Các doanh nghiệp cần định vị các kênh phân phối (kênh phân phối do các nhà bán
buôn nước ngoài thực hiện, kênh phân phối do những trung gian thương mại khác thực hiện.)
phù hợp với năng lực của mình và đem lại hiệu quả cao. Tăng cường quảng bá, giới thiệu sản
phẩm trên các báo, tạp chí, Website nổi tiếng; tăng cường tham gia các hội chợ thương mại
trong và ngoài nư ớc, đặc biệt là các hội chợ chuyên ngành hàng thủ công mỹ nghệ; tăng
cường công tác trưng bày, giới thiệu sản phẩm tại các trung tâm thương mại nước ngoài.
148 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3785 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp đẩy mạnh Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i
khảo sát thị trường để nắm vững cơ cấu giá và đàm phán kỹ lưỡng với họ về chia sẻ lợi ích
trên thị trường. Một trong những khó khăn nhất của nhà xuất khẩu là tìm kiếm được nguồn
trung gian tin cậy.
- Những khó khăn mà doanh nghiệp xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt nam
thường gặp phải khi xâm nhập thị trường Hoa Kỳ:
+ Khó khăn đầu tiên chính là sự cạnh tranh gay gắt từ phía Trung Quốc. Đây là
nước hiện nay cung cấp chính cho thị trường Hoa Kỳ những mặt hàng thủ công mỹ nghệ
và quà tặng (hàng mây tre lá, hàng thêu, hàng quà tặng...) tương tự như các mặt hàng mà
Việt nam đang cố gắng xuất khẩu. Việt Nam muốn cạnh tranh được với Trung Quốc về
ngành hàng này tại thị trường Hoa Kỳ thì cần phải tạo ra nhiều mặt hàng độc đáo hơn và
giá cần giảm hơn nữa. Hiện các mặt hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam giá cao hơn của
Trung Quốc trong khi mẫu mã lại đơn điệu hơn.
+ Quy mô sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam còn nhỏ lẻ, manh mún
trong khi đơn hàng nhập khẩu của Hoa Kỳ thường là lớn. Do đó, khi có được những đề
nghị từ phía Hoa Kỳ trong việc nhập khẩu hàng thì các doanh nghiệp Việt Nam, đa phần là
các công ty nhỏ, hợp tác xã và chủ yếu là hộ gia đình, đã không thể đáp ứng nổi với số
lượng hàng tương đối lớn. Điều này đã dẫn tới mất đi những cơ hội làm ăn mở rộng hoạt
động tại thị trường Hoa Kỳ.
+ Một khó khăn nữa là hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam khó xâm nhập vào thị
trường Hoa Kỳ do mẫu mã chưa phù hợp với thị hiếu của người dân Hoa Kỳ. Nhiều sản
phẩm thủ công mỹ nghệ Việt Nam hay nhấn mạnh đến tính dân tộc hoặc văn hoá của sản
phẩm. Tuy nhiên, những đặc tính này có thể có giá trị đối với dân tộc hoặc nền văn hoá
này, song lại chẳng có ý nghĩa gì đối với dân tộc hoặc một nền văn hoá khác. Việt Nam,
một nước mang đậm văn hoá á Đông có rất nhiều điểm khác biệt đối với nền văn hoá Hoa
Kỳ. Do đó các nhà sản xuất Việt Nam nên nghiên cứu những giá trị nghệ thuật và đặc tính
văn hoá của các dân tộc sống ở Hoa Kỳ để lồng nó vào các sản phẩm của mình bán sang
thị trường này. Đây là vấn đề cần quan tâm lưu ý để nâng cao số lượng sản phẩm tiêu thụ ở
Hoa Kỳ, không nên áp đặt những giá trị văn hoá của mình trên sản phẩm bán cho người
Mỹ.
Đối với thị trường Hoa Kỳ cần có một số giải pháp riêng sau:
+ Tập trung vào các mặt hàng làm từ mây, tre, lá, hàng thêu tay, sơn mài với mẫu
mã độc đáo và tinh xảo để thâm nhập và mở rộng vào thị trường Hoa Kỳ
+ Các doanh nghiệp cần soạn thảo chính sách nhãn hiệu cụ thể. Nhãn hiệu tối thiểu
phải đảm bảo các thông tin như: Nhận biết được sản phẩm, chỉ rõ phẩm chất của sản phẩm,
mô tả sản phẩm trong chừng mực nào đó (nơi sản xuất, chất liệu...), tuyên truyền sản phẩm
bằng những hình vẽ hấp dẫn; cần phải tìm và thiết lập mối quan hệ kinh doanh chiến lược
với các đối tác Hoa Kỳ có khả năng thiết kế và tiêu thụ sản phẩm và đang cần tìm đối tác
sản xuất ở nước ngoài. Các doanh nghiệp có thể liên kết với các nhà tạo mẫu là các Việt
Kiều ở nước ngoài. Họ là những người hiểu rất rõ về nhu cầu cũng như thị hiếu ở Mỹ.
Điều này sẽ tránh được tình trạng “cái cần mà không có và cái có lại không cần tới”
+ Các doanh nghiệp đi khảo sát thị trường hoặc tham gia hội chợ hàng thủ công mỹ
nghệ và quà tặng ở Hoa Kỳ nên nhằm vào mục đích tìm kiếm các đối tác . Vì vậy, mục
đích tham gia hội chợ là để giới thiệu khả năng sản xuất hơn là giới thiệu mẫu mã để khách
hàng chọn mua và ký hợp đồng. Chọn tham gia hội chợ nào và trưng bày cái gì cũng nên
điều chỉnh cho phù hợp với mục đích tham gia.
+ Các doanh nghiệp cần luôn xây dựng phương châm: “bán cái người ta cần chứ
không bán cái mà mình có sẵn”.
Thị trường EU
EU là khu vực thị trường ta xuất được nhiều loại hàng thủ công mỹ nghệ và có
nhiều triển vọng mở rộng, đẩy mạnh tiêu thụ một số loại hàng ta có khả năng phát triển.
Trong tương lai, đây sẽ là khu vực có khả năng tiêu thụ mạnh nhiều mặt hàng thủ công mỹ
nghệ của Việt Nam, nhu cầu nhập khẩu những năm gần đây đạt khoảng gần 7 tỷ
USD/năm. Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam năm 2005 vào EU chỉ chiếm
5,4% kim ngạch nhập khẩu của khu vực này, phấn đấu đến năm 2010 nâng tỷ lệ này lên
trên 6,4% (đạt kim ngạch trên 0,6 tỷ USD).
EU là thị trường tiêu thụ đồ gỗ lớn nhất thế giới, là một trong các thị trường trọng
điểm cho đồ gỗ chế biến của Việt Nam mà hiện nay sản phẩm gỗ của ta đang xâm nhập rất
tốt
Hàng gốm, sứ mỹ nghệ cũng là nhóm hàng đang tiêu thụ mạnh sang khu vực thị
trường này. Thông qua hội chợ Frankfurt hàng năm tại Đức, một số công ty của ta đã thành
đạt trong việc nắm bắt được nhu cầu của khách hàng, ký được nhiều hợp đồng xuất khẩu
hàng gốm sứ mỹ nghệ. Có thương nhân Đan Mạch đã chuyển toàn bộ đơn hàng gốm sứ từ
các nước xung quanh ta để tập trung đặt hàng tại Việt Nam và hứa hẹn giúp đầu tư mở
rộng sản xuất tăng lượng hàng cung ứng cho thị trường này lên 2-3 lần so với hiện nay.
Các mặt hàng như mây tre, lá đan, các sản phẩm bàn ghế, trang trí nội thất bằng nguyên
liệu song mây, tre, hàngthêu ren... cũng xuất khẩu được sang khu vực thị trường này với
khối lượng đáng kể. Nhiều mặt hàng mây tre xuất khẩu sang Tây Âu, thảm cói, đệm ghế
cói được xuất khẩu sang các nước Hà Lan, Tây Ban Nha, Italia...
Trong khu vực thị trường này, hầu hết các nước đều có nhập hàng thủ công mỹ
nghệ của ta, trong đó có một số thị trường nhập khẩu với kim ngạch tương đối khá.
Mặc dù khả năng sản xuất của ta rất lớn nhưng hàng thủ công mỹ nghệ chưa thâm
nhập được nhiều vào EU vì sản phẩm thủ công mỹ nghệ của ta còn đơn điệu, chất lượng
kém và không đồng đều, vẫn chưa đáp ứng được thị hiếu về tính độc đáo trong kiểu dáng
và mẫu mã; trong khi đó, do do phần lớn được làm tại nông thôn nên sản phẩm còn bị
nhược điểm quan trọng nữa là chất lượng kém và không đồng đều. Nguyên liệu thực vật
do chưa xử lý tốt, thường biến dạng khi có thay đổi về thời tiết và không chịu được khí hậu
lạnh, thậm chí phát sinh mốc, mọt ngay trên đường vận chuyển. Sản xuất phân tán cũng đã
góp phần làm cho khâu hoàn thiện sản phẩm không đồng đều, lô tốt, lô xấu lẫn lộn. Hơn
nữa, phí vận tải với cách tính cước theo khối đối với hàng công kềnh cũng là những
nguyên nhân làm giảm sức cạnh tranh qua giá của hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam trên
thị trường EU, nếu có những giải pháp thích hợp để phát triển sản xuất, đa dạng hoá sản
phẩm, nâng cao chất lượng và cải tiến mẫu mã thì EU thực sự là thị trường tiềm năng cho
loại hàng xuất khẩu này. Hiện nay, người tiêu dùng EU rất thích sử dụng các sản phẩm thủ
công mỹ nghệ của Việt Nam. Điều đáng lưu ý là trong thời gian qua, nhiều thương nhân
EU lâu nay làm ăn với các chủ hàng Trung Quốc và của các nước ASEAN khác đã phần
nào quan tâm đến thị trường Việt Nam hơn, một phần vì muốn làm phong phú thêm nguồn
cung cấp hàng hoá, phần khác vì họ thấy nhiều mặt hàng Việt nam đáp ứng tốt yêu cầu của
họ cả về giá cả lẫn chất lượng. Một số thị trường EU đang có nhu cầu lớn về từng chủng
loại hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam, các doanh nghiệp có thể tập trung đẩy mạnh
xuất khẩu vào các nước như Đức, Pháp, Tây Ban Nha, Italia, Anh... đay là những nước
đang có nhu cầu lớn về các mặt hàng mây tre lá, thảm. sơn mài. Một điều vừa thuận lợi
nhưng cũng là thách thức đối với Việt Nam là hàng Việt Nam xuất khẩu vào thị trường EU
được hưởng GSP như hàng của các nước đang phát triển khác. Vì vậy, hàng của ta gặp rất
nhiều đối thủ cạnh tranh nặng ký trên thị trường này, như hàng của Trung Quốc, Thái Lan
và hàng của các nước ASEAN khác.
- Thâm nhập vào thị trường này, các doanh nghiệp cần tận dụng các hình thức ưu
đãi thuế quan như chế độ GSP (Genaralised system of Prefence - GSP - hệ thống ưu đãi
phổ cập). Chế độ GSP của EU miễn thuế nhập khẩu cho hầu hết các sản phẩm có xuất xứ
từ các nước đang phát triển thâm nhập thị trường này. Theo GSP, các mức thuế quan cơ
bản được áp dụng cho 4 nhóm sản phẩm sau:
Bảng 3.1: Mức thuế quan nhập khẩu vào EU
Đơn vị tính: %
Các nhóm sản phẩm phân loại theo GSP
Nhóm sản phẩm
Mức thuế quan
áp dụng chung
Mức độ
ưu đãi
- Các sản phẩm nhạy cảm cao 85 15
- Các sản phẩm nhạy cảm 70 30
- Các sản phẩm bán nhạy cảm 35 65
- Các sản phẩm không nhạy cảm 0 100
Việc phân loại sản phẩm thuộc nhóm nào liên quan đến nhiều yếu tố, thông qua
kiểm tra cụ thể để xác định mức thuế phù hợp. Đa số các mặt hàng TCMN thuộc nhóm
nhạy cảm và bán nhạy cảm nhưng các sản phẩm chủ yếu là nguyên liệu thô được miễn
thuế theo chế độ ưu đãi thuế quan, đồng thời cơ chế điều chỉnh thuế còn phân biệt hàng
hoá thuộc các nước chậm phát triển, nước có khả năng cạnh tranh cao. Bởi vậy khi xuất
khẩu, các doanh nghiệp cần tận dụng quy định này.
Tuy nhiên, EU là thị trường khó tính, đòi hỏi cao về kiểu dáng, mẫu mã, chất
lượng, vì vậy các đơn vị sản xuất, xuất khẩu cần chú ý nâng cao chất lượng, thường xuyên
cải tiến mẫu mã, kích thích tiêu dùng. Là thị trường có thu nhập bình quân cao nếu giá bán
tăng nhưng sản phẩm có chất lượng tốt và đẹp vẫn được người tiêu dùng lựa chọn. Sản
phẩm TCMN của Thanh Hoá đã được bán ở Thuỵ Điển, Anh, Đức, Pháp, ý, Tây Ban Nha
và có thể mở rộng sang các nước còn lại của EU.
Ngoài các giải pháp chung đã nêu ở phần trên thì đối với thị trường EU cần có một
số giải pháp riêng sau:
- Các doanh nghiệp cần nghiên cứu kỹ hơn về thị trường EU để có mẫu mã phù
hợp. Như người dân ở châu Âu lại chuộng đồ nội thất mang tính dân tộc. Loại nội thất này
có thể mang phong cách cổ điển hoặc hiện đại song hết sức đặc trưng. Điều quan trọng là
nguồn gốc cũng như tính chân thực của Việt nam ẩn chứa trong các đồ đạc đó có thể bộc
lộ rõ ràng. Điều này hoàn toàn có thể thực hiện được bằng việc sử dụng các nguyên liệu,
các mẫu hoạ tiết, kỹ xảo đặc trưng và sự khéo léo về tay nghề của các nghệ nhân.
- Các doanh nghiệp cần xây dựng những chiến lược sản phẩm cho riêng mình; phải
thông hiểu “luật chơi” của EU như hệ thống luật pháp, các rào cản kỹ thuật... cũng như
việc tìm hiểu phong tục tập quán, thị hiếu tiêu dùng của công dân EU. Điều này sẽ giúp
cho doanh nghiệp xâm nhập thị trường một cách có hiệu quả hơn
- Trong thời gian gần đây các doanh nghiệp ở Châu Âu đặc biệt chú ý tới các sản
phẩm thủ công mỹ nghệ của Việt Nam. Đây chính là cơ hội lớn để chúng ta khuếch trương
sản phẩm của mình rộng rãi hơn
- Trong giao thương quốc tế khi rào cản thuế quan dần được tháo dỡ thì tiêu chuẩn
kỹ thuật của hàng hoá lại là rào cản chính trong thương mại. Vì vậy, chúng ta phải đẩy
mạnh tiêu chuẩn hoá theo hướng hài hoà các tiêu chuẩn quốc gia với các tiêu chuẩn quốc
tế nhằm mục đích cùng chung một tiêu chuẩn, một giấy chứng nhận... đã được chấp nhận
tại các quốc gia. Điều này tạo điều kiện thuận lợi và giảm chi phí cho hoạt động thương
mại quốc tế
- Vấn đề xây dựng thương hiệu cũng là điều quan trọng để hàng hoá nói chung,
hàng thủ công mỹ nghệ nói riêng có thể xuất vào thị trường EU. Từ trước tới giờ hàng hoá
của chúng ta chủ yếu xuất khẩu theo giá FOB nên không có thương hiệu. Qua nhiều năm
chất lượng hàng thủ công mỹ nghệ của chúng ta cũng từng bước được nâng cao. Chất
lượng chính là những viên gạch xây dựng thương hiệu; đồng thời nó cũng là “lời hứa” đảm
bảo đối với hàng hoá và đáp ứng được sự mong đợi của khách hàng. Tạo được thương hiệu
nổi tiếng là biện pháp, cơ hội, triển vọng vững chắc nhất để các doanh nghiệp chúng ta
xâm nhập thị trường EU. Một số con đường có thể giúp các doanh nghiệp tạo lập được
thương hiệu có uy tín trên thị trường châu Âu là: liên doanh với những đối tác có nhãn
hiệu nổi tiếng nhằm tạo chỗ đứng trong các kênh phân phối, đồng thời các doanh nghiệp
tiếp tục đầu tư chiều sâu, cải tiến mẫu mã, nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm
nhằm tạo dấu ấn trong tâm trí người tiêu dùng EU. Dần dần xây dựng những hàng hoá
mang nhãn hiệu riêng có của chúng ta.
Ngoài ra chúng ta cần quan tâm đến các thị trường khác như:
* Thị trường Canađa cũng là thị trường quan trọng ở khu vực Bắc Mỹ đối với hàng
thủ công mỹ nghệ của ta.
* Thị trường Đài Loan, Hồng Kông và Hàn Quốc
Đây là 3 thị trường lớn trong xuất khẩu của Việt Nam nói chung và cũng là những
thị trường nhập khẩu nhiều hàng thủ công mỹ nghệ của ta.
- Đài Loan là thị trường nhập khẩu nhiều sản phẩm gỗ của Việt Nam, trong đó có
đồ gỗ gia dụng và mỹ nghệ. Đây là thị trường còn nhiều tiềm năng ta có thể khai thác để
xuất khẩu vì thuế nhập khẩu loại hàng này của đài Loan thấp, chỉ từ 0% đến 2,5%.
- Hồng Kông là thị trường lâu nay ta đã xuất khẩu được nhiều chủng loại hàng thủ
công mỹ nghệ
- Hàn Quốc tuy chưa nhập khẩu nhiều hàng thủ công mỹ nghệ của ta, nhưng một số
chủng loại hàng đã có mặt trên thị trường này.
* Thị trường Trung Đông
Trung Đông là khu vực thị trường còn nhiều tiềm năng ta chưa khai thác được để
đẩy mạnh xuất khẩu. Tuy nhiên, trong một số năm gần đây hàng xuất khẩu của ta cũng đã
xuất được sang thị trường này. Gần đây đã mở thêm được các thị trường mới như các Tiểu
Vương quốc ả rập thống nhất, Israen... Nhiều mặt hàng mây tre, trúc, cói đã được xuất
khẩu sang các thị trường này.
* Thị trường Nga, các nước SNG và Đông Âuu
Đây là khu vực thị trường rất rộng lớn, đã từng một thời trên 30 năm (từ 1959-
1990) là thị trường chủ yếu (nếu như không muốn nói gần như là thị trường độc nhất) tiêu
thụ các sản phẩm thủ công mỹ nghệ xuất khẩu của Việt Nam. Kim ngạch cao nhất (1985)
đã đạt tới con số gần 250 triệu USD. Từ sau năm 1990, tại khu vực thị trường này có
những biến đổi lớn có tính đảo lộn về chính trị và kinh tế gây khó khăn lớn cho việc xuất
khẩu những loại hàng hoá này của ta.
Dù sao đây cũng là khu vực thị trường có nhu cầu lớn về nhiều chủng loại hàng hoá
mà ta có thể đáp ứng, trong đó có hàng thủ công mỹ nghệ. Vì vậy, cần quan tâm trở lại
khai thác khu vực thị trường lớn này bằng những mẫu mã hàng mới, sản phẩm mới với
chất lượng, giá cả, phương thức bán hàng phù hợp và có sức cạnh tranh cao
3.2.5. Giải pháp đối với ngành nghề thủ công nghiệp và làng nghề
3.2.5.1. Quy hoạch vùng sản xuất nguyên liệu và các làng nghề sản xuất hàng
thủ công mỹ ngh
a) Quy hoạch vùng sản xuất cung ứng nguyên liệu cho sản xuất hàng thủ công mỹ
nghệ
Việc đảm bảo nguyên liệu cho các cơ sở sản xuất, các làng nghề có ảnh hưởng rất
lớn tới sự phát triển của làng nghề, vì thế để phát triển làng nghề cần phải quy hoạch vùng
nguyên liệu, có kế hoạch khai thác hợp lý và bảo vệ chu đáo. đồng thời xây dựng các cơ sở
chuyên khai thác, chế biến và cung cấp vật tư, nguyên liệu cho các làng nghề. Cùng với
việc tổ chức khai thác nguyên liệu tốt hơn để tránh tuỳ tiện khai thác một cách bừa bãi
không có kế hoạch cần tiến hành quy hoạch và nhân rộng mô hình trồng nguyên liệu để
chủ động cung ứng cho sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ (mây, chuối, bèo tây...).
Nhóm hàng mây tre, lá, cói, hiện nay do khai thác bừa bãi, thiếu quy hoạch và đầu
tư, dẫn đến tình trạng nguồn nguyên liệu chính như gỗ, tre, trúc sào, giang, nứa, mây đang
dần cạn kiệt. Ngoài việc nhập khẩu từ Lào về thì cần phải tổ chức quy hoạch vùng sản xuất
nguyên liệu bởi vì đây là những nguyên liệu dòng đời ngắn, dễ trồng, dễ khai thác thu
hoạch. Vì vậy, vấn đề đặt ra phải xây dựng phát triển nguồn nguyên liệu ổn định, khai thác
bền vững và chế biến nguyên liệu thô... để làm được việc đó cần:
+ Khảo sát về thực trạng nguyên liệu cho sản xuất hàng thủ công, đặc biệt đối với
mây, đất sét, gỗ, chuối, bèo tây... để đánh giá trữ lượng và chất lượng thực tế, đồng thời
đánh giá hoạt động khai thác phục vụ sản xuất
+ Triển khai các chương trình trồng mới và các chương trình khai thác đối với
nguyên liệu trong tỉnh, liên kết giữa các khu vực cung cấp nguyên liệu với khu vực sản
xuất trên cơ sở ký kết hợp đồng thu mua... tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hàng thủ
công mỹ nghệ tham gia đầu tư, quản lý và trực tiếp khai thác vùng nguyên liệu.
+ Hỗ trợ các nhà cung cấp nguyên liệu thô đầu tư vào công nghệ chế biến và kỹ
thuật xử lý tiên tiến
+ Khuyến khích đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực chế biến nguyên liệu (gỗ, tre, cói,
nhuộm trong ngành dệt) để thực hiện chuyển giao công nghệ.
b) Quy hoạch các làng nghề sản xuất hàng TCMN
Sản phẩm TCMN xuất khẩu do các doanh nghiệp và các làng nghề sản xuất ra,
trong đó sản lượng từ các làng nghề là chủ yếu. Để đạt được các dự kiến kim ngạch xuất
khẩu hàng TCMN và giải quyết việc làm cho lao động của tỉnh, Thanh Hoá cần khẩn
trương xây dựng quy hoạch các làng nghề đang mai một vì sản phẩm không có đầu ra,
không cạnh tranh được với những sản phẩm cùng loại của Trung Quốc.
Trên cơ sở đề án phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp tỉnh Thanh Hoá giai
đoạn 2006 - 2010, định hướng đến năm 2015 đã được UBND tỉnh Thanh Hoá phê duyệt và
quy hoạch phát triển các cụm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thanh
Hoá để tính toán nhu cầu các nhóm hàng, mặt hàng có thể xuất khẩu được cũng như thực
trạng của các làng nghề sản xuất hàng TCMN trong tỉnh, cần lấy các làng nghề truyền
thống, có sức phát triển, lan toả làm trọng tâm để liên kết, chi phối nhiều làng nghề cùng
làm một nghề trong không gian địa lý lãnh thổ tạo thành vùng nghề hoặc nhóm làng nghề;
tập trung nâng cao năng lực marketing các làng nghề truyền thống để phát huy ảnh hưởng
lan truyền từ làng nghề gốc sang các làng lân cận nhưng làng nghề gốc vẫn giữ vai trò chi
phối và phân cấp. Các làng nghề gốc này tập trung vào bảo tồn và phát triển công nghệ
gốc, sáng tác mẫu mã sản phẩm. Đồng thời khuyến khích sự liên kết giữa các làng nghề
trong vùng và giữa các vùng nghề ngày càng chặt chẽ trong việc khai thác và sử dụng các
yếu tố đầu vào và tiêu thụ, đầu ra của hoạt động sản xuất kinh doanh. Tỉnh cần phải quy
hoạch lại các làng nghề sản xuất hàng xuất khẩu để có kế hoạch sản xuất và phát triển theo
tình hình phát triển của thị trường nước ngoài.
Quy hoạch phát triển các làng nghề theo hướng hình thành cụm trung tâm tiểu thủ
công nghiệp và dịch vụ của mỗi làng xã, tách khu vực sản xuất ra khỏi khu vực nhà ở, đảm
bảo kết cấu hạ tầng (giao thông, điện, cấp thoát nước, thông tin liên lạc, y tế, giáo dục...),
đảm bảo nhà xưởng cho sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường; theo mô hình làng
nghề - làng du lịch (trong các làng nghề có khu vực sản xuất, có nơi trưng bày giới thiệu
sản phẩm và khách hàng đến sẽ không chỉ tham quan mà còn được chứng kiến cách thức
làm ra sản phẩm, từ đó thu hút được khách tham quan du lịch trong và ngoài nước, tiêu thụ
được sản phẩm, thu hút được đầu tư của các nhà đầu tư trong và ngoài nước); cần
Thực tế quy hoạch các làng nghề là việc khó và rất phức tạp do rất nhiều khó khăn
khác nhau như thu nhập thấp, không có việc làm, nhiều làng nghề đã đóng cửa, lao động
thủ công đã chuyển đi làm công việc khác để kiếm sống.
Nguyên nhân chủ yếu là sản phẩm không tiêu thụ và xuất khẩu được, bởi vậy thông
qua điều tra nhu cầu của thị trường nhập khẩu, các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu
hàng TCMN có thể ký được hợp đồng dài hạn ổn định để các làng nghề tự hồi phục là
chính. Đồng thời các doanh nghiệp cùng với các cơ quan chức năng cùng hợp tác tháo gỡ
các khó khăn vướng mắc đẻ phát triển sản xuất. Chỉ trên cơ sở quy hoạch các làng nghề ổn
định sản xuất mới tạo ra khối lượng sản phẩm lớn tạo điều kiện thúc đẩy xuất khẩu.
3.2.5.2. Các giải pháp khôi phục và phát triển làng nghề
a) Hoàn thiện quy hoạch, kế hoạch khôi phục và phát triển các làng nghề
Trên cơ sở quy hoạch các làng nghề đã nêu ở trên, xây dựng phương án khôi phục
và phát triển các làng nghề. Quy hoạch và kế hoạch khôi phục, phát triển làng nghề phải
gắn với quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của cả tỉnh, địa phương và phải lấy
thị trường làm căn cứ.
b) Mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm cho các làng nghề:
- Trước hết bản thân các hộ gia đình, cơ sở sản xuất trong các làng nghề phải chủ
động tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm. Muúon vậy, phải chú ý đến đầu tư nâng cao
chất lượng sản phẩm, tạo ra thương hiệu sản phẩm có uy tín và đăng ký bản quyền thương
hiệu, cải tiến mẫu mã cho hợp thị hiếu, tạo sự hấp dẫn đối với khách hàng về chất lượng,
giá cả, phương thức phục vụ và phải lấy chữa tín làm đầu. Không những thế, các cơ sở, các
hộ sản xuất ở làng nghề cần đẩy mạnh liên doanh liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm không chỉ trong nội bộ làng nghề mà cả đối với ngoài vung, ngoài tỉnh để có điều
kiện tiếp cận, mở rộng thị trường
- Nhà nước cần tích cực tạo điều kiện để mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trên cơ
sở ký kết các hợp đồng buôn bán nhằm tạo ra một thị trường nước ngoài có tính chất lâu
dài và ổn định; chỉ đạo trung tâm khuyến công tỉnh đẩy mạnh các hoạt động khuyến công
trên địa bàn, nhất là đối với các làng nghề; tiếp tục đầu tư một cách thoả đáng cho công tác
nghiên cứu, dự báo thị trường về sản phẩm của các làng nghề trong và ngoài nước; tạo
điều kiện cho người sản xuất trong các làng nghề xuất khẩu trực tiếp các sản phẩm của
mình; nâng cao vai trò của các tham tán thương mại ở các nước để hỗ trợ các cơ sở sản
xuất trong làng nghề xúc tiến thương mại tìm kiếm thị trường; tạo điều kiện cho các nghệ
nhân, các làng nghề truyền thống tham gia gia công cho các doanh nghiệp ở đô thị, khu
công nghiệp tập trung; hình thành hệ thống chợ làng tại các làng nghề kết hợp với xây
dựng các trung tâm thương mại cụm xã để thúc đẩy giao lưu hàng hoá; khuyến khích và
tạo điều kiện để các cơ sở sản xuất kinh doanh trong các làng nghề mở các đại lý, các cửa
hàng, quầy hàng giới thiệu sản phẩm tại các đô thị và các tụ điểm thương mại ở các địa
phương khác nhau.
c) Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý, nâng cao tay nghề cho người lao động
trong các làng nghề
Tăng cường đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ quản lý, năng lực kinh doanh cho
chủ hộ, chủ doanh nghiệp và kỹ năng tay nghề cho người lao động như đã nêu ở phần
doanh nghiệp. ở các làng nghề lao động làm nghề ít được đào tạo cơ bản mà chủ yếu là
truyền nghề trực tiếp. Việc truyền nghề vừa giữ được bí quyết nghề nghiệp, vừa tạo ra đội
ngũ thợ có tay nghề và khả năng thực hành nhưng họ lại yếu về lý luận cơ sở, yếu về các
kiến thức khoa học, mỹ thuật, lịch sử truyền thống của nghề. Vì vậy, cần nâng cao trình độ
văn hoá cho dân cư nông thôn với việc phát triển hệ thống trường học; mở rộng quy mô
đào tạo và đa dạng hoá các hình thức dạy nghề, cải tiến chương trình và tổ chức lại hệ
thống các trường dạy nghề, tập trung chủ yếu vào đào tạo những kiến thức thiết thực cho
phát triển làng nghề; gắn liền với việc sử dụng, giải quyết việc làm cho người học nghề; có
chương trình bồi dưỡng nâng cao tay nghề cho người đang làm nghề và đào tạo những
người chưa có tay nghề; cải tiến chương trình và tổ chức lại hệ thống các trường dạy nghề,
khuyến khích các trung tâm dạy nghề tư nhân mở rộng quy mô đào tạo dưới nhiều loại
hình ngắn hạn, bồi dưỡng...; động viên các nghệ nhân dạy nghề và truyền bí quyết nghề
nghiệp cho thế hệ sau, đặc biệt là những nghề thủ công tinh xảo mà họ tích luỹ được.
Đối với những làng thuần nông được nhân cấy nghề và trở thành làng nghề theo
tiêu chuẩn, nhà nước hỗ trợ cùng địa phương về kinh phí để mở các lớp đào tạo tay nghề
cho lao động mới.
Đối với chủ doanh nghiệp, chủ hộ trong các làng nghề thì Nhà nước mà cụ thể là
Sở Lao động Thương binh xã hội, liên minh Hợp tác xã tỉnh, các hiệp hội ngành nghề,
chính quyền địa phương các cấp cần kết hợp tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực
cho các chủ hộ, chủ doanh nghiệp trong các làng nghề nông thôn thông qua các hình thức
như: Mở các lớp tập huấn, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn nghiệp vụ kế toán tài chính,
quản lý kinh tế, tiếp thị, kiến thức về hội nhập quốc tế... đặc biệt là hệ thống pháp luật liên
quan đến tổ chức sản xuất kinh doanh của làng nghề
Đối với những người lao động đang làm nghề trong các làng nghề và đối với những
thanh niên nông thôn chưa có việc làm, cần phải có chương trình bồi dưỡng nâng cao tay nghề
cho người đang làm nghề và đào tạo những người chưa có tay nghề để họ có cơ hội tìm được
việc làm trong các cơ sở ngành nghề trong làng nghề. Thực hiện tốt quy chế xét tặng danh
hiệu “nghệ nhân”, danh hiệu “bàn tay vàng” cho những người thợ giỏi; tổ chức cho các nghệ
nhân trong các làng nghề đi tham quan học tập kinh nghiệm ở nước ngoài...
d) Phát triển đa dạng các loại hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh trong các
làng nghề
- Phát triển loại hình hộ gia đình: Là hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh chủ yếu
trong các làng nghề hiện nay. Cần quan tâm giúp đỡ và hướng dẫn hộ gia đình trong các
làng nghề sản xuất kinh doanh một cách hợp lý, tạo điều kiện cho các hộ gia đình kinh
doanh thuận lợi.
- Phát triển loại hình tổ hợp tác: Là hình thức liên kết tự nguyện của các hộ gia đình
trong làng nghề cùng sản xuất kinh doanh một mặt hàng. Cần có chính sách khuyến khích
để các hộ gia đình trong một làng nghề cùng hợp tác trở thành một hoặc một vài tổ hợp tác
quy mô lớn, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh với quy mô ngày càng lớn hơn, hiệu
quả ngày càng cao hơn.
- Phát triển loại hình hợp tác xã: Là tổ chức kinh tế tự chủ do những người lao động
có nhu cầu lợi ích chung tự nguyện cùng góp sức góp vốn lập ra theo quy định của pháp
luật. Cần phải có biện pháp chuyển đổi phương thức hoạt động cho phù hợp với các cơ chế
mới với sự chỉ đạo sát sao của cấp uỷ, chính quyền các cấp. Đồng thời cần hoàn thiện hơn
nữa các chính sách ưu đãi, khuyến khích phát triển hợp tác xã.
- Phát triển các loại hình doanh nghiệp (doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm
hữu hạn, công ty cổ phần: Cần tạo môi trường pháp lý ổn định, khuyến khích và động viên
các chủ doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật
vào sản xuất, bỏ vốn vào phát triển ngành nghề, dịch vụ ở nông thôn.
- Khuyến khích hỗ trợ phát triển các hình thức Hiệp hội ngành nghề, làng nghề
nhằm giúp nhau về kinh nghiệm quản lý, kỹ thuật, tiêu thụ sản phẩm, bảo vệ lợi ích cho
nhau chống lại các thế lực gây khó khăn cho các làng nghề trong tiêu thụ sản phẩm, bảo vệ
kiểu dáng công nghiệp cho sản phẩm làng nghề.
e) Đổi mới công nghệ cho các cơ sở sản xuất kinh doanh trong các làng nghề
Đổi mới công nghệ của các cơ sở sản xuất làng nghề nông thôn là việc cải tiến, hiện
đại hoá các công nghệ cổ truyền hiện có và bằng con đường du nhập, chuyển giao các thiết
bị ký thuật, công nghệ tiên tiến từ nơi khác (cả trong nước và ngoài nước). Đổi mới công
nghệ trước hết là việc làm của bản thân các cơ sở sản xuất kinh doanh trong các làng nghề
và do các cơ sở sản xuất tự quyết định. Đồng thời cần có sự hỗ trợ của Nhà nước và các
hiệp hội ngành nghề với việc khuyến khích các cơ sở sản xuất kinh doanh trong các làng
nghề đầu tư chiều sâu đổi mới công nghệ hiện đại, hiện đại hoá công nghiệp theo phương
châm kết hợp công nghệ tiên tiến với công nghệ cổ truyền để nâng cao chất lượng sản
phẩm đủ sức cạnh tranh trên thị trường; sử dụng nguồn vốn sự nghiệp khoa học trong việc
nghiên cứu hoàn thiện công nghệ mới, chế tạo máy móc thiết bị phù hợp với từng loại
ngành nghề, sản phẩm, lựa chọn công nghệ mẫu thích hợp với các cơ sở ngành nghề ở
từng địa phương, làng xã để nhân rộng ra các nơi khác, cung cấp thông tin về thiết bị công
nghệ nhập ngoại cho các cơ sở sản xuất kinh doanh để lựa chọn cho phù hợp với khả năng
của mình; thành lập các trung tâm tư vấn phục vụ, hướng dẫn chuyển giao công nghệ tại
các làng nghề...
g) Xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng cho các làng nghề trong tỉnh
Kết cấu hạ tầng là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành, tồn tại và phát
triển làng nghề, cụ thể là:
- Phát triển hệ thống đường giao thông nông thôn
- Phát triển mạng lưới cung cấp điện
- Phát triển hệ thống thông tin liên lạc
- Cải tạo, nâng cấp cơ sở trường học, trạm y tế, nhà văn hoá
h) Đổi mới các chính sách kinh tế và tăng cường công tác quản lý nhà nước đối
với làng nghề
- Đổi mới các chính sách kinh tế:
+ Chính sách tài chính, tín dụng tạo vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của
làng nghề phát triển: Tăng đầu tư từ ngân sách Nhà nước cho chương trình khuyến công từ
Trung ương đến địa phương; tăng vốn cho vay từ các quỹ; mở rộng mạng lưới của Ngân
hàng và quỹ tín dụng; đa dạng hoá các hình thức cho vay với chính sách lãi suất cho vay
hợp lý; chính sách miễn giảm thuế đối với một số ngành nghề cần khuyến khích phát triển
và thu hút nhiều lao động.
+ Chính sách bảo vệ môi trường sinh thái và chống ô nhiễm môi trường cho các
làng nghề: Cơ chế chính sách hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng trong việc đổi mới công nghệ sản
xuất, trước mắt là cần có giải pháp công nghệ thích hợp đối với việc xử lý ô nhiễm môi
trường cho các loại làng nghề; chính sách bảo vệ môi trường khu công nghiệp, cụm công
nghiệp làng nghề (thuế tài nguyên, môi trường; chính sách hỗ trợ, khuyến khích giảm thuế,
cho vay dài hạn không lãi để thực hiện việc xử lý ngăn ngừa ô nhiễm và chống suy thoái
môi trường); khuyến khích các địa phương có những bộ phận chuyên trách theo dõi, giám
sát thực thi về môi trường cho các làng nghề để thường xuyên đánh giá tác động đến môi
trường của các cơ sở sản xuất kinh doanh đang hoạt động. Cơ sở nào gây ô nhiễm quá mức
thì phải quy định thời gian xử lý đạt tiêu chuẩn môi trường cho phép, nếu gây ô nhiễm
nghiêm trọng thì đình chỉ hoạt động hoặc chuyển địa điểm; có chính sách khen thưởng
thoả đáng.
+ Chính sách đất đai: Các cấp chính quyền, nhất là các địa phương có nhiều làng
nghề cần có quy hoạch cụ thể, tập trung khu vực mặt bằng sản xuất cho các hộ, các cơ sở
sản xuất kinh doanh ngành nghề; có chính sách cho thuê quyền sử dụng đất ưu đãi đối với
các cơ sở kinh doanh trong các làng nghề; ưu đãi thuế sử dụng đất cho hoạt động của hộ,
các cơ sở sản xuất trong các làng nghề, miễn tiền thuê đất trong 2-3 năm đầu cho các cơ
sở sản xuất kinh doanh mới thành lập. Ưu tiên cho thuê đất để di dời các cơ sở sản xuất
gây ô nhiễm môi trường.
- Tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với làng nghề:
+ Cần phải củng cố kiện toàn bộ máy, đội ngũ cán bộ quản lý làng nghề từ tỉnh đến
cơ sở; tổ chức bổ sung cán bộ quản lý làng nghề ở các phòng công thương đảm bảo có ít
nhất một đến hai cán bộ chuyên trách theo dõi về làng nghề. Đồng thời bổ sung đội ngũ
cán bộ cấp xã chuyên theo dõi các hoạt động của cơ sở sản xuất kinh doanh của làng nghề
trong phạm vi địa bàn
+ Hoàn thiện hệ thống pháp luật và môi trường kinh doanh cho các làng nghề.
Ngoài Luật và chính sách chung có liên quan đến phát triển làng nghề, nên có hệ thống
chính sách dành riêng cho làng nghề và các chính sách này phải đảm bảo sự đồng bộ
+ Các cấp chính quyền địa phương phải tập trung vào việc hoạch định mục tiêu, kế
hoạch, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội nói chung và làng nghề nói riêng, trên cơ sở đó
xây dựng chương trình đồng bộ với mục tiêu giữ vững và phát triển làng nghề, du nhập
nghề mới, chú ý khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống
+ Nâng cao vai trò, chức năng, quyền hạn và trách nhiệm quản lý Nhà nước của
chính quyền xã, phường, thị trấn trong việc trực tiếp quản lý hành chính - kinh tế đối
với các doanh nghiệp, hộ sản xuất kinh doanh ở các làng nghề trong việc tuyên truyền,
phổ biến rộng rãi các chính sách khuyến khích phát triển sản xuất của Đảng và Nhà
nước để mọi người trong làng nghề yên tâm đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh,
trong việc phát hiện khó khăn của các cơ sở sản xuất kinh doanh để kiến nghị tháo gỡ
và tạo điều kiện thuận lợi về mặt bằng sản xuất, kết cấu hạ tầng, thủ tục hành chính, xử lý
ô nhiễm môi trường...
+ Hình thành và phát triển các tổ chức tư vấn nhằm hỗ trợ, giúp đỡ làng nghề trong
quá trình sản xuất kinh doanh. Khuyến khích thành lập hội nghề nghiệp, hỗ trợ tạo điều kiện
cho hội, hiệp hội nghề nghiệp hoạt động có hiệu quả.
3.3. Một số kiến nghị
3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ, các Bộ, Ngành Trung ương
- Chính phủ, trong đó Bộ Công Thương sớm ban hành những chiến lược cho từng
lĩnh vực hoạt động xuất nhập khẩu, trong đó có hàng thủ công mỹ nghệ, để đảm bảo xuất
khẩu nhịp nhàng hơn, có hiệu quả phát huy thế mạnh của từng ngành. Xây dựng hoàn thiện
các văn bản Luật và dưới luật để điều chỉnh các hoạt động thương mại. Nhằm làm cho
hàng hoá lưu thông thông suốt qua việc áp dụng hệ thống luật và chính sách quản lý.
- Đề nghị Chính phủ cho thành lập Trung tâm thiết kế và phát triển sản phẩm đảm
bảo cung cấp hoạt động đào tạo thường xuyên cho các nhà thiết kế ngành thủ công mỹ
nghệ; hỗ trợ trường đại học mỹ thuật công nghiệp đào tạo các nhà thiết kế cho ngành thủ
công mỹ nghệ và liên kết các nhà thiết kế với các nhà xuất khẩu dưới dạng các chương
trình thực tập; đào tạo các chuyên gia thiết kế cho ngành thủ công mỹ nghệ; cung cấp các
khoá đào tạo kỹ năng hoàn thiện sản phẩm, đặc biệt là khâu hoàn thiện bề mặt sản phẩm
sơn mài, sơn, chạm khảm và mạ cho các công nhân làm nghề thủ công mỹ nghệ.
- Tạo môi trường khuyến khích phát triển nguồn vốn cho doanh nghiệp. Hiện nay
các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu đều thiếu
vốn kinh doanh, trong đó nguồn vay bị hạn chế. Vì vậy, các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất
thường áp dụng phương thức mua nhanh bán nhanh để quay vòng đồng vốn và có cơ hội
tìm kiếm thương vụ khác. Cần có chính sách khuyến khích và tạo điều kiện để hệ thống
ngân hàng thương mại cho các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ vay
tiền để đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh:
+ Đề nghị Nhà nước quan tâm phát triển thị trường vốn cho làng nghề, để đa dạng
hoá các nguồn vốn cho vay, trong đó nên có các nguồn vốn cho vay với lãi suất ưu đãi.
Mặt khác, các tổ chức cho vay cũng cần có những chính sách và thủ tục cho vay linh hoạt,
tạo điều kiện cho các cơ sở sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ, các làng nghề có
thể tiếp cận được các nguồn vốn vay dễ dàng, không gặp phải những rào cản, để các cơ sở
có thể vay vốn phát triển sản xuất kinh doanh.
+ Đề nghị Nhà nước có chính sách tín dụng xuất khẩu cho các doanh nghiệp vừa và
nhỏ ở nông thôn; Đưa ngành thủ công mỹ nghệ vào hạng ưu tiên; xem xét tỷ lệ thế chấp
thấp cho ngành thủ công mỹ nghệ; ưu đãi lãi suất thấp đối với vốn vay sản xuất kinh doanh
hàng thủ công mỹ nghệ; có khung thời gian linh hoạt đối với tín dụng ngắn hạn; xem xét
việc sử dụng hợp đồng và thư tín dụng (L/C) như tài sản thế chấp.
- Chính phủ nên ưu tiên hỗ trợ xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trong các chương
trình xúc tiến thương mại quốc gia. Cục xúc tiến thương mại cần hỗ trợ các doanh nghiệp
tiếp cận thị trường xuất khẩu chủ lực, đặc biệt là các thị trường khó tiếp cận như thị trường
Mỹ: cung cấp thông tin về thị trường, tiến hành các cuộc khảo sát thị trường, tổ chức hội
chợ hàng thủ công mỹ nghệ, tiếp xúc các nhà nhập khẩu lớn; hoàn thiện hệ thống xúc tiến
thương mại, tạo sự liên kết, phối hợp giữa các tổ chức xúc tiến thương mại, vừa đảm bảo
hài hoà lợi ích của mỗi thành viên, vừa phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống. Đổi
mới cơ chế chính sách, trước hết về tài chính, vừa huy động được nhiều nguồn tài lực cho
xúc tiến thương mại, vừa động viên những người tâm huyết với hoạt động xúc tiến thương
mại; sớm ra đời quỹ xúc tiến thương mại - đầu tư - du lịch thay cho quỹ hỗ trợ xuất khẩu.
Quan tâm ưu tiên xây dựng các trung tâm hội chợ triển lãm, trung tâm tổ chức hội nghị và
sự kiện, sàn giao dịch... Nhà nước, các cơ quan xúc tiến thương mại cần hỗ trợ cho các
doanh nghiệp xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường, nhất là việc trưng bày sản phẩm và
phát triển hệ thống đăng ký thương hiệu sản phẩm (hoạch định chính sách, cải cách thủ tục
hành chính, tư vấn giúp doanh nghiệp đăng ký bảo hộ bản quyền, mở rộng tuyên truyền,
quảng bá giúp doanh nghiệp xây dựng thương hiệu...).
Các tổ chức chính phủ cần giúp đỡ các công ty tìm kiếm, xâm nhập và mở rộng thị
trường tiêu thụ nước ngoài. Đẩy mạnh công tác hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó có việc
đàm phán và ký kết các hiệp định giữa các quốc gia, đàm phán song phương và đa phương
nhằm tạo hành lang pháp lý và mở rộng thị trường cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam.
Với mạng lưới các cơ quan ngoại giao của Nhà nước ở các nước mà Việt Nam có quan hệ,
chúng ta cần phát huy vai trò trách nhiệm của các tham tán thương mại trong việc cung cáp
thông tin thị trường, luật pháp, tập quán kinh doanh ở các nước cho các doanh nghiệp, hiệp
hội ngành hàng, hỗ trợ doanh nghiệp trong việc thiết lập quan hệ kinh tế thương mại và
thực hiện các hoạt động xúc tiến thương mại, đầu tư cũng như các hoạt động hợp tác khác
ở nước ngoài. Nhà nước cần xây dựng chiến lược và kế hoạch xúc tiến thương mại dài hạn
để xúc tiến thương mại, hướng trọng tâm vào thực hiện chính sách đẩy mạnh xuất khẩu
phục vụ phát triển kinh tế xã hội, phát triển các tổ chức xúc tiến thương mại và các hiệp
hội ngành nghề. Nâng cao năng lực xúc tién thương mại cần phải tăng cường nguồn lực,
tăng nhu cầu đào tạo về kỹ năng xúc tiến thương mại cho xã hội. Đào tạo cán bộ pháp lý
nhà nước về xúc tiến thương mại để giúp các doanh nghiệp phát huy hết năng lực của
mình.
Hàng năm Chính phủ có phê duyệt chương trình xúc tiến thương mại quốc gia cho
cả năm. Để nâng cao hiệu quả hơn nữa cho các chương trình xúc tiến thưong mại trọng
điểm quốc gia, Chính phủ cần phải:
+ Đơn giản hoá các thủ tục hành chính để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp
cận dễ dàng hơn với nguồn hỗ trợ, điều chỉnh cơ cấu hỗ trợ để nâng cao hiệu quả sử dụng
nguồn hỗ trợ.
+ Tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị chủ đầu tư các chương trình trong triển
khai và tổ chức thực hiện; giảm tối đa các quy định, thủ tục hành chính, kế toán rườm rà,
khoản chi cho các nội dung đã được duyệt.
+ Đảm bảo quản lý hiệu quả nguồn tài chính hỗ trợ của Nhà nước: ưu tiên hỗ trợ
các doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng xuất khẩu nhưng khó khăn về tài chính để tự
mình tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại.
+ Tập trung xúc tiến thương mại theo từng chuyên đề, ngành hàng và thu hút nhiều
doanh nghiệp tham gia các chuyên đề, đổi mới các cơ chế tài chính cho hoạt động xúc tiến
thương mại.
- Theo dõi và điều hành tỷ giá hối đoái, luôn đảm bảo một tỷ giá có lợi cho xuất
khẩu.
- Nhà nước và các cơ quan quản lý cần quy hoạch xây dựng các vùng nguyên liệu
phục vụ cho các doanh nghiệp sản xuất hàng TCMN như vùng trồng cói, mây, dừa,
nguyên liệu tơ tằm để dệt vải, thêu renvà các mặt hàng TCMN khác để tránh phục thuộc
nguyên liệu từ nước ngoài sẽ ảnh hưởng đến quá trình sản xuất và sức cạnh tranh của hàng
Việt Nam. Cũng có thể có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp trong và ngoài nước
có vốn đầu tư, xây dựng các vùng nguyên liệu ổn định, chỉ có như vậy hàng TCMN của
Việt Nam mới có thể cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại của các nước trong khu vực
(Trung Quốc, Thái Lan...).
3.3.2. Kiến nghị với hoạt động của các doanh nghiệp
- Các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu hàng thủ công
mỹ nghệ cần có biện pháp nâng cao đội ngũ nhân viên trong công ty đảm bảo về trình độ
chuyên môn và nghiệp vụ marketing xuất nhập khẩu phù hợp với xu thế tình hình thị
trường mới. Các doanh nghiệp cũng cần mạnh dạn hơn trong việc đầu tư cho hoạt động
marketing xuất khẩu như tổ chức nghiên cứu thị trường nước ngoài, nghiên cứu cải tiến
sản phẩm.
- Các doanh nghiệp cần đặc biệt quan tâm đến chất lượng sản phẩm, cần thực hiện
tốt hơn các khâu giám định sản phẩm nhằm nâng cao chất sản phẩm của công ty; đồng thời
phải liên tục đa dạng hoá mặt hàng nhằm đáp ứng yêu cầu đa dạng của thị trường và phù
hợp với năng lực của doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần định giá sản phẩm một cách hợp lý
với từng loại thị trường (thị trường có thu nhập, thị trường có thu nhập thấp);
- Các doanh nghiệp cần định vị các kênh phân phối (kênh phân phối do các nhà bán
buôn nước ngoài thực hiện, kênh phân phối do những trung gian thương mại khác thực hiện...)
phù hợp với năng lực của mình và đem lại hiệu quả cao. Tăng cường quảng bá, giới thiệu sản
phẩm trên các báo, tạp chí, Website nổi tiếng; tăng cường tham gia các hội chợ thương mại
trong và ngoài nước, đặc biệt là các hội chợ chuyên ngành hàng thủ công mỹ nghệ; tăng
cường công tác trưng bày, giới thiệu sản phẩm tại các trung tâm thương mại nước ngoài.
Kết luận
Thanh Hoá là tỉnh đất rộng người đông, có nhiều làng nghề truyền thống sản xuất
hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu. Sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ là ngành hàng thu hút
nhiều lao động, tận dụng được thế mạnh của các làng nghề truyền thống. Trong những
năm qua xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Thanh Hoá đã không ngừng tăng lên, góp
phần đáng kế vào thực hiện xoá đói, giảm nghèo, tạo việc làm cho hàng ngàn lao động,
góp phần tăng trưởng và phát triển kinh tế của Tỉnh. Tuy nhiên, trong những năm qua kim
ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ còn thấp, hiệu quả chưa cao, sản xuất còn manh
mún ... chưa tương xứng với tiềm năng kinh tế, tài nguyên thiên nhiên và con người của
Tỉnh.
Có thể nói, sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu có vị trí, vai trò
quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh Thanh Hoá. Song thực tế
hoạt động sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở nước ta nói chung và ở tỉnh
Thanh Hoá nói riêng đang đứng trước những khó khăn rất lớn trong quá trình tổ chức sản
xuất và xuất khẩu. Qua nghiên cứu, luận văn rút ra những kết luận chủ yếu sau:
1. Phát triển sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ là một tất yếu khách
quan trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Sự phát triển sản xuất và xuất
khẩu hàng thủ công mỹ nghệ có vai trò quan trọng đối với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, nhất là ở nông thôn, góp phần khai thác và
sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của địa phương
2. Việc phân tích tình hình phát triển sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ
của các nước trong khu vực cho thấy Chính phủ các nước rất quan tâm đến việc tổ chức
sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, tạo nhiều điều kiện thuận lợi khuyến khích
sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ cùng với quá trình CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn. Đây là bài học kinh nghiệm quá báu đối với nước ta trong việc tổ chức sản xuất
và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ.
3. Trên cơ sở đánh giá, phân tích một cách toàn diện thực trạng sản xuất và xuất
khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của tỉnh Thanh Hoá cho thấy bên cạnh những kết quả đã đạt
được tương đối khả quan trong những năm gần đây về giải quyết việc làm, tăng thu nhập, cải
thiện cơ cấu kinh tế nông thôn... thì cũng còn những tồn tại, khó khăn cần khắc phục. Luận
văn đã nêu và phân tích nguyên nhân của những tồn tại khó khăn về vốn, về lao động, về kỹ
thuật công nghệ, về cơ sở hạ tầng, về thị trường tiêu thụ, về công tác quản lý của Nhà nước đối
với hoạt động sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu.
4. Luận văn đưa ra những quan điểm cần quán triệt trong quá trình tổ chức sản xuất
và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ tỉnh Thanh Hoá. Trên cơ sở quán triệt những quan
điểm đó, luận văn đưa ra phương hướng phát triển sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ
nghệ ở tỉnh Thanh Hoá trong thời gian tới phù hợp với những nguồn lực của tỉnh. Để thực
hiện phương hướng đó, luận văn đưa ra một số giải pháp chủ yếu như: Các giải pháp đối
với doanh nghiệp; Những giải pháp từ phía Nhà nước (xây dựng quy hoạch, chiến lược và
kế hoạch đẩy mạnh xuất khẩu hàng TCMN của tỉnh; tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách,
song hành với cải cách thủ tục hành chính và nâng cao chất lượng dịch vụ hành chính công
nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ; đổi mới công tác xúc tiến thương mại
và thông tin thị trường; đầu tư kết cấu hạ tầng phục vụ xuất khẩu từ nguồn ngân sách nhà
nước và các nguồn vốn khác; cải cách, sửa đổi những bất hợp lý và ban hành mới các
chính sách về thuế, tín dụng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ
xuất khẩu; Giải pháp từ phía Hiệp hội; Giải pháp về thị trường (thị trường trong nướcvà thị
trường nước ngoài); Giải pháp đối với ngành nghề thủ công nghiệp và làng nghề (quy
hoạch vùng sản xuất nguyên liệu và các làng nghề sản xuất hàng TCMN; các giải pháp
khôi phục và phát triển làng nghề; mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm cho các làng
nghề; Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý, nâng cao tay nghề cho người lao động trong các
làng nghề; Phát triển đa dạng các loại hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh trong các làng
nghề...); Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý, nâng cao tay nghề cho người lao động trong
các làng nghề...
Mặc dù cố gắng nhiều, song Luận văn khó tránh khỏi những thiếu sót. Chúng tôi
thành thực mong muốn được lượng thứ và cầu thị trước các ý kiến chỉ dẫn, đóng góp của
các nhà khoa học, của các chuyên gia và đồng nghiệp.
Danh mục tài liệu tham khảo
* Tài liệu tiếng Việt
1. Nghị quyết đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ VIII, IX
và X
2. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX: Số
13-NQ/TW về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể; Số 14-
NQ/TW về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển
kinh tế tư nhân; số 15-NQ/TW về đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,
nông thôn thời kỳ 2001 - 2010.
3. Bộ Thương mại: Cục diện kinh tế thế giới 2001, 2002, 2003, 2004
4. Bộ Thương mại (2004): Tài liệu phục vụ công tác xây dựng kế hoạch.
5. PGS, TS Nguyễn Duy Bột (1997): “Thương mại quốc tế” giáo trình; NXB
Thống kê Hà Nội.
6. PGS, TS Đỗ Đức Bình (1997): “Kinh tế quốc tế” giáo trình; NXB Giáo dục Hà
Nội.
7. Các học thuyết lịch sử phát triển, tác giải và tác phẩm (1995); NXB Thống kê Hà
Nội.
8. Bộ Thương mại: Đề án phát triển xuất khẩu giai đoạn 2006 - 2010
9. Bộ Thương mại: Đề án phát triển xuất khẩu hàng thủ công và mỹ nghệ đến 2010
10. Cục Xúc tiến thương mại - Bộ Thương mại: Sản phẩm và làng nghề Việt Nam;
đánh giá sơ bộ tiềm năng xuất khẩu của Việt Nam.
11. PGS, TS Đặng Đình Đào; PGS, TS Hoàng Đức Thân (2001): Giáo trình kinh tế
thương mại; NXB Thống kê.
12. Ngô Diệu Hảo (1998): Tác động của quan hệ kinh tế đối ngoại trong quá trình
công nghiệp hoá hiện đại hoá ở Việt nam, Hà nội.
13. Nguyễn Bách Khoa - Phan Thị Thu Hoài (1999): Marketing quốc tế; Nhà xuất
bản Giáo dục Hà nội.
14. Kỹ Thuật nghiệp vụ ngoại thương (1998), giáo trình Vũ Hữu Tửu; Nhà xuất
bản giáo dục.
15. Niên giám thống kê 2000, 2001, 2003, 2004; 2005; Nhà xuất bản Thống kê Hà
nội.
16. Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá lần thứ XV nhiệm kỳ
2001 - 2005
17. Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá lần thứ XVI nhiệm kỳ
2006 - 2010
18. Tỉnh Uỷ Thanh Hoá: Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI;
Nghị quyết số 02-NQ/TU ngày 24/01/2002 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về phát triển
xuất khẩu; Nghị quyết số 03 - NQ/TU ngày 4/11/2002 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về phát
triển ngành nghề, tiểu thủ công nghiệp; Nghị quyết số 10-NQ/TU ngày 21/3/2005 của Ban
chấp hành Đảng bộ tỉnh về phát triển doanh nghiệp giai đoạn 2005 - 2010; Chương trình
hành động số 27-CTr/TU ngày 30/7/2002 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh thực hiện Nghị
quyết Hội nghị lần thứ 5 BCHTW Đảng (khoá IX)
19. UBND tỉnh Thanh Hoá: Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Thanh Hoá
thời kỳ 2001 - 2010; Quyết định số 467/2003/QĐ-UB ngày 12/2/2003 và quyết định số
2409/2006/QĐ-UBND ngày 5/9/2006 về cơ chế chính sách khuyến khích phát triển tiểu
thủ công nghiệp và ngành nghề trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá; Quyết định số 1655/QĐ-
UBND ngày 13/6/2006 về việc phê duyệt đề án phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp
tỉnh Thanh Hoá giai đoạn 2006 - 2010, định hướng đến 2015; Quyết định số 3774/QĐ-
UBND ngày 5/12/2005 về việc phê duyệt đề án “Chương trình phát triển xuất khẩu tỉnh
Thanh Hoá đến năm 2010, định hướng đến năm 2020”.
20. Trần Lê Đoài: Những giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ
nghệ của tỉnh Nam Định giai đoạn 2006 - 2010 (luận văn thạc sỹ kinh tế, chuyên ngành
kinh tế và quản lý công).
21. Vũ thị Hà: Khôi phục và phát triển làng nghề ở nông thôn vùng đồng bằng sông
Hồng - thực trạng và giải pháp (luận văn thạc sỹ kinh tế, chuyên ngành quản lý kinh tế).
22. Sở Công nghiệp Thanh Hoá: Quy hoạch phát triển công nghiệp địa bàn tỉnh
Thanh Hoá thời kỳ 2001 - 2010, dự báo đến năm 2020; Đề án phát triển ngành nghề, làng
nghề tiểu thủ công nghiệp trong nông thôn Thanh Hoá giai đoạn 2002 - 2005 và 2010; Đề
án phát triển ngành nghề TTCN Thanh Hoá 2006 - 2010, định hướng đến năm 2015
23. Sở Thương mại Thanh Hoá: Quy hoạch phát triển Thương mại tỉnh Thanh Hoá
đến năm 2010
24. Văn kiện quy phạm pháp luật trong lĩnh vực Thương mại:
Nghị định số 12/2006/NĐ-CP ngày 23/1/2006 của Chính phủ quy định chi tiết thi
hành Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế và các hoạt động đại lý
mua, bán, gia công và quá cảnh hàng hoá với nước ngoài, thông tư số 04/2006/TT-BTM
ngày 6/4/2006 của Bộ Thương mại hướng dẫn một số nội dung quy định tại Nghị định số
12/2006/NĐ-CP; Nghị định số 37/2006/NĐ-CP ngày 4/4/2006 của Chính phủ quy định chi
tiết Luật Thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại
25. Viện nghiên cứu Thương mại- Bộ Thương mại: Tiếp tục đổi mới chính sách và
giải pháp đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm của các làng nghề truyền thống ở Bắc bộ thời kỳ đến
2010; Đề tài khoa học, mã số 2002-78-015,2004.
26. Viện nghiên cứu Thương mại- Bộ Thương mại: Hồ sơ các mặt hàng xuất khẩu
chủ yếu của Việt nam: Nhóm hàng thủ công mỹ nghệ; Hà Nội, tháng 2/2005.
27. Trung tâm xúc tiến thương mại và đầu tư thành phố Hồ Chí Minh: Tài liệu
nghiên cứu ngành hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Giải pháp đẩy mạnh Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá.pdf