Thành lập, định hướng các Trung tâm dịch vụ việc làm trong việc tuyên truyền, tư
vấn để giúp lao động trẻ có nhận thức đúng về nghề nghiệp theo hướng “giỏi một nghề,
biết một số nghề”, giúp thanh niên ngoại thành trau dồi thêm tri thức, xây dựng bản lĩnh và
tích luỹ kinh nghiệm để thích ứng trong hội nhập quốc tế; giúp thanh niên xây dựng cho
mình nhân cách con người hiện đại, kích thích tính năng động, sáng tạo, khơi dạy lòng say
mê nghề nghiệp trong thanh niên.
88 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4389 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp hỗ trợ giải quyết việc làm cho thanh niên ngoại thành Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc về cơ chế, chính sách, đặc biệt là về mặt bằng,
tiếp cận tín dụng chính thức, đào tạo chủ doanh nghiệp, bảo hộ thu nhập và tài sản hợp
pháp của mọi công dân…Phát triển mạnh khu vực dân doanh, trước hết là phát triển doanh
nghiệp vừa và nhỏ, hình thành các khu công nghiệp nhỏ ở nông thôn; đặc biệt coi trọng
phát triển kinh tế dịch vụ, nhất là dịch vụ cao cấp (tài chính, ngân hàng, kiểm toán, du
lịch…). Đây là tầng kinh tế đòi hỏi đầu tư ở mức trung bình, áp dụng công nghệ sử dụng
nhiều lao động, sử dụng lao động kỹ thuật trình độ lành nghề, rất phù hợp với lao động
TNNT ngoại thành đã qua đào tạo, nhất là đào tạo nghề chính quy.
- Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế và lao động nông thôn theo hướng công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, để giải quyết việc làm tại chỗ cho lao động thanh niên khu vực nông
nghiệp, nông thôn.
- Tạo việc làm tại chỗ cho lao động thanh niên bằng các biện pháp phát triển sản xuất
các sản phẩm nông nghiệp có giá trị kinh tế cao, áp dụng công nghệ sinh học, đưa giống
mới (cây con) có năng suất cao vào nông nghiệp; kết hợp áp dụng công nghệ tiên tiến phù
hợp cho nông dân; quy hoạch các vùng sản xuất nông nghiệp, hỗ trợ đầu tư để phát triển
kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại, các làng nghề truyền thống, khuyến khích phát triển
công nghiệp chế biến, dịch vụ tại chỗ.
- Di chuyển một phần lao động TNNT ra khỏi nông nghiệp bằng các biện pháp đào
tạo nghề trình độ cao, trình độ lành nghề cho lao động thanh niên có sức khoẻ, có trình độ
văn hoá để cung ứng cho các khu công nghiệp, khu du lịch và dịch vụ, cho xuất khẩu lao
động…
- Mở rộng và phát triển thị trường lao động ngoài nước. Mở rộng thị trường xuất khẩu
lao động sang các nước phù hợp với lao động Việt Nam; tập trung đào tạo nghề cho xuất khẩu
lao động, nhất là về tay nghề, ngoại ngữ, pháp luật, rèn luyện sức khoẻ, ý thức tự vươn lên
trong cơ chế thị trường; tạo cơ chế pháp lý về xuất khẩu lao động để đảm bảo các bên giao
dịch thực hiện theo hợp đồng được thuận lợi, chống tiêu cực, mở rộng khu vực tư nhân tham
gia xuất khẩu lao động; sắp xếp, đổi mới và đầu tư doanh nghiệp xuất khẩu lao động đủ năng
lực cạnh tranh và hội nhập thị trường lao động trong nước và quốc tế;
Có chính sách kích cầu và cơ chế huy động các nguồn vốn đầu tư toàn xã hội cho
phát triển sản xuất kinh doanh tạo nhiều việc làm
Tăng đầu tư toàn xã hội là điều kiện quyết định nhất để tái sản xuất mở rộng, phát
triển quy mô và nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh của nền kinh tế, tạo nhiều việc làm.
Cần tập trung:
- Huy động tối đa nguồn tiết kiệm trong dân đầu tư vào sản xuất kinh doanh bằng cách
áp dụng chính sách kích cầu trong tiêu dùng, nhất là tiêu dùng cho sản xuất và dịch vụ, thực
hiện tốt chính sách khuyến khích đầu tư (chính sách ưu đãi về đất đai, mặt bằng, tiếp cận tín
dụng chính thức và quỹ phát triển doanh nghiệp, miễn giảm thuế những năm đầu mới lập
doanh nghiệp…).
- Tăng nguồn đầu tư từ ngân sách của thành phố cho phát triển, đảm bảo không thấp
hơn 30% tổng chi ngân sách hàng năm. Tăng đầu tư cho phát triển nông nghiệp, nông
thôn, hỗ trợ phát triển doanh nghiệp, xúc tiến thương mại, đối ứng trong tiếp nhận viện trợ
chính thức (ODA)… Tuy nhiên, cần điều chỉnh cơ cấu đầu tư để giảm chỉ số ICOR đảm
bảo hiệu quả; kết hợp giữa đầu tư tập trung và phi tập trung, giữa áp dụng công nghệ sử
dụng nhiều vốn với công nghệ sử dụng nhiều lao động, đảm bảo hệ số co giãn việc làm
khoảng 0,27-0,36; giảm bảo hộ và bao cấp doanh nghiệp của Thành phố; chống thất thoát
trong xây dựng cơ bản…
- Mở rộng quan hệ và hợp tác kinh tế đối ngoại để tăng trưởng xuất khẩu hàng hoá và
dịch vụ; đồng thời huy động và sử dụng hiệu quả vốn hợp tác quốc tế, cải cách hành chính,
giảm thủ tục hành chính phiền hà, cải thiện môi trường đầu tư; điều chỉnh quy hoạch các
khu công nghiệp, khu chế xuất… để thu hút nguồn vốn FDI, ODA và các dự án NGO đầu
tư vào sản xuất kinh doanh, tạo nhiều việc làm cho lao động, trước hết là thanh niên.
Các chính sách hạn chế tác động rủi ro của cải cách thể chế và các rủi ro xã hội
khác đến người lao động nói chung, thanh niên nói riêng
Quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi
phải tiếp tục cải cách thể chế. Quá trình đó có thể tác động ảnh hưởng đến việc làm và đời
sống của người lao động, nhất là vấn đề mất việc làm, thất nghiệp, lạm phát… Bởi vậy,
cần có các biện pháp tích cực để hạn chế các tác động này, cụ thể là:
- Trong quá trình sắp xếp lại, cổ phần hoá doanh nghiệp của Thành phố cần tăng hiệu
quả và khả năng cạnh tranh của khu vực kinh tế Nhà nước, nâng cao chất lượng việc làm
và tăng thu nhập cho người lao động, tập trung vào các biện pháp:
Thứ nhất, xử lý nợ, đánh giá tài sản và lao động của doanh nghiệp (nhất là đất đai,
máy móc thiết bị…), giảm bảo hộ và ưu đãi của Thành phố đối với các doanh nghiệp nhà
nước, lành mạnh hoá môi trường kinh doanh.
Thứ hai, thực hiện chính sách thị trường lao động tích cực để người lao động mất
việc làm, thất nghiệp sớm trở lại thị trường lao động (trước hết là đào tạo lại nghề; đẩy
mạnh thông tin, tư vấn, giới thiệu việc làm…).
- Thực hiện chính sách can thiệp của Thành phố đối với thị trường đầu ra, do biến động
giá cả trong nước (lạm phát), nhất là chính sách bảo hiểm sản xuất, dự trữ và xúc tiến thương
mại… để không dẫn đến sa thải lao động hàng loạt.
- Triển khai thí điểm hệ thống bảo hiểm việc làm bảo vệ người lao động trong cơ chế
thị trường và tạo điều kiện thuận lợi cho lao động di chuyển.
- Thực hiện chính sách và chương trình phòng tránh, cứu trợ thiên tai, nhất là ở các
vùng ngoại thành Hà Nội.
Tiếp tục hoàn thiện cơ chế nhằm đối xử công bằng giữa các thành phần kinh tế
- Sửa đổi, bổ sung hoàn thiện cơ chế pháp lý đảm bảo các thành phần kinh tế đều
bình đẳng trước pháp luật; xây dựng chính sách khuyến khích đầu tư ở khu vực ngoại
thành; xây dựng chính sách tín dụng ưu đãi doanh nghiệp để thu hút nhân tài và chuyên gia
giỏi vào làm việc tại khu vực ngoại thành...
- Điều chỉnh chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế - xã
hội, phát triển các sản phẩm và ngành kinh tế - kỹ thuật, các khu công nghiệp, khu chế
xuất… gắn với phát triển, phân bố và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực, mà nguồn vốn quý
nhất ở nước ta nhất là thanh niên, trong đó đa số là TNNT. Đặc biệt quy hoạch và phát
triển cơ sở hạ tầng, trước hết là đường giao thông, hạ tầng cơ sở thông tin, viễn thông…
- Phát triển đồng bộ và hiện đại hoá hệ thống tài chính - ngân hàng, nhất là hệ thống
thuế, giảm bảo hộ của Thành phố; phát triển hệ thống tín dụng phục vụ người nghèo và
phát huy vai trò của tổ chức tín dụng nhân dân ở nông thôn. Điều tiết hợp lý thu nhập
doanh nghiệp theo hướng nuôi dưỡng nguồn thu và có hiệu quả, đảm bảo cho doanh
nghiệp tái đầu tư mở rộng sản xuất, tham gia thị trường chứng khoán an toàn, có hiệu quả;
đổi mới công nghệ, tạo nhiều việc làm và nâng cao chất lượng việc làm.
- Tiếp tục cải cách hành chính, trước hết là tăng cường phân cấp, nâng cao trách
nhiệm của chính quyền địa phương trong quản lý và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp,
đơn vị kinh tế, cho thị trường lao động phát triển; giảm các thủ tục hành chính trong cấp
phép thành lập doanh nghiệp, cấp phép cho người lao động nước ngoài, cho xuất khẩu lao
động, bỏ duyệt hợp đồng xuất khẩu lao động; đơn giản thủ tục về bảo hiểm xã hội… đảm
bảo sự chuyển dịch lao động nông thôn trong thành phố Hà Nội.
3.2.2. Các giải pháp chính sách giải quyết việc làm cho các nhóm đối tượng
thanh niên ngoại thành
Giải pháp chính sách tạo việc làm cho sinh viên tốt nghiệp các trường cao đẳng, đại
học, dạy nghề
Đối với lao động TNNT đã qua đào tạo, nhất là CNKT trình độ cao, các kỹ sư, cử
nhân…là nguồn nhân lực chất lượng cao cần được sử dụng vào khu vực kinh tế đòi hỏi
chất lượng lao động cao, nhất là các doanh nhân giỏi, lao động kỹ thụât trình độ cao. Các
chính sách kinh tế cần tập trung vào các vấn đề chủ yếu sau:
- Có chính sách và cơ chế tập trung nguồn lực đầu tư của Thành phố và khuyến khích
các thành phần kinh tế đầu tư phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất và khu công
nghệ cao…, cụ thể là:
+ Phát triển mạnh các ngành công nghệ cao (tin học, viễn thông, tự động hoá…), hình thành
các khu công nghệ cao;
+ Điều chỉnh quy hoạch phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất ở ngoại thành
Hà Nội;
+ Phát triển các ngành có ưu thế trong xuất khẩu và sử dụng nhiều lao động (dệt may,
lắp rắp, chế biến nông sản, ...);
+ Phát triển các ngành thương mại - dịch vụ chất lượng cao (du lịch-tài chính - tín
dụng), ưu tiên phát triển ngành dịch vụ du lịch sinh thái ở những huyện mới sáp nhập về
Hà Nội.
- Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế nông nghiệp, phát triển nông nghiệp gắn với phát
triển kinh tế ngoại thành theo hướng nông nghiệp đô thị, xây dựng nông thôn mới, sản xuất
hàng hoá và áp dụng công nghệ cao, nhất là công nghệ sinh học, hình thành các vùng sản
xuất nông nghiệp công nghệ cao để thu hút thanh niên ngoại thành (vùng chuyên canh
trồng rau sạch, hoa, cây cảnh, cây ăn quả; vùng phát triển chăn nuôi bò sữa, lợn nạc, gia
cầm,... hoàn thành phủ xanh đất trống đồi trọc ở Sóc Sơn...)
- Phát triển mạnh các loại hình doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp tư nhân. Trong đó
cần:
+ Tiếp tục tháo gỡ những khó khăn ách tắc về cơ chế, chính sách, hàng rào về hành
chính, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư tiếp cận về tín dụng, mặt bằng, thị trường…để phát
triển mạnh các doanh nghiệp vừa và nhỏ; chính sách khuyến khích để thu hút các nguồn
vốn đầu tư nước ngoài (FDI và ODA) để phát triển doanh nghiệp liên doanh hoặc 100%
vốn nước ngoài.
+ Chuyển mạnh các đơn vị sự nghiệp cung cấp các dịch vụ công sang đơn vị tự chủ,
tự chịu trách nhiệm và thực hiện xã hội hoá và giải phóng tiềm năng lao động trình độ cao,
tạo điều kiện cho lao động qua đào tạo có cơ hội tìm việc trong khu vực này.
+ Mở rộng khả năng đưa lao động có nghề, lao động kỹ thuật và chuyên gia đi lao
động có thời hạn ở nước ngoài, đặc biệt là ở một số ngành nghề mà Hà Nội có ưu thế (kỹ
sư nông nghiệp, bác sĩ, lập trình viên…).
- Chính sách, giải pháp ưu đãi, trọng dụng nhân tài trong thanh niên ngoại thành Hà
Nội:
Lao động có tài năng (nhân tài), nhất là ở lứa tuổi thanh niên là một trong những
nguồn lực vô cùng quý giá trong giai đoạn hiện nay. Việc trọng dụng nhân tài trong thanh
niên ngoại thành là một trong những vấn đề có tính chất chiến lược của Thành phố trong
phát triển nông thôn mới.
Việc trọng dụng nhân tài trong thanh niên ngoại thành cần tập trung giải quyết ba vấn
đề cơ bản là: (i) tạo điều kiện cho họ phát huy hết tài năng, cống hiến trong sự nghiệp phát
triển kinh tế-xã hội của quê hương, nhất là trong hoạt động sản xuất kinh doanh; (ii) mức
thu nhập, chế độ đãi ngộ, nhất là chế độ thưởng đối với họ phải tương xứng với công sức
mà họ bỏ ra, phải trả đúng giá trị lao động dựa vào kết quả lao động và hiệu quả kinh tế-xã
hội; (iii) đảm bảo cho họ cơ hội thăng tiến trong nghề nghiệp, cụ thể:
+ Có chính sách phát hiện, tuyển chọn, bồi dưỡng nhân tài theo những tiêu chuẩn
hiện đại một cách hợp lý. Nhân rộng một số mô hình đào tạo chất lượng cao có hiệu quả
hiện nay.
+ Có những chính sách tuyển dụng đặc biệt đối với lao động thanh niên tài năng (chế
độ hợp đồng, thời gian thử việc, các vấn đề khác có liên quan tới thủ tục hành chính, hộ
khẩu...) vào một số lĩnh vực quản lý nhà nước, hoạt động sự nghiệp khu vực nhà nước; đặc
biệt có chính sách thu hút nhân tài về làm việc ở ngoại thành, nhất là những vùng khó
khăn... (chính sách tiền lương, phụ cấp khu vực, chính sách nhà ở, học tập, luân chuyển
cán bộ...).
+ Khuyến khích người sử dụng lao động liên kết với các trường đào tạo để phát hiện
nhân tài ngay trong quá trình đào tạo ở các trường nghề, trường đại học để sau khi tốt
nghiệp được sử dụng đúng người, đúng việc.
+ Tạo điều kiện thuận lợi về môi trường làm việc cũng như khả năng trao đổi, cập
nhật kiến thức phù hợp với chuyên môn, giúp cho họ có khả năng phát huy sức sáng tạo,
hiệu qủa trong công việc.
+ Có chính sách tiền lương, tiền công cũng như chế độ đãi ngộ tương xứng với khả
năng đóng góp lao động của họ.
+ Có chính sách tôn vinh lao động trẻ tài năng dưới nhiều hình thức (khen thưởng vật
chất, tinh thần), khuyến khích người sử dụng lao động mạnh dạn đề bạt họ vào những
cương vị chủ chốt trong tổ chức.
Các giải pháp chính sách tạo việc làm cho thanh niên, học sinh cuối cấp phổ thông
Thực tế cho thấy, đối với thanh niên sau khi kết thúc chương trình học tập phổ thông
mà không tiếp tục theo học lên cao hơn chủ yếu tập trung ở ngoại thành Hà Nội. Số thanh
niên này, có thể phân họ thành hai nhóm đối tượng chính gồm: (i) nhóm đối tượng tham
gia vào thị trường lao động (thường là thị trường lao động không chính thức) và (ii) nhóm
đối tượng tự tạo việc làm (khu vực phi chính thức).
- Đối với nhóm gia nhập ngay vào thị trường lao động:
Trong điều kiện thị trường lao động nước ta hiện nay còn kém phát triển, do vậy tất
yếu dẫn đến việc phần lớn thanh niên ngoại thành Hà Nội sau khi học xong chương trình
phổ thông mà gia nhập ngay vào thị trường lao động sẽ di chuyển tới các khu công nghiệp,
khu chế xuất để tìm việc làm. Đây là nhóm thanh niên có sức cạnh tranh yếu do không có
trình độ chuyên môn kỹ thuật, hạn chế bởi phương tiện đi lại, nhà ở... Họ chỉ có duy nhất
lợi thế là có sức khỏe tương đối tốt. Vì vậy tất yếu dẫn tới việc họ phải chấp nhận những
công việc lao động giản đơn, nặng nhọc, thu nhập thấp, hoặc thậm chí bị bóc lột sức lao
động. Vì vậy, các chính sách, giải pháp kinh tế cho nhóm đối tượng này cần tập trung vào:
+ Có chính sách hỗ trợ đào tạo, phổ cập nghề (đào tạo, DN ngắn hạn, linh hoạt về thời
gian, hình thức tổ chức, nội dung đào tạo sát yêu cầu của thị trường);
+ Có chính sách khuyến khích phát triển kinh tế trang trại, hộ gia đình, các làng nghề
truyền thống, để thu hút lao động thanh niên tại chỗ.
+ Hoàn thiện các chương trình quy hoạch, chiến lược phát triển kinh tế ngoại thành
Hà Nội theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Phát triển các
mô hình doanh nghiệp, công nghiệp nông thôn theo hướng tập trung phát triển các ngành
công nghiệp thu hút nhiều lao động: gia công, thủ công nghiệp, dệt may, lắp rắp điện tử,
chế biến nông, thuỷ sản... (những ngành nghề không đòi hỏi quá cao về trình độ tay nghề).
+ Phát triển các hình thức liên kết giữa các trung tâm dịch vụ giới thiệu việc làm
công cùng với chính quyền cấp xã và liên thông (vay vốn, đào tạo nghề...) cung cấp lao
động thanh niên ngoại thành cho các khu công nghiệp, các doanh nghiệp ở trong nội thành
có nhu cầu.
+ Ưu tiên đưa thanh niên ngoại thành đi xuất khẩu lao động theo hướng mở rộng thị
trường; đổi mới hoạt động của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động khắc phục tiêu cực, nhất
là lừa đảo người lao động. Xây dựng quỹ bảo hiểm rủi ro, cũng như ban hành các cơ chế,
chính sách bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho lao động thanh niên trong quá trình tham gia vào
xuất khẩu lao động.
+ Thiết lập hệ thống các điểm dịch vụ việc làm công cung cấp việc làm tạm thời, việc
làm không trọn ngày ở cửa ở các nơi giáp ranh với nội thành để giới thiệu, cung ứng trọn
gói, miễn phí việc làm không trọn ngày, việc làm tạm thời cho lao động TNNT nhằm khắc
phục tính tự phát của các chợ lao động trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay.
- Đối với nhóm tự tạo việc làm:
Trong điều kiện thành phố Hà Nội hiện nay, tự tạo việc làm còn là một trong những
hướng cơ bản và quan trọng trong giải quyết việc làm đại trà cho người lao động, nhất là
lao động thanh niên ở khu vực ngoại thành. Để khuyến khích tự tạo việc làm, cần có
những chính sách, giải pháp sau:
+ Chính sách khuyến khích phát triển kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại; chính
sách hỗ trợ các dự án SXKD phát huy lợi thế về điêu kiện tự nhiên, địa lý, môi trường sinh
thái của từng xã, nhất là trồng trọt, chăn nuôi, thủ công mỹ nghệ xuất khẩu, nuôi trồng
thuỷ sản, chế biến nông sản (hỗ trợ giống có năng suất cao, vay vốn với lãi suất ưu đãi để
xây dựng cơ sở, cải tạo mặt bằng; hỗ trợ dịch vụ kỹ thụât, hợp đồng bao tiêu sản phẩm...).
+ Sửa đổi, bổ sung chính sách vay vốn từ Quỹ hỗ trợ việc làm, Xoá đói giảm
nghèo...Trong đó, ưu tiên phát triển các dự án vay vốn đối với doanh nhiệp vừa và nhỏ;
chăn nuôi, trộng trọt, nuôi trồng thuỷ sản; sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu do
TNNT chưa có việc làm làm chủ dự án. Ngoài ra cần sửa đổi cơ chế, chính sách giúp cho
quá trình giải ngân vốn vay từ quỹ về việc làm được thực hiện một cách nhanh chóng,
thuận lợi.
+ Phổ cập đào tạo nghề và kiến thức quản lý kinh doanh cho lao động thanh niên ngoại
thành thông qua các chương trình đào tạo “khởi sự doanh nghiệp”.
+ Cải thiện, đổi mới chương trình “tín dụng vi mô” thuộc hệ thống ngân hàng, các tổ
chức tín dụng của nhà nước cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của đối tượng vay vốn là
TNNT (thế chấp, thời gian vay, hạn mức vay...).
Các giải pháp chính sách tạo việc làm cho thanh niên thất nghiệp ở ngoại thành
Có thể thấy rằng phần lớn số đối tượng thanh niên thất nghiệp, mất việc làm tập trung
ở nội thành, số ở ngoại thành không nhiều. Đặc thù chủ yếu của nhóm này là khả năng
cạnh tranh trên thị trường lao động còn yếu kém, do chưa có nghề lại không có tư liệu sản
xuất, nhất là ruộng đất như TNNT, nên khó có thể tự tạo việc làm. Do vậy, các giải pháp,
chính sách kinh tế tạo việc làm cho họ cần tập trung vào các hướng sau:
+ Phát triển mạnh hơn nữa các thành phần kinh tế tư nhân, doanh nghiệp vừa và nhỏ,
doanh nghiệp hộ gia đình, hộ kinh doanh cá thể, tiểu thương, tiểu chủ bằng các chính sách,
giải pháp khuyến khích và hỗ trợ các chủ doanh nghiệp, người sử dụng lao động phát triển
sản xuất kinh doanh. Đặc biệt là các chính sách ưu đãi về đầu tư, thuế; chính sách khuyến
khích người sử dụng lao động đổi mới công nghệ, áp dụng công nghệ sử dụng nhiều lao
động; tạo điều kiện về mặt bằng sản xuất kinh doanh, tiếp cận tín dụng chính thức và vốn
vay từ chương trình hỗ trợ việc làm...
+ Khuyến khích đầu tư phát triển mạnh khu vực dịch vụ, đặc biệt là những ngành
nghề dịch vụ xã hội phục vụ bên ngoài các khu công nghiệp, khu chế xuất (nhà ở, văn
hoá...).
+ Có chính sách hỗ trợ đào tạo nghề phù hợp những nghề mà thị trường đang cần;
đặc biệt là cho thanh niên ngoại thành, nơi chuyển đổi mục đích sử dụng đất cho công
nghiệp và đô thị hoá. Trong chi phí đền bù giải phóng mặt bằng phải có chi phí đào tạo
nghề và các doanh nghiệp mới thành lập trên địa bàn phải ưu tiên đào tạo, tuyển dụng
thanh niên địa phương vào làm việc.
+ Tạo điều kiện thuận lợi cho thanh niên ngoại thành thất nghiệp, mất việc làm tiếp
cận được các nguồn vốn vay giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo để tự tạo việc làm.
+ Phát triển các dự án xây dựng hạ tầng cơ sở nông thôn, các công trình phúc lợi xã
hội và thành lập các đội thanh niên xây dựng nông nghiệp, nôn thôn ở cấp huyện để thu
hút thanh niên ngoại thành vào làm việc; tạo ra thị trường lao động thứ cấp để thanh niên
ngoại thành có việc làm tạm thời và có thu nhập ổn định cuộc sống, có cơ hội tham gia thị
trường lao động chính thức khi có điều kiện.
+ Tăng cường các hoạt động thông tin, giới thiệu việc làm, hội chợ việc làm... để
thanh niên ngoại thành chưa có việc làm, thất nghiệp có cơ hội tiếp cận giao dịch tìm việc
làm.
3.2.3. Thực hiện các chương trình mục tiêu giải quyết việc làm cho thanh niên
Chương trình thanh niên tình nguyện tham gia xây dựng các công trình trọng điểm
hoặc các dự án lớn của Thành phố Hà Nội
Trong thời gian tới, Hà Nội có các công trình trọng điểm, dự án lớn sau: các công trình
hướng tới kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, xây dựng cơ sở hạ tầng ở nông thôn, nhất là
kiên cố hoá kênh, mương thuỷ lợi, trường học, trạm y tế...; xây dựng cơ sở hạ tầng đô thị (các
công trình văn hoá, vệ sinh môi trường...)
Cần đa dạng hoá các hình thức tổ chức thanh niên tham gia làm kinh tế, tạo việc làm
cho thanh niên ngoại thành, nhưng phải đảm bảo tính hiệu quả, phù hợp với cơ chế thị
trường, tránh tổ chức theo kiểu phong trào có tính chất hình thức, ít hiệu quả. Có thể thành
lập các đơn vị thanh niên xung phong, thanh niên tình nguyện; thành lập các đơn vị kinh tế ưu
tiên tuyển lao động là thanh niên ngoại thành; hình thành các làng truyền thống thanh niên;
hoặc giao cho Đoàn thanh niên làm nòng cốt huy động lực lượng thanh niên tham gia...
Chương trình thanh niên lập thân, lập nghiệp
Đây là chương trình hỗ trợ thanh niên tự tạo việc làm, nhất là ở khu vực nông thôn,
bao gồm:
- Hỗ trợ thanh niên phát triển kinh tế hộ gia đình;
- Hỗ trợ thanh niên khởi sự doanh nghiệp nhỏ và vừa;
- Hỗ trợ thanh niên phát triển kinh tế trang trại.
Trong chương trình này có thể giao cho Đoàn thanh niên, nhất là ở cơ sở xã, phường
chủ trì tổ chức các khóa đào tạo khởi sự doanh nghiệp, tín chấp vay vốn ngân hàng, thuê
mặt bằng...chương trình này nên là một bộ phận cấu thành trong chương trình mục tiêu về
việc làm thời kỳ 2008-2010.
Chương trình thanh niên tham gia xoá đói giảm nghèo
Cần hình thành một kênh riêng cho thanh niên để tập trung vào đối tượng thanh niên
nghèo ngoại thành, nhất là nhóm hộ gia đình trẻ, mới tách hộ ở nông thôn, không có ruộng đất
và huy động lực lượng thanh niên tham gia xoá đói, giảm nghèo ở các thôn, xã khó khăn. Nội
dung của chương trình này bao gồm:
- Tiểu chương trình xoá đói giảm nghèo cho các hộ gia đình thanh niên trẻ nghèo ở
nông thôn;
- Hình thành các đội thanh niên trí thức tình nguyện tham gia phát triển nông thôn, các địa
bàn khó khăn (trước hết là giáo viên; kỹ sư nông nghiệp; y, bác sĩ...).
Chương trình thanh niên tham gia xuất khẩu lao động
Trong thời gian tới thanh niên ngoại thành cần được tham gia vào chương trình xuất
khẩu chuyên gia, vì xuất khẩu lao động hiện nay chủ yếu là ở lứa tuổi thanh niên. Mục tiêu
hướng tới là: tăng số lượng và nâng tỷ lệ lao động thanh niên ngoại thành có nghề đi xuất khẩu
lao động; tăng thu ngoại tệ đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, tạo việc làm cho thanh niên
ngoại thành Hà Nội.
- Các hoạt động:
+ Đầu tư xúc tiến mở rộng thị trường mới và tăng thị phần xuất khẩu lao động ở thị
trường truyền thống;
+ Sắp xếp, đổi mới và đầu tư xây dựng các doanh nghiệp xuất khẩu lao động mạnh,
tăng doanh nghiệp tư nhân tham gia xuất khẩu lao động;
+ Đào tạo nghề, giáo dục định hướng chuẩn bị nguồn xuất khẩu lao động là thanh
niên ngoại thành chưa có việc làm;
+ Đổi mới tổ chức, quản lý lao động ngoài nước đảm bảo thực hiện đúng hợp đồng,
chống trốn, phá hợp đồng;
+ Tạo việc làm cho lao động xuất khẩu trở về.
- Thanh niên ngoại thành tham gia vào chương trình xuất khẩu lao động và chuyên
gia theo các hướng sau:
+ Ưu tiên cho TNNT chưa có việc làm và thất nghiệp, bộ đội xuất ngũ...đi xuất khẩu
lao động;
+ Đoàn thanh niên tham gia vào chương trình đào tạo nghề, chuẩn bị nguồn lao động
cho xuất khẩu thông qua hệ thống đào tạo nghề, cung ứng lao động của TNNT.
+ Đoàn viên TNNT tổ chức tập hợp các trí thức trẻ, có tài năng chuẩn bị nguồn cho
xuất khẩu chuyên gia.
+ Đoàn thanh niên tham gia vào thực hiện các biện pháp chống trốn, phá hợp đồng
lao động ở các nước nhận lao động.
3.2.4. Mở rộng xã hội hoá, nâng cao vai trò của chính quyền thành phố và tổ
chức đoàn thanh niên các cấp trong giải quyết việc làm cho thanh niên ngoại thành
3.2.4.1. Tăng cường giải quyết việc làm đối với thanh niên ngoại thành Hà Nội
Xã hội hoá không chỉ là chủ trương mà còn là giải pháp quan trọng để huy động mọi
nguồn lực của xã hội vào giải quyết việc làm. Đây là vấn đề vừa cơ bản, lâu dài vừa cấp
thiết hiện nay ở nước ta, đặc biệt là đối với TNNT. Thực chất xã hội hoá trong giải quyết
việc làm cho TNNT là quá trình mở rộng sự tham gia của các chủ thể, các đối tác xã hội
với các hình thức, phương thức đa dạng, linh hoạt nhằm huy động tối đa nguồn lực của
cộng đồng, xã hội cùng nhà nước tạo nhiều việc làm cho TNNT. Đó cũng là quá trình xác
định rõ vai trò của các chủ thể, các đối tác tham gia; sự phân công, phân cấp và phối hợp
trong quá trình thực hiện. Các hướng cơ bản xã hội hoá giải quyết việc làm cho thanh niên
cần phải tập trung chỉ đạo thực hiện là:
- Nâng cao nhận thức, làm cho TNNT có hiểu biết cần thiết về nghề nghiệp trong
kinh tế thị trường để tự thay đổi nhận thức về thang giá trị xã hội và điều chỉnh hành vi
trong quá trình định hướng nghề nghiệp cho phù hợp với năng lực, sở thích, điều kiện của
mình.
- Đổi mới căn bản hệ thống định hướng nghề nghiệp cho thanh niên theo hướng mở
và động, bao gồm trong nhà trường, cơ sở đào tạo và ngoài xã hội, đa dạng hoá các hình
thức và phương thức dịch vụ, kể cả khu vực công và khu vực tư nhân về lĩnh vực này; hình
thành mạng lưới của Thành phố và áp dụng từng bước công nghệ thông tin, viễn thông vào
hoạt động định hướng nghề nghiệp cho thanh niên.
- Định hướng nghề nghiệp cho thanh niên phải trở thành nội dung hoạt động chủ yếu
và thường xuyên trong TNNT thông qua các chương trình nghị sự; các hình thức câu lạc
bộ; lồng ghép với các chương trình hành động khác đặc thù của TNNT… phải trở thành
phong trào sôi động trong thanh niên, nhất là TNNT.
- TNNT phải tự tạo việc làm cho mình, tự lập thân, lập nghiệp trên cơ sở giải phóng
sức lao động trẻ, nâng cao năng lực nghề nghiệp (thể lực, trí lực, tâm lực) và tính năng
động xã hội của thanh niên, nhất là trong kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại, khởi sự
doanh nghiệp nhỏ và vừa…
- Coi thanh niên, trước hết là thanh niên có trình độ chuyên môn và kỹ thuật cao, là
lực lượng nòng cốt, xung kích đi đầu trong tăng trưởng kinh tế trên cơ sở mở rộng cơ hội
cho TNNT tham gia phát triển các ngành kinh tế quan trọng của Thành phố và các khu
công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao…
- Đào tạo nguồn nhân lực TNNT, nhất là nguồn nhân lực trẻ về khoa học, công nghệ
và kỹ thuật thực hành trình độ cao là khâu then chốt, đột phá và là chìa khoá để TNNT tự
lập thân, lập nghiệp và tham gia kinh tế - xã hội, làm giàu cho Thành phố.
- Cần phải phát huy thế mạnh của TNNT bằng đa dạng hoá các hoạt động thông qua
chương trình nghị sự của thanh niên về việc làm trên cơ sở mở rộng sự tham gia của
TNNT vào chương trình việc làm, xoá đói giảm nghèo, đào tạo lao động kỹ thuật, chuyển
giao công nghệ, hướng nghiệp, dịch vụ việc làm… Đó là hướng quan trọng để thanh niên
góp sức cùng chính quyền thành phố giải quyết vấn đề xã hội bức xúc nhất hiện nay như
thất nghiệp, tệ nạn xã hội…
3.2.4.2. Tăng cường vai trò của chính quyền Thành phố Hà Nội
Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhà nước có vai
trò chủ yếu là tạo khung khổ pháp lý; tổ chức kiểm tra, giám sát và cũng là người tổ chức,
tạo điều kiện cho TNNT tự tạo việc làm hoặc tham gia thị trường lao động, cụ thể là:
- Về hoạch định chính sách:
+ Ban hành chính sách phân luồng học sinh nông thôn rõ ràng sau khi tốt nghiệp
PTCS và PTTH trên cơ sở xác định rõ các hệ thống đào tạo (đào tạo kỹ thuật, công nghệ
và đào tạo Đại học, sau Đại học);
+ Thực hiện liên thông trong đào tạo để tạo cơ hội cho TNNT kết hợp giữa làm việc
và học tập suốt đời;
+ Thể chế hoá các chủ trương, quan điểm của Đảng về việc làm (luật pháp hoá); hoàn
thiện cơ chế, chính sách về việc làm, đào tạo lao động kỹ thuật, thị trường lao động, xuất khẩu
lao động…, nhất là các chính sách khuyến khích tạo nhiều việc làm, đào tạo lao động kỹ thuật,
xuất khẩu lao động…;
+ Dự báo, xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển việc làm, đào tạo lao động kỹ
thuật phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao
động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn; xây dựng kế
hoạch dài hạn và hàng năm về việc làm, đào tạo lao động kỹ thuật và xuất khẩu lao động…
- Vai trò thanh tra, kiểm tra và giám sát:
+ Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các chính sách, chương trình mục tiêu, các quỹ
việc làm, đào tạo nghề, xuất khẩu lao động…
+ Can thiệp kịp thời để khắc phục những khiếm khuyết của thị trường lao động (lạm
phát, thất nghiệp, sa thải lao động hàng loạt…).
+ Tham gia xử lý các tranh chấp lao động (thông qua toà án lao động)…
- Vai trò tổ chức và tạo điều kiện phát triển việc làm cho TNNT:
+ Xây dựng và giao cho thanh niên thực hiện các chương trình trọng điểm kinh tế -
xã hội của Thành phố.
+ Xây dựng các chương trình DN cho thanh niên, nhất là khu vực nông thôn.
+ Xây dựng và thực hiện các chương trình mục tiêu về việc làm cho thanh niên
nghèo, mất việc làm và thất nghiệp, nhóm thanh niên yếu thế (việc làm, xoá đói giảm
nghèo, xuất khẩu lao động…);
+ Hỗ trợ đầu tư từ ngân sách Nhà nước để xây dựng quỹ việc làm, quỹ xoá đói giảm
nghèo, quỹ đào tạo nghề… trong đó ưu tiên cho TNNT được tham gia và hưởng lợi.
+ Phát triển hệ thống giao dịch của thị trường lao động:
i) Thiết lập hệ thống thông tin thị trường lao động và quan sát thị trường lao động;
ii) Phát triển hệ thống tư vấn, giới thiệu và dịch vụ việc làm công hoạt động không vì
mục tiêu lợi nhuận;
iii) Tổ chức các hoạt động hội chợ việc làm, hội việc làm;
iv) Mở rộng thị trường lao động, nhất là thị trường lao động ngoài nước (xuất khẩu
lao động và chuyên gia).
3.2.4.3. Tăng cường vai trò của tổ chức Đoàn Thanh niên
Theo kinh nghiệm của quốc tế, việc huy động các tổ chức quần chúng và tổ chức phi
chính phủ (NGO) tham gia vào thực hiện chính sách việc làm là một trong các giải pháp
quan trọng đảm bảo tính khả thi của chính sách và có vai trò ngày càng tăng. Trong xã hội
phát triển, nhất là trong xã hội dân sự, xu hướng chung của các quốc gia là tìm mọi biện
pháp và tạo mọi điều kiện để các đối tác xã hội tham gia một cách linh hoạt, năng động,
dưới mọi hình thức vào quá trình tạo việc làm.
Đối với nước ta, khi chuyển sang nền kinh tế thị trường nhà nước ngày càng có vai
trò quan trọng trong giải quyết việc làm cho thanh niên, song nhà nước không làm tất cả.
Nhà nước chuyển dần cho các đối tác xã hội khác tham gia thực hiện các chính sách nếu
xét thấy việc đó các đối tác xã hội làm có hiệu quả hơn. Nhà nước ta là nhà nước của dân,
sát với dân nên tăng cường sự tham gia của các đối tác xã hội vào giải quyết việc làm cho
thanh niên là cơ chế rất hiệu quả để vận hành, đưa chính sách giải quyết việc làm vào cuộc
sống. Bởi vì, chỉ có thông qua các tổ chức quần chúng và tổ chức phi chính phủ - tổ chức
của chính đối tượng thụ hưởng chính sách việc làm - thì chính sách đó mới đến đúng mục
tiêu, đối tượng và có hiệu quả.
Khác với các nước, hệ thống chính trị ở nước ta do Đảng lãnh đạo và Nhà nước thống
nhất quản lý, trong đó có các tổ chức quần chúng và tổ chức phi chính phủ. Do đó, sự tham
gia của các tổ chức này vào thực hiện chính sách việc làm chính là cánh tay nối dài của
nhà nước, phát huy sức mạnh của cá nhân, của cả cộng đồng xã hội và toàn bộ hệ thống
chính trị để tăng thêm nguồn lực cùng nhà nước giải quyết tốt hơn việc làm cho thanh
niên. Đây là thế mạnh, là đặc tính ưu việt của nước ta mà nhiều nước trong khu vực và trên
thế giới không có.
Chức năng cơ bản của các tổ chức quần chúng là vận động quần chúng tham gia thực
hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước, trong đó thực hiện có hiệu quả chính sách
chương trình việc làm là một trong những nhiệm vụ chính trị cơ bản. Mở rộng sự tham gia
của các tổ chức quần chúng vào giải quyết việc làm cho thanh niên có ý nghĩa thiết thực,
gắn bó với lợi ích cơ bản của thanh niên, đặc biệt là tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh.
Vai trò cụ thể của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đối với giải quyết việc
làm cho thanh niên là:
- Đoàn Thanh niên trong nhà trường phổ thông (Trung học cơ sở và Trung học phổ
thông) phải tham gia tuyên truyền làm thay đổi định hướng giá trị nghề nghiệp của thanh
niên ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường để tích cực tham gia vào phân luồng học
sinh ở bậc phổ thông đi vào thị trường lao động hoặc học nghề, không nhất thiết chỉ có con
đường duy nhất là thi vào Đại học, chạy theo bằng cấp một cách hình thức.
- Tăng cường thông tin, phát triển hình thức sinh hoạt câu lạc bộ có nội dung hướng
nghiệp cho thanh niên học sinh phổ thông, thông tin về ngành nghề, nghề, thông tin thị
trường lao động và tư vấn cho thanh niên để họ lựa chọn được nghề đúng với nguyện
vọng, sở thích, khả năng và điều kiện hoàn cảnh của mình, yêu cầu của xã hội.
- Đoàn Thanh niên tham gia vào phát hiện các tài năng trẻ và tư vấn, hỗ trợ bồi
dưỡng tài năng trẻ để bồi dưỡng nhân tài, nhất là đi vào một số ngành mũi nhọn, công
nghệ cao… chuẩn bị nguồn nhân lực trình độ cao để đi vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá
theo hướng kinh tế tri thức.
- Tuyên truyền, giáo dục cho thanh niên ý chí quyết tâm học tập, đào tạo nghề nghiệp
trong một xã hội học tập, học tập suốt đời để phát triển tài năng và cống hiến.
- Đối với thanh niên sinh viên (đại học, cao đẳng, học nghề…), Đoàn Thanh niên cần
tập trung vào tuyên truyền, thông tin để sau khi tốt nghiệp ra trường thanh niên sẵn sàng
lao động sản xuất, về nông thôn, đến các vùng khó khăn… khắc phục xu hướng đổ xô vào
khu vực nội thành tìm việc làm, mặc dù là làm trái ngành nghề được đào tạo, gây lãng phí
lớn cho xã hội.
- Đối với thanh niên mất việc làm hoặc thất nghiệp, Đoàn Thanh niên cần tăng cường
thông tin, tư vấn về học nghề, nhất là ngắn hạn và giới thiệu, mở rộng hình thức giao dịch
lao động để thanh niên nhanh chóng tham gia vào thị trường lao động, có việc làm và thu
nhập đảm bảo cuộc sống.
- Đẩy mạnh phong trào thi đua "tình nguyện xây dựng và bảo vệ Tổ quốc" với nội
dung phong phú và thiết thực, nhất là thi đua học tập, nâng cao trình độ chuyên môn và tay
nghề, tiến quân vào khoa học, công nghệ, thi đua lập nghiệp, lao động sáng tạo, có năng
suất và hiệu quả cao trong nhà máy, trên các cánh đồng, trong các cơ sở.
- Đoàn Thanh niên tham gia với nhà nước bổ sung, hoàn thiện các chính sách liên
quan đến việc làm cho thanh niên, nhất là các chính sách đào tạo nghề cho thanh niên,
chính sách đưa thanh niên đi xuất khẩu lao động; chính sách khuyến khích khởi sự doanh
nghiệp, phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa của thanh niên; chính sách khuyến khích
và ưu đãi các tài năng trẻ; chính sách thanh niên tình nguyện, đi xây dựng các công trình
trọng điểm, trí thức trẻ tham gia phát triển nông thôn, miền núi, các vùng khó khăn…
- Đoàn Thanh niên trực tiếp tham gia quản lý và thực hiện các chương trình, dự án
thuộc chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo và việc làm, chương trình đào
tạo nghề, xuất khẩu lao động, nhất là cho TNNT; DN và tạo việc làm cho đối tượng nghiện
ma tuý, mại dâm… trên cơ sở lập Quỹ việc làm và xoá đói giảm nghèo do Đoàn Thanh
niên quản lý, điều hành theo chính sách và sự hướng dẫn của nhà nước.
- Đoàn Thanh niên tham gia các chương trình "khởi sự doanh nghiệp", phát triển các
doanh nghiệp trẻ, phát triển các tổ chức kinh tế của thanh niên…. theo luật pháp của Nhà
nước. Đặc biệt, Đoàn Thanh niên có thể phát triển các hiệp hội doanh nghiệp trẻ ở các địa
bàn có điều kiện, hiệp hội các làng nghề trẻ, hội các làng thanh niên…là những hình thức
rất hiệu quả để giúp nhau quảng bá, tiếp cận thị trường, tiếp cận các nguồn lực chính thức
và bảo vệ lợi ích chính đáng của các thành viên…
- Đoàn Thanh niên tham gia thúc đẩy các giao dịch trên thị trường lao động cho thanh
niên, nhất là các hoạt động thông tin về thị trường lao động, thành lập các cơ sở tư vấn và
giới thiệu việc làm của Đoàn Thanh niên, phát triển các doanh nghiệp của Đoàn Thanh
niên tham gia xuất khẩu lao động theo đúng pháp luật Lao động và sự hướng dẫn của nhà
nước.
- Đoàn Thanh niên tham gia cùng với các cơ quan nhà nước phát triển các hình thức
nâng cao tay nghề, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho thanh niên, nhất là thi tay nghề
ASEAN định kỳ… nhằm xây dựng đội ngũ lao động, giai cấp công nhân tiên tiến của nền
công nghiệp hiện đại.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Thanh niên là lực lượng xã hội to lớn, luôn đi đầu trong các phong trào cách mạng
giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Trong sự nghiệp đổi
mới, phát triển nền kinh tế thị trường, đẩy mạnh Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập, thanh niên càng có vai trò quan trọng, là bộ phận ưu tú của nguồn nhân lực - nguồn
nội lực vô tận và quý giá nhất của đất nước, đóng góp to lớn vào tăng trưởng và phát triển
kinh tế - xã hội.
Hỗ trợ giải quyết việc làm cho thanh niên ngoại thành Hà Nội cần phải thực hiện
đồng bộ các giải pháp, nhất là việc thực hiện các chính sách tăng trưởng kinh tế và tạo việc
làm để thanh niên ngoại thành thực sự là lực lượng nòng cốt tiến công vào khoa học, kỹ
thuật, áp dụng công nghệ mới, nhất là công nghệ sinh học, góp phần quan trọng vào
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động nông thôn của thành phố Hà Nội, dẫn đầu
trong cả nước. Đặc biệt, việc thanh niên tham gia áp dụng kỹ thuật, công nghệ sinh học,
đưa giống cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao, thích ứng với thị trường, góp phần đưa
năng suất nông nghiệp, năng suất lao động lên cao,
Việc hoàn thiện cơ chế nhằm đối xử công bằng giữa các thành phần kinh tế, phát
triển đồng bộ và hiện đại hoá các ngành kinh tế mũi nhọn cũng như tập trung cho chính
sách tạo việc làm, ưu đãi, trọng dụng cho lao động trẻ đã qua đào tạo, có tài năng nhằm tạo
nhiều cơ hội việc làm cho thanh niên ngoại thành Hà Nội. Thanh niên ngoại thành Hà Nội
thực sự cùng thanh niên của Thủ đô dần chiếm lĩnh những đỉnh cao của khoa học, kỹ thuật
và công nghệ tiên tiến, là yếu tố quan trọng góp phần tằng trưởng kinh tế cao và ổn định
những năm qua, đặc biệt là trong một số ngành kinh tế mũi nhọn, sản xuất sản phẩm cho
xuất khẩu (dầu khí, viễn thông, dệt may, giày da, lắp ráp điện tử, ô tô, xe máy...). Sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa với sự phát triển nhiều khu công nghiệp, khu đô thị
mới, xây dựng cơ sở hạ tầng của thành phố Hà Nội... đã mở ra nhiều công trình lớn, trọng
điểm của thành phố Hà Nội.
Phát triển dịch vụ cũng là nhu cầu tất yếu để ngày càng mở rộng và đa dạng các loại
hình như các ngành có yêu cầu lớn về lao động trình độ cao như bảo hiểm, tài chính ngân
hàng, chứng khoán, du lịch cao cấp, văn hóa... thu hút nhiều lao động trẻ, tạo giá trị mới và
cũng là nơi có nhiều cơ hội để thanh niên ngoại thành phát huy tài năng sáng tạo và cống
hiến.
Tiến trình công nghiệp hóa, hiện đạo hóa và hội nhập, nhất là gia nhập WTO, tạo ra
nhiều cơ hội cho thanh niên lập nghiệp và cống hiến. Nhờ tranh thủ được các nguồn vốn,
kỹ thuật, công nghệ mới, khoa học quản lý tiên tiến, mở rộng thị trường, kinh tế của Thủ
đô Hà Nội sẽ tăng trưởng và tạo ra nhiều việc làm có chất lượng và thu nhập cao cho mọi
người lao động, nhất là thanh niên khu vực ngoại thành.
Hỗ trợ giải quyết việc làm cho thanh niên cũng đồng nghĩa với việc khai thác tiềm
năng sẵn có của quốc gia, bởi lẽ, thanh niên là một trong những nguồn lao động vô cùng
quý giá, một đất nước có được sự phồn thịnh khi có được nguồn lao động dồi dào và có
chất lượng. Cũng như nhiều địa phương khác trong cả nước, ở khu vực ngoại thành Hà
Nội, quá trình đô thị hoá đang diễn ra nhộn nhịp. Đó là một quy luật phát triển tất yếu, đem
lại một cuộc sống văn minh, hiện đại hơn và một nền kinh tế phát triển hơn. Song, đằng
sau những biến đổi tích cực đó còn những vấn đề xã hội khác đang cần quan tâm giải
quyết. Ngoài việc thực hiện các chính sách chung của Đảng và Nhà nước, thành phố Hà
Nội đang dần, từng bước hoàn thiện việc quy hoạch thành phố, từ đó có những chính sách
đặc thù riêng cho thanh niên nông thôn khu vực ngoại thành Hà Nội, trong phạm vi nghiên
cứu, tác giả có một số kiến như trong việc hỗ trợ giải quyết việc làm cho thanh niên ngoại
thành Hà Nội như sau:
Đối với Trung ương Đoàn Thanh Niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội cần phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng các cơ chế, chính
sách để thực hiện các Chủ trưởng của Đảng và Nhà nước về hỗ trợ giải quyết việc làm cho
thanh niên, nhất là thanh niên nông thôn, hướng dẫn việc thực hiện Quyết định số
103/2008/QĐ-TTg ngày 21 tháng 7 năm 2008 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án
Hỗ trợ Thanh niên học nghề và tạo việc làm giai đoạn 2008-2015. Tạo khung khổ pháp lý
để xã hội hoá công tác hỗ trợ giải quyết việc làm cho thanh niên nông thôn.
Để thực hiện tốt hỗ trợ giải quyết việc làm cho thanh niên ngoại thành Hà Nội, đáp
ứng yêu cầu về lao động và việc làm, góp phần phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá của thành phố Hà Nội, chính quyền thành phố cần:
- Đánh giá về thực trạng về hỗ trợ giải quyết việc làm cho thanh niên khu vực ngoại
thành Hà Nội, làm cơ sở xây dựng quy hoạch, kế hoạch và định hướng đào tạo, sử dụng
nguồn nhân lực gắn với phát triển kinh tế- xã hội của Thủ đô.
- Thực hiện phối hợp đồng bộ các chính sách hỗ trợ giải quyết việc làm cho thanh
niên ngoại thành, cần có các chính sách hỗ trợ định hướng nghề nghiệp cho thanh niên khu
vực ngoại thành Hà Nội bao gồm hướng nghiệp, chọn ngành nghề đào tạo, chọn việc để
làm, thích ứng nghề nghiệp và phát triển nghề nghiệp trong cả cuộc đời lao động của họ.
- Chủ động xây dựng cơ chế hỗ trợ đất đai, vốn, đầu tư kinh phí, cho vay vốn đào tạo
dạy nghề, tạo việc làm, mở rộng và phát triển sản xuất. Có cơ chế tạo điều kiện thuận lợi
cho các doanh nghiệp áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ nâng cao chất lượng
sản phẩm. Khuyến khích, khen thưởng đối với các doanh nghiệp tạo được nhiều việc làm
và chất lượng cho thanh niên ngoại thành.
- Thành lập, định hướng các Trung tâm dịch vụ việc làm trong việc tuyên truyền, tư
vấn để giúp lao động trẻ có nhận thức đúng về nghề nghiệp theo hướng “giỏi một nghề,
biết một số nghề”, giúp thanh niên ngoại thành trau dồi thêm tri thức, xây dựng bản lĩnh và
tích luỹ kinh nghiệm để thích ứng trong hội nhập quốc tế; giúp thanh niên xây dựng cho
mình nhân cách con người hiện đại, kích thích tính năng động, sáng tạo, khơi dạy lòng say
mê nghề nghiệp trong thanh niên.
- Cung cấp thông tin về thị trường lao động của thủ đô, thông tin về các ngành nghề
và dự báo xu hướng phát triển các ngành nghề mới. Cung cấp thông tin về thực trang và
định hướng phát triển kinh tế - xã hội của thành phố Hà Nội trong thời gian tới, tư vấn về
đặc điểm, môi trường kinh tế- xã hội, nơi mà họ đang sống.
- Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính, tạo điều kiện tốt nhất và nhanh chóng cho các
doanh nghiệp, cá nhân trong hỗ trợ giải quyết việc làm cho thanh niên ngoại thành.
Trên cơ sở chỉ đạo của Uỷ ban Nhân dân thành phố Hà Nội, 5 huyện cần xây dựng kế
hoạch hỗ trợ giải quyết việc làm cho thành niên (có khảo sát về mục tiêu, đối tượng để xây
dựng nội dung hỗ trợ giải quyết việc làm cho phù hợp và có hiệu quả với phương châm
Nhà nước và nhân dân cùng làm), xây dựng các tiêu chuẩn, điều kiện hỗ trợ giải quyết việc
làm cho thanh niên.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Quốc Anh (1997), Đội ngũ trí thức trẻ với việc phát triển nông thôn, miền
núi, Báo cáo khoa học.
2. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (1999), Sổ tay Thống kê thông tin thị trường
lao động ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội (2002-2005), Báo cáo kết quả điều tra Lao
động-Việc làm vào ngày 1-7 hàng năm.
4. Phạm Đức Chính (2005), Thị trường lao động, cơ sở lý luận và thực tiễn ở Việt Nam,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Chính phủ (2007), Nghị định số 120/2007/NĐ-CP ngày 23 tháng 7 năm 2007 hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật Thanh niên.
6. Cục Thống kê Hà Nội (2002-2007), Niêm giám thống kê các năm 2002 đến năm 2007.
7. An Đình Doanh (2006), "Việc làm của thanh niên nông thôn- thực trạng và giải pháp",
Tạp chí Nông thôn mới, (172), tr.2-3, 6.
8. Nguyễn Hữu Dung (2005), Thị trường lao động và định hướng nghề nghiệp cho thanh
niên, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.
9. N.Henaff, J.Y.Martin (2001), Lao động, việc làm và Nguồn nhân lực ở Việt Nam 15
năm đổi mới, Nxb Thế giới, Hà Nội.
10. Lê Xuân Hoàn (2000), Học tập, nâng cao trình độ nghề nghiệp và khoa học- công
nghệ trong thanh niên, Viện Nghiên cứu Thanh niên.
11. Lê Bạch Hồng (2007), "Một số giải pháp giải quyết việc làm cho thanh niên trong
giai đoạn 2007-2010", Tạp chí Lao động và Xã hội, (310), tr.5-7.
12. Nguyễn Hoàng Hiệp (2006), "Việc làm cho thanh niên trong tiến trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước", Tạp chí Lao động và Xã hội, (292), tr.11-13.
13.
14.
15.
16.
17.
18.
19.
20.
21.
22.
23. Lê Thị Mai Lan (2006), Thị trường lao động Hà Nội: Thực trạng và giải pháp phát
triển đến năm 2010, Luận văn thạc sĩ kinh tế lao động, Trường Đại học Kinh tế
quốc dân Hà Nội.
24. Ngân hàng Thế giới (1998), Giáo dục và Tiền công trong nền kinh tế chuyển đổi.
25. Ngân hàng Thế giới (2004), Báo cáo phát triển Việt Nam 2003, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
26. Nguyễn Duy Phúc (2006), Thực trạng và giải pháp phát triển thị trường lao động tỉnh
Hà Tây, Luận văn thạc sĩ kinh tế lao động, Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà
Nội.
27. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Bộ Luật Lao động và xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, Nxb Lao động, Hà Nội.
28. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2006), Luật Thanh niên, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
29. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội (2002-2006), Điều tra Lao động - Việc làm
hàng năm 2002-2006 của Thành phố Hà Nội.
30. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội (2003-2005), Báo cáo kết quả giải quyết việc
làm của thành phố Hà Nội.
31. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội (2004), Báo cáo đào tạo dạy nghề 2004 của
thành phố Hà Nội.
32. Nguyễn Hồng Thanh (1994), Sự dịch chuyển lao động trẻ vùng ven đô và trách nhiệm
của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Báo cáo chuyên đề,Viện Nghiên cứu Thanh niên.
33. Nguyễn Hồng Thanh (1999), Báo cáo tổng hợp vai trò của đoàn TNCS Hồ Chí Minh
trong việc đào tạo nghề cho thanh niên nông thôn, Đề tài KTN 98-08, Trung
ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.
34. Nguyễn Thị Kim Thanh (2006), Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà
nước về kinh tế cấp cơ sở của thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay, Luận
văn thạc sĩ kinh doanh và quản lý, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà
Nội.
35. Phan Nguyên Thái, Nguyễn Văn Buồm (2007), "Vấn đề giải quyết việc làm cho thanh
niên hiện nay", Quản lý nhà nước, (3), tr.28-31.
36. Thủ tướng Chính phủ (2003), Quyết định số 70/2003/QĐ-TTg ngày 29 tháng 4 năm
2003 phê duyệt Chiến lược Phát triển Thanh niên Việt Nam đến năm 2010.
37. Thủ tướng Chính phủ (2005), Chỉ thị số 06/2005/CT-TTg ngày 21 tháng 3 năm 2005
về phát huy vai trò thanh niên tham gia phát triển kinh tế xã hội.
38. Thủ tướng Chính phủ (2006), Quyết định số 246/2006/QĐ-TTg ngày 27 tháng 10 năm 2006
về việc thành lập Quỹ Hỗ trợ phát triển Hợp tác xã.
39. Thủ tướng Chính phủ (2007), Quyết định số 101/2007/QĐ-TTg ngày 06 tháng 7 năm
2007 phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia về việc làm đến năm 2010.
40. Thủ tướng Chính phủ (2008), Quyết định số 103/2008/QĐ-TTg ngày 21 tháng 7 năm
2008 phê duyệt Đề án Hỗ trợ Thanh niên học nghề và tạo việc làm giai đoạn
2008-2015.
41. Nguyễn Tiệp (2005), Nguồn nhân lực nông thôn ngoại thành trong quá trình đô thị
hoá trên địa bàn thành phố Hà Nội, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.
42. Trần Minh Trang (2007), Giải quyết việc làm cho lao động nông thôn trong quá trình
đô thị hóa ở tỉnh Hà Tây, Luận văn thạc sĩ kinh tế lao động, Trường Đại học
Kinh tế quốc dân Hà Nội.
43. Lê Quang Trung (2007), "Việc làm cho thanh niên trong quá trình hội nhập và phát
triển", Tạp chí Lao động và Xã hội, (321), tr.7-8,19.
44. Trung tâm Dịch vụ Việc làm thanh niên Hà Nội (2002), Giải pháp đào tạo, dạy nghề, tạo
việc làm cho thanh niên để củng cố, phát triển làng nghề Hà Nội, Báo cáo tổng hợp
đề tài mã số 01X-07/2.1.2002-1.
45. Trung tâm Dịch vụ Việc làm thanh niên Hà Nội (2003), Xây dựng nội dung và
phương thức tuyên truyền hướng nghiệp, tư vấn đào tạo nghề nghiệp cho lao
động trẻ Hà Nội, Báo cáo tổng kết đề tài cấp thành phố mã số 01X-06/07-2003.
46. Trung tâm Dịch vụ Việc làm thanh niên Hà Nội (2006), Ứng dụng một số mô hình dạy
nghề ngắn hạn cho thanh niên ngoại thành Hà Nội, Báo cáo tổng kết đề tài mã
số 01/X-06/05-2006-2.
47. Trung tâm Tin học, Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội (2006), Số liệu Thống kê
Việc làm và thất nghiệp ở Việt Nam giai đoạn 1996-2005, Nxb Lao động - Xã
hội, Hà Nội.
48. Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội (2001), Giáo trình Kinh tế lao động, Nxb
Lao động - Xã hội, Hà Nội.
49. Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội (2004), Giáo trình Quản trị Nguồn nhân
lực, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.
50. Trường Đại học Lao động - Xã hội (2003), Điều tra cơ sở đào tạo nghề.
51. Trường Đại học Lao động - Xã hội (2005), Giáo trình Nguồn nhân lực, Nxb Lao động
- Xã hội, Hà Nội.
52. Trường Đại học Lao động - Xã hội (2006), Giáo trình Quan hệ lao động, Nxb Lao
động - Xã hội, Hà Nội.
53. Văn phòng Giới sử dụng lao động, Phòng Thương Mại và Công nghiệp Việt Nam
(2006), Việc làm cho thanh niên, Sách hướng dẫn dành cho người sử dụng lao
động của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO).
54. Văn phòng Tổ chức lao động quốc tế -GENEVA (2006), Tài liệu hướng dẫn Tăng
cường triển vọng việc làm cho nam và nữ thanh niên của Tổ chức Lao động
quốc tế (ILO).
55. Đoàn Thị Yến (2007), Tạo việc làm cho người lao động huyện Từ Liêm - Hà Nội đến
năm 2015, Luận văn thạc sĩ kinh tế lao động, Trường Đại học Kinh tế quốc dân
Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Giải pháp hỗ trợ giải quyết việc làm cho thanh niên ngoại thành Hà Nội.pdf