Luận văn Dự báo thị trường xe máy thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng

Hoạt động phát triển thị trường là một công tác giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong kinh doanh của các doanh nghiệp. Đối với CIRI, một công ty có quy mô còn nhỏ, kinh nghiệm hoạt động kinh doanh trong các lĩnh vực nói chung và lĩnh vực xe gắn máy nói riêng còn hạn chế, thì công tác phát triển thị trường càng là vấn đề sống còn đối với hoạt động của công ty. Hoạt động này sẽ giúp cho công ty từng bước tham gia hội nhập vào nền kinh tế thế giới, gia tăng được quy mô, giảm những rủi ro trong kinh doanh đến mức tối thiểu, đồng thời cũng là hoạt động giúp cho công ty thu được các kinh nghiệm kinh doanh quý báu.

pdf95 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2763 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Dự báo thị trường xe máy thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
in về các thị trường đầy tiềm năng và hấp dẫn. - Công tác đào tạo và đào tạo lại người lao động của doanh nghiệp trong thời gian qua chưa được chú ý đúng mức. Do đó dẫn đến tình trạng các hoạt động sản xuất của doanh nghiệp gặp một số khó khăn nhất định .Hoạt động quản lý nguồn nguyên liệu đầu vào của doanh nghiệp còn yếu. Mặc dù doanh nghiệp đã rất cố gắng trong việc áp dùng các phương pháp quản trị nguyên liệu tiên tiến của nước ngoài trong việc quản lý các nguyên liệu đầu vào và các phụ tùng để lắp ráp xe máy song do còn thiếu kinh nghiệm lại không được qua đào tạo bài bản cho nên hoạt động quản lý naỳ còn vấp phải nhiều thiếu sót, nhiều khi gây thiếu hụt đầu vào đối với việc lắp ráp sản phẩm hay các nguyên liệu và phụ tùng lắp ráp của công ty thiêú đi chất lượng cần thiết. Điều khiến cho công tác thị trường nhiều khi bị ảnh hưởng vì sản xuất lúc chậm chễ, lúc thì kém chất lượng. 5.3.2 Các nguyên nhân từ phía Nhà nước. - Do việc ban hành các chính sách liên quan đến các hoạt động kinh doanh xe gắn máy còn thiếu tính nhất quán và thiếu tầm nhìn chiến lược. Điều này đã gây ra những trở ngại rất đáng kể cho hoạt động kinh doanh và hoạt động phát triển thị trường của công ty nói chung. Thí dụ như các chính sách cấm nhập khẩu các xe máy nguyên chiếc mới được ban hành gần đây và kiểm tra quá gắt gao việc nhập khẩu các linh kiện đầu vào, tỉ lệ nội địa hoá sản phẩm đối với hoạt động lắp ráp xe gắn máy của doanh nghiệp. Điều này đã khiến cho doanh nghiệp gặp rất nhiều các phiền toái trong sản xuất và kinh doanh xe máy. Quá nhiều các cuộc điều tra của nhà nước đối với doanh nghiệp đã khiến cho doanh nghiệp không thể hoạt động kinh doanh như bình thường, vì công ty phải luôn vừa hoạt động vừa phải nghe ngóng tình hình từ phía nhà nước. Hay như do nhà nước không có chiến lược phát triển ngành công nghiệp xe máy một cách chi tiết và có tầm nhìn chiến lược cao, cho nên đã dẫn đến tình trạng cấp phép ồ ạt cho các doanh nghiệp sản xuất và lắp ráp xe máy mà không biết đến hậu quả, điều đó đã làm cho CIRI điêu đứng vì một lúc vấp phải quá nhiều các đối thủ cạnh tranh khác nhau cả trong nước và nội điạ. Cũng do nguyên nhân này mà trước đây xe máy được coi là ngành công nghiệp được ưu tiên phát triển nay nhà nước trước thực trạng ùn tắc giao thông và có quá nhiều các doanh nghiệp lắp ráp xe máy lại cho rằng xe máy không còn là lĩnh vực được ưu tiên phát triển nữa. Đây cũng là một trong những điều khiến cho hoạt động kinh doanh của CIRI gặp rất nhiều các trở ngại. Nhìn chung với bất kỳ một chiến lược hay chính sách nào của chính phủ yêu cầu quan trọng nhất của nó là tính ổn định và nhất quán thì mới có thể thúc đẩy việc kinh doanh và phát triển thị trường của doanh nghiệp được. - Do nhà nước ban hành danh mục phụ tùng xe máy nhập khẩu được hưởng chính sách ưu đãi theo tỉ lệ nội địa hoá để kích thích việc sản xuất phụ tùng trong nước phát triển, mà công ty thì không thể sản xuất tất cả các phụ tùng bộ phận của xe máy cho nên công ty phải định giá bán các sản phẩm của mình khá cao để bù đắp được chi phí sản xuất và thu được lợi nhuận. Tuy nhiên việc đề ra mức gía cao đối với các sản phẩm xe máy của doanh nghiệp lại là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc phát triển thị trường xe gắn máy của công ty gặp nhiều khó khăn. - Các chính sách khuyến khích khác đối với ngành sản xuất xe máy của nhà nước còn chưa đủ sức hấp dẫn và có nhiều điều bất cập. Thứ nhất là việc cho vay vốn kinh doanh của nhà nước còn có lãi suất quá cao, không linh hoạt, cho nên rất khó để cho công ty có thể tiến hành đầu tư vào một dây chuyền sản xuất hiện đại nhằm cải tiến chất lượng, hạ giá thành sản phẩm vì không có đủ vốn. Tiếp nữa các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp trong việc tìm kiếm khách hàng trong lĩnh vực xe máy cũng chưa được nhà nước quan tâm thích đáng. Nhiều khi các thông tin về thị trường các nước nhập khẩu xe máy tiềm năng không hề được chính phủ hỗ trợ và doanh nghiệp chỉ có thể biết được điều này nếu có một hệ thống thông tin thị trường tốt mà thôi. - Ngoài ra một vấn đề hết không thể không nói đến ảnh hưởng đến công tác phát triển thị trường của doanh nghiệp xét trên bình diện của quốc gia và của nhà nước đó là công tác xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng, giao thông của ta không tốt và thiếu tầm nhìn chiến lược, điều đó gây ảnh hưởng rất lớn đối với hoạt động kinh doanh xe gắn máy của công ty nói riêng và của toàn ngành xe máy nói chung. Nó cũng chính là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc thay đổi thường xuyên và liên tục của các chính sách của chính phủ liên quan đến sản xuất và tiêu thụ các chủng loại xe gắn máy của các doanh nghiệp. Kết luận Chương II. Qua việc nghiên cứu và vận dụng hệ thống các lý luận về thị trường và công tác phát triển thị trường ở chương 1 vào việc phân tích thực trạng của hoạt động phát triển thị trường ở công ty CIRI đã giúp cho chúng ta phần nào hiểu được hoạt động phát triển thị trường của CIRI trong thời gian qua và sự cần thiết phải phát triển thị trường của công ty CIRI. Mặc dù trong thời gian qua CIRI trong hoạt động phát triển thị trường đã đạt được nhiều kết quả tốt song về cơ bản hoạt động phát triển thị trường của CIRI còn yếu và có rất nhiều các điểm hạn chế. Công ty quá tập trung vào thị trường một khu vực, thiếu khả năng phát triển thị trường tìm kiếm các thị trường xuất khẩu,… Để giải quyết các tồn tại đó cần phải có một hệ thống các giải pháp đồng bộ từ phía doanh nghiệp và nhà nước. Chương III sẽ góp phần giải đáp vấn đề này. Chương III Ch­¬ng 1 Một số biện pháp và kiến nghị nhằm phát triển Ch­¬ng 2 thị trường xe gắn máy của công ty ciri Ch­¬ng 3 I. dự báo thị trường xe máy thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng. 1. Dự báo về thị trường xe gắn máy của thế giới trong giai đoạn 2004- 2010 Một xu hướng dễ thấy về thị trường xe máy trong những năm tới đó là ở các nước phát triển nhu cầu về xe máy ngày càng giảm, thay vào đó là nhu cầu về xe ô tô và các phương tiện công cộng khác. Còn đối với các nước kém phát triển, thu nhập dân cư còn thấp thì xe máy lại là một tài sản dùng làm phương tiện giao thông phù hợp với khả năng của họ. Cụ thể, chúng ta sẽ thấy rõ thông qua bảng về tỷ lệ sử dụng xe máy của một số nước trong khu vực, trong đó có Việt Nam : Bảng 11 : Tỷ lệ sử dụng xe máy của một số nước trong khu vực STT Tên nước Tỷ lệ sử dụng xe máy 1 Đài Loan 2 người / 1 xe máy 2 Singapore 3 người / 1 xe máy 3 Thái Lan 7 người / 1 xe máy 4 Indonesia 5 người / 1 xe máy 5 Việt Nam 11 người / 1 xe máy Nguồn: Bộ Thương Mại Việt Nam, tạp chí thương mại số 43/2001. Nhìn vào bảng trên ta thấy rằng, thị trường xe máy khu vực Đông Nam á nhu cầu là rất cao. Mật độ xe dành cho từng người là cao (ở Đài Loan cứ hai người thì cần một xe, Singapo là 3 người một xe, duy chỉ Việt Nam là phải 11 người mới có một xe). Nhưng thị trường này lại đang có những dấu hiệu bão hoà về nhu cầu xe máy. Còn đối với nhu cầu xe máy của thế giới hiện nay là trung bình đạt 9 triệu xe trong mỗi năm, nhu cầu này lên cao ở các khu vực Châu Phi (2,5 triệu xe mỗi năm), Mông Cổ ( 2,2 triệu xe) và thị trường Đông Nam á ( 3,2 triệu xe mỗi năm). Bảng 12 : Nhu cầu xe máy của Châu phi và các nước Đông Nam á trong giai đoạn 2004- 2010 Đơn vị: nghìn chiếc Năm Thị trường Châu phi Thị trường các nước Đông Nam á 2004 2.800 4.800 2005 2.980 4.900 2006 3.000 4.980 2007 3.520 5.050 2008 4.000 5.530 2009 4.500 6.000 2010 5.500 6.500 Nguồn: Viện nghiên cứu Thương mại- Bộ Thương Mại So sánh hai loại thị trường này ta thấy rằng sự gia tăng về nhu cầu xe máy trong thời gian tới ở thị trường các nước Châu Phi nhiều hơn ở các nước Đông Nam á. Như vậy đây sẽ là điểm đến của nhiều công ty xe máy trong tương lai. 2. Dự báo về thị trường xe gắn máy của Việt Nam trong giai đoạn 2004- 2010 Xe máy được người tiêu dùng Việt Nam chấp nhận rộng rãi, tích cực và coi đó là một phương tiện vận tải thiết thực không quá đắt tiền. Có thể nói lượng xe máy hàng năm ở Việt Nam đều tăng lên đáng kể trong 4 gần đây nhu cầu về xe luôn đạt mức trên 1 triệu xe mỗi năm, tỷ lệ tăng nhu cầu về xe đạt năm sau lớn hơn năm trước trung bình là 20,19%, tốc độ tăng của cả thời kỳ đạt bình quân là: 0,32%. Lượng xe máy tăng mạnh trong những năm gần đây, có sự gia tăng này là do thu nhập của người dân Việt Nam không ngừng được cải thiện, nền kinh tế Việt Nam đang chuyển đổi từng ngày. Bảng 13: Tổng lượng xe máy lưu hành trên cả nước giai đoạn 1990- 2003 Năm Số lượng xe máy lưu Số lượng xe máy tăng Tỷ lệ tăng thêm hành trong cả nước thêm so với năm trước %/ năm 1990 2.770.000 36.400 19,9 1991 2.806.000 40.000 14 1992 2.846.000 55.200 19,4 1993 2.901.000 374.000 12,9 1994 3.275.000 286.200 8,7 1995 3.678.000 403.300 10,96 1996 4.209.000 531.000 12,61 1997 4.827.000 618.000 12,8 1998 5.219.000 392.000 8,12 1999 5.585.000 366.000 7,01 2000 7.242.400 1.657.400 29,68 2001 9.896.426 2.654.026 36,65 2002 11.739.895 1.843.469 18,63 2003 13.637.000 1.879.105 16 Nguồn: Cục Cảnh sát giao thông- Bộ Công An (Tạp chí GTVT tháng 12-2003) Qua bảng trên ta thấy rằng lượng xe tiêu lưu hành của năm 1990 mới chỉ là 2.770.000 chiếc xe trong cả nước nhưng đến năm 2003 con số này đã tăng lên gấp 6 lần (đạt 13.637.000 xe), nghĩa là sức tiêu thụ xe máy của thị trường Việt Nam là rất lớn. Xu hướng này còn tiếp tục gia tăng trong những năm tiếp theo. Vì cho dù Chính phủ Việt Nam đã chuyển hướng ưu tiên phát triển cho ngành công nghiệp ô tô và các phương tiện giao thông công cộng nhưng thực tế địa hình Việt Nam, cũng như hệ thống giao thông của Việt Nam hiện nay thì xe máy vẫn là phương tiện giao thông tiện ích nhất. Hiện nay, phần lớn xe máy được sử dụng ở các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, TP. Hồ Chí Minh để đi lại, vận chuyển hàng hoá nhẹ còn khu vực nông thôn thị trường xe máy còn rất mỏng. Tăng trưởng kinh tế có Hình 6: Số lượng xe máy lưu hành trong cả nước giai đoạn 1990- 2003 2.77 2.85 3.3 4.2 5.58 9.9 13.64 0 2 4 6 8 10 12 14 N¨m 1990 1992 1994 1996 1998 2000 2002 Sè l­ î ng xe m¸ y (Tr xe) thể mang lại lợi ích kinh tế cho vùng bán thành thị và khu vực nông thôn. Thu nhập của người dân khu vực này sẽ tăng và nhu cầu đi lại, vận chuyển cho công việc sẽ tăng lên một cách đáng kể. Hiện đang còn khoảng trên 10 triệu xe đạp chủ yếu ở các vùng nông thôn đang được sử dụng và khoảng 70% trong số đó sẽ được thay thế bằng xe máy vì sự thay đổi của các yếu tố kinh tế. Và đang tồn tại một thực tế trên thị trường Việt Nam đó là trong những năm qua xe máy có nguồn gốc xuất xứ từ Trung Quốc có giá cả thấp hơn rất nhiều so với các sản phẩm cùng loại do các Công ty liên doanh sản xuất tại Việt Nam và xe nhập khẩu từ thị trường nước ngoài. Điều đó thể hiện ở chỗ xe máy Trung Quốc luôn chiếm một thị phần khá cao 70% các loại xe máy lưu hành tại thị trường Việt Nam. Điều này có nghĩa là loại sản phẩm có chất lượng vừa phải và giá cả thấp sẽ có nhiều cơ hội tại thị trường Việt Nam. Nhưng bên cạnh đó, một tầng lớp dân cư có thu nhập cao sẽ đòi hỏi những chiếc 2003 xe có kiểu dáng hiện đại, độ thuận tiện trong sử dụng là cao. Hơn nữa, đa số xe máy đang lưu hành ở Việt Nam hiện nay sử dụng loại động cơ 4 kỳ 100cc và 110cc và dần chuyển sang khuynh hướng thay đổi dần theo chiều hướng tăng công suất động cơ và việc sử dụng xe máy ngày càng trở nên đa dạng hơn, xe ga và xe phân khối lớn đang đi vào thị hiếu tiêu dùng của nhân dân các khu vực thành thị Việt Nam. Song, mặc dù nhu cầu thị trường chuộng loại xe có động cơ 4 kỳ (chiếm 80% số xe đang lưu hành) nhưng các loại xe với động cơ 2 kỳ với những ưu điểm đặc trưng sử dụng trong các hoạt động thể thao, leo núi đang được giới trẻ Việt Nam ưa chuộng loại xe này tỏ ra rất phù hợp với vùng Hình 7: Số lượng xe máy công ty CIRI dự kiến sản xuất trong giai đoạn 2004-2010. 200 100 200 160 200 200 200 200 200 200 200 200 200 200 0 50 100 150 200 250 300 350 400 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 Loai 110cc Loai 100cc Nguồn: Số liệu phòng kế toán tài chính công ty CIRI rừng núi, do đó loại động cơ 2 kỳ chiếm ưu thế cao hơn. Do vậy, để chiếm lĩnh thị trường xe máy miền núi, trung du sẽ phụ thuộc rất lớn vào chủng loại xe này. Dựa trên việc đánh giá và xác định nhu cầu xe máy của Việt Nam qua các năm công ty đã lập ra kế hoạch sản xuất như sau: ( Hình 7) Ii. các mục tiêu chiến lược và phương hướng phát triển thị trường của công ty 1. Các mục tiêu chiến lược của công ty Người tiêu dùng Việt Nam đã rất quen thuộc đối với các nhãn hiệu xe máy Nhật Bản như Honda, Suzuki, Yamaha… nhất là khi các liên doanh sản xuất xe gắn máy mang thương hiệu này được thành lập và đi vào hoạt động ở Việt Nam. Nhưng sự chênh lệch giá quá lớn giữa xe máy được sản xuất tại các liên doanh này so với các sản phẩm cùng loại được sản xuất trong khu vực đã không thể đáp ứng được một bộ phận lớn người tiêu dùng và đây chính là cơ hội mà CIRI nên khai thác. Mục tiêu quan trọng của công ty CIRI trong giai đoạn tới là tiếp tục khai thác triệt để thị trường trong nước, đây là thị trường bao gồm cả thị trường truyền thống và những thị trường tiềm năng chưa được khai thác hết. Đối với thị trường truyền thống thì công ty phải hoàn thiện sản phẩm đáp ứng được nhu cầu ngày càng khắt khe của khách hàng, nhằm giữ chân khách hàng, đồng thời không để các đại lý của mình bỏ công ty sang làm đại lý cho các hãng khác. Đối với thị trường tiềm năng thì công ty, phải xây dựng chiến lược kế hoạch cụ thể, để thâm nhập vào lòng người tiêu dùng tìm hiều xem loại xe họ cần là gì ? kiểu dáng ? màu sắc, giá cả để có thể phục vụ đoạn thị trường mới mẻ nhưng đầy hấp dẫn này. Cho dù thị trường trong nước còn rất nhiều đoạn thị trường còn chưa được khai thác hết nhưng trong chiến lược phát triển của một công ty không thể nào công ty đó lại bỏ qua phần thị trường ở bên ngoài lãnh thổ mà doanh nghiệp đang hoạt động. Do đó, trong thời gian tới mục tiêu của công ty cần phải hướng đưa sản phẩm của công ty ra thị trường nước ngoài. Vì thực tế việc Việt Nam hội nhập kinh tế khu vực đã làm cho các ngành kinh tế trong nước nói chung và ngành công nghiệp xe máy nói riêng cũng như công ty xe máy CIRI phải đứng trước những vấn đề hết sức khó khăn. Vì cũng chính bởi việc hội nhập kinh tế khu vực đã làm cho hàng hoá ở các nước trong khu vực có chất lượng cao, kiểu dáng đẹp tràn vào một cách ồ ạt, lúc này lợi thế cạnh tranh duy nhất của công ty chỉ còn là giá cả sản phẩm thấp, nhưng với chỉ mình lợi thế này thì vẫn chưa đảm bảo cho công ty có thể đứng vững trong dài hạn. Mà công ty cần phải tìm đến những thị trường bình dân, ở đó người tiêu dùng sẵn sàng tiếp nhận sản phẩm của công ty và hài lòng khi tiêu dùng những sản phẩm đó. Nghiên cứu tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam cho thấy từ năm 1990- 1999 tốc độ tăng bình quân là 11,94% (số liệu Cục Cảnh sát giao thông- Bộ Công an). Dự kiến đến năm 2006 mức tăng trưởng này là 7- 8%. Nếu sự tăng trưởng trên là hiện thực thì kết quả thu nhập bình quân đầu người sẽ tăng lên đáng kể. Và đây sẽ là dấu hiệu đáng mừng cho việc phát triển các thị trường xe máy với nhiều chủng loại sản phẩm khác nhau, từng loại giá cả khác nhau. Mục tiêu đến hết năm nay của CIRI là chiếm được thị phần ổn định khoảng 30% tại Việt Nam. Trước một thực tế là quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng gay gắt đòi hỏi các doanh nghiệp sản xuất xe máy muốn tồn tại, không còn cách nào khác là phải hợp tác, liên doanh liên kết lại với nhau để nâng cao sức cạnh tranh, mở rộng sản xuất, nâng cao vị thế của mình trên thương trường. Công ty CIRI đã tiến hành hợp tác chặt chẽ với tập đoàn ZONGSHEN Trùng Khánh (một tập đoàn sản xuất động cơ xe máy nổi tiếng của Trung Quốc) trong dự án đầu tư sản xuất động cơ xe mô tô hai bánh tại Việt Nam. Tập đoàn sẽ đảm nhận việc chuyển giao công nghệ và đào tạo công nhân kỹ thuật. Thực hiện dự án này, công ty đã thực hiện đúng chức năng kinh doanh chính của mình, phù hợp với nhu cầu cần thiết của nhân dân trong điều kiện đát nước đang phát triển đó là giải quyết việc làm cho người lao động tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, tích luỹ lợi nhuận cho công ty để tái đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, phát triển thị trường mới trong tương lai. 2. Các phương hướng phát triển thị trường xe gắn máy của CIRI Trong những năm gần đây, kể từ sau khi Đảng và Nhà nước ta chủ trương cải cách và mở cửa, nền kinh tế nước ta đã có những thay đổi lớn lao. Các ngành kinh tế nói chung và giao thông nói riêng phát triển không ngừng. Đời sống người dân được cải thiện rõ rệt. Sự xuất hiện của xe máy đã trở thành một phương tiện tất yếu trong cuộc sống của những người dân từ thành thị đến nông thôn, từ vùng trung du đến miền núi. Có được điều này là do xe máy có những thuận tiện đó là vừa giữ vai trò như một phương tiện đi laị, lại vừa giữ vai trò của phương tiện vận chuyển. Mặc dù thị trường xe máy trong nước trong năm qua và năm nay gặp nhiều hạn chế làm cho lượng xe máy tiêu thụ tại các thành phố lớn bị giảm sút nhưng đối với thị trường nông thôn và các tỉnh miền núi nhu cầu về xe máy chỉ bị giao động nhẹ và về cơ bản sẽ tăng trong tương lai. Đối với thị trường nước ngoài, các thị trường khu vực Mông Cổ, Đông Nam á, Trung Đông và Châu Phi gần như còn đang bị bỏ ngỏ. Các thị trường này là những thị trường của các quốc gia kém phát triển, nhu cầu về xe máy hiện nay đang lên cao, do đời sống người dân đang từng ngày thay đổi. Và các thị trường này đã các công ty trong ngành xe máy thâm nhập và bước đầu thu được những thành công. Thông qua việc thâm nhập vào các thị trường này của các công ty đối thủ cạnh tranh cho thấy rằng đây là các thị trường có nhiều tiềm năng trong việc tiêu thụ sản phẩm xe máy với chất lượng và giá cả không quá cao phục vụ cho những người tiêu dùng bình dân. Nhận xét trước những tiềm năng này tại đại hội công nhân viên chức năm 2002 và 2003, công ty đã đặt ra những phương hướng phấn đấu trong giai đoạn tiếp theo và được toàn bộ cán công nhân viên trong công ty CIRI đồng ý, nhất trí. Các phương hướng đó là: ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin vào hoạt động quản lý, sản xuất kinh doanh. Tập trung vào đào tạo lại cán bộ quản lý, cán bộ khoa học kỹ thuật, làm tốt công tác quy hoạch cán bộ, xây dựng lực lượng cán bộ chủ chốt phục vụ cho chiến lược phát triển công ty, mở rộng thị trường. Đảm bảo cung cấp một lực lượng cán bộ công nhân viên có trình độ quản lý có tay nghề tốt sẵn sàng ứng phó trong mọi tình huống trong làm ăn giao dịch ở trong nước cũng như nước ngoài. Với mục tiêu khai thác triệt để những đoạn thị trường còn đang bỏ ngỏ, mở rộng và tìm kiếm những thị trường mới nên các cán bộ marketing và cán bộ nghiên cứu thị trường phải được quan tâm và đầu tư thích đáng. Đầu tư trang bị cho những cán bộ này không những về trình độ chuyên môn mà còn phải đào tạo cho họ về tập quán văn hoá, trình độ ngoại ngữ, khả năng thích nghi với môi trường sống mới để họ sẵn sàng lên đường đi công tác cũng như thành công trong khi làm ăn với các đối tác nước ngoài. Công tác thị trường thời gian qua đã được quan tâm một cách đặc biệt vì vậy trong thời gian tới cần phát huy hoạt động này, để có thể từ đó đưa ra các chiến lược, sách lược phù hợp với tình hình mới của thị trường. Tăng doanh số bán trên cơ sở khai thác hiệu quả những thị trường hiện tại và thâm nhập vào những thị trường mới là phương hướng hoạt động của công ty trong những năm tới. Tiến hành mở rộng mặt hàng, các sản phẩm cung cấp không chỉ giới hạn là các sản phẩm xe máy nguyên chiếc, mà thêm vào đó là các linh kiện xe máy nhằm cung cấp phụ tùng cho các công ty xe máy trong nước và nước ngoài. Sự đa dạng hoá này sẽ là điều kiện giúp cho doanh nghiệp phát triển rộng hơn thị trường hiện tại của mình. Vì vậy, CIRI ngoài việc đầu tư thành lập xưởng lấp ráp xe máy dạng IKD sẽ tập trung vào sản xuất động cơ xe máy. Vì động cơ xe máy chiếm 40% giá trị và toàn xe và là bộ phận có hàm lượng công nghệ- chất xám cao nhất, có đó việc sản xuất động cơ sẽ có ý nghĩa quyết định trong việc sản xuất 100% xe máy nguyên chiếc. Và điều quan trọng đó là các cơ sở sản xuất động cơ xe máy ở trong nước còn ít. Như dự báo nêu trên, thị trường xe gắn máy đang ngày càng trở nên đa dạng về chủng loại cũng như về tính năng sử dụng của xe. Trong thời gian tới CIRI sẽ nghiên cứu đưa vào sản xuất các loại động cơ phân khối lớn, từ đó cho ra những sản phẩm xe máy phù hợp với nhu cầu của thị trường. Ch­¬ng 4 Iii. các biện pháp và kiến nghị chủ yếu nhằm phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm xe gắn máy của công ty ciri. Ch­¬ng 5 Xe máy được người tiêu dùng Việt Nam chấp nhận rộng rãi, tích cực và coi đó là một phương tiện vận tải thiết thực và không đắt tiền nhưng hiện nay ngành công nghiệp xe máy Việt Nam đang đứng trước nguy cơ khó có cơ hội phát triển ở trong nước thì đòi hỏi phải có những giải pháp đồng bộ từ phía Nhà nước cũng như các doanh nghiệp xe máy. Hiện nay thị trường tiêu thụ trong nước, đặc biệt là các thành phố lớn đang gặp phải trở ngại lớn đó là việc cấm đăng ký xe máy (ở Hà Nội), rồi nguy cơ không cho xe biển lạ vào nội thành, và những yêu cầu khác trong việc đăng ký xe máy ở tất cả các tỉnh thành trong cả nước. Chính vì vậy ngành công nghiệp xe máy cần phải tìm một lối thoát riêng cho mình, các doanh nghiệp cần phải có những chiến lược mới và Nhà nước cũng cần phải có những ưu đãi nhất định để ngành công nghiệp non trẻ này không rơi vào tình trạng “chết yểu”. Và công ty CIRI cũng không phải là ngoại lệ. Để có thể phát triển công ty xe máy CIRI đã không ngừng đổi mới, hoàn thiện sản phẩm và tìm kiếm thị trường mới cho sản phẩm, mảng thị trường được chú trọng hơn cả vẫn là thị trường các vùng nông thôn và các nước kém phát triển khác trên thế giới. Dưới đây là một số giải pháp về phía công ty CIRI trong công tác phát triển thị trường của doanh nghiệp, đồng thời là những kiến nghị đối với Nhà nước dành cho ngành công nghiệp non trẻ này. 1. Các giải pháp đối với doanh nghiệp Trong công tác phát triển thị trường, doanh nghiệp cần phải tiếp tục khai thác thị trường truyền thống đồng thời tìm kiếm những thị trường mới cho sản phẩm của doanh nghiệp.  Đối với thị trường trong nước Thị trường trong nước của công ty CIRI chính là thị trường Việt Nam, đây là một thị trường quan trọng và có nhiều tiềm năng phát triển. Nền kinh tế Việt Nam từ sau khi mở cửa đang duy trì tốc độ phát triển tương đối ổn định (GDP tăng bình quân hàng năm đạt trên 7%), đời sống người sống người dân không ngừng được nâng cao. Do đó để có thể khai thác và tiếp tục phát triển tại thị trường này đòi hỏi công ty CIRI phải có những chiến lược phát triển phù hợp. chú đến việc đưa ra sản phẩm có chất lượng kiểu dáng và giá cả phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của người tiêu dùng Việt Nam. Nhưng cũng phải nói rằng thị trường trong nước hiện nay đang có nhiều biến động, do sự ra đời của hàng loạt Nghị định Chính phủ về việc cấm đăng ký xe máy ở các quận nội thành Hà Nội (dự kiến cấm toàn thành phố Hà Nội vào cuối năm 2004) làm cho nhu cầu về xe máy cũng có nhiều sự chao đảo. Khả năng tiêu thụ xe máy của công ty ở các thành phố lớn gặp phải nhiều khó khăn do việc đăng ký (thuế đăng ký cao, hơn nữa nhiều người do không có hộ khẩu ở các thành phố này thì cũng không thể đăng ký được theo biển số của nơi này, có chăng cũng phải mất một khoản chi phí là khá lớn). Điều này làm cho ngành công nghiệp non trẻ này nói chung và Công ty nói riêng gặp không ít khó khăn khi tồn tại. Công ty cần phải thực hiện một số giải pháp như sau: Một là, Công ty cần phải xây dựng cho mình một chiến lược phát triển thị trường, đặc biệt là đối với các thị trường mục tiêu, trong dài hạn. Và đối với từng thị trường một công ty cần phải có những giải pháp cụ thể như: Tại các thị trường tiềm năng như Hà Nội, Thành phố HCM và một số thành phố lớn khác có dân cư tập trung đông đúc, thu nhập cao, có nhiều đối thủ cạnh tranh mạnh và nhiều kinh nghiệm đang hoạt động ở thị trường này (Honda, Suzuki, SYM…). Vì thế nên đối với những thị trường này Công ty cần phải hoàn thiện và cải tạo những sản phẩm hiện nay nhằm cung cấp các sản phẩm có chất lượng cao, mẫu mã đẹp. Đồng thời phát triển công tác chăm sóc khách hàng cũng như các dịch vụ sau bán hàng. Trong thực tế hoạt động kinh doanh của mỗi doanh nghiệp, lôi kéo được khách hàng đã là điều rất khó, việc giữ được những khách hàng đó mãi là của mình lại là một vấn đề khó hơn. Một doanh nghiệp kinh doanh chỉ có thể duy trì được khách hàng trên cơ sở tạo được niềm tin, uy tín thông qua chất lượng sản phẩm mức độ làm hài lòng các “thượng đế”. Vấn đề nâng cao chất lượng hàng hoá đòi hỏi phải được làm một cách thường xuyên Đối với các thị trường chủ lực của doanh nghiệp (Đồng Bằng SCL, thị trường miền Trung và các vùng nông thôn khác…) đây là những khu vực mà người dân có thu nhập thấp, là những vùng đang có nhiều khuyến khích đầu tư phát triển và các phương tiện phục vụ đi lại còn rất ít. ở đây, xe máy là tài sản lớn nhất của họ, là cả sự mơ ước trong cuộc đời mỗi con người, do đó họ vừa quan tâm đến chất lượng (xe có chất lượng như thế nào?), vừa quan tâm đến giá cả (giá của mỗi chiếc xe là bao nhiêu?). Trước những vấn đề này Công ty nên thiết lập thêm bộ phận nghiên cứu nguyện vọng của thị trường, nhu cầu của người tiêu dùng để có thể đưa ra những sản phẩm phù hợp nhất với thị hiếu của họ. Đồng thời cũng có một vấn đề nữa, đó là do các vùng này mức độ phát triển còn chưa cao nên các hoạt động dịch vụ hỗ trợ cũng còn chưa nhiều . Người dân các vùng này sẽ vui vẻ mua một chiếc xe máy nếu họ biết rằng trong mọi hoàn cảnh và bất kỳ lúc nào chiếc xe của họ cũng có thể đưa đến chính hãng để sửa chữa. Nghĩa là công ty cũng nên tạo dựng các trung tâm sửa chữa bảo dưỡng tại những khu vực này. Ngoài ra cần có những chính sách tiếp thị mạnh mẽ rầm rộ đối với thị trường này để người dân ở đây được biết đến sản phẩm của công ty. Hai là, Phát triển các kênh phân phối mạnh mẽ hơn nữa. Hiện tại các kênh phân phối của công ty mới chỉ dừng lại ở việc tiêu thụ sản phẩm tại các đại lý lớn tại các vùng và miền trong cả nước. Công ty cần phải phát triển việc tiêu thụ sản phẩm đến tận các đại lý nhỏ và có quy mô không lớn nằm tại các khu vực nông thôn khác nhau với mật độ dày đặc hơn, chỉ có như thế cơ hội cho việc mở rộng tiêu thụ và nâng cao doanh số bán hàng của công ty đồng thời thúc đẩy mạnh mẽ việc xâm nhập và chiếm lĩnh nhiều hơn nữa các đoạn thị trường những người có thu nhập thấp ở các tỉnh. Để có thể phát triển mạn mẽ hơn nữa các kênh phân phối đến từng đại lý việc trước tiên mà Công ty phải làm đó là thực hiện việc nghiên cứu thị trường một cách kỹ lưỡng. Bởi vì, dù là cùng trên một lãnh thổ của nước Việt Nam, song mỗi nơi lại có một cách sinh hoạt khác nhau. Khu vực phía trong, các tỉnh miền Nam thì xe máy được coi chỉ đơn thuần là phương tiện đi lại, họ không chú trọng nhiều tới mẫu mã của xe mà cái họ quan tâm vẫn là giá cả của mỗi chiếc xe. Nhưng người dân phía Bắc lại khác, họ quan trọng hình thức, vì vậy yêu cầu về một chiếc xe phải làm sao vừa giữ vai trò làm phương tiện song cũng làm toát lên vẻ sang trọng của người điều khiển. Trên cơ sở nghiên cứu thị trường, Công ty sẽ xác định được các thông tin về nhu cầu của người tiêu dùng về: mẫu mã xe, số lượng xe mỗi gia đình cần, hiện tại đã có nhà cung cấp sản phẩm này tại thị trường đó chưa ?… từ đó đưa ra các chiến lược phù hợp đối với mỗi vùng và địa phương. Cùng với việc nghiên cứu thị trường sẽ là việc thiết lâp các kênh phân phối, tạo ra các kênh phân phối trực tiếp và gián tiếp. Tại cơ sở phân phối trực tiếp, đây là nơi trực tiếp tiếp xúc với khách hàng nên cần phải có những nhân viên marketing có khả năng giao tiếp tốt, có khả năng thuyết phục và lịch sự, nhã nhặn, hiểu biết về sản phẩm của công ty. Đưa ra nhiều chế độ khuyến khích đối với các đại lý để họ nhiệt tình bán sản phẩm của công ty thay vì chạy theo những công ty khác cho họ mức hoa hồng cao hơn. Đối với kênh phân phối gián tiếp, Công ty nên đưa ra những mức phần trăm lợi nhuận được hưởng cho các đại lý trên mỗi sản phẩm. Xây dựng trang web của công ty, ở đó có giới thiệu về sản phẩm, các dịch vụ và sẵn sàng tư vấn cho khách hàng cũng như thực hiện việc bán hàng qua mạng Internet. Ba là, Liên tục cải cách về sản phẩm và giá cả. Cải cách sản phẩm phải đến từ việc cải cách về mẫu mã và chủng loại. Công ty nên tập trung vào các loại xe ăn khách hiện nay như các loại xe ga, bắt chước theo các chủng loại xe ga cao cấp khác của các công ty nước ngoài với giá rẻ hơn. Như chúng ta đã biết trong năm 2003 vừa qua giá cả xe máy liên tục biến động trên thị trường xe máy Việt Nam, các hãng liên tục giảm giá xe. Chỉ trong một thời gian ngắn Honda Việt Nam đã giảm tới 6 triệu đồng cho sản phẩm xe máy Future và Super Dream, để cạnh tranh Yamaha cũng phải giảm giá cho sản phẩm của mình. Nhưng trong những tháng cuối năm thị trường xe máy ở các thành phố lớn lại trở nên sôi động hơn, cầu tăng đột biến giá xe bị đội lên cao do người tiêu dùng có tâm lý sợ không được đăng ký xe khi có quy chế mới ban hành. Trước tình hình đó công ty cần phải xem xét lại các khâu sản xuất từ việc cung ứng nguyên vật liệu đến việc quản lý sản xuất nhằm làm giảm giá cả của sản phẩm xuống hơn nữa trong khi vẫn phải giữ được chất lượng xe ở mức trung bình, chỉ có như vậy công ty mới có cơ hội để tiếp tục phát triển thị trường. Công ty nên kết hợp các chiến lược hướng vào chi phí thấp và chiến lược tập trung hoá trong việc sản xuất sản phẩm. Làm được điều này là công ty đã tạo ra khả năng thích ứng tốt nhất trong những trường hợp cần thiết. Nghĩa là công ty sẽ cung cấp những mẫu xe máy có hình dạng phù hợp với kiểu dáng đang được ưa chuộng trên thị trường, đồng thời giá cả lại thấp hơn so với các đối thủ cạnh tranh. Việt Nam là một nước có địa hình phức tạp, có đồi núi, có sông hồ và thời tiết ẩm, thường có mưa nhiều và hay bị ngập. Vì vậy trong chiến lược khai thác thị trường nội địa cũng cần phải cân nhắc những vấn đề này. Công ty nên nghiên cứu đưa ra những sản phẩm có gầm cao để có thể đi được trong điều kiện ngập lụt, có độ giảm sóc cao để thích ứng trong việc đi lại ở những nơi đồi núi hiểm trở. Bốn là, Công ty cần phải tiếp tục cải thiện công tác bảo dưỡng xe máy sau bán hàng và hoàn thiện các chương trình chăm sóc khách hàng sau khi bán. Công ty nên kết hợp với các doanh nghiệp nước ngoài khác kinh doanh xe máy tại Việt Nam vì họ có nhiều kinh nghiệm và có một hệ thống chăm sóc khách hàng khá tốt. Công ty có thể liên kết với hãng Honda hoặc Yamaha nhằm hợp tác trong việc sử dụng các trạm bảo dưỡng của các hãng này cho các chủng loại xe của mình. Điều này có rất nhiều ý nghĩa vì một mặt không những nó giúp cho các khách hàng của công ty được hài lòng vì công ty có một dịch vụ sau bán hàng tốt mà xét trong hoàn cảnh hiện tại đây cũng là giải pháp tối ưu vì việc phát triển mạng lưới các cửa hàng bảo dưỡng sản phẩm của công ty tại các tỉnh và thành phố là không có tính khả thi cao vì năng lực tài chính và nhân lực của công ty là có hạn.  Đối vói thị trường nước ngoài Công ty không thể bán xe máy của mình cho những khách hàng trong nước mà chắc chắn giống như các công ty khác công ty cũng muốn đưa sản phẩm của mình ra thị trường bên ngoài, đặc biệt là thị trường các nước khu vực. Hơn nữa trong giai đoạn hiện nay thị trường trong nước đang có rất nhiều trở ngại cho sự phát triển của Công ty, ngành công nghiệp xe máy không còn là ngành ưu tiên phát triển của Nhà nước ta. Tuy nhiên việc mở rộng thị trường sang các nước khác lại cũng gặp không ít khó khăn về văn hoá tiêu dùng, về thị phần mà các đối thủ khác đang nắm giữ. Chính vì thế, công ty CIRI không chỉ tập trung nghiên cứu đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm và xây dựng các cơ sở lắp ráp tại nước sở tại mà còn phải nghiên cứu xem nên thâm nhập vào thị trường nào thì sẽ mang lại hiệu quả hơn. Bên cạnh đó công ty CIRI cũng nên học tập kinh nghiệm thâm nhập thị trường của các doanh nghiệp đi trước, công ty nên tính toán xem sẽ thích nghi với thị trường hay đưa ra một sản phẩm mới hoàn toàn để chinh phục người tiêu dùng. Như bài học của công ty Honda Nhật Bản vào những năm 1950 khi thâm nhập thị trường Mỹ đã tạo ra một vị thế vững chắc cho công ty này trên một thị trường khó tính hàng đầu thế giới. Và ngày nay là chiến lược thâm nhập thị trường nước ngoài của công ty Honda Việt Nam khi mà trong nước việc buôn bán đã trở nên ảm đạm. Thị trường các nước Châu Phi, Trung Đông và các nước Đông Nam á khác đang là điểm đến sáng giá của các công ty xe máy Việt Nam, thiết nghĩ công ty CIRI nên nhanh chóng có những chiến lược nhằm đột phá vào thị trường này để tạo ngay vị thế cho mình trên thị trường mới. Các công ty xe máy nổi tiếng như Honda, Suzuki, Yamaha.. với những sản phẩm chất lượng cao thu hút được sự chú ý của đoạn thị trường có thu nhập cao, còn với công ty không nên đi theo hướng đó mà nên tập trung vào đoạn thị trường có thu nhập thấp hơn. Ngoài ra, công ty cũng có thể liên kết với các công ty khác để hình thành những công ty đủ mạnh về tài chính, quan hệ đối ngoại, nguồn nhân lực… đây là tiền thân của những tập đoàn xe máy trong tương lai của Việt Nam. Sự kết hợp này sẽ tạo ra sức mạnh để các công ty nhỏ có thể cạnh tranh với những công ty lớn .  Các giải pháp liên quan đến người lao động. -Đối với các cán bộ lãnh đạo của công ty, Công ty cần phải tập trung xây dựng một đội ngũ cán bộ có năng lực lãnh đạo, có trình độ trên mọi phương diện, có khả năng nhận biết tình hình, có khả năng thu thút và điều hành những cán bộ có năng lực cấp dưới, biết lắng nghe nguyện vọng của người khác. Không chỉ vậy, để có thể làm ăn với người nước ngoài thì những cán bộ lãnh đạo này cũng cần phải có trình độ về ngoại ngữ( Đây là một yếu điểm lớn nhất của công ty hiện nay). Có như vậy khi giao tiếp đàm phán với đối tác nước ngoài, họ không gặp những khó khăn, không hiểu hết được ý đồ của đối tác do phiên dịch viên không chuyển tải được toàn bộ nội dung và không thể phản ứng một cách linh hoạt trước tình huống mà đối tác nêu ra. Hơn nữa nếu cán bộ lãnh đạo tự phiên dịch được cho mình thì công ty đã tiết kiệm được một khoản chi phí cho các phiên dịch. Để làm được điều này công ty phải thường xuyên tổ chức các khoá học ngắn hạn, trong đó có mời những giảng viên hàng đầu tại các trường đại học và các viện nghiên cứu giảng dạy, để nhằm bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ cho các vị lãnh đạo các phòng ban và những người giữ vị trí chính yếu trong các phòng ban, đặc biệt là các lãnh đạo thuộc các phòng có hoạt động kinh doanh trực tiếp. -Đội ngũ công nhân, không chỉ những cán bộ lãnh đạo phải giỏi ngoại ngữ mà ngay cả những công nhân cũng phải có được điều kiện này. Để thực hiện mục tiêu phát triển thị trường đòi hỏi công ty CIRI phải có chiến lược đào tạo nguồn lao động có năng lực chuyên môn, đồng thời phải có khả năng giao tiếp với người nước ngoài, có khả năng thích ứng với sự thay đổi về môi trường sống và làm việc. Cụ thể, công ty cần phải thực hiện những giải pháp như sau: Thứ nhất, cần phải tạo ra trong công ty một không khí thân thiện, người lao động có thể cảm thấy mình đang làm việc cho chính công ty của gia đình mình, việc làm này sẽ tạo ra sự gắn bó và trung thành của người lao động đối với công ty. Họ sẵn sàng cống hiến và hi sinh vì sự phát triển của công ty. Điều này sẽ dẫn đến việc nâng cao ý thức trách nhiệm hơn nữa của các cán bộ công nhân viên đối với công ty nói chung và đối với công tác phát triển thị trường tiêu thụ của công ty nói riêng. Thứ hai, công ty cần phải thường xuyên tổ chức các lớp huấn luyện, bồi dưỡng nâng cao tay nghề cho người lao động, tạo điều kiện cho họ được tiếp cận với công nghệ lắp ráp hiện đại, làm quen với quy trình tự động hoá. Việc tập huấn này cần phải được tổ chức thường xuyên trong năm, quý, thậm chí có thể là từng tháng tại các phân xưởng. Tạo điều kiện để trong những lần tập huấn đó công nhân có điều kiện tiếp xúc với các chuyên gia nước ngoài để họ có thể làm quen với cách thức làm việc hiện đại, cách vận hành các cỗ máy phức tạp… Đây là một việc làm nhằm nâng cao hơn nữa tay nghề cho người lao động của công ty. Thứ ba, đảm bảo cho người lao động được làm trong một môi trường được đảm bảo về sức khoẻ, an toàn lao động. Đồng thời tạo được một trường cạnh tranh lành mạnh giữa những người lao động để họ phấn đấu nâng cao năng suất, chất lượng và đưa ra những sáng tạo góp phần đổi mới sản phẩm cho công ty. Bên cạnh đó công ty cũng phải đảm bảo cho người lao động một chế độ tiền lương hợp lý, phù hợp với sức lao động mà họ bỏ ra, tránh tình trạng trả lương không xứng đáng làm cho những người có tay nghề cao rời bỏ công ty. Thứ tư, Công ty cần phải thường xuyên đánh giá kết quả làm việc của những người lao động, đưa ra những chính sách khen thưởng đối với những đối tượng hoàn thành tốt chỉ tiêu của tổ sản xuất, khen thưởng các đơn vị có thành tích thi đua tốt. Làm được những điều trên, công ty CIRI đã tạo ra cho mình một nguồn nhân lực quý giá, đội ngũ người lao động có trình độ chuyên môn vững vàng, cán bộ quản lý giỏi lãnh đạo và cán bộ nghiệp vụ tinh thông các nghiệp vụ của mình. Và đây chính là nền tảng đóng góp vào sự phát triển của công ty, giúp công ty có thể tồn tại và phát triển ở bất kỳ thị trường nào. 2. Một số kiến nghị đối với Nhà nước Trong thời gian vừa qua Chính phủ đã ban hành những Nghị quyết nhằm hạn chế việc sử dụng xe máy làm cho ngành công nghiệp xe máy của nước ta vừa ra đời đã bị “vùi dập”. Trước tình hình đó các công ty trong ngành phải nỗ lực tìm kiếm lối thoát riêng cho mình, thay vì tập trung vào thị trường đông dân có thu nhập cao, các khu vực thành thị thì nay các công ty lại chuyển sang khai thác các thị trường nông thôn, phát triển thị trường ra nước ngoài. Để tạo điều kiện cho ngành công nghiệp nói chung và các công ty xe máy nói riêng những cơ hội duy trì và phát triển Nhà nước ta cần phải hỗ trợ bằng những biện pháp cụ thể như sau: Một là, thực hiện chính sách ưu tiên về linh kiện xe máy nhập khẩu. Việc dành những ưu tiên trong nhập khẩu các linh kiện đối với các công ty xe máy sẽ tạo điều kiện cho các công ty này có điều điện giảm giá thành cho mỗi chiếc xe, nâng cao sức cạnh tranh (cạnh tranh về giá) so với các đối thủ khác khi cùng thâm nhập trên thị trường nước ngoài. Từ đó sẽ góp phần đẩy manh hoạt động phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty. Hai là, thực hiện chính sách ưu đãi theo tỷ lệ nội địa hoá. Sử dụng chính sách này, Chính phủ vừa khuyến khích được các công ty sản xuất và lắp ráp xe máy sử dụng hàng nội đồng thời tạo động lực cho ngành công nghiệp sản xuất phụ tùng trong nước phát triển. Việc sử dụng chính sách ưu đãi theo tỷ lệ nội địa hoá này là hoàn toàn tự nguyện, Nhà nước không được ép buộc các doanh nghiệp phải thực hiện và chính sách này phải không được mâu thuẫn với chính sách ưu tiên nhập khẩu linh kiện xe máy thay vì nhập khẩu xe máy nguyên chiếc. Nhà nước ta cần phải duy trì thực hiện hai loại chính sách này vì, với chính sách ưu tiên nhập khẩu linh kiện xe máy có nghĩa là loại xe được lắp ráp bằng các linh kiện nhập ngoại này sẽ hoặc là có chi phí thấp nhằm khai thác đoạn thị trường có thu nhập thấp, hoặc là có chất lượng tốt nhằm khai thác đoạn thị trường có thu nhập cao và đòi hỏi cao về chất lượng mẫu mã của xe. Còn với chính sách ưu tiên tỷ lệ nội địa hoá là nhằm thúc đẩy ngành công nghiệp chế tạo của Việt Nam phát triển. Nghĩa là khi kết họp được hai loại chính sách này Nhà nước đã đảm bảo được vai trò vĩ mô của mình là mở rộng trao đổi với thị trường bên ngoài trên cơ sở kích thích nền kinh tế nội địa phát triển Ba là, tạo điều kiện để các công ty sản xuất xe máy có thể mở rộng quy mô sản xuất, lắp đặt các dây chuyền sản xuất mới phục vụ cho việc tăng công suất sản xuất. Như các chính sách về thuế đối với việc nhập khẩu công nghệ lắp ráp hiện đại, khuyến khích các công ty mở rộng sản xuất ở những thị trường vùng sâu vùng xa. Ví dụ như đối với các công ty thực hiện lắp ráp và tiêu thụ ở các thị trường nông thôn có sử dụng lực lượng lao động địa phương sẽ được ưu đãi về thuế. .Bốn là, đưa ra các chính sách khuyến khích xuất khẩu. Không chỉ với các công ty xe máy mà đối với toàn bộ nền kinh tế của Việt Nam việc thúc đầy xuất khẩu là hoạt động rất quan trọng. Nhưng sự hiểu biết của các doanh nghiệp về các thị trường nước ngoài lại còn rất hạn chế, các doanh nghiệp của chúng ta chưa hiểu biết hết luật chơi của người nước ngoài, chưa thực sự nắm rõ về tập quán của thị trường và sự đòi hỏi khắt khe của thị trường đó. Chính vì vậy đã làm cho việc xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam gặp nhiều khó khăn ( các doanh xuất khẩu cà phê, thuỷ sản…). Do đó, Nhà nước cần phải có những chính sách ưu đãi để thúc đẩy xuất khẩu: bỏ thuế xuất khẩu, không hạn chế về hạn ngạch xuất khẩu đối với loại mặt hàng này. Cùng với những hoạt động đó Nhà nước cần đẩy mạnh hỗ trợ phát triển mạng lưới thông tin liên lạc, cung cấp những thông tin cần thiết cho bất kỳ một doanh nghiệp nào có nhu cầu thâm nhập vào thị trường nước ngoài. Thiết lập các trang web có đầy đủ các thông tin về các đối tác và thị trường nước ngoài, hướng dẫn về các thủ tục dành cho xuất khẩu. Vì hiện tại các doanh nghiệp của chúng ta không những thiếu thông tin của các thị trường, thiếu đủ mọi loại thông tin từ thông tin về các chính sách của các quốc gia bên ngoài, các cơ hội kinh doanh tới các thông tin về các doanh nghiệp của các quốc gia đó Bên cạnh đó để cung cấp những thông tin một cách kịp thời và chính xác cho các công ty trong nước. Nhà nước cũng cần phải tạo điều kiện để các doanh nghiệp có điều kiện gặp gỡ trao đổi với đại diện các cơ quan tham tán, các đại sứ quán tại Việt Nam của các nước có thị trường mà doanh nghiệp dự định thâm nhập. Thông qua hình thức này các doanh nghiệp, công ty của chúng ta sẽ có điều kiện tìm hiểu, thu thập những thông tin cần thiết phục vụ cho chiến lược thâm nhập thị trường của mình. Kết luận chương III Như đã phân tích và trình bày ở trên, phát triển thị trường giữ vai trò quan trọng trong sự tồn tại và phát triển của bât kỳ một công ty nào. Đối với CIRI vấn đề này càng trở nên quan trọng và cần thiết hơn, bởi công ty có sự xuất phát muộn hơn so với các đại gia trong ngành xe máy, vì thế phát triển thị trường là chiến lược mà công ty cần theo đuổi trong dài hạn. Trên cơ sở nghiên cứu và phân tích ở Chương II, trong Chương III đã đưa ra những dự báo về nhu cầu xe máy trên thị trường thế giới và thị trường Việt Nam giai đoạn 2004- 2010, kèm theo đó là những mục tiêu, phướng hướng phát triển thị trường của công ty để khai thác triệt để những cơ hội này. Cuối chương cũng đã đề xuất những giải pháp mà doanh nghiệp cần làm, những kiến nghị đối với Nhà nước trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển thị trường. mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài. Nền kinh tế thế giới đang diễn ra quá trình hội nhập một cách mạnh mẽ thúc đẩy quá trình khu vực hoá toàn cầu hoá một cách sôi động, các nước đều tiến hành mở cửa nền kinh tế của nước mình, đón nhận sự du nhập của ngành kinh tế trên thế giới và khu vực. Vì vậy, xu thế quốc tế hoá, đa dạng hoá lĩnh vực hoạt động, đa dạng hoá chủng loại sản phẩm và đa dạng hoá thị trường đang trở thành một xu thế tất yếu đối với các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh quốc tế hiện nay. Trong nền kinh tế thị trường của một quốc gia nói riêng và trên toàn thế giới nói chung, mỗi một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải không ngừng cải tiến kĩ thuật, nâng cao chất lượng sản phẩm và cải thiện công tác tiếp thị và quảng bá sản phẩm…Tất cả những nỗ lực này đều nhằm phục vụ mục tiêu tạo dựng vị thế cho doanh nghiệp trong tình hình sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng gay gắt. Bất kỳ một doanh nghiệp nào tự hài lòng về thị phần mà mình đang nắm giữ, bằng lòng về số lượng khách hàng mà họ đang phục vụ cũng đều có nguy cơ thất bại trong những ngày không xa. Thay vào đó, các doanh nghiệp phải trên cơ sở vừa khai thác tốt đoạn thị trường mà mình đang nắm giữ đồng thời phải tìm kiếm và phát triển thêm những thị trường mới. Ngành công nghiệp xe máy cũng không phải là ngoại lệ, đối với các nước công nghiệp phát triển, cầu về xe máy trong thời gian tới vẫn còn, song không nhiều do nhu cầu đối với xe ô tô là cao hơn. Đối với các nước kém phát triển đặc biệt là khu vực Trung Đông và Châu Phi thì cầu về loại sản phẩm này mới chỉ bắt đầu. Công ty Quan hệ Đầu tư Sản xuất (CIRI) là một doanh nghiệp nhà nước được thành lập trong cơ chế thị trường, còn non trẻ, quy mô nhỏ và thiếu kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực sản xuất và lắp ráp xe máy trong nền kinh tế thị trường. Là một công ty ra đời rất muộn so với các công ty Honda, Suzuki, Yamaha, SYM,… và công ty này xuất hiện ở thị trường Việt Nam khi mà các “ông anh cả” trong làng xe máy đã khẳng định được vị thế của mình. Vì vậy, để có thể tồn tại và phát triển tốt thì việc mở rộng và phát triển thị trường tiêu thụ trong nước và quốc tế đóng một vai trò hết sức quan trọng và cấp thiết, đặc biệt là trong hoàn cảnh sự cạnh tranh trong ngành hàng xe máy lắp ráp mà công ty tham gia sản xuất đang ngày càng gay gắt. Sau một thời gian thực tập tại Công ty CIRI, qua việc nghiên cứu thực trạng hoạt động của công ty trên thị trường Việt Nam để góp phần giải quyết vấn đề trong tìm kiếm thị trường, thúc đẩy sản xuất kinh doanh mặt hàng xe máy cũng như nhằm phát huy những kiến thức đã học em đã quyết định chọn đề tài: “ Phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm xe gắn máy của công ty CIRI”, để làm luận văn tốt nghiệp. 2. Mục đích nghiên cứu của đề tài. Hệ thống hoá các vấn đề lý luận cơ bản về thị trường và công tác phát triển thị trường của doanh nghiệp, phân tích thực trạng công tác phát triển thị trường của CIRI trong thời gian qua, chỉ ra những ưu điểm, tồn tại và nguyên nhân của công tác này, đồng thời đề xuất các giải pháp giúp doanh nghiệp phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm xe gắn máy của mình trong 5 năm tới. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài. - Đối tượng: Công tác phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm của CIRI. - Phạm vi : Chỉ nghiên cứu hoạt động phát triển thị trường xe gắn máy lắp ráp của công ty CIRI từ năm 1999 đến nay. 4. Kết cấu của đề tài. Ngoài mở đầu và Kết Luận, nội dung chính của luận văn bao gồm 3 chương: Chương I: Lý luận chung về thị trường và công tác phát triển thị trường của doanh nghiệp. Chương II: Thực trạng phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm xe gắn máy lắp ráp tại công ty CIRI. Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển thị trường xe gắn máy của công ty CIRI. Trong thời thực tập tại công ty em đã không ngừng cố gắng tìm hiểu, thu thập tài liệu để hoàn thành tốt nhất luận văn tốt nghiệp này, nhưng do còn nhiều hạn chế về mọi mặt, nên bài viết chắc hẳn sẽ không tránh khỏi những thiếu xót. Em rất mong sự đóng góp của các thầy cô trong khoa, trong đơn vị thực tập để bài viết của em được hoàn thiện hơn. Ch­¬ng 6 Kết luận Hoạt động phát triển thị trường là một công tác giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong kinh doanh của các doanh nghiệp. Đối với CIRI, một công ty có quy mô còn nhỏ, kinh nghiệm hoạt động kinh doanh trong các lĩnh vực nói chung và lĩnh vực xe gắn máy nói riêng còn hạn chế, thì công tác phát triển thị trường càng là vấn đề sống còn đối với hoạt động của công ty. Hoạt động này sẽ giúp cho công ty từng bước tham gia hội nhập vào nền kinh tế thế giới, gia tăng được quy mô, giảm những rủi ro trong kinh doanh đến mức tối thiểu, đồng thời cũng là hoạt động giúp cho công ty thu được các kinh nghiệm kinh doanh quý báu. Bài viết này đã tổng kết được một phần nhỏ những vấn đề chủ yếu và quan trọng nhất về thị trường và các vấn đề liên quan đến công tác phát triển thị trường của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, vận dụng các lý luận này vào việc phân tích thực trạng hoạt động phát triển thị trường của CIRI, đánh giá các ưu nhược điểm và nguyên nhân của những tồn tại để từ đó có thể đưa ra một số giải pháp nhằm phát triển thị trường cho công ty. Để thực hiện tốt công tác phát triển thị trường, trong thời gian tới, công ty cần thực hiện tốt một số giải pháp như: hoàn thiện và phát triển các mẫu mã của sản phẩm, mở rộng và phát triển mạnh mẽ hơn các dịch vụ bán hàng và sau bán hàng, phát triển tốt các kênh phân phối, giảm giá của sản phẩm đồng thời tiến hành nghiên cứu kỹ lưỡng các nhu cầu thị hiếu tiêu dùng của các khách hàng trong và ngoài nước, đặc biệt là doanh nghiệp cần phải chú trọng hơn nữa đến công tác phát triển thị trường nước ngoài,…Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần có những giải pháp giúp đỡ, tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong hoạt động phát triển thị trường như: Thực thi các chính sách ưu đãi trong hoạt động sản xuất và kinh doanh xe máy mạnh mẽ hơn nữa, tăng cường hoạt động hỗ trợ về vốn và thị trường đối với các doanh nghiệp có mục tiêu xuất khẩu các sản phẩm xe gắn maý của họ, hỗ trợ các thông tin cần thiết cho doanh nghiệp,… Hi vọng rằng, với những giải pháp trên sẽ đóng góp được một phần nhỏ vào công tác phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm của CIRI trong giai đoạn tới để có thể đưa các sản phẩm của CIRI ra thị trường nước ngoài, phát triển và ngày càng nâng cao thị phần của doanh nghiệp tại thị trường Việt Nam, từng bước tham gia và hội nhập vào hoạt động kinh doanh quốc tế.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Dự báo thị trường xe máy thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng.pdf
Luận văn liên quan