Một đặc điểm của hoạt động kinh doanh bảo hiểm khác với các hoạt động kinh
doanh khác là sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm của "chu trình kinh doanh đảo
ngược", tức người bảo hiểm sẽ thu phí bảo hiểm trước và thực hiện nghĩa vụ sau với
bên được bảo hiểm khi xảy ra sự cố bảo hiểm. Do đó, người bảo hiểm sẽ nắm giữ
một phần lớn số phí thu được tạm thời nhàn rỗi trong khoảng thời gian nhất định.
65 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2054 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đa dạng trong các gói bảo hiểm duy trì và đảm bảo an tòan cho kinh doanh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thu được của nghiệp
vụ bảo hiểm này so với các nghiệp vụ bảo hiểm khác còn rất khiêm tốn. Chúng ta
có thể thấy rõ thực trạng đó qua
Qua bảng trên, ta thấy số hợp đồng kí kết cũng như doanh thu phí từ nghiệp vụ này
quả là quá khiêm tốn. Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng kết quả đó cũng đưa ra
một dấu hiệu khả quan cho thấy đây là một nghiệp vụ tiềm năng phát triển trên thị
trường Việt Nam. Nếu như năm 1998, Bảo Việt Hà Nội mới chỉ nhận bảo hiểm cho
30 đơn vị thì đến năm 2001 số đơn vị tham gia bảo hiểm đã tăng lên hơn gấp đôi so
với con số đó, lên tới 76 đơn vị. Bên cạnh đó, số phí thu được cũng tăng từ 399 triệu
năm 1998 lên 895 triệu năm 2001 và số tiền bảo hiểm tăng từ 266 tỷ đồng năm
1998 đến năm 2001 là 597 tỷ đồng. Nguyên nhân của sự tăng này là do số lượng
các nhà đầu tư vốn vào Việt Nam ngày càng tăng, các nhà đầu tư đã quá quen với
tập quán tham gia bảo hiểm nên khi vào Việt Nam tiến hành hoạt động kinh doanh
họ rất mong muốn được bảo hiểm cho rủi ro gián đoạn kinh doanh khi chẳng may
tổn thất xảy ra, do đó trong khi tham gia bảo hiểm cháy họ đã yêu cầu Bảo Việt Hà
Nội bán kèm cho họ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy. Cũng phải nói rằng
con số tăng lên đó phụ thuộc chủ yếu vào nguyên nhân từ phía bên ngoài, còn thực
36
tế Bảo Việt Hà Nội cũng không hề chú ý đến công tác khai thác nghiệp vụ này lắm.
Chính vì vậy, Bảo Việt Hà Nội đã để ngỏ hoàn toàn thị trường các doanh nghiệp
trong nước. Sau khoảng chục năm triển khai nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh
doanh sau cháy, số lượng hợp đồng khai thác được từ các doanh nghiệp trong nước
quá ư là ít ỏi. Năm 2000 có thể coi là năm đỉnh điểm về doanh thu phí từ các hợp
đồng kí với các doanh nghiệp trong nước, nhưng con số đó chỉ dừng ở 38 triệu
đồng, một con số không có ý nghĩa gì đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm tại
một công ty bảo hiểm lớn như Bảo Việt Hà Nội.
Vậy tại sao tại các nước phát triển, người dân lại có thói quen mua bảo hiểm gián
đoạn kinh doanh và doanh thu của hoạt động này lại chiếm tỉ lệ cao trong hoạt
động kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài? Đơn cử
như "tại công ty bảo hiểm Berkshire Hathaway (Mỹ), tỉ trọng của bảo hiểm gián
đoạn kinh doanh chiếm tới hơn 9% trong số các nghiệp vụ bảo hiểm triển khai" [5,
65], tương đương với tỉ trọng của những nghiệp vụ bảo hiểm có doanh thu lớn nhất
tại Bảo Việt Hà Nội hiện nay như bảo hiểm xây dựng và lắp đặt, bảo hiểm hoả
hoạn. Sở dĩ một nghiệp vụ bảo hiểm rất được coi trọng và có doanh thu cao ở các
quốc gia phát triển như nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy lại gặp
khó khăn tại thị trường bảo hiểm Việt Nam như vậy là do nhiều nguyên nhân, trong
đó có cả nguyên nhân chủ quan lẫn nguyên nhân khách quan.
Về phía nguyên nhân khách quan thì chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng bảo hiểm nói
chung là một ngành rất mới tại Việt Nam so với những ngành tài chính khác. Người
dân Việt Nam hầu hết đều chưa hiểu về bảo hiểm và chưa nhận thức rõ tầm quan
37
trọng của việc tham gia bảo hiểm, vì vậy việc khai thác bảo hiểm gián đoạn kinh
doanh lại càng khó khăn hơn do đặc điểm của nó là phụ thuộc vào loại bảo hiểm
khác, cụ thể ở đây là bảo hiểm hoả hoạn. Thêm vào đó, tài liệu hướng dẫn tham
khảo về hoạt động bảo hiểm này hầu như không có tại Việt Nam, nếu có thì may ra
là những tài liệu nước ngoài chưa được dịch ra, vì vậy ngay cả những cán bộ bảo
hiểm lâu năm trong ngành bảo hiểm nước nhà cũng cảm thấy lúng túng khi phải tiếp
xúc với nghiệp vụ này. Vì vậy, việc triển khai nghiệp vụ này tại Bảo Việt Hà Nội
chủ yếu dựa trên kinh nghiệm triển khai các nghiệp vụ bảo hiểm truyền thống khác,
do đó chắc chắn không thể tránh được những khó khăn nhất định trong quá trình
thực hiện hoạt động kinh doanh sao cho có hiệu quả vì bảo hiểm gián đoạn kinh
doanh mang những đặc điểm riêng mà các nghiệp vụ bảo hiểm truyền thống không
hề có.
Về phía nguyên nhân chủ quan, trước hết phải kể đến nguyên nhân về trình độ hạn
chế của nhiều cán bộ công nhân viên trong ngành bảo hiểm, đặc biệt là cán bộ khai
thác hầu hết đều không được qua đào tạo một cách có bài bản về bảo hiểm và làm
việc dựa trên kinh nghiệm là chính, đã dẫn đến tình trạng giải thích sai các điều
khoản bảo hiểm cho khách hàng. Điều đó tất yếu gây ra những khó khăn không thể
lường trước trong việc thực hiện bất cứ một khâu tiếp theo nào của hoạt động bảo
hiểm khi chẳng may tổn thất xảy ra, dẫn đến việc làm mất lòng tin của khách hàng
đối với công ty bảo hiểm, tạo cảm giác "bị lừa" đối với người tham gia bảo hiểm.
Như vậy, chính những người cán bộ bảo hiểm đã là những người tạo ra ấn tượng
đầu tiên cho những con người còn chưa hiểu biết gì về bảo hiểm rằng người bảo
38
hiểm là "kẻ lừa đảo". Hơn nữa, nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh nói chung
và nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy nói riêng là nghiệp vụ mang
tính trừu tượng cao, khó triển khai vì mắc phải nhiều khó khăn trong công tác tính
số tiền bảo hiểm, số tiền bồi thường,... Tại Việt Nam, nghiệp vụ bảo hiểm này
không được coi ngang hàng với nghiệp vụ bảo hiểm tài sản, nên chưa có sự tuyên
truyền hay quảng cáo gì hết, nhân viên bảo hiểm cũng không chủ động tiếp cận
khách hàng để giới thiệu sản phẩm,... Nói cách khác, hầu như khâu khai thác của
nghiệp vụ bảo hiểm này không hề hoạt động. Vì thế làm cho bảo hiểm gián đoạn
kinh doanh sau cháy trở nên quá xa lạ đối với các chủ thể kinh doanh trong nền kinh
tế. Phần lớn các doanh nghiệp chưa có hiểu biết gì về loại hình nghiệp vụ này, do
vậy họ không tham gia. Đa số các đơn cấp được là do các doanh nghiệp có yếu tố
nước ngoài, những doanh nghiệp này đã có thói quen sử dụng dịch vụ bảo hiểm này
tại nước họ, tự yêu cầu mua thêm bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau khi đã mua
bảo hiểm cháy.
Tuy vậy, dù vấp phải những khó khăn như vừa đề cập, qua số liệu trên chúng ta
cũng không thể phủ nhận được rằng qua các năm triển khai, bảo hiểm gián đoạn
kinh doanh cũng có sự tăng trưởng về số đơn vị tham gia và doanh thu phí. Điều đó
thể hiện rằng bảo hiểm gián đoạn kinh doanh đang dần thu hút được nhiều khách
hàng hơn. Đó mới là những con số bước đầu và chắc chắn đây là một nghiệp vụ
giàu tiềm năng cho công ty khai thác trong tương lai. Hơn thế nữa, vì nghiệp vụ bảo
hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy còn chưa được chú trọng tại thị trường bảo
hiểm Việt Nam, nhiều công ty bảo hiểm trong nước không chú ý đến loại bảo hiểm
39
này nên Bảo Việt Hà Nội cũng có được thuận lợi về yếu tố cạnh tranh khi triển khai
nghiệp vụ. Thêm vào đó, như đã đề cập ở trên, hầu hết các hợp đồng kí được là do
khách hàng tự tìm đến, yêu cầu bảo hiểm hoặc thông qua môi giới, điều đó chứng tỏ
Bảo Việt Hà Nội là công ty có uy tín lớn trên thị trường bảo hiểm hiện nay, đồng
thời cũng có những chính sách hợp lý đối với các tổ chức trung gian.
2.3.2. Công tác đề phòng và hạn chế tổn thất
Mục đích của bảo hiểm không chỉ dừng lại ở việc bồi thường, ổn định tài chính cho
người tham gia bảo hiểm mà còn nhằm hạn chế các thiệt hại cũng như hậu quả của
chúng. Công tác đề phòng hạn chế tổn thất không những giúp cho công ty bảo hiểm
tránh khỏi những vụ bồi thường cho các tổn thất gây ra bởi những rủi ro có thể hạn
chế được xác suất xảy ra mà còn là một phương cách hữu hiệu để người dân biết
đến bảo hiểm.
Tại Bảo Việt Hà Nội, trên cơ sở số phí thu được hàng năm, công ty tiến hành trích
mức chi đề phòng hạn chế tổn thất. Khoản chi này sẽ được chi vào các mục đích
như tuyên truyền, hỗ trợ kinh phí, hội nghị khách hàng,... Do bảo hiểm gián đoạn
kinh doanh sau cháy chỉ được coi là nghiệp vụ mở rộng phạm vi bảo hiểm của bảo
hiểm cháy, tổn thất chỉ xảy ra khi có rủi ro cháy xảy ra, vì vậy số chi cho công tác
đề phòng và hạn chế tổn thất được tính bổ sung cho số chi đề phòng hạn chế tổn
thất của nghiệp vụ bảo hiểm cháy. Tuy nhiên, số chi này vẫn được bóc tách ra vào
cuối mỗi kỳ nhằm phục vụ cho công tác đánh giá kết quả kinh doanh của từng
nghiệp vụ.
40
Như vậy, hàng năm Bảo Việt Hà Nội đã chi ra một khoản tiền nhất định cho công
tác đề phòng và hạn chế tổn thất. Trong các khoản chi đề phòng hạn chế tổn thất thì
khoản chi hỗ trợ kinh phí là khoản chi lớn nhất, chiếm khoảng 60% trong tổng chi.
Khoản chi này gồm chi mua các phương tiện cần thiết tối thiểu như bình chữa cháy,
còi báo động và chi cho công tác luyện tập của đội chữa cháy bán chuyên nghiệp
của cơ quan và doanh nghiệp, chi thiết lập các biển báo cấm lửa,... Điều đó cho thấy
công ty đã rất quan tâm đến việc phối hợp cùng các doanh nghiệp trong công tác
phòng cháy chữa cháy, không những hướng dẫn cho họ cách phòng cháy, chỉ cho
họ những nơi có độ rủi ro cao mà công ty còn hỗ trợ kinh phí cho các doanh nghiệp
để công tác phòng cháy được tiến hành tốt hơn nhằm hạn chế tới mức tối thiểu các
rủi ro có thể xảy ra ảnh hưởng tới công việc kinh doanh.
Một khoản chi khác cũng chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng chi đề phòng hạn chế
tổn thất là chi tuyên truyền, quảng cáo. Việc chi tuyên truyền đề phòng, hạn chế tổn
thất cho bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy trong từng kỳ được tính bằng cách
tách chi phí tuyên truyền theo tỉ lệ chi tuyên truyền cho bảo hiểm cháy và gián đoạn
kinh doanh sau cháy. Sở dĩ có cách tính như vậy vì khi tuyên truyền, quảng cáo,
Bảo Việt không bao giờ tách riêng việc tuyên truyền, quảng cáo cho bảo hiểm gián
đoạn kinh doanh sau cháy ra khỏi bảo hiểm cháy do thực chất thì hai nghiệp vụ bảo
hiểm này có cùng rủi ro được bảo hiểm. Trong thời gian khoảng hai năm trở lại đây,
chúng ta cũng nhận thấy rằng thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, Bảo
Việt Hà Nội nói riêng và Tổng công ty bảo hiểm nói chung đã có nhiều chương
trình đề cập tới những tổn thất mang tính hậu quả có thể phát sinh trong cuộc sống
41
thường ngày nếu con người không biết tự bảo vệ lấy chính mình bằng những hành
động cụ thể nhằm ngăn chặn rủi ro có thể xảy ra. Ngoài ra, hàng năm công ty vẫn
cùng các công ty bảo hiểm khác như Vinare, Muniche,... hoặc cùng các công ty bảo
hiểm trong Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam đồng tổ chức các hội nghị, thông qua
đó tiến hành tìm hiểu, phân tích, đánh giá và rút ra kinh nghiệm từ thực tiễn để đề ra
các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất có hiệu quả nhất.
Tóm lại, rõ ràng công ty có chú trọng tới công tác đề phòng và hạn chế tổn thất đối
với nghiệp vụ bảo hiểm cháy cũng như bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy.
Theo tỷ lệ chi đề phòng, hạn chế tổn thất tối đa tính trên phí bảo hiểm giữ lại của
từng nghiệp vụ bảo hiểm ban hành kèm theo thông tư số 71/2001/TT-BTC ngày
28/8/2001 của Bộ Tài chính qui định tỉ lệ chi đề phòng hạn chế tổn thất của bảo
hiểm gián đoạn kinh doanh là 5% trên tổng phí bảo hiểm giữ lại của nghiệp vụ này.
Trên thực tế thì số chi đề phòng, hạn chế tổn thất cho nghiệp vụ này tại Bảo Việt Hà
Nội qua các năm chủ yếu thấp hơn 5%. Như vậy, Bảo Việt Hà Nội đã giảm được
chi phí trong công tác đề phòng, hạn chế tổn thất. Tuy nhiên, để có thể đánh giá
được kết quả của công tác này, chúng ta phải xem xem công tác đề phòng, hạn chế
tổn thất có mang lại kết quả là làm giảm tình hình xảy ra rủi ro hay không, cụ thể là
thông qua số liệu về các vụ bồi thường tại Bảo Việt Hà Nội.
2.3.3. Công tác giám định và bồi thường
Mục đích của hoạt động bảo hiểm là bồi thường nhanh chóng, chính xác, kịp thời và
công bằng cho người được bảo hiểm khi không may họ gặp phải rủi ro. Công tác
bồi thường được thực hiện hiệu quả chính là một biện pháp tốt nhất để tạo ra sự tín
42
nhiệm cũng như niềm tin của khách hàng đối với công ty bảo hiểm. Khi công tác
này được chú trọng thực hiện tất sẽ gây ra tiếng vang lớn, uy tín của công ty sẽ
được nâng cao và khi đó khách hàng sẽ trở thành người quảng cáo có hiệu quả nhất
cho công ty. Để tiến hành công tác bồi thường đủ, chính xác, công ty bảo hiểm phải
dựa chủ yếu vào kết quả thu được từ công tác giám định tổn thất. Chính vì vậy, đối
với Bảo Việt Hà Nội, công tác giám định và bồi thường được đánh giá là một dịch
vụ sau bán hàng hết sức quan trọng.
Trong thời gian qua, trên địa bàn Hà Nội cũng đã xảy ra nhiều vụ cháy và gây thiệt
hại không nhỏ cho các tổ chức, cá nhân liên quan và hậu quả là dẫn đến nhiều thiệt
hại ảnh hưởng tới quá trình kinh doanh của các doanh nghiệp bị cháy. chúng ta có
thể đơn cử một số vụ sau:
- Vụ cháy ở công ty liên doanh sản xuất xà phòng Lever Haso với thiệt hại
khoảng1,5 tỷ đồng (năm 1998)
- Vụ cháy ở Công ty TNHH Transfield Việt nam với thiệt hại hơn 2 tỷ đồng
(năm 1999)
- Vụ cháy ở Công ty may Hải Sơn với thiệt hại là 7,5 tỷ đồng (năm 2000)
- Vụ cháy ở Công ty Muraya Việt Nam với thiệt hại là 6,25 tỷ đồng (năm
2000)
- Vụ cháy ở Công ty TNHH Thịnh Khang với trị giá 6,2 tỷ đồng (năm 2000)
Tuy nhiên, các vụ cháy xảy ra hầu hết đều ở các đơn vị kinh doanh có chăng thì mới
tham gia bảo hiểm cháy, và chưa tham gia bảo hiểm gián đoạn kinh doanh. Công
tác triển khai nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh tại Bảo Việt Hà Nội mới
43
trải nghiệm qua tổn thất gây ra bởi một số vụ cháy ước tính thiệt hại khoảng vài
trăm triệu đồng/vụ, nhưng không vì thế mà công tác giám định không gặp phải khó
khăn. Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh có đặc điểm riêng là sau khi tổn thất xảy ra
người ta chưa thể xác định được ngay thiệt hại thực tế mà phải chờ một thời gian
nhất định (giai đoạn bồi thường) người bảo hiểm mới có thể tính được thiệt hại
thuộc trách nhiệm bồi thường. Do đó, việc hoàn tất hồ sơ giám định nhiều khi kéo
dài hàng năm gây không ít trở ngại cho cán bộ Bảo Việt Hà Nội. Tuy nhiên, khó
khăn đó là khó khăn mang tính khách quan do đặc điểm của nghiệp vụ bảo hiểm
gián đoạn kinh doanh. Thực tế, không thể phủ nhận rằng cán bộ Bảo Việt Hà Nội đã
có nhiều cố gắng trong việc hoàn thành các biên bản giám định khách quan, vô tư,
trung thực nhằm chi trả bồi thường đúng cho khách hàng.
Để phân tích tình hình bồi thường tại Bảo Việt Hà Nội đối với nghiệp vụ bảo hiểm
gián đoạn kinh doanh sau cháy, chúng ta hãy cùng xem xét bảng số liệu sau:
Qua bảng trên, rõ ràng số vụ bồi thường của nghiệp vụ này còn quá ít để có thể đưa
ra một kết luận chính xác. Trước năm 1999, thực tế Bảo Việt Hà Nội chưa hề bồi
thường cho bất cứ vụ tổn thất nào. Và cho tới năm 1999 thì Bảo Việt Hà Nội cũng
mới chỉ bồi thường cho 1 vụ với số tiền bồi thường là 10,2 triệu đồng, với tỉ lệ bồi
thường 2%, một tỉ lệ quá nhỏ so với tỉ lệ bồi thường trung bình của các nghiệp vụ
bảo hiểm. Việc không phải bồi thường cho một vụ nào trong những năm trước và
bồi thường quá ít trong năm 1999 tuy có ưu điểm là không phát sinh trách nhiệm
bồi thường của Bảo Việt Hà Nội, tăng lợi nhuận cho công ty nhưng cũng gây cho
Bảo Việt Hà Nội khó khăn trong việc nâng cao uy tín đối với khách hàng, khách
44
hàng chưa thực sự nhìn thấy tác dụng của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh. Thêm
vào đó, cán bộ Bảo Việt Hà Nội cũng không có cơ hội tích luỹ kiến thức thực tế để
hoàn thiện công tác triển khai nghiệp vụ. Trong ba năm trở lại đây, Bảo Việt đã phải
đối mặt với một số vụ bồi thường, trong đó có 2 vụ bồi thường lớn vào năm 2000.
Tuy nhiên, do khả năng tài chính lớn mạnh của Bảo Việt Hà Nội cùng với việc phối
kết hợp sức mạnh của nhiều nghiệp vụ lại với nhau nên việc bồi thường nói chung
không có gì khó khăn về tài chính. Hơn nữa, các cán bộ bảo hiểm đã và đang cố
gắng hết sức mình để đạt được mục tiêu bồi thường thoả đáng cho khách hàng, tạo
sự an tâm cho khách hàng khi tham gia bảo hiểm tại Bảo Việt Hà Nội. Cụ thể, đối
với nghiệp vụ này, Bảo Việt Hà Nội đã bồi thường thành công cho một số vụ lớn và
phức tạp như bồi thường cho B-Broun (năm 2000), Melia hotel (năm 2001).
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, không thể phủ nhận một thực tế rằng Bảo Việt
Hà Nội cũng đã vấp phải những vướng mắc trong công tác bồi thường. Ví dụ như
với vụ bồi thường cho Hà Nội Club năm 2001, việc Bảo Việt Hà Nội chỉ chấp nhận
bồi thường phần mất lợi nhuận do gián đoạn kinh doanh và phần chi phí gia tăng
hợp lý sau khi đã trừ đi mức khấu trừ hai ngày, và không chấp nhận bồi thường
phần chi phí làm ngoài giờ của nhân viên trong công ty nhằm mục đích rút ngắn
thời gian gián đoạn kinh doanh đã gây ra bất đồng lớn giữa khách hàng và công ty
bảo hiểm. Về phần khách hàng, họ nghĩ rằng họ hoàn toàn có quyền đòi công ty bảo
hiểm bồi thường cho chi phí họ bỏ ra để đưa công ty trở về hoạt động kinh doanh
bình thường như trước khi tổn thất xảy ra. Về phía công ty thì nhân viên không giải
thích cho khách hàng lý do vì sao lại từ chối bồi thường, do đó đã gây mối nghi ngờ
45
cho khách hàng. Xét cho cùng thì nguyên do chính của thực trạng này là do tính
phức tạp trong quá trình tính số tiền bồi thường. Trong khi tất cả các vụ bồi thường
đều cho các đối tác nước ngoài, những người đã quá quen thuộc và có kiến thức sâu
về loại hình bảo hiểm này, thì những người cán bộ bảo hiểm lại cảm thấy bị động
khi tiếp xúc với loại hình bảo hiểm mà chính họ đang triển khai. Điều đáng nói là số
cán bộ bảo hiểm biết lợi nhuận gộp là gì, tỉ lệ lợi nhuận gộp là gì hay số tiền bồi
thường trong bảo hiểm gián đoạn kinh doanh được tính trên cơ sở nào tại Bảo Việt
Hà Nội không nhiều, vì vậy khi gặp trường hợp phải bồi thường, tất cả trông chờ
vào số ít người am hiểu nghiệp vụ làm cho công tác bồi thường bị chậm lại, tạo sự
bực tức cho khách hàng. Hơn nữa, khi tiếp xúc với khách hàng là đối tác nước
ngoài, hầu hết cán bộ của Bảo Việt Hà Nội không đủ trình độ ngoại ngữ để giải
thích với khách hàng, mà những người phiên dịch thì không đủ kiến thức về bảo
hiểm để truyền đạt lại những gì cần truyền đạt, do vậy dẫn đến việc khách hàng hiểu
nhầm và mất lòng tin vào Bảo Việt Hà Nội.
2.3.4. Đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh
Như chúng ta biết, kết quả kinh doanh được xác định bằng chênh lệch giữa tổng các
khoản thu và tổng các khoản chi. Đối với một doanh nghiệp bảo hiểm, muốn nâng
cao hiệu quả kinh doanh thì cùng với việc phải tăng cường tổng thu còn phải chú ý
đến các khoản chi sao cho việc chi phải hết sức tiết kiệm, chi đúng mục đích và theo
đúng chế độ qui định của Bộ Tài Chính. Trong hoạt động bảo hiểm tại Bảo Việt Hà
Nội hiện nay, khoản thu chủ yếu vẫn là thu từ phí bảo hiểm, hoạt động đầu tư còn
hạn chế nên thu từ hoạt động đầu tư hầu như không có. Do đó, các khoản thu có thể
46
thấy được rất dễ dàng thông qua doanh thu phí, còn việc tập hợp các khoản chi có
vẻ phức tạp hơn. Bảng số liệu sau là một minh chứng giúp chúng ta thấy rõ hơn về
thực tế chi cho nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh tại Bảo Việt Hà Nội trong
giai đoạn 1998 -2001.
Thông qua bảng trên ta có thể thấy rằng :
Trong tổng chi thì khoản chi hoa hồng ở hầu hết các năm đều chiếm tỷ trọng chủ
yếu. Riêng năm 2000, có một số vụ cháy lớn diễn ra trên địa bàn Hà Nội dẫn tới
thiệt hại kinh doanh cho người tham gia bảo hiểm, do đó đã khiến cho số tiền bồi
thường tăng lên rất cao chiếm tới 62,1%, đưa số chi hoa hồng xuống hàng thứ hai so
với tổng các khoản chi trong năm. Chi hoa hồng chiếm tỉ trọng cao như vậy chứng
tỏ công ty rất quan tâm tới quyền lợi của đội ngũ cộng tác viên, đại lý, người trực
tiếp khai thác nhằm tăng số hợp đồng được kí kết. Số chi hoa hồng tăng đều đặn
hàng năm, đồng thời như kết quả khai thác chúng ta đã phân tích ở trên cho thấy số
hợp đồng khai thác được hàng năm cũng tăng lên tương ứng, điều đó cho thấy việc
tăng khoản chi hoa hồng là hợp lý so với tốc độ tăng doanh thu. Tuy vậy, trên thực
tế triển khai nghiệp vụ này, rất nhiều hợp đồng trong khoảng 2 năm gần đây kí được
là do các doanh nghiệp tự yêu cầu bảo hiểm, vậy số chi hoa hồng tăng tương ứng
với doanh thu như vậy có phải là dấu hiệu cho thấy Bảo Việt Hà Nội đã chi hoa
hồng cho chính người tham gia bảo hiểm? Thực tế triển khai các nghiệp vụ bảo
hiểm khác tại Bảo Việt Hà Nội không phải là không có hiện tượng này.
Về phía các khoản chi bồi thường thì rõ ràng chúng ta thấy nhìn chung tỉ trọng số
chi bồi thường của nghiệp vụ này trong tổng chi so với các nghiệp vụ khác là rất ít,
47
ví dụ như so với bảo hiểm cháy tỉ trọng số chi bồi thường trung bình trong 5 năm
trở lại đây vào khoảng 30%, bảo hiểm gián đoạn kinh doanh có số chi trung bình
trong giai đoạn 1997-2001 là 17,12%. Riêng năm 2000 được đánh giá là năm chi
bồi thường cho nghiệp vụ này lớn nhất trong lịch sử triển khai nghiệp vụ tại Bảo
Việt Hà Nội thì tỉ trọng mới chỉ đạt 62,1% (bảo hiểm cháy có tỉ trọng chi bồi
thường cao nhất trong 5 năm trở lại đây là xấp xỉ 65%). Điều đó chứng tỏ đây là
một nghiệp vụ có tiềm năng mang đến lợi nhuận cao cho công ty.
Ngoài ra, trong các khoản chi thì chi đề phòng hạn chế tổn thất tăng khá chậm qua
các năm 1998 - 1999 cho thấy công ty chưa thực sự đầu tư lớn cho công tác này.
Tuy nhiên, khoản chi này có xu hướng tăng nhanh hơn kể từ năm 2000, có lẽ đó là
do vào năm 2000 xảy ra các vụ cháy lớn gây thiệt hại cho công ty trong công tác bồi
thường cả về nghiệp vụ bảo hiểm cháy và gián đoạn kinh doanh sau cháy đã khiến
cho công ty thấy rõ hơn sự cần thiết của công tác đề phòng hạn chế tổn thất.
Tuy vậy, để đánh giá hiệu quả hoạt động của cả một nghiệp vụ bảo hiểm thì không
thể tách rời việc so sánh, phân tích thu và chi. Do đó, cần thiết phải có một bảng so
sánh như sau:
Như vậy, có thể thấy hầu hết ở các năm cứ 1 đồng chi phí tạo ra hơn 2 đồng doanh
thu và hơn 1 đồng lợi nhuận. Năm 2000 con số này tụt xuống tới mức 1 đồng chi
phí tạo ra được có 0,95 đồng doanh thu và mang đến mức lợi nhuận âm ( -0,05
đồng). Rõ ràng nhìn vào kết quả trên ta thấy rằng cứ tính trung bình 1 đồng chi phí
bỏ ra mang lại doanh thu cũng như lợi nhuận có xu hướng giảm qua các năm. Điều
đó chứng tỏ tốc độ tăng chi phí nhanh hơn tốc độ tăng doanh thu. Theo kết quả bảng
48
5, số chi hoa hồng, chi quản lý, chi đề phòng, hạn chế tổn thất, chi dự trữ và chi
khác đều tăng tương ứng với thu. Vậy việc tăng chi chủ yếu là do tăng về số chi bồi
thường, nếu như vào năm 1998 không có vụ tổn thất nào liên quan tới trách nhiệm
bồi thường, năm 1999 chỉ bồi thường có 10,2 triệu đồng thì tới năm 2000 số tiền bồi
thường lên tới 425 triệu đồng, năm 2001 là 76,4 triệu đồng. Mặc dầu vậy, do đặc
thù của lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm phụ thuộc một phần vào nguyên lý tích luỹ
rủi ro nên sẽ có sự bất thường về rủi ro xảy ra dẫn tới trách nhiệm bồi thường khác
nhau giữa các năm. Do vậy, chúng ta không thể đưa ra kết luận rằng việc tăng chi
phí nhanh hơn tốc độ tăng doanh thu chứng tỏ công ty hoạt động không hiệu quả
trong quản lý thu chi. Tuy nhiên, một câu hỏi đặt ra là vì sao số chi cho hạn chế, đề
phòng tổn thất hàng năm đều tăng như vậy mà tổn thất dẫn tới trách nhiệm bồi
thường ngày càng có xu hướng tăng? Liệu có phải là chi phí chi đề phòng, hạn chế
tổn thất không hiệu quả?
Tóm lại, về mặt hiệu quả xã hội, số lượng khách hàng ngày càng được phục vụ
nhiều hơn, uy tín của công ty ngày càng cao, đó là lợi thế rất quí để nghiệp vụ này
có khả năng phát triển. Về góc độ kinh tế thì doanh thu phí cũng như lợi nhuận thu
được từ nghiệp vụ này ngày càng tăng, đó là đáng mừng cho một nghiệp vụ non trẻ
như nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy.
Qua phân tích cả bốn khâu như trên, chúng ta thấy rằng nghiệp vụ bảo hiểm gián
đoạn kinh doanh là một nghiệp vụ đầy tiềm năng phát triển và có khả năng mang lại
doanh thu cũng như lợi nhuận cao cho doanh nghiệp. Vấn đề nổi cộm nhất hiện nay
khi triển khai công tác này tại Bảo Việt Hà Nội tập trung chủ yếu trong khâu khai
49
thác. Vì vậy, trong quá trình được tiếp xúc với thực tế triển khai nghiệp vụ này tại
Bảo Việt Hà nội, với mong muốn đóng góp một số ý kiến nhằm hoàn thiện nghiệp
vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh tại công ty, chương III của luận văn này sẽ đề
cập tới một số giải pháp nhằm phát triển nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh
nói chung và bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy nói riêng.
Chương 3 Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động kinh
doanh
bảo hiểm gián đoạn kinh doanh tại Bảo Việt hà nội
3.1. Phương hướng phát triển nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh tại Bảo việt
hà nội giai đoạn 2001 - 2005
Năm 2001, sự cạnh tranh trên thị trường bảo hiểm tại địa bàn Hà Nội ngày càng sôi
động hơn với sự tham gia của nhiều công ty bảo hiểm đã đi vào hoạt động ổn định.
Do đó, công ty đã phải san sẻ thị trường và thị phần của công ty giảm đáng kể. Bên
cạnh đó, Luật kinh doanh bảo hiểm có hiệu lực từ 4/2001 đặt ra yêu cầu kinh doanh
bảo hiểm theo tư duy pháp luật mới. Xác định được những khó khăn và thử thách,
đồng thời căn cứ vào kết quả kinh doanh của công ty giai đoạn 1996-2000 cũng như
định hướng chiến lược phát triển của Tổng công ty đến 2010, công ty Bảo Việt Hà
Nội đã đưa ra mục tiêu và yêu cầu kinh doanh trong giai đoạn 2001-2005 là "Củng
cố và phát triển công ty theo chiều sâu", kiên trì phương châm "tăng trưởng và hiệu
quả", nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty.
50
Trên cơ sở mục tiêu, phương hướng chung đó, Bảo Việt Hà Nội đã đặt ra mục tiêu,
phương hướng cụ thể cho từng nghiệp vụ bảo hiểm. Đối với nghiệp vụ bảo hiểm
gián đoạn kinh doanh trong giai đoạn tới cần phát triển theo định hướng sau:
* Chỉ tiêu kinh doanh cho năm 2002:
- Doanh thu phí bảo hiểm gián đoạn kinh doanh: 1 tỷ đồng
- Lợi nhuận bảo hiểm gián đoạn kinh doanh đạt: 300 triệu đồng
- Tăng trưởng so với năm 2001: 12%
* Chiến lược kinh doanh:
- Tăng trưởng, hiệu quả.
- Giữ vững địa bàn và làm chủ thị trường bảo hiểm Hà Nội .
- Củng cố kinh doanh theo chiều sâu, nâng cao chất lượng phục vụ, cùng tồn
tại và phát triển với khách hàng.
- Kinh doanh theo tư duy mới của Luật kinh doanh bảo hiểm.
- Nghiên cứu, phát triển các biện pháp về sản phẩm, giới thiệu sản phẩm, biện
pháp theo dõi và quản lý hệ thống đại lý, giám định.
- Chú trọng mở rộng đối tượng bảo hiểm phục vụ các nhu cầu đa dạng của
khách hàng.
- Xúc tiến công tác đề phòng, hạn chế tổn thất một cách triệt để và có hiệu quả
hơn, kết hợp tự làm và thuê ngoài.
- Củng cố tổ chức bộ máy, bổ sung cán bộ lãnh đạo, tăng cường cơ sở vật chất
trên cơ sở tính toán hợp lý, phấn đấu vì hiệu quả.
- Nâng cao trình độ chuyên môn hoá, trình độ hạch toán riêng rẽ.
51
Kết hợp với định hướng phát triển nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh và
thực tế tiếp xúc với nghiệp vụ này tại Bảo Việt Hà Nội, tác giả luận văn mạnh dạn
đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động kinh
doanh bảo hiểm gián đoạn kinh doanh tại Bảo Việt Hà Nội trong thời gian tới.
3.2. một số giải pháp nhằm Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động kinh doanh
bảo hiểm gián đoạn kinh doanh tại bảo việt hà nội
3.2.1. Tăng cường công tác khai thác
"Dù cho phương án kinh doanh của bạn có khéo đến đâu, xin bạn cũng nhớ rằng cái
cuối cùng và cái quyết định thành công là bạn phải bán được hàng, dù đó là vật
phẩm tiêu dùng hay dịch vụ", đó là câu nói nổi tiếng của Bill Hewlette, người sáng
lập ra công ty hàng đầu thế giới Hewlett Packard (HP) và thực tế cho thấy những
hãng thành công trên thế giới như Dishy, IBM, Sony, Veng, Digital, GM,... thường
rất coi trọng khâu bán hàng. Đơn cử một ví dụ như ở hãng Dishy, người ta coi trọng
khâu bán hàng đến mức những người lãnh đạo của hãng này bất kể chức vụ cao
thấp đều phải tham gia vào việc bán hàng.
Trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm, công tác bán hàng (thể hiện chủ yếu ở khâu
khai thác) còn quan trọng hơn gấp bội do đặc điểm của sản phẩm bảo hiểm "rất đặc
biệt" so với các loại sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ khác. Mặc dù vậy, như đã phân
tích ở chương II, chúng ta nhận thấy Bảo Việt Hà Nội vẫn chưa chú trọng đúng mức
tới khâu khai thác của nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy, và liệu
đó có phải là lý do mà một nghiệp vụ đầy tiềm năng như nghiệp vụ này vẫn chưa
mang lại kết quả cao cho Bảo Việt Hà Nội? Chính vì vậy, hơn lúc nào hết, Bảo Việt
52
cần thực hiện ngay các biệp pháp thiết thực để đưa sản phẩm của mình đến với
khách hàng.
Thứ nhất, Bảo Việt Hà Nội nên tăng cường tuyên truyền, quảng cáo, giới thiệu cho
khách hàng biết về sản phẩm của mình. Hiện nay, trên thực tế rất ít khách hàng biết
thế nào là bảo hiểm gián đoạn kinh doanh và tác dụng thực sự của bảo hiểm gián
đoạn kinh doanh là gì. Ngay trên đất thủ đô nơi trình độ dân trí của người dân khá
cao nhưng hầu hết người dân chưa nhận thức đầy đủ về sản phẩm bảo hiểm. Nhiều
người còn cho rằng mua bảo hiểm là mua lấy "cái xúi quẩy" và tốt nhất là không
nên mua. Trong khi đó, nhiều vụ tranh chấp trong hoạt động bảo hiểm giữa khách
hàng và người bảo hiểm vài năm gần đây đã gây không ít tai tiếng cho công ty bảo
hiểm, giảm lòng tin của khách hàng vào công ty bảo hiểm. Vì vậy, giai đoạn hiện
nay là thời gian thực sự cần thiết để công ty Bảo Việt Hà Nội cần coi trọng khâu
xúc tiến, quảng cáo bằng cách phối hợp nhiều biện pháp khác nhau như quảng cáo
trên truyền hình, trên các phương tiện thông tin đại chúng khác, tổ chức hội chợ, hội
nghị khách hàng, tài trợ cho các hoạt động thể thao,... Công ty có thể đưa ra các
thông số cũng như những hình ảnh, mức độ nguy hại và hậu quả của các vụ cháy và
sau cháy để lại. Vì nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh mang tính trừu tượng
hơn rất nhiều so với bảo hiểm cháy, mọi con số về thiệt hại chỉ là sự ước tính tương
đối cho nên các con số đưa ra khó mà thuyết phục được khách hàng. Vì vậy, công
tác tuyên truyền, quảng cáo cho nghiệp vụ này phải hết sức kiên trì. Tuy nhiên,
phương pháp này cũng có nhược điểm là chi phí quảng cáo sẽ rất cao, dẫn tới việc
giảm hiệu quả hoạt động kinh doanh. Để khắc phục nhược điểm này, Bảo Việt Hà
53
Nội có thể kết hợp quảng cáo về bảo hiểm gián đoạn kinh doanh với quảng cáo các
nghiệp vụ bảo hiểm khác, ví dụ bảo hiểm cháy chẳng hạn.
Thứ hai, cùng với việc tuyên truyền, quảng cáo, Bảo Việt Hà Nội nên đưa ra các
biện pháp nhằm đổi mới cách phục vụ, tiếp cận với khách hàng một cách qui củ
hơn. Nếu như việc tuyên truyền, quảng cáo được ví như là màn mở đầu giới thiệu
thì công việc tiếp cận khách hàng có thể coi là minh chứng cho những lý lẽ đã được
đưa ra trong màn giới thiệu. Kinh nghiệm cho thấy công việc quảng cáo thực sự
phát huy tác dụng cao nhất vào thời điểm sản phẩm mới được tung ra thị trường,
hoặc mới được cải tiến, và người kinh doanh thực sự muốn giới thiệu cho người tiêu
dùng biết về sản phẩm của mình. Sau đó, khi sản phẩm đã được biết đến trên thị
trường thì chi phí cho quảng cáo cũng nên giảm dần nhường chỗ cho những chi phí
về dịch vụ bán hàng. Theo kết quả phân tích ở chương II, tại Bảo Việt Hà Nội các
công tác phục vụ bán hàng được thực hiện một cách tự phát, chưa được chú trọng
đúng mức, đặc biệt đối với bảo hiểm gián đoạn kinh doanh thì hầu như không có
hoạt động tiếp cận khách hàng nào cả. Bảo Việt Hà Nội cần nhanh chóng thực hiện
các biện pháp cụ thể nhằm hoàn thiện phong cách phục vụ. Để làm được điều đó,
trước hết cần phải đào tạo kiến thức chuyên môn cơ bản cho đội ngũ bán hàng. Do
đặc tính riêng có của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh như đã đề cập ở phần trước,
đội ngũ bán hàng hiện nay tại Bảo Việt Hà Nội mặc dù đã có những kiến thức cơ
bản về các nghiệp vụ bảo hiểm truyền thống nhưng hầu như chưa biết gì về hoạt
động của nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh nên không thể giải thích cho
khách hàng những điều khoản xuất hiện trong hợp đồng bảo hiểm này. Vì vậy, việc
54
đào tạo lại đội ngũ bán hàng là hết sức cần thiết. Bên cạnh đó, Bảo Việt Hà Nội
cũng cần nâng cao phong cách phục vụ cho cán bộ bán hàng như tạo thái độ cởi mở,
nhiệt tình, chu đáo, quan tâm tới khách hàng, có thể gửi tặng khách hàng quà nhân
ngày sinh nhật hoặc vào những ngày lễ lớn, thăm khách hàng thường xuyên, gửi lời
hỏi thăm khi khách có chuyện vui buồn,... Phương thức này tuy có nhược điểm là
phạm vi triển khai hẹp nhưng có rất nhiều ưu điểm như nhân viên triển khai hoạt
động tiêu thụ có thể trực tiếp tiếp xúc với người tiêu dùng, có thể triển khai hoạt
động tiêu thụ có tính mục đích, tính tập trung và kịp thời nhận được tin tức phản
hồi, hiểu được yêu cầu, ý kiến khách hàng. Đây là phương thức mà thúc đẩy tiêu thụ
gián tiếp không thể so sánh được.
Thứ ba, Bảo Việt Hà Nội có thể thực hiện sửa đổi một "công thức cũ" để tạo ra một
cơ hội kinh doanh mới. Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tại Bảo Việt Hà
Nội xưa nay vẫn chỉ được bán kèm với dịch vụ bảo hiểm cháy, Bảo Việt Hà Nội
không bán dịch vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tách rời khỏi bảo hiểm
cháy. Thực ra thì công ty hoàn toàn có thể bán loại hình nghiệp vụ bảo hiểm này
cho bất cứ đơn vị nào đã tham gia bảo hiểm cháy tại bất cứ doanh nghiệp bảo hiểm
nào khác mà vẫn đảm bảo nguyên lý triển khai nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh
doanh sau cháy. Như vậy, Bảo Việt Hà Nội còn có thể tận dụng cơ hội để lôi kéo
những khách hàng quen của doanh nghiệp khác tham gia bảo hiểm cháy vào năm
hợp đồng tiếp theo nếu như họ cảm thấy an tâm với dịch vụ bảo hiểm của công ty.
Thứ tư, công ty nên quan hệ rộng rãi, chặt chẽ với các thành phần trung gian như
các công ty môi giới, các cộng tác viên,... vì chính họ là những người đem lại dịch
55
vụ lớn cho công ty. Công ty có thể thực hiện chính sách hoa hồng thỏa đáng trong
hạn mức qui định của Bộ Tài chính và những chính sách ưu đãi đặc biệt đối với
những tổ chức, cá nhân đã hỗ trợ cho công ty giành dịch vụ. Hiện nay, công tác này
ở Bảo Việt Hà Nội tuy có nhiều tín hiệu đáng mừng nhưng Bảo Việt Hà Nội cần
tránh xu hướng cạnh tranh không lành mạnh trong việc cán bộ của công ty nhiều khi
đã vì lợi ích kinh doanh mà chi hoa hồng cho cả người tham gia bảo hiểm, đi ngược
lại qui tắc chung trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm, gây ảnh hưởng tới uy tín
của công ty.
Thứ năm, Bảo Việt Hà Nội nên có biện pháp cụ thể để quản lý và nâng cao chất
lượng đội ngũ đại lý. Đại lý bảo hiểm là những người được doanh nghiệp bảo hiểm
uỷ thác nhiệm vụ tiêu thụ sản phẩm, việc tiêu thụ được khối lượng sản phẩm nhiều
hay ít sẽ phụ thuộc rất lớn vào chất lượng của hệ thống đại lý nói chung và từng đại
lý nói riêng. Do vậy, công ty cần phải thiết lập chính sách tuyển chọn, đào tạo cụ
thể cũng như các phương pháp kiểm tra hoạt động của đại lý. Về công tác tuyển
chọn đại lý, công ty có thể đưa ra những tiêu chuẩn nhất định đối với vị trí đại lý
như trình độ tối thiểu, khả năng giao tiếp tốt, nhanh nhạy,... và dựa trên cơ sở đó
tuyển chọn một cách khách quan, tránh tình trạng tuyển người không đúng nguyên
tắc. Sau khi đã tuyển chọn, công ty cần chú ý đào tạo ban đầu và đào tạo liên tục đối
với đội ngũ này để họ nắm bắt kịp thời với những đổi mới trong việc triển khai
nghiệp vụ cũng như phương thức bán hàng. Hàng tháng hoặc hàng quí, công ty có
thể mời người có kiến thức nghiệp vụ cũng như kinh nghiệm nghề nghiệp tổ chức
những buổi hướng dẫn cho các đại lý. Thỉnh thoảng, công ty cũng có thể trích quĩ
56
phúc lợi tổ chức các hoạt động ngoại khoá cho các tổ đại lý giao lưu, học hỏi kinh
nghiệm lẫn nhau... Ngoài ra, công ty có thể thực hiện một số chính sách đãi ngộ đối
với đội ngũ đại lý. Ví dụ, Bảo Việt Hà Nội có thể giúp đỡ về tài chính lúc đầu, trang
bị các phương tiện hoạt động,... để người đại lý bảo hiểm cảm thấy lạc quan, tin
tưởng vào khả năng phát triển nghề nghiệp của mình, từ đó yêu nghề hơn, phấn đấu
hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Bên cạnh đó, việc quản lý đại lý hết sức phức
tạp vì hoạt động của các đại lý không mang tính cố định. Công ty nên tổ chức mô
hình quản lý đại lý theo cơ cấu hình tháp và hàng tháng qui định những ngưòi chịu
trách nhiệm quản lý phải có trách nhiệm gửi báo cáo hoạt động đại lý trong tháng
cho cấp cao hơn.
Thứ sáu, Bảo Việt Hà Nội nên có biện pháp khích lệ nhân viên toàn công ty tăng
cường tiêu thụ sản phẩm. Việc tiêu thụ sản phẩm không những phụ thuộc vào
những yếu tố như đã đề cập ở phần trên mà còn phụ thuộc vào chính sách phúc lợi
của công ty đối với cán bộ nói chung. Chẳng hạn, công ty có thể thúc đẩy công tác
bán hàng bằng cách khoán doanh số bán hàng cho nhân viên, thưởng cho người nào
có quan hệ tốt đối với khách hàng, thưởng cho những sáng kiến mới về tiếp thị,
thưởng cho nhân viên tích cực, đạt doanh số cao,...
Thứ bảy, trong điều kiện canh tranh gay gắt như hiện nay, công ty cần thiết phải xác
định thị trường mục tiêu trước mắt và lâu dài để phát huy thế mạnh của mình. Một
trong những phương hướng Bảo Việt Hà Nội đề ra trong thời gian tới là luôn giữ
vững địa bàn và làm chủ thị trường Hà Nội. Rõ ràng, khách hàng mà Bảo Việt Hà
Nội nhắm tới không loại trừ bất cứ doanh nghiệp, tổ chức kinh doanh nào trên địa
57
bàn Hà Nội. Tuy nhiên, để hoạt động kinh doanh có hiệu quả hơn thì Bảo Việt Hà
Nội ngoài việc củng cố quan hệ, giữ những khách hàng đang có, công ty còn phải
có biện pháp khai thác các khách hàng tiềm năng. Để thực hiện tốt công việc này,
Bảo Việt Hà Nội có thể phân chia vùng trên địa bàn Hà Nội, theo dõi số đơn vị hoạt
động kinh doanh trên địa bàn đó, sau đó phân công cán bộ xâm nhập vào từng khu
vực để khai thác. Sau khi tiếp cận được khách hàng, cán bộ công ty cần nêu rõ ưu
điểm của loại hình nghiệp vụ đang triển khai tại Bảo Việt Hà Nội như tính linh hoạt
của bảng phí phù hợp với nhiều loại yêu cầu khác nhau, quyền lợi của khách hàng
cũng như chất lượng phục vụ khi chẳng may tổn thất xảy ra,... Mặt khác, công ty
cần chú trọng phục vụ nhu cầu cho các doanh nghiệp nhỏ, một loại hình doanh
nghiệp rất phổ biến ở nước ta hiện nay. Những doanh nghiệp nhỏ là những khách
hàng mà các công ty bảo hiểm đang hoạt động trên thị trường Việt Nam nói chung
và thị trường Hà Nội nói riêng hiện chưa chú trọng khai thác. Bảo Việt Hà Nội nên
tận dụng khoảng trống này để lôi kéo những khách hàng nhỏ về phía mình, nhiều
khách hàng nhỏ có thể sẽ mang lại cho Bảo Việt Hà Nội doanh thu không kém gì
doanh thu từ các hợp đồng kí được với các khách hàng lớn. Hơn nữa, cán bộ khai
thác Bảo Việt Hà Nội cũng sẽ dễ dàng tiếp cận với những khách hàng này hơn. Việc
khai thác bảo hiểm gián đoạn kinh doanh từ các khách hàng nhỏ có thể sẽ nảy sinh
những nhu cầu mới của khách, trên cơ sở đó Bảo Việt Hà Nội có cơ hội hoàn thiện
sản phẩm của mình.
Ngoài ra, Bảo Việt Hà Nội cũng có thể nâng cao công tác khai thác bằng cách mở
rộng thị trường ra nước ngoài, đổi mới sản phẩm, có giải thưởng cho những khách
58
hàng kí hợp đồng số 300, 400,..., bán sản phẩm trả phí dần,... Mặc dù vậy, khó có
thể đưa ra một giải pháp tốt nhất cho công tác xúc tiến, khai thác, bán hàng bởi có
quá nhiều yếu tố kinh doanh biến động theo thị trường. Do đó, công ty cần phải ứng
phó một cách nhanh nhạy với nhu cầu thị trường, tiềm năng của kẻ cạnh tranh, môi
trường pháp luật,... Để làm được việc đó, yếu tố con người có thể được coi là quan
trọng nhất, tức Bảo Việt Hà Nội cần có một đội ngũ cán bộ nhanh nhạy, giỏi chuyên
môn cũng như các kỹ năng nghề nghiệp.
3.2.2. Nâng cao công tác tổ chức nhân sự
“ Luôn luôn tự điều chỉnh và tự hoàn thiện mình” là một trong những phương châm
hành động của toàn bộ hệ thống Bảo Việt trong bất kỳ giai đoạn nào. Vì vậy, đào
tạo cán bộ giỏi và có đạo đức là một trong những vấn đề mà công ty cần quan tâm.
Thực tế, trình độ cán bộ bảo hiểm trên địa bàn Hà Nội còn nhiều biểu hiện chưa đạt
yêu cầu. Để nâng cao trình độ chuyên môn cũng như đạo đức của cán bộ, công ty
Bảo Việt Hà Nội có thể thực hiện một số công tác như sau:
- Tổ chức các khoá học, các cuộc hội thảo không chỉ trong nội bộ công ty mà
cần phối hợp với các công ty bảo hiểm phi nhân thọ khác về các chuyên đề liên
quan đến các nghiệp vụ.
- Cử cán bộ đi học ngắn hạn và dài hạn ở nước ngoài để nâng cao trình độ
chuyên môn, ngoại ngữ nhằm đáp ứng yêu cầu của thị trường.
- Phát hiện, nhìn nhận đúng năng lực, trình độ của từng cán bộ và có chính
sách đãi ngộ ưu đãi thích đáng để họ có thể toàn tâm, toàn ý đóng góp công sức vào
sự phát triển chung của công ty.
59
- Thường xuyên nâng cao tinh thần trách nhiệm và giáo dục đạo đức nghề
nghiệp của các cán bộ công nhân viên, không để xảy ra bất cứ một sự việc tiêu cực
nào xảy ra, giải quyết công việc một cách chính xác, trung thực và khoa học, đó
chính là nền tảng để tạo lòng tin, thu hút khách hàng tham gia bảo hiểm .
- Hướng dẫn cán bộ, công nhân viên trong công ty thực hiện đúng các quy
định, chính sách, luật pháp của nhà nước.
- Tổ chức khen thưởng đối với những cán bộ làm được việc và xử phạt công
minh đối với những cá nhân làm việc thiếu trách nhiệm, ỷ lại, không chấp hành nội
quy, quy chế của công ty.
- Phát huy tính năng động, sáng tạo của mỗi cán bộ công nhân viên, từ đó
khẳng định được sức mạnh của cả tập thể.
- Phân công chặt chẽ các khâu trong quản lý doanh nghiệp, tổ chức bộ máy
điều hành gọn nhẹ, năng động.
- Bổ sung đủ các cán bộ lãnh đạo nghiệp vụ bảo hiểm có đủ trình độ cho các
phòng ban và các chi nhánh của công ty.
3.2.3. Nâng cao hiệu quả công tác giám định và bồi thường
Giám định, bồi thường là một khâu có vai trò rất quan trọng trong hoạt động triển
khai nghiệp vụ bảo hiểm, và có ảnh hưởng trực tiếp tới công tác khai thác. Nếu
công tác này được thực hiện tốt sẽ lôi cuốn khách hàng tham gia bảo hiểm. Tuy đối
với bảo hiểm gián đoạn kinh doanh, số vụ xảy ra tổn thất dẫn tới trách nhiệm bồi
thường không nhiều nhưng không vì thế mà Bảo Việt Hà Nội xao những khâu này
trong quá trình triển khai nghiệp vụ.
60
Do công tác giám định nhiều khi chỉ mang tính chất tương đối, dễ dẫn đến sự phản
ánh không chính xác. Vì vậy, các cán bộ làm công tác giám định ngoài trình độ
chuyên môn cao, có tư cách đạo đức còn phải khách quan, vô tư và trung thực để
phản ánh đúng toàn bộ sự việc, diễn biến gây ra rủi ro. Để nâng cao chất lượng công
tác giám định, Bảo Việt Hà Nội nên thường xuyên cử cán bộ bảo hiểm của mình
tham gia các khoá học của Tổng công ty để nâng cao trình độ chuyên môn, chất
lượng phục vụ, đồng thời tiếp tục duy trì và mở rộng quan hệ với các công ty giám
định, các chuyên gia trong nhiều lĩnh vực. Những vụ phức tạp nên phối hợp hoặc
mời các công ty giám định có uy tín trong nước hoặc nước ngoài đang hoạt động tại
Việt Nam tham gia. Bên cạnh đó, để tránh tình trạng cán bộ giám định có thể "đồng
loẫ" với người tham gia bảo hiểm thực hiện các vụ gian lận bảo hiểm, kê khai số
thiệt hại trong biên bản giám định lớn hơn số thiệt hại thực tế, công ty bảo hiểm rất
cần phải tuyển chọn những người có tư cách đạo đức tốt làm cán bộ giám định.
Đồng thời, công ty có thể cử cán bộ thanh tra kiểm tra, theo dõi công tác giám định
trong một số vụ nhất định.
Về công tác bồi thường, khách hàng chỉ thực sự thấy được ý nghĩa của bảo hiểm khi
họ gặp phải rủi ro gây tổn thất. Do vậy, việc nâng cao chất lượng phục vụ trong
khâu bồi thường là rất cần thiết vì phục vụ tốt khách hành trong khâu này là hình
thức tuyên truyền hữu hiệu nhất về ý thức phục vụ của công ty. Trong số rất ít các
vụ bồi thường tại Bảo Việt Hà Nội đối với nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh
doanh, tình hình cán bộ công ty không giải thích cho khách hàng lý do từ chối bồi
thường trong một số trường hợp nhất định vẫn tồn tại. Do vậy, công ty cần thực
61
hiện ngay những biện pháp cần thiết để nâng cao chất lượng công tác bồi thường
như: gửi cán bộ đi học những lớp nghiệp vụ do các chuyên gia giảng dạy, mở các
lớp giáo dục về phong cách phục vụ, giới thiệu cách giải thích cho khách hàng trong
một số trường hợp điển hình có thể phát sinh từ thực tế bồi thường nghiệp vụ này,...
Ngoài ra, công ty cũng nên giảm bớt thủ tục giấy tờ rườm rà, phức tạp và tạo những
điều kiện thuận lợi cho khách hàng nhận tiền bồi thường. Công ty có thể in sẵn các
tài liệu hướng dẫn khách hàng, cụ thể phải làm ngay công việc gì, phải nộp giấy tờ
gì,... để họ nhanh chóng nhận được tiền bồi thường góp phần ổn định sản xuất kinh
doanh.
3.2.4. Thực hiện tốt công tác an toàn, đề phòng, hạn chế tổn thất.
Việc đề phòng, hạn chế tổn thất trong bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy luôn
gắn kết với công tác này trong bảo hiểm cháy. Do đó, để thực hiện tốt công tác này
công ty phải gắn trách nhiệm của mình với khách hàng bằng cách thường xuyên đôn
đốc khách hàng thực hiện tốt công tác công tác đề phòng, hạn chế tổn thất, đề xuất
các biện pháp phòng cháy chữa cháy, hỗ trợ một phần kinh phí cho các đơn vị tham
gia bảo hiểm tổ chức các buổi diễn tập phòng cháy chữa cháy,... Đồng thời, công ty
phải thường xuyên cử cán bộ xuống cơ sở để kiểm tra, đôn đốc khách hàng thực
hiện công tác đề phòng, hạn chế tổn thất. Công ty cũng có thể kết hợp chặt chẽ hơn
nữa với cảnh sát phòng cháy chữa cháy, các cấp chính quyền và các ban ngành để
kiểm tra tình hình thực hiện phòng cháy chữa cháy ở các đơn vị. Khi chẳng may tổn
thất xảy ra, người tham gia bảo hiểm thường cảm thấy rất lúng túng không biết xử
lý ra sao. Vì vậy, công ty bảo hiểm một mặt phải thực sự cảm thông, quan tâm và
62
chia xẻ sâu sắc với người được bảo hiểm, mặt khác phải đưa ra các biện pháp khắc
phục hậu quả, giúp đỡ khách hàng nhanh chóng trở về tình trạng ổn định sản xuất
kinh doanh.
3.2.5. Hoàn thiện công tác quản lý tài chính
Trong hoạt động kinh doanh của bất kỳ ngành nghề nào thì công việc quản lý tài
chính cũng đóng vai trò hết sức quan trọng, vì dù cho các hoạt động khác có tiến
hành tốt đến thế nào đi chăng nữa nhưng nếu như quản lý tài chính không tốt thì có
thể đưa doanh nghiệp tới nguy cơ kinh doanh không lãi hoặc tệ hơn là mất khả năng
thanh toán.
Hoạt động bảo hiểm gián đoạn kinh doanh là một hình thức kinh doanh dịch vụ,
trong đó quỹ tiền tệ dùng để chi trả bồi thường được hình thành từ việc đóng góp
của người được bảo hiểm dưới dạng phí bảo hiểm. Việc tính toán mức phí phải đảm
bảo đủ chi trả bồi thường, đảm bảo kinh doanh có lãi, đồng thời phải tạo được mức
phí có thể cạnh tranh được với các công ty trong và ngoài nước là hết sức cần thiết.
Tuy nhiên, hiện nay các mức phí bảo hiểm tại Bảo Việt Hà Nội, kể cả phí bảo hiểm
gián đoạn kinh doanh, đều dựa trên tỉ lệ phí của các công ty bảo hiểm nước ngoài
(có điều chỉnh đôi chút cho phù hợp với tình hình cạnh tranh trên thị trường Việt
Nam) chứ không dựa trên cơ sở tính toán tình hình xác suất rủi ro thực tế tại Việt
Nam. Tình hình đó có thể sẽ gây những khó khăn không thể lường trước trong
tương lai cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm tại thị trường Việt Nam. Do vậy, Bảo
Việt Hà Nội có thể kết hợp với Tổng công ty thuê hoặc tuyển chuyên gia giỏi
chuyên đảm nhận công tác tính xác xuất rủi ro và đưa ra mức phí hợp lý.
63
Song song với công việc trên, Bảo Việt nên quản lý tài chính dựa trên phương châm
"Tiết kiệm chính là để giàu có trong tương lai". Hiện nay, ở hầu hết các cơ quan,
doanh nghiệp Nhà nước tại Việt Nam, tình trạng cán bộ, công nhân viên với quan
điểm ảnh hưởng từ cơ chế tập trung bao cấp "cha chung không ai khóc" đã và đang
sử dụng lãng phí các nguồn lực. Để tránh tình trạng này nhằm nâng cao hiệu quả
kinh doanh, Bảo Việt nên hun đúc một ý thức tiết kiệm trong toàn doanh nghiệp,
tiết kiệm từ việc xây dựng văn phòng, trụ sở cho tới việc chi quản lý, giảm tối đa
các chi phí hội họp, hội nghị, tiếp khách và các lễ nghi không cần thiết,...
Một đặc điểm của hoạt động kinh doanh bảo hiểm khác với các hoạt động kinh
doanh khác là sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm của "chu trình kinh doanh đảo
ngược", tức người bảo hiểm sẽ thu phí bảo hiểm trước và thực hiện nghĩa vụ sau với
bên được bảo hiểm khi xảy ra sự cố bảo hiểm. Do đó, người bảo hiểm sẽ nắm giữ
một phần lớn số phí thu được tạm thời nhàn rỗi trong khoảng thời gian nhất định.
Khoản tiền này có thể mang lại không những của cải mà còn cả việc làm cho cán bộ
công ty nếu như công ty biết tung số tiền đó vào dòng chảy đầu tư. Vì vậy, Bảo Việt
Hà Nội có thể tính toán đầu tư vào loại hình thích hợp để mang về lợi ích cho công
ty làm cho việc kinh doanh chắc chắn đảm bảo hơn, tăng khả năng cạnh tranh, tạo
dựng được tài sản ngày càng lớn.
Trên đây là một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo
hiểm gián đoạn kinh doanh tại Công ty Bảo hiểm Hà Nội. Cùng với nhũng cố gắng
nỗ lực của cả tập thể lớn, hy vọng rằng Bảo Việt Hà Nội sẽ tiếp tục lớn mạnh và
64
không ngừng đi lên.
kết luận
Ngoài một số vấn đề lý luận được đưa ra để phục vụ cho công việc nghiên cứu, tìm
hiểu nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh, luận văn "Bảo hiểm gián đoạn kinh
doanh tại Bảo Việt Hà Nội giai đoạn 1998 - 2001" đã tổng hợp các số liệu thực tế,
trên cơ sở đó phân tích tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh
doanh tại Bảo Việt Hà Nội ở tất cả các khâu bao gồm khâu khai thác, khâu đề
phòng hạn chế tổn thất, khâu giám định, bồi thường cũng như khâu đánh giá kết quả
hoạt động kinh doanh. Số liệu phân tích trong luận văn cho thấy Bảo Việt Hà Nội
bên cạnh những kết quả đạt được trong quá trình triển khai nghiệp vụ vẫn còn tồn
tại nhiều hạn chế do cả nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan mang
lại. Thông qua quá trình phân tích, đánh giá những nguyên nhân đó kết hợp với
định hướng kế hoạch của Bảo Việt Hà Nội trong giai đoạn 2001-2005, luận văn đã
đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động kinh
doanh bảo hiểm gián đoạn kinh doanh tại Bảo Việt Hà Nội như tăng cường công tác
khai thác, nâng cao công tác tổ chức nhân sự, nâng cao hiệu quả công tác giám định
và bồi thường, thực hiện tốt công tác an toàn, đề phòng, hạn chế tổn thất, hoàn thiện
công tác quản lý tài chính. Với một số những giải pháp cụ thể đề cập trong luận văn,
hi vọng rằng Bảo Việt Hà Nội sẽ tiếp tục phát triển nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn
kinh doanh xứng đáng với tiềm năng của nó.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Đa dạng trong các gói bảo hiểm duy trì và đảm bảo an tòan cho kinh doanh.pdf