Đẩy mạnh xuất khẩu là mục tiêu quan trọng của hoạt động kinh tế đối ngoại. Điều này
đã được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII Đảng cộng sản Việt nam khẳng định, là
điều kiện để thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế với tốc độ cao, là tiền đề để thực
hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt
Nam sang thị trường Mĩ chỉ là một phần rất nhỏ trong chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu
hàng hoá Việt Nam ra thị trường nước ngoài nói riêng và chiến lược phát triển kinh tế đất
nước nói chung. Tuy nhiên, đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường
Mĩ là việc làm không phải một sớm một chiều, đó là cả quá trình mà trong đó cần phải có
sự lỗ lực thực hiện chiến lược, hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch của toàn ngành dệt may Việt
Nam và cần phải có thời gian.
109 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2109 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Định hướng và một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Mĩ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y nhiên, Mĩ luôn được đánh giá là bạn hàng khó chơi, trên thực tế nảy
sinh rất nhiều vấn đề xung quanh việc Chính phủ Mĩ tìm cách hạn chế hàng dệt may Việt
Nam nhập khẩu vào Mĩ.
Thứ nhất, thị trường Mĩ đòi hỏi chất lượng về cơ sở vật chất sản xuất rất cao (đáp ứng
các tiêu chuẩn SA8000, ISO 9000,...). Trong khi đó, đầu năm 2002 Hiệp hội dệt may và
giày dép Mĩ(AAFA) đến thăm các nhà máy hàng đầu Việt Nam; đoàn để lại bản nhận xét
34 điểm, chỉ có 9 điểm tốt, còn lại 25 điểm chưa đạt yêu cầu. Một trong những điểm chưa
đạt yêu cầu là quy mô sản xuất của các doanh nghiệp Việt Nam chưa đủ lớn, lại phân tán,
nên không đáp ứng được các hợp đồng lớn. Từ đây, đặt ra yêu cầu về vốn đầu tư cho
ngành dệt may. Tính đến hết tháng 5/2002, tổng vốn đầu tư của VINATEX đạt gần 4000
tỷ đồng; tuy nhiên so với yêu cầu thì còn rất thấp. Trong 10 năm tới, theo tính toán của
các nhà kinh tế thì đầu tư cho ngành dệt may Việt Nam phải ở mức 2-4 tỷ USD mới đạt
được mức tăng tốc mà chính phủ đặt ra. Trên thực tế, đầu tư vào các doanh nghiệp dệt
may, đặc biệt là doanh nghiệp may còn rất thấp (phần lớn số vốn dưới 5 tỷ đồng) trong
khi đó hàng xuất khẩu sang Mĩ có tính cạnh tranh mạnh hơn là các sản phẩm may mặc,
yêu cầu đặt ra là các doanh nghiệp may cần phải đầu tư thêm vốn. Các doanh nghiệp may
ngoài quốc doanh và các công ty có vốn nước ngoài chiếm phần lớn năng lực sản xuất
(về sản lượng), nhưng các doanh nghiệp, công ty này lại chủ yếu dựa vào nguồn vốn tự
có, trong khi các doanh nghiệp nhà nước vốn vay ở ngân hàng là chủ yếu (khoảng 60%).
Điều này cho thấy vì những lý do khác nhau mà tín dụng chưa đến tay được người sản
xuất. Đây là một trong những vấn đề cần tính đến khi xem xét khả năng mở rộng quy mô
sản xuất và đổi mới trang thiết bị của loại hình doanh nghiệp này trong tương lai.
Trong đầu tư cho ngành dệt may còn có tình trạng đầu tư không hợp lý, thiếu đồng bộ,
nơi nhiều, nơi ít, dẫn đến có địa phương không sử dụng hết công suất, có nơi lại không
được đầ tư. Bên cạnh đó, xu hướng chung là các doanh nghiệp chỉ muốn đầu tư máy móc
để sản xuất những mặt hàng quen thuộc như áo sơ mi, jacket, quần áo ngủ... mà không
chịu đầu tư vào những mặt hàng cao cấp mà hơn như bộ veston, hoặc những sản phẩm
hợp thời trang mà nhu cầu thị trường đòi hỏi. Chính điều này dẫn đến có doanh nghiệp
không sử dụng hết công suất. Có nhiều doanh nghiệp chỉ lo đầu tư những thiết bị hiện đại
đắt tiền mà thiếu một trình độ quản lý và sử dụng nó dẫn đến lãng phí, không sử dụng hết
công suất.
Cũng phải nói thêm là, vẫn còn tình trạng chiếm dụng vốn cao ở mọi loại doanh nghiệp,
trong đó đặc biệt là các công ty trách nhiệm hữu hạn, và công ty cổ phần có vốn ngoài
quốc doanh. Đây là những biểu hiện thiếu lành mạnh về tài chính, cần có những giải pháp
khắc phục để tránh tình trạng nợ nần dây dưa, dẫn đến nguy cơ phá sản ở một số doanh
nghiệp dệt may, nhất là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Thứ hai, sức cạnh
tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường Mĩ tuy đã có nhưng chưa cao. Một số
liệu khảo sát của Trung tâm Kinh tế Châu á Thái Bình Dương cho thấy, trong số gần
1000 doanh nghiệp dệt may của Việt Nam đang hoạt động, chỉ có khoảng 50 doanh
nghiệp (tỷ lệ 5%) có khả năng cạnh tranh trên thị trường khu vực và quốc tế đặc biệt là
trên thị trường Mĩ. Một trong những nguyên nhân cơ bản của điều này là do năng suất lao
động của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam còn thấp (chỉ bằng 50-70% của Singapore,
Malaixia, Thái Lan...). Năng xuất lao động không cao chủ yếu do trong các doanh nghiệp
dệt may Việt Nam chưa có được nguồn nhân lực cao. Lao động trong ngành dệt may
được các nhà chuyên môn đánh giá là có trình độ văn hoá vừa thấp vừa không đồng đều;
tỷ lệ lao động có văn hoá cấp 1: 21%, cấp 2: 61%, cấp 3: 14%, tốt nghiệp cấp 3: 4%. Về
chuyên môn, từ chuyền trưởng trở nên có bằng trung cấp: 10,5% ,cao đẳng: 8,2%, đại
học: 6,5%, và không có bằng cấp chính quy chiếm 74,8%. Về hình thức đào tạo từ
chuyền trưởng trở nên chỉ có 12,5% được đào tạo chính quy trước khi nhận việc, 12,7%
được đào tạo tại chức, 14,5% được đào tạo ngắn hạn, trong khi có tới 60,3% chưa hề
được đào tạo bên ngoài (số liệu trên đây được trích lại từ tạp chí Thương nghiệp thị
trường số tháng 5/2002). Văn hoá thấp; tay nghề thấp; thiếu hiểu biết về pháp luật và
chính sách lao động, kỹ thuật; thời gian làm việc nhiều không còn thời gian để học...
những hạn chế này dẫn tới không ít trường hợp phản ứng dây chuyền không đáng có
trong quan hệ giữa người quản lý và người lao động như đình công, lãn công, ứng xử
thiếu văn minh do bị kích động hoặc ngộ nhận bị bóc lột, lợi dụng... Về phía lực lượng
quản lý, do văn hoá thấp, tay nghề thấp, khiến việc tổ chức điều hành, tổ chức sản xuất
kém hiệu quả... Tất cả những khó khăn trên tạo thành một vòng luẩn quẩn mà ngành dệt
may nhất là may gia công chưa có biện pháp tháo gỡ hữu hiệu, và hệ quả là ngành dệt
may việc nhiều, nhưng hiệu quả vẫn thấp.
Thứ ba, hiện nay sản phẩm dệt may Việt Nam vẫn chưa thuộc diện các sản phẩm có
hệ thống ưu đãi phổ cập (GSP) của Mĩ; điều kiện để được hưởng GSP là ngoài điều kiện
Việt Nam đạt được MFN (đã có), là thành viên của IMF(đã đạt được )và WTO (chưa đạt
được ) thì cần thêm điều kiện sản phẩm dệt may Việt Nam được xuất khẩu từ chính Việt
Nam và Việt Nam phải sản xuất được toàn bộ hay ít nhất là trên 30% giá trị gia tăng của
sản phẩm dệt may. Mặt khác, Mĩ thường áp dụng hình thức kinh doanh xuất nhập khẩu
theo hình thức FOB . Đây là một thách thức lớn đối với các doanh nghiệp dệt may Việt
Nam, vì hiện nay nguồn nguyên liệu đầu vào cho ngành dệt may phần lớn vẫn phải nhập
khẩu.Thực tế cho thấy nguyên liệu đóng vai trò quan trọng và có ảnh hưởng quyết định
đến chất lượng sản phẩm và hiệu quả sản xuất sản phẩm dệt may. Nguyên liệu chính cho
ngành dệt may Việt Nam gồm: bông xơ, xơ tổng hợp, len, đay, tơ tằm, xơ liber, các loại
hoá chất cơ bản khác và thuốc nhuộm... trong đó quan trọng nhất bông xơ và xơ sợi tổng
hợp. Do không chủ động được nguồn nguyên liệu (90% nguyên liệu sử dụng cho ngành
dệt phải nhập từ nước ngoài) nên ngành dệt Việt Nam thường xuyên phải chịu sức ép
nặng nề của việc tăng giá nguyên liệu trên thế giới. Mặt khác, nguồn nguyên liệu phụ
thuộc vào nhập khẩu nhưng lại không thống nhất ở một vài đầu mối có chức năng nhập
mà do nhiều đầu mối, thậm chí không phải ngành dệt vẫn đứng ra nhập và phân phối
bông sợi theo nhiều loại giá khác nhau, đầu cơ làm biến động giá đầu vào khiến đầu ra
không ổn định. Trong khi đó, Việt Nam mới chỉ sản xuất được các loại xơ dệt chính là
bông và tơ tằm, nhưng cũng chỉ cung cấp cho ngành dệt khoảng 4000 tấn/năm, đáp ứng
được 2,5% công xuất hiện có. Nguyên liệu cho ngành may xuất khẩu cũng trong tình
trạng tương tự -nhập khẩu là chủ yếu – có tới 60%(1) kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc
là để chi trả cho cho việc mua nguyên liệu phụ kiện nước ngoaì, giá trị gia công chiếm tới
80%(1) kim ngạch xuất khẩu may mặc. Điều này dẫn đến giá trị gia tăng lợi nhuận thu về
còn quá thấp chưa tương xứng với tiềm năng và không thuận lợi cho việc kinh doanh
theo hình thực FOB (các số liệu trên đây được trích lại từ TC PTKT số tháng 5/2002; (1)-
trích lại từ TC-KTPT số33/2000). Thứ tư, thị trường Mĩ là một thị trường
được đánh giá là tương đối tự do và khá dễ tính, các đối tác của Mĩ khi vào được thị
trường Mĩ rồi sẽ phải đương đầu với sự cạnh tranh khốc liệt của các đối thủ khác. Doanh
nghiệp dệt may Việt Nam cũng không thoát khỏi quy luật đó. Tại thị trường Mĩ, hàng dệt
may Việt Nam phải cạnh tranh gay gắt với các sản phẩm tương tự (cả về chất lượng và
giá thành sản phẩm) của các đối thủ nặng ký phải kể đến như : Trung Quốc, Mexico,
Hongkong, Phi-lip-pin, Pakistan,Đài Loan, ấn Độ... Đặc biệt là Trung Quốc khi nước này
vừa mới trở thành thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới WTO. Trên
thực tế, sản phẩm dệt may cùng loại của Trung Quốc và của Mexico rẻ hơn từ 1,5-2,5
(2)lần so với hàng dệt may Việt Nam tại thị trường Mĩ, nguyên nhân chủ yếu là do hàng
dệt may Việt Nam vẫn bị đánh thuế nhập khẩu cao do Việt Nam chưa là thành viên của
WTO nên chưa được hưởng chế độ GSP của Mĩ ((2)-trích lại từ tạp chí Thương nghiệp thị
trường số 3+4/2001).
Thứ năm, nhu cầu hàng dệt may ở Mĩ là rất cao, thị hiếu khách hàng rất phong phú,
người tiêu dùng luôn muốn thay đổi mốt, mẫu mã, nhiều khách hàng không muốn mình
mặc một bộ đồ giống hệt một người khác trong cùng một buổi tiệc hoặc một buổi dạ hội
hoặc ngay cả ngoài đường... người Mĩ luôn muốn sự độc đáo, tôn thờ cái tôi ngay cả
trong cách ăn mặc. Trong khi đó, về phía các doanh nghiệp dệt may Việt Nam, công tác
thiết kế mẫu mốt còn yếu, chưa được chú trọng đúng mức. Mặc dù Việt Nam có đội ngũ
các nhà thiết kế trẻ, giàu năng lực, thế nhưng mẫu mã thiết kế chưa thật sự đi vào cuộc
sống, chủ yếu còn nặng về phần trình diễn, còn thời trang hàng ngày phần lớn lại được
sưu tầm từ các catalogue nước ngoài, khâu thiết kế còn nhiều hạn chế, mẫu mã nghèo
nàn, chưa xây dựng được thương hiệu mang nét đặc trưng và đạt tầm cỡ quốc tế. Đây
chính là một trong những nguyên nhân khiến hàng dệt may Việt Nam dù đã có ưu thế
nhưng vẫn chưa thể tự chủ để thâm nhập và phát triển mạnh trên thương trường quốc tế
nói chung và trên thị trường Mĩ nói riêng.
Người Mĩ mà đặc biệt là các thương nhân nổi tiếng là tiết kiệm thời gian, họ rất chú
trọng hiệu quả của công việc, nhịp độ cuộc sống cao, khiến họ không có nhiều thời gian
dành cho việc mua sắm cho dù họ có nhu cầu lớn. Vì vậy hàng dệt may muốn bán được
trên thị trường này thì khâu tiếp thị và dịch vụ hậu mãi phải rất tốt. Tuy nhiên hầu hết các
doanh nghiệp dệt may Việt Nam còn chưa có kinh nghiệm và thụ động trong hoạt động
tiếp thị, chưa có chiến lược tiếp thị cho hàng dệt may Việt Nam. Công tác xúc tiến
thương mại chưa kết hợp khai thác sử dụng triệt để 4 công cụ: quảng cáo, xúc tiến bán
hàng, bán hàng trực tiếp và tuyên truyền. Vấn đề khó khăn cuối cùng có
đề cập đến là: Hàng dệt may Việt Nam nhập khẩu vào Mĩ ngoài việc phải tuân thủ các
quy định liên quan đến thuế, hạn ngạch và visa, nộp các bản kê khai về xuất xứ hàng hoá,
tuân thủ các quy định về hoá đơn nhập, các quy định về nhãn mác hàng hoá, tuân theo
các quy định về hàng dễ cháy (Các sản phẩm nhập khẩu không đáp ứng được các quy
định của Chính Phủ Hoa Kỳ sẽ bị giữ lại và có thể bị phạt hay bị tịch thu); thì còn có thể
phải chịu một rủi ro khó lường trước được, đó là việc Mĩ thường khéo léo vận dụng
những hiểu biết (xét về khía cạnh pháp luật) mà khách hàng của họ, nhất là các nước
đang phát triển còn chưa nắm được tường tận, nhằm hạn chế lượng hàng hoá nhập vào thị
trường Mĩ. Minh chứng hiện hữu cho điều này là vụ con cá basa Việt Nam chinh phục
người tiêu dùng Hoa Kỳ nhưng lại vướng rất nhiều hàng rào của luật pháp Mĩ. Điều mà
chính phủ Mĩ muốn làm là bảo vệ được những doanh nghiệp trong nước sản xuất những
mặt hàng tương tự. Tuy nhiên, nếu theo đúng như những điều khoản đã thỏa thuận trong
hiệp định song phương (theo cách “fairplay”) thì chính phủ Mĩ sẽ chẳng làm gì được
ngoài việc đứng nhìn các doanh nghiệp trong nước phải gồng hết sức mình để cạnh tranh
với hàng ngoại nhập. Nhưng sự việc thường không đơn giản như người ta nghĩ, chính
phủ Mĩ luôn có cách riêng của họ- theo cách của người thống soái hay nói khác đi là họ
thường thích chơi theo kiểu kẻ mạnh lấn át kẻ yếu. Cụ thể hàng dệt may là một phần của
GATT và WTO hiện nay còn áp dụng. Cho nên những điều mà doanh nghiệp dệt may
Việt Nam chưa để ý lắm về một hiệp ước dệt may theo quy định của GATT hay là được
GATT đồng ý mà hiện nay, WTO vẫn áp dụng cho đến năm 2005. Thực tế, Mĩ đang cùng
pháI đoàn Việt Nam đàm phán về việc áp dụng hạn ngạch đối với hàng dệt may Việt
Nam nhập khẩu vào Mĩ trong năm 2004. Đây quả là bất lợi lớn cho dệt may Việt Nam, để
khắc phục khó khăn này, Việt Nam không con con đường nào khác là phải khẩn trương
ra nhập WTO
Tóm lại, thị trường Mĩ là một thị trường đầy triển vọng đối với hàng hoá Việt Nam
nói chung và đối với hàng dệt may Việt Nam nói riêng, trước một thị trường khổng lồ
này thì ngành dệt may Việt Nam có vô vàn những cơ hội. Tuy nhiên, để đặt chân được
lên mảnh đất màu mỡ này quả đã là công phu, nhưng để trụ lại được thì trở ngại nhiều mà
gian lan cũng nắm. Những vấn đề khó khăn nêu trên chỉ là những vấn đề nổi cộm nhất,
trên thực tế còn rất nhiều điều phức tạp mà doanh nghiệp Việt Nam cần chủ động tìm
hiểu để đạt độ am tường trong những hợp đồng làm ăn với thị trường tiêu thụ lớn nhất thế
giới này.
Chương III
định hướng và một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu
hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Mĩ
I. quy hoạch tổng thể và chính sách hỗ trợ phát triển của chính phủ cho ngành dệt may
Ngày 23/4/2001 Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt và ban hành Quyết định số
55/2001/QĐ-TTg về chiến lược phát triển hàng dệt may Việt Nam đến năm 2010 với các
cơ chế chính sách cởi mở cho ngành dệt may phát triển. Các chỉ tiêu sản xuất và xuất
khẩu của ngành theo giai đoạn được đề ra như sau:(xem bảng 15).
Để giúp cho ngành dệt may đạt được mục tiêu, Chính phủ đã ban hành Quyết định
55/2001/QĐ-TTg. Tại điều 2 của Quyết định nêu rõ 6 điểm hỗ trợ cho ngành trong chiến
lược phát triển đến năm 2010 cụ thể như sau:
1. Nhà nước hỗ trợ từ nguồn vốn ngân sách, vốn ODA đối với các dự án quy hoạch vùng
pghát triển vùng nguyên liệu trồng bông, trồng râu tằm, nuôi tằm; đầu tư các công trình
xử lý nước thải; quy hoạch các cụm công nghiệp dệt may; xây dựng cơ sở hạ tầng đối với
các cụm công nghiệp mới; đào tào nghiên cứu của các viện, trường, trung tâm nghiên cứu
chuyên ngành dệt may.
2. Các dự án đầu vào các lĩnh vực sản xuất: sợi, dệt, in nhuộm hoàn tất, nguyên liệu dệt,
phụ liệu may và cơ khí may:
2.1.Được vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước, trong đó 50% với mức lãi suất
bằng 50% mức lãi suất quy định hiện hành tại thời điểm rút vốn, thời hạn vay 12 năm, có
3 năm ân hạn; 50% còn lại được vay theo quy định của Quỹ hỗ trợ phát triển.
Bảng 15: Các chỉ tiêu phát triển ngành dệt may Việt Nam đến 2010
Chỉ tiêu Đơn vị Đến 2005 Đến 2010
1. Sản xuất:
_ Bông xơ
_ Xơ sợi tổng hợp
_ Sợi các loại
_ Vải lụa thành phẩm
_ Dệt kim
_ May mặc
2. Kim ngạch xuất khẩu
3. Sử dụng lao động
4. Tỷ lệ giá trị sử dụng nguyên vật liệu
nội địa trên sản phẩm may xuất khẩu
5. _ Nhu cầu vốn đầu tư phát triển
_ Vốn đầu tư mở rộng
_ Vốn đầu tư chiều sâu
Trong đó: VINATEX
6. Vốn đầu tư phát triển trồng bông
Tấn
Tấn
Tấn
Triệu m2
Triệu sp
Triệu sp
Triệu USD
Triệu người
%
Tỉ đồng
Tỉ đồng
Tỉ đồng
Tỉ đồng
Tỉ đồng
30.000
60.000
150.000
800
300
780
4.000-5.000
2,5-3
> 50
35.000
23.200
11.800
12.500
80.000
120.000
300.000
1.400
500
1.500
8.000-9.000
4-4,5
>75
30.000
20.000
10.000
9.500
1.500
Nguồn: VINATEX, trích lại từ TC PTKT tháng 5/2002
2.2. Được coi là lĩnh vực ưu đãi đầu tư và được hưởng ưu đãi đầu tư theo quy định của
Luật khuyến khích đầu tư trong nước.
3. Bộ tài chính nghiên cứu trình Chính phủ để trình Thường vụ Quốc Hội cho áp dụng cơ
chế đối với vải và phụ liệu may sản xuất trong nước nếu bán cho các đơn vị sản xuất gia
công hàng xuất khẩu tại Việt Nam được hưởng mức thuế suất thuế giá trị gia tăng như
đối với hàng xuất khẩu.
4. Đối với các doanh nghiệp nhà nước sản xuất sợi dệt, in nhuộm hoàn tất, nguyên liêu
dệt phụ liệu may:
4.1 trong trường hợp ccần thiết, được Chính phủ bảo lãnh khi mua thiết bị trả chậm, vay
thương mại của các nhà cung cấp hoặc tổ chức tài chính trong nước và quốc tế.
4.2 Được cấp lại tiền thu sử dụng vốn trong thời gian 5 năm (2001-2005) để tái đầu tư.
4.3 Được ưu tiên cấp bổ xung một lần đủ 30% vốn lưu động đối với từng doanh nghiệp.
5. Dành toàn bọ nguồn thu phí hạn ngạch và đấu thầu hạn ngạch cho dệt may cho việc
mở rộng thị trường xuất khẩu, trong đó có chi phí cho các hoạt động tham gia các tổ chức
dệt may quốc tế, cho công tác xúc tiíen thương mại và đào tạo cho ngành dệt may.
6. Chính phủ khuyến khích các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may vào thị
trường Mĩ. Bộ tài chính chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan nghiên cứu và trình
Chính phủ chính sách hỗ trợ thích hợp hàng dệt may xuất khẩu sang Mĩ
Như vậy có thể thấy ngành dệt may rất được sự quan tâm của Chính phủ Việt Nam.
Tuy nhiên, để đạt được những mục tiêu trong chiến lược phát triển đến năm 2010 ngành
dệt may cần có nhiều giải pháp đồng bộ, nhằm tận dụng được những lợi thế của ngành,
sự hỗ trợ của Chính phủ, để mở rộng cho được thị trường của mình thông qua hoạt những
động nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may nói chung và đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt
may sang thị trường Mĩ nói riêng.
II. Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu
hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mĩ
Về những giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Mĩ, đã có
nhiều giải pháp được đề cập trong rất nhiều bài nghiên cứu về vấn đề này. Trong phạm vi
nghiên cứu của bài viết (như đã trình bày ở trên), tác giả mạnh dạn đưa ra một số giải
pháp dưới hai góc độ như sau:
1. Một số giải pháp từ phía doanh nghiệp
Rõ ràng, trước mắt còn nhiều khó khăn, thách thức, nhưng phải khẳng định rằng tiềm
năng xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Mĩ là rất lớn và nhu cầu của thị trường này
cũng rất lớn. Do vậy các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh xuất khẩu hàng dệt may Việt
Nam cần thực hiện một số giải pháp chiến lược để thâm nhập và mở rộng thị trường tại
Mĩ. Một trong những giải pháp đó là:
Thứ nhất, các doanh nghiệp dệt may cần dùng nguồn vốn của mình (vốn tự có, vốn
huy động từ ngân hàng hoặc từ hỗ trợ của Chính phủ) đầu tư vào các khâu yếu của ngành
như: lĩnh vực công nghệ cần đổi mới và sử dụng công nghệ tiên tiến, nâng cấp sửa chữa
cơ sở hạ tầng hiện có,...Những doanh nghiệp có quy mô sản xuất chưa đủ lớn, chưa đáp
ứng được các đơn đặt hàng lớn, cần mở rộng quy mô sản xuất hoặc sáp nhập với các
doanh nghiệp khác để có tiềm lực mạnh. Khâu quản lý ở các doanh nghiệp dệt may cũng
cần phải sắp xếp bố chí lại theo hướng gọn nhẹ và linh hoạt để giảm thiểu chi phí và điều
hành doanh nghiệp sao cho có hiệu quả hơn. Những việc làm đó, một mặt giúp doanh
nghiệp phát triển theo chiều sâu và bền vững hơn; mặt khác đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi,
quy định của thị trường Mĩ như: yêu cầu đặt hàng số lượng lớn, đáp ứng các tiêu chẩn về
chất lượng, quy cách sản phẩm, mẫu mã, các yêu cầu về đáp ứng tiêu chuẩn SA8000,
ISO 9000, ISO 14000...
Thứ hai, để tăng tính cạnh tranh của sản phẩm dệt may trên thị trường Mĩ nói riêng và
thị trường sản phẩm dệt may Việt Nam nói chung, tăng năng suất lao động của ngành,
doanh nghiệp cần đầu tư chiều sâu vào tiềm năng con người theo hướng đào tạo đội ngũ
người lao động, lực lượng quản lý đủ năng lực, trình độ. Cụ thể, ngành cần phải nhanh
chóng xúc tiến quy hoạch hệ thống trường, trung tâm dạy nghề dệt may (từ thiết kế, kỹ
thuật, điều hành sản xuất, thương mại ...). Đây là giải pháp mang tính chiến lược cho toàn
ngành chứ không chỉ riêng cho việc đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Mĩ
Thứ ba, để có được sự cạnh tranh bình đẳng với các đối thủ cạnh tranh trong việc hưởng
các ưu đãi về thuế quan nhập khẩu hàng dệt may của Mĩ trong thời gian tới, ngay từ bây
giờ các doanh nghiệp cần phải có các biện pháp để khắc phục tình trạng nguyên liệu đầu
vào cho ngành dệt may như hiện nay. Cụ thể, các doanh nghiệp dệt và các doanh nghiệp
may cần liên kết chặt chẽ, phối hợp với nhau, cùng nhau vạch ra những giải pháp chiến
lược về phát triển nguồn nguyên liệu trong nước; như chiến lược về việc quy hoạch và
phát triển trồng bông. Cùng nhau nghiên cứu để đưa ra phương án tối ưu về nội địa hoá
sản phẩm đồng thời đề nghị Chính phủ Việt Nam hỗ trợ cho kế hoạch của mình.
Thứ tư, Vì khâu yếu của ngành may Việt Nam là thiết kế mẫu, hơn nữa nhu cầu về mẫu
mốt tại thị trường Mĩ lại rất cao nên các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần phải tự
mình hoặc cùng nhau hoặc kêu gọi sự trợ giúp của chính phủ đầu tư phát triển đội ngũ
những nhà thiết kế mẫu chuyên nghiệp. Đội ngũ này phải được đào tạo bài bản và phải
trực tiếp khảo sát thị hiếu mốt tại thị trường mà doanh nghiệp kinh doanh, với thị trường
Mĩ thì việc thị sát thị trường càng quan trọng hơn bởi đây là thị trường rất thực dụng,
mẫu mốt cần phải đi vào cuộc sống của người tiêu dùng, phải thuận tiện và phù hợp trong
công việc, phù hợp với nhịp độ cuộc sống cao của người dân. Đội ngũ này cần phải
nghiên cứu để tìm ra những sản phẩm với tỷ lệ sử dụng nguyên phụ liệu trong nước ở
mức cao hơn, phải phù hợp với thị trường Mĩ nhưng vẫn giữ được bản sắc riêng nhằm
xây dựng cho được nhãn hiệu riêng cho sản phẩm dệt may Việt Nam. Có như vậy, hàng
dệt may Việt Nam mới có thể chiếm lĩnh được sự ưu ái của khách hàng và mới thực sự
đi vào tiềm thức của khách hàng.
Thứ năm, để khắc phục tình trạng yếu kém trong hoạt động maketing, các doanh nghiệp
cần tổ chức hệ thống thông tin kịp thời về nhu cầu và phát hiện nhu cầu mới trên thị
trường Mĩ như việc đặt các trụ sở chi nhánh, văn phòng đại diện tại Mĩ có các bộ phận
Marketing hoạt động với nhiệm vụ nghiên cứu thị trường và chào hàng, tiếp thị... Các
doanh nghiệp cần đẩy mạnh tiến độ tham gia thương mại điện tử, tiếp thị sản phẩm, chủ
động trong khâu vận chuyển, đơn giản hoá thủ tục, làm lành mạnh hoá tài chính, thiết lập
đầu mối thương mại, tìm đối tác kinh doanh trên thị trường Mĩ. Đặc biệt, các doanh
nghiệp nên tìm kiếm các hợp đồng để trở thành nhà thầu cung cấp thay vì làm gia công
nhằm tối ưu hoá lợi nhuận từ xuất khẩu. Cụ thể phương pháp tối ưu đối với các nhà xuất
khẩu Việt Nam là ký các hợp đồng cho các công ty bán lẻ tại Mĩ.
Cuối cùng, các cơ quan, đơn vị có chức năng, Hiệp hội các nhà sản xuất hàng may mặc
Việt Nam cần có vai trò tích cực hơn nữa trong việc hỗ trợ cung cấp thông tin và tìm
kiếm thị trường, giới thiệu đối tác cho các doanh nghiệp. Hiệp hội cần đóng vai trò cơ
quan điều phối, trên cơ sở tự nguyện điều tiết số lượng và mức giá giữa các doanh nghiệp
xuất khẩu để tránh tình trạng cạnh tranh nội bộ, gây thiệt hại cho chính các doanh nghiệp
.
2. Nhóm giải pháp từ phía Chính phủ
2.1. Các chính sách về vốn đầu tư phát triển
2.1.1. Tạo nguồn vốn
Để thực hiện chiến lược tăng tốc phát triển ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010,
ngành dệt may cần khoảng 35.000 tỷ đồng từ nay đến năm 2005 và 30.000 tỷ đồng cho
giai đoạn 2006 - 2010 (xem bảng 14). Đây là số vốn lớn, cần phải huy động từ nhiều
nguồn và từ nhiều thành phần kinh tế: Nhà nước, tư nhân, vốn đầu tư nước ngoài và các
tổ chức tín dụng. Đầu tư của Nhà nước tập trung vào những công trình trọng điểm, các xí
nghiệp dệt, nhuộm hoàn tất có quy mô sản xuất lớn, sản xuất ra các sản phẩm đạt tiêu
chuẩn xuất khẩu. Hàng năm chính phủ nên dành một phần vốn ODA cho ngành dệt may
với lãi suất ưu đãi, để mua nguyên liệu (bông, sợi,...) dự trữ và đầu tư vào các công trình
vừa và nhỏ, nghiên cứu và tạo mẫu thời trang.
a. Vốn trong nước
Việc cổ phần hoá các doanh nghiệp dệt may phải được đẩy mạnh hơn nữa để tạo
nguồn vốn đầu tư cho ngành dệt may phát triển một cách chủ động, năng động. Một giải
pháp để tháo gỡ các vướng mắc hiện nay đang cản trở quá trình cổ phần hoá ngành dệt
may là, tiến hành ngay từ đầu với các doanh nghiệp thành lập mới ở các địa phương theo
hình thức hợp tác giữa Tổng công ty dệt may và địa phương.
b. Vốn đầu tư nước ngoài
Đối với ngành dệt đòi hỏi có nguồn đầu tư lớn, cần có những chính sách khuyến
khích đầu tư nước ngoài dưới mọi hình thức như: các xí nghiệp liên doanh, cổ phần hay
100% vốn nước ngoài. Đối với ngành may, tuy các doanh nghiệp may trong nước hiện
nay đã có đủ khả năng gia công các sản phẩm, nhưng nếu Việt Nam muốn có một ngành
công nghiệp may thực sự hướng tới xuất khẩu trực tiếp thì vẫn nên thu hút vốn đầu tư
nước ngoài vào lĩnh vực may, ưu tiên các dự án sản xuất các sản phẩm trong nước chưa
sản xuất được. Các sản phẩm may của các doanh nghiệp này với các ưu thế về công nghệ,
nguyên liệu, mẫu mã sẽ mở đường cho sản phẩm may với nhãn hiệu hàng hoá Việt Nam
trên thị trường Hoa Kỳ.
Thu hút sự giúp đỡ của các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức môi trường thế giới cho
“sản phẩm công nghiệp xanh và sạch”. Hiện các doanh nghiệp dệt đang rất khó khăn
trong việc tìm nguồn để thay đổi công nghệ dệt, nhuộm theo các quy định ISO 9000 và
ISO 14000. Bên cạnh đó, chính phủ cần có chính sách khuyến khích đầu tư vào các dự án
sản xuất sản phẩm mới theo tiêu chuẩn TMQ, ISO 14000, ISO 9000. Triển khai và tăng
cường hiệu quả của hợp tác công nghiệp ASEAN (AICO), nhằm thu hút công nghệ mới
trong nước và hợp tác phát triển.
2.1.2. Quy mô đầu tư
Phát triển ngành may dưới hình thức các doanh nghiệp vừa và nhỏ như hiện nay là
một xu hướng hợp lý. Các doanh nghiệp kéo sợi, dệt, nhuộm hoàn tất nên tổ chức sản
xuất theo quy mô lớn. Các nhà máy dệt có quy mô lớn, trang thiết bị đồng bộ mới đủ khả
năng cung cấp nguyên liệu cho những lô hàng lớn đủ tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn chất
lượng cho may xuất khẩu. Các doanh nghiệp may xuất khẩu với quy mô 350 - 500 đơn vị
thiết bị được đánh giá là có hiệu quả sản xuất cao. Những doanh nghiệp có quy mô dưới
350 đơn vị thiết bị thì khó đáp ứng yêu cầu của các đơn hàng lớn, khó có khả năng chịu
những chi phí về giao nhận, vận tải cũng như tiếp cận thị trường, cần có sự đỡ đầu về kỹ
thuật, thị trường hoặc bao tiêu sản phẩm. Trong khi các doanh nghiệp may có quy mô quá
lớn thường không sử dụng được hết năng lực thiết bị, đồng thời khó chuyển đổi công
nghệ sản xuất sản phẩm mới.
Về việc phân bổ đầu tư sao cho có hiệu quả phải được tính trên phạm vi toàn ngành,
tập trung cho ngành dệt và sản xuất phụ liệu may. Đầu tư chọn lọc theo mặt hàng có thế
mạnh nhằm tạo khả năng liên kết, hợp tác và khai thác tốt hơn năng lực thiết bị.
Ngoài ra, chính sách đầu tư vốn của nhà nước đối với ngành dệt may cần phải chú ý
đến các vấn đề sau:
- Nhà nước cần cung cấp đủ định mức vốn lưu động cho các doanh nghiệp dệt may
quốc doanh, bằng cách bổ sung vốn lưu động bằng vốn ngân sách.
- Cho phép doanh nghiệp giữ lại lợi nhuận sau thuế để đầu tư phát triển.
- Ngân hàng nên nới lỏng điều kiện cho vay phù hợp với tốc độ tăng của giá. Cần
đổi mới cơ cấu vốn vay, tăng vốn trung và dài hạn.
2.2. Các chính sách về thuế
Giảm thuế VAT cho hàng sợi, dệt xuống 5%. Không thu thuế VAT ngay tại cửa
khẩu đối với nguyên liệu, vật tư nhập khẩu. Việc hoàn thuế tạm nhập tái xuất cần phải
tiến hành nhanh hơn, tránh tình trạng chiếm dụng vốn của nhà xuất khẩu kéo dài (trong
thực tế hiện nay diễn ra quá chậm). Nhà nước nên quy định cơ quan nào thu thuế thì có
trách nhiệm hoàn trả thuế để các doanh nghiệp không phải gõ cửa nhiều nơi đòi thuế.
áp dụng mã thuế một cách nhất quán đối với chất trợ và vật liệu phụ cho ngành dệt
(vật tư nào có mã số thuế ngành dệt thì không áp dụng theo mã các ngành khác). Miễn
thuế phần lợi nhuận được dùng để tái đầu tư vào ngành dệt.
2.3. Tín dụng và trợ cấp xuất khẩu
Tín dụng và trợ cấp xuất khẩu là công cụ hữu hiệu của nhà nước để khuyến khích xuất
khẩu hàng hoá. Đối với ngành dệt may nên thực hiện một số giải pháp sau:
- Thành lập quỹ bảo hiểm và quỹ hỗ trợ xuất khẩu chung cho cả nước, đồng thời cho
phép Tổng công ty Dệt may thành lập quỹ bảo hiểm riêng của ngành nhằm hỗ trợ cho các
doanh nghiệp khi giá cả trên thị trường thế giới có biến động, cũng như khi gặp rủi ro
trong việc thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu.
- Chính phủ hỗ trợ các doanh nghiệp thông qua công cụ lãi suất. Một điều quan trọng
là, nhà nước cần phải thực hiện tốt chính sách khuyến khích xuất khẩu như thưởng hạn
ngạnh, thưởng khuyến khích cho các doanh nghiệp không xuất khẩu nhưng có khả năng
tìm và giới thiệu thị trường, và các doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia xuất khẩu trực tiếp.
Tạo điều kiện cấp vốn cho các doanh nghiệp có sản phẩm, có thị trường nhưng thiếu vốn.
- Chính phủ cần cấp tín dụng ưu đãi cho ngành để phát động những vùng trồng bông
rộng lớn. Phát triển vùng trồng bông có ý nghĩa rất lớn, đáp ứng nguồn nguyên liệu cơ
bản, tránh được những bất lợi và thế bị động khi xảy ra những biến động về giá trên thị
trường nguyên liệu thế giới.
- Chính phủ cũng cần hỗ trợ cho các doanh nghiệp may xuất khẩu sang thị trường Mỹ
bằng, cách dùng quỹ hỗ trợ xuất khẩu trị giá cho các lô hàng mua đứt bán đoạn, trực tiếp
xuất khẩu vào Mỹ.
2.4. Tổ chức hệ thống thông tin, hỗ trợ tìm hiểu thị trường, xúc tiến xuất khẩu
Về nguyên tắc cơ bản hệ thống thông tin cần phải đảm bảo các tiêu chuẩn sau: đơn
giản, rõ ràng, liên tục, thường xuyên, thống nhất về tiêu chí thông tin, phù hợp với tập
quán quốc tế. Thông tin phải được nối trực tiếp từ cơ quan cung cấp đến cơ quan sử dụng
thông tin theo một mạng điều hành thông tin riêng. Cần thiết lập một mạng thông tin cơ
bản giữa các Cơ quan Quản lý kinh tế Nhà nước, cụ thể giữa Tổng cục Hải quan, Bộ
Thương mại, Tổng cục Thống kê, Ngân hàng ngoại thương Việt Nam, Ban vật giá Chính
phủ.(xem sơ đồ 3)
Sơ đồ 3: Sơ đồ tổ chức hệ thống thông tin
Đa dạng hoá thông tin xung quanh mạng cơ bản, cụ thể phát triển các thông tin ở các
Bộ, Ngành nói trên.
Chính phủ
Các Bộ, Ngành quản lý kinh tế của Chính phủ
Tổng cục Hải Quan
Các doanh
nghiệp sản xuất
xuất nhập khẩu
hàng dệt may do
địa phương
quản lý
Các doanh nghiệp
sản xuất xuất
nhập khẩu hàng
dệt may do Chính
phủ quản lý
Các doanh
nghiệp sản
xuất xuất nhập
khẩu hàng dệt
may do các Bộ,
Ngành quản lý
- Các doanh nghiệp sản xuất, xuất nhập khẩu hàng dệt may thuộc địa phương quản lý,
do chi cục Hải quan ở địa phương thu thập và xử lý thông tin, nối mạng với Tổng cục Hải
quan.
- Các doanh nghiệp sản xuất, xuất nhập khẩu hàng dệt may thuộc Chính phủ hoặc các
Bộ, Ngành quản lý, khi thực hiện xuất nhập khẩu ở cảng nào do chi cục Hải quan địa
phương đó tập hợp và báo cáo về Tổng cục Hải quan (qua mạng nội bộ).
- Về nội dung báo cáo nên quy định rõ: mặt hàng xuất khẩu hay nhập khẩu, số lượng,
giá cả, đơn vị tính, ngày nhận hàng hay rời cảng.
Ngoài ra, Hải quan nên cấp cho những doanh nghiệp xưa nay làm ăn nghiêm chỉnh
một chứng chỉ "xanh" để giảm bớt hơn nữa phiền hà trong thủ tục hải quan.
Đối với hệ thống thông tin khoa học công nghệ cần được thực hiện theo giải pháp
dưới đây:
Hệ thống thông tin khoa học của ngành phải mang tính hệ thống, tức là phải đảm bảo
được việc phục vụ thông tin khoa học công nghệ ở mọi cấp độ, từ cấp tổng công ty đến
cấp công ty thành viên đến các nhà máy, xí nghiệp. Hệ thống thông tin này nên là hệ
thống thông tin mở. Trước hết phải tổ chức đầu mối thông tin ở cấp độ tổng công ty, sau
đó tiếp nhận dần các đầu mối khác. Tên gọi chung ở các đầu mối thường là “Trung tâm
thông tin tư liệu”. ở mỗi cấp, mỗi trung tâm thông tin tư liệu được xây dựng với quy mô
vừa phải, đảm bảo cho yêu cầu phục vụ khoa học kỹ thuật công nghệ vừa phải ở diện
rộng lại vừa phải chuyên sâu.
Sơ đồ 4: Sơ đồ tổ chức hệ thống thông tin khoa học
Trung tâm thông tin tư
liệu Tổng công ty dệt
may Việt nam
Trung tâm Phòng thông
tin tư liệu
Ban thông
tin
Phòng
ban
thông
Phòng
ban
Phòng
thông
Phòng
thông
Ban
thông
tin tư
Ban
thông
tin tư
Dù ở cấp độ quy mô nào thì hoạt đông thông tin cũng xoay quanh mối quan hệ:
Sơ đồ 5: Mối quan hệ của hoạt động thông tin
Chính phủ nên nhanh chóng xúc tiến việc thành lập một cơ quan xúc tiến thương mại,
bố trí đại diện thương mại, phòng trưng bày hàng xuất khẩu thường trực, cung cấp thông
tin về thị trường Mỹ. Cơ quan này đóng vai trò cung cấp thông tin và môi giới hàng xuất
nhập khẩu cho cả hai bên. Tăng cường vai trò của các tổ chức xúc tiến thương mại trong
và ngoài nước, hỗ trợ doanh nghiệp trong công tác marketing. Bên cạnh việc tìm hiểu
cung cấp thông tin về thị trường, giá cả, đặc điểm kinh tế, văn hoá, xã hội, cũng như bản
sắc truyền thống dân tộc Mỹ cũng cần có chính sách tiếp cận, khai thông và phát triển thị
trường với từng phân đoạn thị trường. Hoạt động tìm hiểu thị trường thường vượt quá khả
năng tài chính của các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các đại diện
thương mại phải nắm bắt và cung cấp kịp thời các thông tin về sự thay đổi giá cả, tỷ giá,
quy định hải quan, chính sách thương mại... của nước nhập khẩu. Giới thiệu sản phẩm
Việt Nam, tìm hiểu nhu cầu mặt hàng của người tiêu dùng. Tìm hiểu xu hướng thời trang,
cung cấp thông tin về mẫu, mốt. Giới thiệu thông tin quảng cáo các phụ liệu may do Việt
Nam sản xuất. Tìm hiểu, tiếp cận hệ thống phân phối hàng dệt may của Mỹ, và giúp
doanh nghiệp tiếp cận với các nhà nhập khẩu trực tiếp. Các đại diện thương mại còn có
nhiệm vụ giúp các doanh nghiệp trong nước tìm hiểu, tiếp cận đối tác nước ngoài, nâng
cao hiệu quả của việc tham gia triển lãm, hội chợ. Khi giới thiệu sản phẩm tại các hội chợ
triển lãm, các doanh nghiệp cần có sẵn danh mục các đối tác đã được nghiên cứu chọn lọc
từ trước.
Hiệp hội Dệt may Việt Nam phải phát huy được vai trò của mình, xúc tiến giao dịch
được với Hiệp hội Dệt may Mỹ, thực hiện nghiêm túc Luật về quyền sở hữu trí tuệ, nhãn
hiệu, mẫu mã. Thành lập các trung tâm thương mại để giới thiệu sản phẩm, tạo nên sức
mạnh tổng hợp trong phối hợp đầu tư, thông tin, thị trường, giá cả, tư vấn khoa học công
nghệ và đào tạo nhân lực.
2.5. Nguyên liệu và phát triển sản phẩm
Quy hoạch phát triển vùng nguyên liệu các loại tơ, sợi thiên nhiên cho ngành dệt, và
có các chính sách khuyến khích đầu tư phát triển vùng nguyên liệu, tạo nguồn nguyên
liệu ổn định cho sự phát triển ngành dệt, đồng thời đặt cơ sở cho sự hình thành và sản
xuất sợi hoá học. Kết hợp với ngành sản xuất hoá chất để cung cấp thuốc nhuộm và các
hoá chất khác cho ngành dệt.
Khuyến khích đầu tư cho sản xuất phụ liệu và sản xuất vải đủ tiêu chuẩn xuất khẩu
cũng như giảm bớt sự phụ thuộc. Đồng thời xây dựng hệ thống các chính sách sử dụng
nguyên phụ liệu sản xuất trong nước (chính sách thuế, hàm lượng nội địa của sản phẩm
xuất khẩu).
Bông: Phải có chiến lược đồng bộ về cơ chế tổ chức giữa vùng nguyên liệu và chế
biến. Những chính sách lớn của nhà nước về cây bông, đầu tư khoa học kỹ thuật cho
giống, phòng chống sâu bệnh, xây dựng vùng trọng điểm đa canh, củng cố hệ thống
khuyến nông, xây dựng giá và bảo hiểm giá, nâng cao chất lượng cây bông, khuyến khích
nông dân mở rộng diện tích trồng bông đặc biệt khai thác vùng đất Tây Nguyên có điều
kiện phát triển. Mục tiêu đến năm 2005 sẽ nâng sản lượng lên 30.000 tấn bông xơ (năm
2001 là 10.000 tấn) đáp ứng được 30% nguyên liệu cho ngành dệt.
Tơ tằm: Việt Nam mới xuất khẩu nguyên liệu là chính, nên trong tương lai cần có
công nghệ chế biến sản phẩm có chất lượng để xuất khẩu đạt hiệu quả kinh tế cao. Đến
năm 2010 phấn đấu đạt từ 8.000 - 10.000 tấn/năm.
Xơ PE và tơ PE: Dự kiến đến năm 2010 cả tơ và xơ PE sử dụng lên tới gần 20 vạn
tấn. Với quy mô 5 - 6 tấn/năm cho một công trình thì hiện tại hai công trình 100% vốn
nước ngoài là Hualon và Samsung đủ cho tự túc trong nước hiện nay. Việt Nam đang đi
vào xây dựng công trình lọc dầu Dung Quất, cho nên về nguyên liệu xơ và tơ PE đến
2010 là triển vọng.
Nhằm đáp ứng và đón đầu yêu cầu ngày càng cao về môi trường an toàn sản xuất,
ngay từ bây giờ phải có chính sách khuyến khích đầu tư cho sản xuất dệt “xanh - sạch”
theo các tiêu chuẩn ISO 9000 và ISO 14000.
Khi vào thị trường Mỹ nhãn hiệu là cực kỳ quan trọng, nên rất cần sự hỗ trợ của nhà
nước cho công tác đăng ký nhãn hiệu hàng hoá, nhãn hiệu thương mại. Có chính sách hỗ
trợ, khuyến khích đầu tư cho khâu thiết kế và sản xuất hàng mẫu, đầu tư đào tạo đội ngũ
cán bộ...
2.6. Chính sách tổ chức quản lý
Khắc phục những bất cập trong công tác quản lý xuất nhập khẩu, các chính sách tài
chính - thuế, vốn ưu đãi đầu tư... Cải cách thủ tục hành chính rườm rà đang gây nhiều trở
ngại cho các nhà đầu tư, cũng như cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nhằm tạo
môi trường thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp, tạo thế mạnh trong thu hút đầu
tư nước ngoài thông qua hệ thống chính sách hợp lý, thông thoáng.
Tổ chức sắp xếp lại các doanh nghiệp dệt may trên phạm vi cả nước, theo phương
châm gắn vùng công nghiệp dệt với vùng nguyên liệu, công nghiệp may với các trung
tâm tiêu thụ và xuất khẩu. Cụ thể là:
- Gắn vùng công nghiệp dệt may với các vùng công nghiệp khác nhằm tận dụng lao
động, mối quan hệ liên ngành.
- Gắn các công trình mới về kéo sợi và dệt vải tổng hợp với khu vực quy hoạch của
nhà nước về dầu khí; các công trình chế biến kéo sợi dệt tơ tằm với vùng nguyên liệu dâu
tằm.
- Gắn công nghiệp dệt may (là công nghiệp sử dụng nhiều lao động) vào các trung tâm
dân cư, vừa để tận dụng lao động tại chỗ, vừa tận dụng điều kiện hạ tầng giao thông, dịch
vụ, văn hoá, thông tin, vận chuyển, ...
- Gắn công nghiệp dệt may quy mô nhỏ, xí nghiệp cổ phần, xí nghiệp tư nhân và các
hộ cá thể với vùng làng nghề truyền thống để phát huy mạnh mọi thành phần kinh tế cùng
tham gia phát triển ngành.
- Gắn công nghiệp dệt may thành khu công nghiệp liên hoàn nguyên liệu, sợi, dệt,
may, dịch vụ,... giảm chi phí vận chuyển nguyên liệu, sản phẩm, nâng cao mạng lưới
công nghiệp hoá và có điều kiện gọi vốn đầu tư nước ngoài.
2.7. Chính sách về lao động, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực
Cần có chính sách hỗ trợ, khuyến khích và thu hút các học sinh có đủ khả năng theo
học ngành công nghệ may, công nghiệp dệt. Khắc phục tình trạng thiếu kỹ sư dệt may
trầm trọng hiện nay. Đầu tư cho các trường dạy nghề, đào tạo công nhân kỹ thuật đáp ứng
yêu cầu sản xuất theo dây chuyền hiện đại, đào tạo đội ngũ công nhân có tay nghề cao
thực sự trở thành thế mạnh của ngành dệt may Việt Nam.
Mở các trường đào tạo chính quy thiết kế mẫu sản phẩm. Ưu tiên đào tạo các chuyên
gia về thiết kế mẫu thời trang và marketing. Cần có chính sách hỗ trợ đảm bảo công ăn
việc làm, nguồn thu nhập ổn định cho người lao động. Khắc phục tình trạng thiếu lao
động do các kỹ sư công nghệ và công nhân có tay nghề bị hút sang công ty liên doanh.
Từng bước tạo lập cơ sở để có thể xuất khẩu trực tiếp sang Mỹ các sản phẩm mang
thương hiệu Việt Nam.
2.8. Hoàn thiện cơ chế xuất nhập khẩu
- Cần đơn giản hoá thủ tục nhập khẩu phụ liệu, nguyên liệu, nhập hàng mẫu, nhập
bản vẽ để thực hiện các hợp đồng gia công hiện nay vẫn còn rườm rà, mất nhiều thời
gian, gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp .
- Đơn giản hoá thủ tục hoàn thuế nhập khẩu, và xây dựng mức thuế chi tiết cho các
loại nguyên liệu nhập khẩu. Cải tiến thủ tục hoàn thuế cho các doanh nghiệp sản xuất
hàng nguyên phụ liệu cho các doanh nghiệp khác may xuất khẩu. Đồng thời tính phần
“xuất khẩu tại chỗ” này vào tỷ lệ sản phẩm xuất khẩu quy định tại giấy phép đầu tư. Giảm
khó khăn của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong việc thực hiện quy định
này, đặc biệt là những năm đầu tiên sản xuất chưa ổn định.
- Cho phép doanh nghiệp xuất khẩu nộp thuế giá trị gia tăng đối với nguyên liệu đầu
vào sau khi sản xuất, thay vì phải nộp ngay khi hàng về.
Kết luận
Đẩy mạnh xuất khẩu là mục tiêu quan trọng của hoạt động kinh tế đối ngoại. Điều này
đã được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII Đảng cộng sản Việt nam khẳng định, là
điều kiện để thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế với tốc độ cao, là tiền đề để thực
hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt
Nam sang thị trường Mĩ chỉ là một phần rất nhỏ trong chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu
hàng hoá Việt Nam ra thị trường nước ngoài nói riêng và chiến lược phát triển kinh tế đất
nước nói chung. Tuy nhiên, đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường
Mĩ là việc làm không phải một sớm một chiều, đó là cả quá trình mà trong đó cần phải có
sự lỗ lực thực hiện chiến lược, hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch của toàn ngành dệt may Việt
Nam và cần phải có thời gian. Nhưng những thuận lợi và những thời cơ mà các doanh
nghiệp dệt may Việt Nam có được tại thị trường Mĩ lại không tồn tại mãi mãi, nó sẽ trôi
đi nếu như các doanh nghiệp không kịp thời tận dụng được. Những khó khăn mà doanh
nghiệp dệt may Việt Nam vấp phải không thể ngay một lúc giải quyết được mọi việc, đặc
biệt là những khó khăn xuất phát từ phía đối tác. Những biện pháp mà tác giả đưa ra, có
thể chỉ phù hợp với từng doanh nghiệp, cũng có thể áp dụng cho toàn ngành hoặc là gợi ý
cho các chính sách của Chính phủ. Nhưng để tìm ra một biện pháp tối ưu không phải là
chuyện dễ, nó phụ thuộc phần lớn từ phía doanh nghiệp. Tuy vậy, với phạm vi của bài
viết và những biện pháp đã đề ra, tác giả hy vọng góp phần nhỏ bé giúp các doanh nghiệp
dệt may tìm ra những biện pháp hữu hiệu nhất cho doanh nghiệp mình để đẩy mạnh xuất
khẩu sang thị trường được đánh giá là tiềm năng nhất hiện nay, đó là thị trường Mĩ./.
Lời mở đầu ................................................................................................................................ 1
CHƯƠNG I ............................................................................................................................... 4
Lý LUậN CHUNG Về XUấT KHẩU ...................................................................................... 4
và tình hình sản xuất, buôn bán hàng dệt may ........................................................................ 4
trên thế giới ............................................................................................................................... 4
I . khái niệm và vai trò của xuất khẩu ...............................................................................4
Bàn về vai trò của hoạt động xuất khẩu ......................................................................... 5
II . các hình thức xuất khẩu chủ yếu .................................................................................9
1. Xuất khẩu trực tiếp ...................................................................................................... 9
2. Xuất khẩu gián tiếp .................................................................................................... 10
3. Xuất khẩu uỷ thác ...................................................................................................... 11
4. Buôn bán đối lưu ....................................................................................................... 11
5. Gia công quốc tế ........................................................................................................ 12
6. Xuất khẩu tại chỗ ....................................................................................................... 12
7. Xuất khẩu theo nghị định thư ................................................................................... 13
8. Tái xuất khẩu ............................................................................................................. 13
III. nội dung của hoạt động kinh doanh xuất khẩu. ....................................................... 13
1. Nghiên cứu thị trường ............................................................................................... 13
2. Lập phương án kinh doanh ....................................................................................... 16
3. Đàm phán và ký kết hợp đồng. ................................................................................ 18
4. Thực hiện hợp đồng xuất khẩu, giao hàng và thanh toán. ...................................... 19
III. các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu ...................................................... 23
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế nói
chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng cho phép các nhà kinh doanh thấy được
những gì họ sẽ phải đối mặt và đứng trước tình thế đó thì họ phải xử lý như thế nào?
Tuỳ từng phạm vi nghiên cứu sẽ có các yếu tố khác nhau và mức độ ảnh hưởng
khác nhau đến hoạt động xuất khẩu, cụ thể như: ......................................................... 23
1.Các yếu tố thuộc phạm vi doanh nghiệp ................................................................... 23
2. Các yếu tố thuộc phạm vi quốc gia .......................................................................... 25
3. ảnh hưởng của xu hướng biến động về mối quan hệ kinh tế -xã hội thế giới ........ 28
V. tình hình sản xuất và buôn bán hàng dệt may .......................................................... 29
trên thế giới ...................................................................................................................... 29
1. Tình hình sản xuất và tiêu thụ hàng dệt may trên thị trường thế giới .................... 29
2. Tình hình buôn bán hàng dệt, may thế giới ....................................................... 32
3. Quá trình tự do hoá buôn bán toàn cầu hàng dệt may và những tác động tới buôn
bán hàng dệt may thế giới ............................................................................................. 35
Chương II ................................................................................................................................ 39
Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may việt nam ....................................................................... 39
vào thị trường Mĩ, giai đoạn 1997-2002 ............................................................................... 39
I. tình hình sản xuấtvà xuất khẩu hàng dệt may của việt nam, giai đoạn 1997-2002 40
1. Thực trạng sản xuất của ngành dệt may, giai đoạn 1997-2002 ............................. 40
1.1. Năng lực sản xuất của ngành dệt may ................................................................... 40
Biểu đồ 3: Sản lượng vải lụa các loại ........................................................................... 46
2. Tình hình xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam, giai đoạn 1997-2002 .................... 48
II. Khái quát về thị trường hàng dệt may tại Mĩ và quan hệ thương mại việt- mĩ ...... 53
1. Khái quát về thị trường Mĩ * ..................................................................................... 53
1.1. Thị trường lớn nhất thế giới ................................................................................... 54
1.3. Cơ cấu nhập khẩu thiên về hàng tiêu dùng và quan hệ với bạn hàng theo chiều sâu
.......................................................................................................................................... 56
2. Khái quát về quan hệ thương mại Mĩ -Việt Nam .................................................... 57
3. Những quy định pháp lý liên quan tới việc hàng dệt may nhập khẩu vào
thị trường Mĩ .................................................................................................................. 59
Thuế phi MFN......................................................................................................................... 60
MFN......................................................................................................................................... 60
20,6% ....................................................................................................................................... 60
4. Tình hình sản xuất và xuất nhập khẩu hàng dệt may của Mĩ .................................. 70
III. Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Mĩ, giai đoạn 1997-
2002 .................................................................................................................................. 75
1. Về kim ngạch xuất khẩu ............................................................................................ 75
Đơn vị: Triệu USD ........................................................................................................ 76
2.Về cơ cấu sản phẩm .................................................................................................... 78
IV . đánh giá chung về hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Mĩ,
giai đoạn 1997-2002 ........................................................................................................ 81
1. Những thuận lợi của xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Mĩ ......... 81
2. Những khó khăn và thách thức đối với hàng dệt may Việt Nam khi xuất khẩu vào
thị trường Mĩ .................................................................................................................. 83
Chương III ............................................................................................................................... 89
định hướng và một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu .......................................................... 89
hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Mĩ ........................................................................... 89
I. quy hoạch tổng thể và chính sách hỗ trợ phát triển của chính phủ cho ngành dệt may
.......................................................................................................................................... 89
II. Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu ...................................................................... 93
hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mĩ ................................................................. 93
1. Một số giải pháp từ phía doanh nghiệp ................................................................... 93
2. Nhóm giải pháp từ phía Chính phủ .......................................................................... 95
Kết luận ................................................................................................................................. 106
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 100727_0166.pdf