
Tuy nhiên, đối với các nước chậm phát triển, rất nhiều vấn đề còn tồn tại 
hạn chế khả năng chuyển sang kinh tế tri thức. Những tồn tại đó là: lực lượng lao 
động ít tri thức, thiếu kĩ năng chiếm tuyệt đại đa số làm cho bước quá độ diễn ra 
chậm; nguồn lực tài chính khan hiếm; tiềm lực khoa học và công nghệ(tri thức) 
yếu và thấp kém.... Những yếu tố này tự nó chứa đựng năng lực “nhập mạng” yếu, 
cản trở khả năng tiếp cận với các cơ hội phát triển. 
2. Thực trạng nền kinh tế nước ta và định hướng của Việt Nam 
Nền kinh tế Việt Nam vốn đi lên từ một xuất phất điểm thấp: một nền nông 
nghiệp lạc hậu, công nghiệp hầu như không có gì, đất nước sau chiến tranh bị tàn 
phá nặng nề... Trải qua chế độ quan liêu bao cấp, nền kinh tế đó càng thêm lạc 
hậu, què quặt. Năm1986, Đảng và Nhà nước ta quyết định tiến hành đổi mới trên 
tất cả các lĩnh vực. Sau 15 năm đổi mới, chúng ta cũng đạt được một số thành tựu 
quan trọng. Kinh tế tăng trưởng khá, tổng sản phẩm trong nước năm 2000 tăng 
gấp đôi so với năm 1990. Nềnkinh tế từ trạng thái khan hiếm nghiêm trọng, nay đã 
đáp ứng được nhu cầu thiết yếu của nhân dân; từ cơ chế tập trung, quan liêu bao 
cấp chuyển sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; từ chỗ nền kinh 
tế chỉ có hai thành phần cơ bản là kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể đã chuyển 
sang nền kinh tế nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. 
Đời sống nhân dân được cải thiện. Đặc biệt đã vượt qua được cuộc khủng hoảng 
kinh tế- tài chính ở một số nước châu á. Tuy vậy nền kinh tế còn tồn tại nhiều hạn 
chế: Kinh tế phát triển nhưng chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh còn 
thấp. Mức tăng trưởng kinh tế hàng nămđạt tới gần 7% nhưng GDP bình quân tính 
theo đầu người chỉ bằng 1/12 bình quân thế giới. Cơ cấu kinh chậm chuyển dịch, 
nặng về nông nghiệp. Lao động nông thôn dồi dào, cần cù nhưng vẫn thiếu việc 
làm. Sản phẩm làm ra chất lượng thấp, giá thành cao... Bên cạnh đó giáo dục chưa 
phát triển. Khoa học công nghệ còn nhiều yếu kém. Việc phân bổ, sử dụng đội 
ngũ cán bộ khoa học hiện nay còn nhiều điều bất hợp lí. Chất lượng đào tạo còn 
thấp, trình độ chưa cập nhật được tri thức hiện đại, bị hông nhiều về hiểu biết công 
nghệ, quản lí kinh doanh, tiếp thị, ngoại ngữ... 
Dân tộc ta kiên cường bất khuất, tất nhiên sẽ không chịu lùi bước trước 
khó khăn nào. Tttrong báo cáo chính trị tại đại hội lần thứ IX, Đảng ta đã khẳng 
định: “Con đường công nghiệp hóa- hiện đại hóa của nước ta cần và có thể rút 
ngắn thời gian so với các nước đi trước, vừâ có bước tuần tự, vừa có bước nhảy 
vọt. Phát huy mọi lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ 
công nghệ tiên tiến. Đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh 
thủ ứng dụng ngày càng nhiều, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu 
khoa học công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức”. Đây cũng chính là định 
hướng cho nền kinh tế Việt Nam. Chúng ta có thể đi theo con đường “rút ngắn”, 
dựa vào khoa học công nghệ để thực hiện Công nghiệp hóa- Hiện hóa đất nước. 
Và khi hoàn thành sự nghiệp đó chúng ta cũng đồng thời chuyển nền công nghiệp 
đó sang nền kinh tế tri thức. Thực tế, cách thức rút ngắn này cũng đã được nhiều 
nước trên thế giới áp dụng thành công như Nam Triều Tiên, Singapo... công 
nghiệp hóa đất nước trong vòng 30 năm, Ailen từ một nước nông nghiệp những 
năm 60, ngày nay đàng hoàng sánh vai cùng các nước tiên tiến. Chúng ta có thể và 
nhất định sẽ thực hiện được điều đó, như tổng bí thư Lê Khả Phiêu đã nói: “Nhân 
dân Việt Nam đã biết cầm đũa thì biết vót chông, đã biết vót chông thì mười ngón 
tay ấy sẽ biết học tập, sử dụng máy vi tính, đi vào công nghệ thông tin, cánh cửa 
của tri thức.” Tất nhiên đó không phải là một con đường bằng phẳng mà sẽ vô 
cùng chông gai, vất vả đối với Việt Nam. 
3. Những giải pháp đưa ra cho Việt Nam tiến vào nền kinh tế tri thức 
a. Khái quát chung 
Kinh tế tri thức là một tất yếu khách quan, đang diễn ra ráo riết, dù những 
nước nghèo nhất cũng đang phải đương đầu với thách thức của nền kinh tế đang 
được tri thức hóa, toàn cầu hóa. Vấn đề là chúng ta bước vào nền kinh tế tri thức 
như thế nào? 
Sau nhiều cuộc hội thảo, tranh luận khoa học, một hướng đi cơ bản đã 
được vạch ra cho nền kinh tế Việt Nam. Con đường phát triển kinh tế tri thức 
trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế nước ta cần 
thiết phải phát triển theo mô hình “hai tốc độ song hành” (qui trình kép). Cùng 
với việc chăm lo phát triển nông nghiệp và khả năng cạnh tranh của các ngành 
công nghiệp cơ bản và then chốt nhằm ổn định, từng bước cải thiện đời sống 
nhân dân, chúng ta phải đồng thời đẩy nhanh tốc độ phát triển các ngành kinh tế 
dựa vào tri thức, công nghệ cao để tăng tốc quá trình hiện đại hóa, không ngừng 
nâng cao vị thế độc lập tự chủ và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nhằm giữ 
vững thế chủ động, hội nhập kinh tế thế giới. Để thực hiện nhiệm vụ đó, chúng ta 
cần phải thực hiện một số nhiệm vụ sau: 
 -Tiến hành song song việc phát triển cơ chế thị trường và mở cửa hội 
nhập.Thực tế cho thấy cơ chế thị trường là cơ chế phân phối nguồn lực tối ưu và 
trong cơ chế này, cạnh tranh đóng vai trò động lực phát triển. Đối với nước ta 
hiện nay cần đẩy nhanh quá trình cải cách thị trường, đẩy mạnh khu vực doanh 
nghiệp nhà nước, khuyến khích khu vực tư nhân phát triển thông qua các chính 
sách thị trường.Đối với vấn đề mở cửa hội nhập, cần quán triệt đây là cơ hội để 
phát triển. Không đẩy mạnh mở cửa, hội nhập sẽ không thể phát huy tính năng 
động, tích cực của nền kinh tế, không có những cơ hội để tiếp cận với những tiến 
bộ về khoa học công nghệ hiện đại, thương mại hóa quốc tế bị hạn chế.... 
 - Đầu tư đẩy mạnh việc chăm lo phát triển toàn diện nguồn nhân lực, then 
chốt là công tác giáo dục và đào tạo theo hướng hiện đại, tạo lập một xã hội học 
tập và cá nhân học tập suốt đời nhằm không ngừng nâng cao dân trí, đào tạo và 
bồi dưỡng nhân tài. Bởi vì con đường ngắn nhất đến với tri thức là giáo dục và 
đào tạo. Coi giáo dục- đào tạo là quốc sách hàng đầu, nâng cao tỷ lệ đầu tư cho 
giáo dục đồng thời phải tiến hành cải cách hệ thống giáo dục nhằm nâng cao chất 
lượng nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Nhanh chóng 
hoàn thành việc phổ cập giáo dục phổ thông cơ sở trên toàn quốc; đào tạo đội ngũ 
cán bộ khoa học kĩ thuật có trình độ cao, tạo lập đội ngũ công nhân kĩ thuật lành 
nghề. Không ngừng mở rộng hợp tác giáo dục- đào tạo và khoa học công nghệ với 
các nước khác. Đây là một việc rất quan trọng. 
- Tích cực xây dựng một nền khoa học- công nghệ tiên tiến trên cơ sở 
tiếp thu, ứng dụng các thành tựu phát triển cao đã có trên thế giới, đồng thời tăng 
cường năng lực nội sinh nước nhà. Phát triển khoa học công nghệ cần chú trọng 
các ngành thông tin, sinh học, năng lượng, vật liệu mới.... Nước ta là nước đi sau 
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vì vậy có thể tận dụng những thành 
tựu thế giới đã đạt được, nhưng đó phải là sự vận dụng sáng tạo, tìm cách đi tắt, 
đón đầu, nhanh chóng rút ngắn khoảng cách với các nước khác. Bên cạnh đó, thực 
hiện tốt những chính sách về phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng nhân tài, đối đãi thỏa 
đáng với đội ngũ cán bộ, chuyên gia khoa học, tránh hiện tượng chảy máu chất 
xám; hoạch định chế độ theo hướng khuyến khích các đơn vị, doanh nghiệp ứng 
dụng khoa học- công nghệ đặc biệt là công nghệ cao. Cùng vơí đó, phải đẩy mạnh 
xây dựng cơ sở hạ tầng nhằm ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin; tăng 
cường xây dựng và phát triển nhanh công nghệ cao nhằm tăng hàm lượng tri thức 
trong tổng thể nền kinh tế quốc dân. 
- Xây dựng hành lang pháp lí hiện đại, phù hợp, đủ mạnh và hiệu quả 
trong việc phát triển nền kinh tế tri thức theo định hướng XHCN. Đây là vấn đề 
rất cấp bách. Chỉ có trên cơ sở một cơ chế vận hành hiệu quả và hệ chính sách phù 
hợp, nghĩa là một hành lang pháp lí tương ứng với nền kinh tế tri thức định hướng 
XHCN, chúng ta mới có điều kiện đảm bảo thật sự giải phóng mọi lực lượng sản 
xuất trong xã hội, phát huy tiềm năng sáng tạo của mỗi người, mỗi thành phần 
kinh tế nhằm phát triển sản xuất, tiến tới chăm lo, phát triển toàn diện đời sống 
của các tầng lớp nhân dân lao động, xây dựng một xã hội học tập lành mạnh. Điển 
hình như việc ban hành luật khoa học và công nghệ. Luật có qui định điều chỉnh 
phù hợp, nhằm tạo lập môi trường pháp lí thuận lợi, bình đẳng và các thiết chế dân 
chủ khác để phát huy tối đa sức sáng tạo của các nhà khoa học và công nghệ, các 
tập thể khoa học- công nghệ và của toàn dân. Đây sẽ là luồng sinh khí mới làm 
cho các hoạt động về khoa học- công nghệ phát triển nhanh, rộng, phục vụ kịp 
thời các mục tiêu kinh tế xã hội. 
b. ý kiến đề xuất của bản thân 
Trong thời đại ngày nay, nền kinh tế thế giới đang diễn ra nhiều đổi thay 
mạnh mẽ, đặc biệt là xu thế hình thành và phổ biến rộng khắp của nền kinh tế tri 
thức. Đứng trước bối cảnh đó, mỗi người dân Việt Nam cần phải tích cực tìm hiểu 
về nền kinh tế tri thức, về vị thế của Việt Nam trong nền kinh tế đó như thế nào, từ 
đó tìm ra giải pháp góp phần đưa đất nước đi lên. Bản thân em cũng rất quan tâm 
đến vấn đề “Kinh tế tri thức”. Trong phạm vi đề án này em xin đưa ra một số ý 
kiến: 
- Trước hết, cần phải đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục cho mọi người 
dân những kiến thức về kinh tế tri thức như: khái niệm, bản chất, đặc trưng,... 
Phần lớn người dân Việt Nam vẫn còn rất xa lạ với thuật ngữ mới này. Tiếp đó 
nâng cao ý thức tự giác trong toàn xã hội vào nền kinh tế tri thức. Đối với học 
sinh, sinh viên không ngừng tiếp thu những hiểu biết về khoa học- công nghệ, 
nâng cao trình độ ngoại ngữ, tăng khả năng hội nhập trong hoàn cảnh mới. Đối 
với các nhà sản xuất kinh doanh không ngừng cải tiến công cụ, qui trình sản xuất 
bằng cách áp dụng khoa học công nghệ tiến bộ.... Với sự ý thức như vậy của từng 
cá nhân, dần dần sẽ đưa đất nước tiến vào kinh tế tri thức. 
- Giáo dục đào tạo phải gắn liền với thực tiễn. Thực tế hiện nay ở 
nước ta công tác giáo dục đào tạo còn nhiều bất cập, cần phải khắc phục. Việc đào 
tạo quá nhiều cử nhân đã gây ra tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ”, công nhân có tay 
nghề kĩ thuật cao còn rất ít, ảnh hưởng rất lớn đến việc sản xuất ra những mặt 
hàng có chất lượng cao. Bên cạnh đó, trong khi một số ngành đào tạo quá nhiều, 
một số khác lại đào tạo quá ít so với nhu cầu của các doanh nghiệp, công ty.... Vì 
vậy không ít sinh viên ra trường phải làm trái nghề, không thể áp dụng các kiến 
thức đã được học vào công việc. Như vậy trong quá trình giảng dạy và học tập, 
yêu cầu đặt ra đối với các giáo viên và học sinh, sinh viên là phải luôn cập nhật 
thông tin, phải liên hệ tri thức với thực tiễn, đáp ứng nhu cầu của thực tiễn. 
- Trong quá trình giáo dục và đào tạo, cần tạo ra các động lực kích 
thích học sinh, sinh viên hăng say học tập. Ví dụ như chính sách về việc làm. Theo 
thống kê năm 2001, từ 38 trường đại học, chỉ có 67% số sinh viên ra trường tìm 
được việc làm ổn định; 62% trong số này được tuyển dụng làm nghiên cứu viên 
mới, và chỉ có 4% trí thức trẻ trong số này được đào tạo tiếp. Một bộ phận trí thức 
trẻ vẫn đứng ngoài cuộc. Vì vậy chính sách này sẽ có tác động tích cực đến mục 
đích, động cơ học tập của học sinh, sinh viên. Bên cạnh đó, việc khen thưởng kịp 
thời và thích đáng cũng tạo động lực tốt để trí thức trẻ thể hiện, phát huy hết năng 
lực của mình. 
- Tổ chức rộng rãi các cuộc thi tìm hiểu về tri thức khoa học, đặc biệt 
là khoa học tự nhiên, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng: đài, báo, 
Internet... Qua đó tạo cho mọi người thói quen tìm hiểu và cập nhật thông tin, tri 
thức. 
 Kết luận 
 Đất nước đã bước sang thế kỉ XXI- Thế kỉ của những thành tựu kì diệu 
của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, thế kỉ của nền kinh tế tri 
thức. Trước mắt chúng ta là rất nhiều cơ hội và thách thức. Liệu chúng ta có tận 
dụng được các cơ hội đó để đưa đất nước không những đuổi kịp mà còn vượt lên 
hàng đầu trong cuộc chạy ma-ra-tông với các cường quốc kinh tế trên thế giới hay 
không? Đó là một câu hỏi lớn mà cả dân tộc phải đưa ra lời giải đáp. Nó bắt đầu 
từ sự cố gắng nỗ lực của mỗi cá nhân. Điều đó đòi hỏi mỗi người phải dày công 
nghiên cứu, tìm tòi nắm vững kiến thức khoa học hiện đại, rèn luyện kỹ năng thực 
hành và vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh đất nước và con người Việt Nam, trở 
thành những tài năng trẻ ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Vận mệnh dân 
tộc phụ thuộc vào sự cố gắng nỗ lực đó của mỗi cá nhân. 
Việt Nam đang dần có những biến chuyển tích cực trên tất cả các lĩnh vực 
của đời sống xã hội, đặc biệt là trong kinh tế. Trong khi kinh tế thế giới có nhiều 
bất ổn, nhiều nền kinh tế lớn có biểu hiện suy thoái thì nước ta lại giữ vững được 
mức tăng trưởng khá cao 7%. Cả nước đang hăng hái thi đua, quyết tâm hoàn 
thành tốt các mục tiêu mà Đảng và nhà nước đề ra, nhằm mục tiêu hoàn thành 
Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa đưa đất nước tiến vào kinh tế tri thức, thu hẹp dần 
khoảng cách với các nước phát triển trong quá trình toàn cầu hóa. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 LUẬN VĂN- Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại – Yếu tố tiền đề chủ yếu của kinh tế tri thức.pdf LUẬN VĂN- Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại – Yếu tố tiền đề chủ yếu của kinh tế tri thức.pdf