Luận văn Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Nam Định

Để huy động được nhiệm vụ nhàn rỗi từ dân cư và các tốt chức kinh tế, nhà nước phải tạo dựng một lòng tin của nhân dân bằng cách làm trong sạch bộ máy lãnh đạo, công khai hoá các hoạt động của Nhà nước, xây dựng chính sách phát triển kinh tế một cách ổn định và vững chắc. Cần kết hợp với các NHTM, cần đẩy mạnh các chương trình truyền thông kêu gọi sự đóng góp của dân cư, phát hành nhiều loại công trái xây dựng tổ quốc. Đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp chủ động tìm kiếm các đối tác liên quan và liên kết với các tổ chức kinh tế trong và ngoài nứơc nhằm huy đông thêm vốn đầu tư và các nguồn lực khác.

pdf54 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2438 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Nam Định, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
86 2,5 35.000 25.960 9.0401 8,33 6,18 2,15 Đa số NQH nằm trong loại cho vay ngắn hạn. Năm 2004 NQH có giảm 22,1% so với năm 2003, tỷ lệ NQH/Dư nợ năm 2004 giảm 3,03%. Cũng theo số liệu trên ta thấy tỷ lệ NQH/dư nợ qua những năm gần đây đều lớn hơn 2% rất nhiều. Điều này chứng tỏ các dự án cho vay còn kém hiệu quả do sử dụng vốn sai mục đích do đầu tư sai trọng điểm... dẫn tới khó khăn trong trả nợ. Bảng 2.6. Tình hình NQH phân theo đối tượng Chỉ tiêu 2003 2004 Số tiền(triệu đồng) %(NQH/Dư nợ) Số tiền(triệu đồng) %(NQH/Dư nợ) Tổng dư NQH - Quốc doanh - NQD 42.730 9.400 33.330 11,36 2,49 8,87 35.000 7.000 28.000 8,33 1,67 6,66 Ta có thể nhận thấy tình hình NQH đối với khu vục NQD thường chiếm tỷ trọng ngày càng cao, điều này chứng tỏ công tác quản lý cho vay các đối tượng NQD chưa tốt. Như chúng ta đã biết xu hướng hội nhập toàn cầu khuyến khích quan hệ rộng, hoạt động NQD trên nhiều lĩnh vực ngày càng trở nên có giá và nó mang lại lợi ích không nhỏ cho các hoạt động trong nước. Vì vậy Ngân hàng đầu tư và phát triển Nam Định cần phải quan tâm chú trọng nhiều hơn nữa tới hoạt động của mình trên phạm vi NQD để có thể xoá bỏ rào cản không tin tưởng đối với đối tượng này. Có thể tóm gọn nguyên nhân tác động NQH cao đó là: Do khách hàng làm ăn thua lỗ, còn nợ chưa trả được, do thay đổi cơ chế chính sách; do thiên tai, hạn hán... Nhìn nhận thấy nguyên nhân nhưng việc giải quyết nó là cả một vấn đề. Để khắc phục được thiếu sót, nâng cao chất lượng tín dụng không thể khác là Ngân hàng phải luôn nỗ lực nhấn mạnh công tác thẩm định, giám sát tín dụng, có cái nhìn nhanh nhạy tình hình diễn biến trên thị trường. NQH trong các hoạt động chiết khấu, bảo lãnh, cho thuê của Ngân hàng đầu tư và phát triển Nam Định là không có. Đây không phải là biểu hiện tốt cho chất lượng tín dụng bởi các hoạt động này hầu như không diễn ra trong khi lợi ích của nó mang lại là rất lớn, chỉ có hoạt động bảo lãnh hàng năm mang lại doanh thu trên 200 triệu đồng, một lợi ích không cao nhưng an toàn. Nguyên nhân chủ yếu là do nhu cầu của khách hàng không nhiều, chủ yếu là các công ty TNHH, công ty nhỏ lẻ khác. Chất lượng tín dụng và quy mô tín dụng có mối quan hệ khăng khít. Nếu chỉ nâng cao chất lượng mà với quy mô tín dụng hẹp thì sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận và khả năng cạnh tranh của Ngân hàng. Nếu chỉ mở rộng quy mô mà bỏ qua vấn đề chất lượng, sẽ dẫn đến rủi ro cao và kết quả khó lường. Ngân hàng đầu tư và phát triển Nam Định là một chi nhánh nhỏ trên địa bàn hoạt động không rộng, vì vậy xu hướng hoạt động của Ngân hàng không chỉ trên địa bàn mà là mở rộng phạm vi hoạt động. Muốn mở rộng phạm vi Ngân hàng luôn chủ trương nâng cao chất lượng tín dụng của mình. Mặc dù tỷ lệ NQH còn cao song một phần nguyên nhân là do yếu tố khách quan và khách hàng gây nên. Thị phần tín dụng của Ngân hàng trên địa bàn hiên nay chỉ chiếm 19,06% tuy không cao nhưng uy tín và chất lượng của Ngân hàng luôn được khẳng định, vừa qua Ngân hàng được nhận định là Ngân hàng có tiềm năng phát triển nhất trên địa bàn tỉnh. Quy mô và chất lượng hoạt động của Ngân hàng nếu so sánh với hội sở chính Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam và các Ngân hàng khác trên cả nước thì có thể thấy là còn rất yếu. Song với tình hình, điều kiện hiện nay Ngân hàng chắc chắn sẽ tạo lập một chỗ đứng vững chắc trên thị trường góp phần tăng cường uy tín và danh tiếng cho Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam. 2.3.2. Về phía khách hàng Khách hàng là nhân tố quyết định đến chất lượng tín dụng của Ngân hàng. Khách hàng có ăn nên làm ra thì Ngân hàng hàng mới có lợi nhuận tạo đà cho sự phát triển của nền kinh tế đất nước nói chung và của nghành Ngân hàng hàng nói riêng và cụ thể ở đây là Ngân hàng đầu tư và phát triển tỉnh Nam Định, ngược lại khách hàng là các doanh nghiệp hay các tổ chức kinh tế làm ăn không có hiệu quả sử dụng vốn vay sai mục đích hay đầu tư cho các dự án của mình không đem lại lợi nhuận thì sẽ kéo hệ thống kinh doanh tiền tệ đặc biệt này vào chỗ làm ăn thua lỗ bởi thu không bù nổi chi. Qua các bảng đã trình bày ở trên ta thấy công tác thu nợ được đẩy mạnh làm giảm nợ quá hạn điều đó là một tín hiệu đáng mừng bởi sự làm ăn có hiệu quả của khách hàng. Khách hàng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ làm ăn tốt thể hiện ở việc đầu tư cho vay ngắn hạn liên tục tăng trưởng đặc biệt là năm 2001 chiếm tỷ trọng 67,9 % trong cơ cấu tín dụng. Trong những năm gần đây ưu tiên phát triển tín dụng cho vay trung dài hạn điều này thể hiện doanh nghiệp đã có bước đột phá mở rộng quy mô sản xuất trong kinh doanh. Tuy vậy cũng không có ít doanh nghiệp làm ăn thua lỗ ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của Ngân hàng. Đa số NQH nằm trong loại cho vay ngắn hạn. Năm 2004 NQH có giảm 22,1% so với năm 2003, tỷ lệ NQH/Dư nợ năm 2004 giảm 3,03%. Cũng theo số liệu trên ta thấy tỷ lệ NQH/dư nợ qua những năm gần đây đều lớn hơn 2% rất nhiều. Điều này chứng tỏ các dự án cho vay còn kém hiệu quả do sử dụng vốn sai mục đích do đầu tư sai trọng điểm... dẫn tới khó khăn trong trả nợ. NQH đối với khu vục NQD thường chiếm tỷ trọng ngày càng cao, điều này chứng tỏ công tác quản lý cho vay các đối tượng NQD chưa tốt. NQH cao đó là: Do khách hàng làm ăn thua lỗ, còn nợ chưa trả được, do thay đổi cơ chế chính sách; do thiên tai , hạn hán... Để khắc phục được những thiếu sót này nầng cao chất lượng tín dụng hơn nữa ta cần phải chú trọng đến công tác thẩm định dự án trước khi cho vay và giám sát tín dụng có cái nhìn nhanh nhạy tình hình diễn biến trên thị trường. 2.3.3. Về phía xã hội Yếu tố xã hội cũng có một ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng tín dụng của Ngân hàng. Cụ thể là các quyết định, chính sách cho vay đầu tư hay các văn bản về luật cho vay và đầu tư ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng một cách mạnh mẽ. Ngân hàng là nơi thu hút vốn của xã hội của các tổ chức kinh tế hay các cá nhân sau đó đem đầu tư đồng vốn của mình vào các tổ chức kinh tế hay cá nhân khác. Đồng vốn đó người ta gọi là tín dụng cho vay vì vậy nó chịu ảnh hưởng của các hệ thống văn bản về luật của nhà nước khi cho vay, ngược lại tín dụng phục vụ sản xuất và lưu thông hàng hoá, góp phần giải quyết việc làm, thúc đẩy quá trình tích tụ tập trung sản xuất. 2.4. Đánh giá chung chất lượng tín dụng Ngân hàng tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Nam Định 2.4.1. Thành tựu: Nét nổi bật của hoạt động kinh doanh tín dụng trong những năm gần đây là Ngân hàng đầu tư và phát triển Nam Định đã tạo cho mình được uy tín cũng như thị trường hoạt động của mình trong lĩnh vực kinh doanh và đầu tư phát triển. Khối lượng tín dụng tăng bảo đảm cung cấp khối lượng lớn cho nhu cầu phát triển kinh tế- xã hội. Tỷ trọng vốn cho vay đã tạo được bước khởi sắc ban đầu tạo thêm nhiều nghành nghề mới, đồng thời phát triển nghành nghề truyền thống… tạo công ăn việc làm góp phần chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp sang phát triển hàng hoá công nghiệp, dịch vụ trong đó đặc biệt chú trọng tới nghành công nghiệp Dệt của Nam Định. Đầu tư và phát triển gắn liền với “hiệu quả, an toàn” .Với những thông số về doanh số cho vay, doanh số thu nợ và dư nợ tín dụng 3 năm gần đây đã thực sự khẳng định khả năng đáp ứng của Ngân hàng về nhu cầu tín dụng và hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng đầu tư và phát triển Nam Định trong lĩnh vực kinh doanh tín dụng. Tỷ lệ doanh số thu nợ/ Doanh số cho vay năm 2003 - 2004 là 96 % thực sự là chỉ tiêu an toàn và hiệu quả. Ngân hàng đầu tư và phát triển Nam Định luôn chú trọng tới việc đảm bảo chất lượng tín dụng. Mặc dù tỷ lệ NQH còn cao song lỗ lực của Ngân hàng trong việc giảm NQH, nợ xấu trong năm 2003 là rất đáng khích lệ ( các khoản nợ tồn đọng giảm 100% so với năm 2002 ) Có được kết quả trên là do: Thứ nhất: Trong quan hệ tín dụng, Ngân hàng luôn đáp ứng nhu cầu về vốn một cách nhanh chóng và hiệu quả, nhưng vẫn tuân theo quy trình tín dụng. Thứ hai: Ngân hàng có những chính sách ưu đãi với những khách hàng có uy tín và quan hệ lâu dài . Do đó ngày càng thu hút khách hàng đến với Ngân hàng. Thứ ba: Công tác huy động vốn được đẩy mạnh và đã đạt được kết quả cao đáp ứng nhu cầu của khách hàng ngày càng tốt hơn. Thứ tư: Vơí chủ trương chủ động tìm kiến khách hàng, Ngân hàng tăng cường công tác marketing đến mọi đối tượng nên số khách hàng của Ngân hàng ngày càng tăng. Thứ năm: Ngân hàng rất quan tâm tới việc xây dựng biện pháp nhằm đổi mới và nâng cao chất lượng các mặt nghiệp vụ, đặc biệt là nghiệp vụ tín dụng, trong đó có việc chú trọng bồi dưỡng và đào tạo đội ngũ cán bộ tín dụng. Ngân hàng rất coi trọng việc đầu tư áp dụng công nghệ tin học hiện đại trong công tác tín dụng góp phần cung cấp thông tin tín dụng chất lượng cao làm cho khách hàng tin tưởng hơn đồng thời nâng cao chất lượng tín dụng. Ví dụ như: Khi có một chương trình mới liên quan tới mảng tin học có thể ứng dụng vào Ngân hàng thì tất cả các phòng ban sẽ được chọn một người đi để tìm hiểu học tập, sau đó về hướng dẫn cho các thành viên còn lại. Thứ sáu: Ngân hàng cũng chú trọng tới công tác kiểm tra quản lý nợ vay. Nhờ đó mà tín dụng được mở rộng về qui mô và hạn chế những khoản tín dụng xấu. 2.4.2. Bên cạnh những kết quả khả quan về hoạt động tín dụng mà Ngân hàng đã đạt được, vẫn còn nhiều bất cập về quy mô và những biểu hiện tồn tại về chất lượng tín dụng.  Về quy mô tín dụng - Ngân hàng đầu tư và phát triển Nam Định phục vụ sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Nam Định tuy có mức tăng trưởng ( GDP ) khá song tốc độ vẫn thấp hơn bình quân vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng và cả nước; tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH - HĐH diễn ra chậm chạp, nhìn chung vẫn là tính thuần nông, vì vậy thiếu các dự án kinh tế đầu tư lớn có hiệu quả. Khu công nghiệp của tỉnh mới hình thành, sức sản xuất của doanh nghiệp nhỏ, chưa có nghành công nghiệp mũi nhọn, chưa có các sản phẩm độc đáo có sức cạnh tranh trên thị trường và xuất khẩu. Mặt khác cơ chế chính sách của Nhà Nước chưa có độ bền và tính chiến lược, có nhiều thay đổi bất thường làm bất lợi cho các doanh nghiệp. Ví dụ điển hình là chủ trương: Hạn chế tiêu dùng Xe máy trên thị trường trong năm và cơ cấu lại nghành công nghiệp Xe máy Việt Nam, đến năm 2010 làm nhiều doanh nghiệp sản xuất và lắp ráp Xe máy của tỉnh lâm vào khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm, nguồn trả nợ vay Ngân hàng bị chậm lại, thậm chí doanh nghiệp có thể bị thua lỗ trong kinh doanh. - Mạng lưới hoạt động của Ngân hàng đầu tư và phát triển Nam Định nhỏ hẹp. Hiện nay mới có hội sở chính và một phòng giao dịch, 2 bàn tiết kiệm tập trung tại thành phố Nam Định. Vì vậy việc mở rộng tiếp cận vốn cho vay khó khăn, việc tăng trưởng tín dụng bị hạn chế, khối lượng và doanh thu dịch vụ không tăng trưởng được. - Khối lượng tín dụng chủ yếu tập trung vào các doanh nghiệp Nhà nước chưa mạnh dạn mở rộng cho vay các thành phần kinh tế khác tỷ lệ cho vay NQD, dân doanh chưa tương song với sự phát triển mạnh mẽ của thành phần kinh tế này tại địa phương.  Về chất lượng tín dụng - NQH có chiều hướng giảm chậm song vẫn còn rất cao. So với tỷ lệ NQH mà các Ngân hàng mong muốn thì tỷ lệ NQH của chi nhánh gấp trên 4 lần. Con số nợ khoanh được Nhà nước chấp nhận còn quá cao năm 2003 là 66 tỷ đồng đó là những biểu hiện không tốt của chất lượng. Đó là chưa tính đến việc gia hạn nợ. Nếu công tác này không được thực hiện một cách nghiêm túc, gia hạn nợ không dựa trên triển vọng thực tế của dự án thì con số NQH còn cao hơn. Và kết luận tất nhiên là chất lượng tín dụng thực tế còn thấp hơn nữa. - Cho vay đầu tư phát triển thường tiềm ẩn rủi ro lớn nhưng lại thiếu về chính sách cơ chế rủi ro khách quan. Cụ thể là: Cho vay xây dựng Chợ Rồng, Công ty điện tử điện lạnh, Công ty quảng cáo hội chợ TM, Công ty dụng cụ TDTT, Công ty XNK Nam Hà. Các doanh nghiệp vay vốn bằng ngoại tệ để nhập vật tư thiết bị nhưng sản phẩm làm ra chủ yếu tiêu thụ trong nước lại thu nhập bằng nội tệ như: Công ty lâm sản, Nhà máy bia NADA, Công ty thiết bị nghe nhìn. Sự biến động tỷ giá cao của ngoại tệ là nỗi lo và là nguyên nhân mất ổn định tài chính doanh nghiệp và khó khăn đối với các tổ chức tín dụng trong việc thu hồi vốn đầu tư. - Chi nhánh vẫn phải tiếp nhận một số dự án đầu tư phát triển của Nhà nước mang tầm trọng điểm QG mà công tác quy hoạch dự báo về nguồn nguyên liệu, thị trường, xu hướng phát triển công nghệ, khả năng tiệu thụ sản phẩm do các cơ quan quản lý Nhà nước thực hiện chưa đáp ứng được đòi hỏi mang tính cấp thiết của thực trạng phát triển kinh tế đặt ra, nên nhiều khi dự án không thành công, mà lúc này chỉ có Ngân hàng phải gánh chịu và nó ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của Ngân hàng. - Trong cơ chế thị trường nghiệp vụ tín dụng đã được ban hành còn một số điểm không phù hợp với thực tiễn; những vướng mắc đề xuất của Ngân hàng chưa được trả lời kịp thời; tính chủ động và phán quyết còn hạn chế, nâng cao tính chủ động về hạn mức tín dụng trong mỗi Ngân hàng nhưng không vượt quá hạn mức cho phép. Những vấn đề này nếu không được giải quyết sớm sẽ gây ra những ảnh hưởng không nhỏ dến hoạt động tín dụng, giảm tính cạnh trạnh, giảm lòng tin đối với khách hàng. - Việc chỉ đạo nắm bắt thông tin về hoạt động kinh doanh của khách hàng, thông tin về kinh tế thị trường, giá cả chưa đầy đủ, xử lý còn chậm, thiếu chính xác. Chất lượng tín dụng có đảm bảo được chức năng còn được thể hiện ở mô hình tổ chức sao cho phù hợp với khả năng chuyên môn của mỗi người. Trong công tác chỉ đạo còn nhiều lúng túng, vì thế vai trò chỉ đạo tín dụng còn nhiều hạn chế thông tin bị ngắt quãng, nắm bắt thị trường không có hệ thống. Hiện nay, tăng trưởng tín dụng cao và chất lượng tín dụng tốt là 2 khái niệm không thể tách rời, chất lượng tín dụng phải đảm bảo hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng về hai mặt là khả năng sinh lời và giảm thiểu rủi ro về sử dụng vốn. Đồng thời, hoạt động tín dụng tốt phải dựa trên nguyên tắc là thoả mãn nhu cầu về vốn của khách hàng ( người đi vay ) đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế là hai chủ thể mà Ngân hàng phải có sứ mệnh phục vụ. Do đó, Ngân hàng cần phải xác định được khách hàng mục tiêu, hiểu rõ hơn nhu cầu của khách hàng để có chính sách phục vụ tốt hơn. Nguyên nhân Quy mô và chất lượng tín dụng bị tác động bởi khá nhiều nhân tố từ khách hàng, từ chính Ngân hàng, từ môi trường KTXH mà Ngân hàng hoạt động. Chính vì vậy, những khó khăn tồn tại trên được giải thích bởi nhiều nguyên nhân khác nhau dưới đây.  Nguyên nhân khách quan Cơ chế chính sách của Nhà nước, của các nghành nghề chưa đầy đủ, môi trường pháp lý chưa đồng bộ, môi trường xã hội còn nhiều nhức nhối. Số đông khách hàng, nhất là các hộ sản xuất có trình độ dân trí thấp, ít nắm bắt được thông tin, tiếp thu kiến thức về kinh tế thị trường còn rất hạn chế. Vì vậy, chọn lựa đối tượng khách hàng đảm bảo cho hoạt động tín dụng đã gây ra không ít khó khăn cho hoạt động của Ngân hàng. Thiên tai xảy ra bất thường trên diện rộng gây ra những hậu quả nặng nề cả gián tiếp và trực tiếp. Ngân hàng vừa phải làm kinh doanh vừa phải làm chính sách đã có những hạn chế nhất định cho hiệu quả hoạt động kinh doanh và đầu tư phát triển. Cạnh tranh giữa các tổ chức, các thành phần kinh tế cũng là một nhân tố làm cho quy mô và chất lượng tín dụng không cao. Thật vậy, mức độ gay gắt của cạnh tranh tăng lên cùng chiều với sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế. Nền kinh tế càng phát triển, toàn cầu hoá diễn ra càng sâu sắc thì cạnh trạnh trong nền kinh tế càng trở nên quyết định. Thực tế đã có nhiều doanh nghiệp tư nhân không thể đứng vững trong cạnh tranh đãn đến thua lỗ, trong đó có những khách hàng của Ngân hàng, làm cho NQH tăng cao. Bên cạnh đó là sự cạnh trạnh trong nghành Ngân hàng nói riêng cũng không kém gay gắt.  Nguyên nhân thuộc về Ngân hàng Cho vay, cấp tín dụng cho nền kinh tế là một trong những hoạt động của các NHTM. Nói cách khác tín dụng là sản phẩm đặc thù của nghành Ngân hàng. Ngân hàng kết hợp với khách hàng làm nên quy mô và chất lượng tín dụng. Do đó, với đặc điểm tốc độ tăng trưởng về quy mô chậm, tỷ lệ NQH cao một phần là do chính Ngân hàng. - Do trình độ của đội ngũ cán bộ tín dụng. Tuy đã có những trưởng thành vượt bậc trong những năm vừa qua nhưng trình độ của đội nhũ cán bộ tín dụng này vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ đặt ra đối với Ngân hàng đầu tư và phát triển Nam Định. Trong điều kiện hội nhập kinh tế toàn cầu và sự cạnh tranh gay gắt của các Ngân hàng trong khu vực, đòi hỏi cán bộ tín dụng không những phải nắm vững chuyên môn nghiệp vụ của mình mà còn phải biết khách hàng, nắm bắt thực lực tài chính của khách hàng, hiểu biết lĩnh vực mà khách hàng đang sản xuất kinh doanh, nhân tố tác động đến dự án vay vốn Ngân hàng để đánh giá họ một cách đúng đắn, đồng thời cũng phải tận tình chu đáo với khách hàng và hết mình phục vụ khách hàng. Tuy nhiên, hiện nay đội ngũ cán bộ tín dụng của Ngân hàng chưa đáp ứng được điều này mới chỉ là những cán bộ trẻ năng động, nhiệt tình, tận tâm với Ngân hàng nhưng chưa có kinh nghiệm cũng như chưa am hiểu về những lĩnh vực, dễ mắc những sai lầm có thể gây rủi ro cho Ngân hàng. - Công tác thu thập và xử lý thông tin về khách hàng còn bị hạn chế. Các cán bộ tín dụng muốn có thông tin chủ yếu dựa vào những số liệu khách hàng cung cấp hoặc thông tin trên phương tiện đại chúng và khái niệm trong quá trình thẩm định các dự án khác, mặt khác hệ thống cơ sở dữ liệu của Ngân hàng chưa được tổ chức khoa học, đầy đủ, thông tin về mỗi đơn vị khách hàng khác nhau lại do một nhân viên chuyên quản lý về lĩnh vực đó nắm giữ, khi các nhân viên khác có nhu cầu tìm hiểu về khách hàng đó thì họ phải sử dụng của nhau. Như vậy, những thông tin đó chỉ là những thông tin mà cán bộ tín dụng được cung cấp chứ không phải là những thông tin tự họ thu thập, không đảm bảo tính chính xác và tin cậy cao dễ dẫn đến sự đánh giá sai lệch của Ngân hàng đối với khách hàng, gây khó khăn cho cả hai phía. - Ngân hàng chưa đẩy mạnh công tác marketing Ngân hàng, công tác khách hàng để tìm hiểu sâu hơn về nhu cầu của khách hàng, làm cho khách hàng thực sự hiểu về Ngân hàng, cũng như các biện pháp lôi kéo khách hàng để mở rộng hoạt động của Ngân hàng . - Quy trình tín dụng không được thực hiện đầy đủ, đó là công tác kiểm tra, kiểm soát trong, trước và sau khi cho vay chưa được tiến hành đầy đủ kịp thời và thường xuyên, nội dung kiểm tra chưa sâu. Theo đúng quy trình của hoạt động cho vay thì sau khi DN hoàn thành nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng thì các cán bộ tín dụng phải đánh giá hiệu quả của quan hệ tín dụng này, phân loại quan hệ tín dụng, đánh giá hiệu quả hoạt động của DN để có kinh nghiệm cho những lần vay sau. Nhưng trên thực tế các cán bộ tín dụng thường không làm, nếu có đánh giá chỉ có đánh giá một lần vào cuối năm.  Nguyên nhân thuộc về doanh nghiệp. Trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam, đa số các DN, các khách hàng đều có mức vốn điều lệ thấp, hoạt động sản xuất kinh doanh chủ yếu dựa trên số vốn đi vay đặc biệt các DNNN khi vay vốn của Ngân hàng không cần thiết phái có tài sản thế chấp, không giới hạn tỷ lệ vốn điều lệ mà chỉ cần căn cứ vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của DN. Như vậy, khi các DN đã vay vốn tại Ngân hàng nhưng do có rủi ro không lường trước được khiến DN không có khả năng trả nợ cho Ngân hàng thì Ngân hàng sẽ bị mất mát rất nhiều mà không thấy có khả năng được đền bù. Có một số khách hàng khi vay được vốn nhưng sử dụng vốn tín dụng sai mục đích; vay vốn ngắn hạn để đầu tư vào tài sản cố định hoặc các dự án đầu tư trung, dài hạn. Dẫn tới việc khi đến hạn trả nợ thì dự án vẫn chưa có doanh thu hoặc có những DN xây dựng một dự án ma để vay vốn Ngân hàng. Khi vay được rồi thì sử dụng vào việc buôn lậu, kinh doanh các mặt hàng cấm. Trình độ quản lý kém tại các DN tồn tại không ít. Chính vì năng lực yếu kém, khả năng nắm bắt và phân tích thị trường hạn chế sẽ dẫn đến những quyết định đầu tư sai lầm, sản phẩm làm ra không được thị trường chấp nhận, doanh thu không đủ bù đắp chi phí. Trên đây chỉ là một số nguyên nhân tồn tại dẫn tới hạn chế quy mô và chất lượng tín dụng của Ngân hàng, thực tế còn có rất nhiều yếu tố khác ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp tới hoạt động Ngân hàng . Tóm lại: Quan nghiên cứu, phân tích, đánh giá chất lượng hoạt động tín dụng của Ngân hàng đầu tư và phát triển Nam Định trong những năm gần đây đã khẳng định vai trò quan trọng của hoạt động tín dụng, mang lại doanh thu chủ yếu cho Ngân hàng , đồng thời góp phần hỗ trợ phát triển cho các tổ chức cá nhân phát triển. Mặc dù Ngân hàng đã đạt được các thành tựu trong việc nâng cao chất lượng tín dụng, hoạt động tín dụng vẫn tồn tại những hạn chế nhất định mà hầu hết các Ngân hàng hiện nay gặp phải. Muốn khắc phục và hoàn thiện mình thì Ngân hàng cần phải tìm hiểu để đưa ra những giải pháp cụ thể nhằm không ngừng nâng cao chất lượng tín dụng góp phần đẩy mạnh hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng , góp phần không nhỏ vào sự nghiệp CNH- HĐH đất nước. CHƯƠNG III: giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng đầu tư và phát triển nam định 3.1. Phương hướng hoạt động tín dụng của Ngân hàng đầu tư và phát triển Nam Định. Nghị quyết kì họp thứ tư, quốc hội khoá XI về nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội năm 2004 đã đề ra nhiệm vụ phải thực hiện trong 2 năm còn lại của kế hoạch năm năm là rất nặng nề, đòi hỏi năm 2004 phải có bước phát triển cao hơn năm trước cả về nhịp độ và chất lượng của sự tăng trưởng trong đó có nhấn mạnh hoạt động kinh doanh tín dụng thì mới hoàn thành được các chỉ tiêu đã định. Chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Nam Định thực hiện chiến lược kinh doanh của hệ thống ban lãnh đạo Ngân hàng đầu tư và phát triển Nam Định, phải tích cực phấn đấu vươn lên và thực sự trở thành công cụ điều hành chính sách tiền tệ quốc gia rất nhạy cảm và phản ứng rất tích cực về tiến trình cải cách mạnh mẽ trong quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Ngân hàng đầu tư và phát triển Nam Định căn cứ vào kết quả hoạt động kinh doanh trong năm 2003, căn cứ vào điều kiện thực tế và chỉ đạo chung của Ngân hàng đầu tư và phát triển Nam Định đã đề ra những chỉ tiêu kinh tế cho hoạt động kinh doanh năm 2004 như sau: - Tăng trưởng tài sản có: 18% - Nguồn vốn tự huy động tăng trưởng: 23,45% để có 600 tỷ đồng - Lợi nhuận trước thuế tăng trưởng: 11,11% để có 5 tỷ đồng - Trích DPRR tăng trưởng: 21,62% để có 4,5 tỷ đồng - NQH: <= 4% Tổng dư nợ Riêng quan hệ tín dụng Ngân hàng đặt ra mục tiêu: + Tăng trưởng thị phần tín dụng 4% để có 23%; duy trì quan hệ với khách hàng truyền thống, chủ động tìm những khách hàng tiềm năng để cho vay, mạnh dạn mở rộng cho vay các thành phần kinh tế khác, xoá bỏ rào cản tư tưởng ngần ngại đối với kinh tế ngoài quốc doanh. + Nâng cao chất lượng tín dụng thông qua những biện pháp: thu nợ, xoá nợ xấu, nợ khó đòi, nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn đảm bảo an toàn cho các khoản tín dụng. 3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Nam Định. 3.2.1. Cải thiện cơ cấu tài sản có. Để nâng cao chất lượng tín dụng thì việc cải thiện cơ cấu tài sản có là vô cùng quan trọng, mục tiêu là:  Tăng trưởng tín dụng toàn diện cả ngắn hạn và trung dài hạn thương mại. Tập trung vốn cho vay các dự án khai thác và sản xuất hàng xuất khẩu như: Dệt may, thuỷ hải sản, chế biến nông lâm sản, thủ công mỹ nghệ, điện tử, sản xuất cơ khí điện máy, sản xuất hàng tiêu dùng tiêu thụ trong nước.  Chuyển dịch cơ cấu khách hàng vay vốn; tăng trưởng khách hàng là các thành phần kinh tế NQD. Đưa tỷ trọng cho vay chiếm 40% dư nợ vay. Tăng tỷ trọng vay vốn có đảm bảo từ 70% - 75% dư nợ cho vay.  Mở rộng và nâng cao chất lượng thanh toán trong nước các loại hình bảo lãnh, kinh doanh ngoại tệ, thanh toán quốc tế, triển khai các loại phương tiện thanh toán mới: Thẻ điện tử, máy rút tiền ATM… Trong cơ cấu tài sản có cho vay chiếm tỷ trọng rất lớn vì vậy xây dựng chiến lược khách hàng chính là một biện pháp hữu hiệu nhằm mục tiêu nâng cao chất lượng tín dụng. Xây dựng chiến lược khách hàng là việc xây dựng một hệ thống các phương thức đánh giá và phân loại khách hàng đã có qua hệ tín dụng với Ngân hàng và cả các khách hàng tiềm năng, cũng như việc xây dựng hệ thống thu thập, xử lý và phân tích những thông tin về khách hàng, về đặc điểm kinh tế và thị trường mà khách hàng đó hoạt động. Đối với Ngân hàng đầu tư và phát triển Nam Định, cần phải có một chiến lược về khách hàng như sau:  Đối với khách hàng truyền thống: Ngân hàng cần thiết lập và duy trì quan hệ tín dụng ổn định, lâu dài với các công ty như: Công ty xây lắp I – Nam Định; Công ty cổ phần Thành công, Công ty thực phẩm công nghiệp NĐ; Công ty XNK Nam Hà; Công ty thuỷ lợi Nam sông Hồng, Công ty cơ điện nông nghiệp và thuỷ lợi 18. Đối với những khách hàng này cần có một chính sách lãi xuất và dịch vụ ưu đãi đồng thời cần nhanh chóng đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về vốn đầu tư cho dự án của các đối tượng khách hàng này.  Đối với khách hàng là doanh nghiệp NQD và tư nhân: Ngân hàng cần có chính sách cụ thể để phát huy tiềm năng của đối tượng khách hàng này. Thực trạng quan hệ tín dụng của Ngân hàng với các đối tượng khách hàng này là rất hạn chế mặc dù đây là một đối tượng khách hàng rất nhiều khả năng tiềm ẩn.  Đối với những khách hàng có khó khăn về tài chính Ngân hàng cần đáp ứng dần từng bước nhu cầu dịch vụ từ thấp tới cao, tư vấn về tài chính cho họ, trên cơ sở đảm bảo an toàn tín dụng, không thể xảy ra rủi ro. Như vậy, Ngân hàng vừa giúp đỡ được doanh nghiệp vừa tạo được mối quan hệ khách hàng lâu dài. Chi phí để giữ một khách hàng cũ là không nhỏ những chi phí để có một khách hàng mới còn lớn hơn rất nhiều lại chứa đựng nhiều rủi ro hơn. Vì vậy, việc xây dựng được một chính sách khách hàng tốt, củng cố và duy trì mối quan hệ bền vững với khách hàng cũ là một yếu tố rất quan trọng bên cạnh việc xây dựng chính sách khách hàng để mở rộng và thu hút thêm đối tượng khách hàng mới. Công tác marketing Ngân hàng cũng là một công việc góp phần xây dựng chiến lược khách hàng bởi vì thực chất hoạt động marketing Ngân hàng là tìm hiểu nhu cầu khách hàng, tìm cách đáp ứng tốt nhất những nhu cầu khách hàng từ đó Ngân hàng sẽ đạt được mức lợi nhuận cao nhất và giảm thiểu được rủi ro cho hoạt động của Ngân hàng. Trong thời gian qua việc áp dụng marketing Ngân hàng vào hoạt động Ngân hàng còn nhiều hạn chế. Do vậy để công tác marketing Ngân hàng thực sự phát huy tác dụng tích cực đối với hoạt động Ngân hàng, Ngân hàng cần thực hiện một cách đồng bộ các chính sách marketing Ngân hàng bao gồm chính sách điều tra nghiên cứu thị trường, chính sách sản phẩm, giá cả, chính sách phân phối, chính sách khuyếch trương. Điều tra nghiên cứu thị trường nghĩa là tìm hiểu hiện nay các khách hàng có nhu cầu vay vốn của Ngân hàng mình như thế nào, tình hình hoạt động của Ngân hàng khác trên địa bàn như thế nào, Ngân hàng có thể tiến hành tổ chức các hội nghị khách hàng và ngay sau hội nghị phát biểu điều tra cho khách hàng về những lĩnh vực Ngân hàng muốn tìm hiểu, đồng thời có thể thu thập thông tin từ thị trường hay từ khách hàng của Ngân hàng khác. Thực hiện chính sách sản phẩm giá cả là việc Ngân hàng cung cấp cho thị trường những sản phẩm đa dạng với mức giá phù hợp, vì vậy Ngân hàng phải áp dụng các thiết bị hiện đại đổi mới công nghệ Ngân hàng để nâng cao chất lượng dịch vụ Ngân hàng và giảm được chi phí hoạt động từ đó giảm được các mức phí của các dịch vụ. Chính sách phân phối và chính sách khuyếch trương là việc làm cho khách hàng biết tới sự có mặt của sản phẩm, biết công dụng của sản phẩm và tìm mọi cách để khách hàng tiếp cận sản phẩm một cách dể dàng nhất. Để thực hiện công việc này, Ngân hàng cần mở rộng mạng lưới hoạt động tín dụng của mình trên nhiều địa bàn trong khu vực cũng như trong nước ở những vị trí thuận lợi cho việc giao tiếp, đồng thời Ngân hàng cần có biện pháp quảng cáo khuyếch trương về Ngân hàng nói chung và những hoạt động cụ thể của Ngân hàng. Các chính sách trên khi được kết hợp thực hiện chắc chắn sẽ thu hút được nhiều khách hàng mở rộng hoạt động tín dụng của Ngân hàng . 3.2.2. Lành mạnh hoá năng lực tài chính Muốn nâng cao chất lượng tín dụng điều cần thiết là giải quyết và thu hồi các khoản nợ, tăng cường quỹ dự phòng rủi ro ( DPRR) cụ thể là:  Xử lý dứt điểm nợ khoanh cho vay dài hạn chỉ định theo KHNN của công ty Dệt Nam Định là 66 tỷ đồng gốc.  Khai thác tối đa phần nợ có TSTC Ngân hàng đang quản lý tại chợ Rồng Nam Định, tận thu lãi treo chợ Rồng.  Trích lập quỹ DPRR tín dụng thương mại hàng năm, tích cực thu hồi NQH; phấn đấu đến năm 2005 NQH thương mại <= 0,5%.  Cơ cấu lại nguồn thu, tăng thu dịch vụ, thực hiện tiết kiệm chi phí, đảm bảo đủ trang trải chi phí, trích dự phòng rủi ro, chi tiêu đúng định mức phấn đấu có tăng trưởng lợi nhuận hàng năm. Sau đây là một số giải pháp ngăn ngừa xử lý các khoản nợ: - Đối với những khoản nợ trong hạn và NQH thông thường Nợ trong hạn là những khoản nợ đang trong thời hạn trả nợ, còn nợ quá hạn thông thường là những khoản NQH mà khả năng tổn thất thấp, do khách hàng gặp phải khó khăn tài chính tạm thời và có thể trả chậm trong một thời gian ngắn. Hiện tại đây là những khoản nợ chưa có gì đáng lo ngại nhưng nếu như tình trạng khó khăn của doanh nghiệp không được giải quyết thì chắc chắn những khoản nợ này sẽ không có khả năng thanh toán và sẽ chuyển thành nợ quá hạn. Vì vậy Ngân hàng nên xem xét, tạo điều kiện cho khách hàng vượt qua những khó khăn tạm thời với một vài biện pháp sau: + Khoản nợ trong hạn  Xem xét lại sự phù hợp giữa thời gian cho vay và thời gian thu hồi vốn. Khó khăn mà doanh nghiệp gặp phải có thể là do tình trạng yếu kém chung của nền kinh tế do vậy doanh nghiệp phải sản xuất với công suất thấp hơn mức dự tính, như vậy mức doanh thu bị giảm đi và khả năng trả nợ của doanh nghiệp bị ảnh hưởng, thời gian thu hồi vốn bị kéo dài hơn và trở nên không phù hợp với thời gian vay đã thoả thuận với Ngân hàng. Vì vậy Ngân hàng nên kéo dài thời gian trả nợ cho doanh nghiệp hoặc rút bớt mức trả của từng kỳ giảm bớt gánh nặng nợ nần cho doanh nghiệp trong điều kiện khó khăn khách quan tạm thời này.  Ngân hàng nên sử dụng mọi biện pháp tận thu với khách hàng trong đó biện pháp yêu cầu mở tài khoản doanh thu tại Ngân hàng là biện pháp giúp Ngân hàng ngay lập tức thu được vốn của mình khi khách hàng có doanh thu đồng thời cũng hạn chế được khả năng phát sinh NQH cho khách hàng .  Tăng cường công tác kiểm tra sử dụng vốn vay buộc khách hàng sử dụng vốn vay đúng với mục đích đã đề ra lúc đó hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng mới đảm bảo đem lại lợi nhuận và tăng khả năng trả những khoản nợ trong hạn của khách hàng cho Ngân hàng.  Ngân hàng nên có sự phối hợp với các Ngân hàng khác trong việc nhờ thu hộ từ tài khoản tiền gửi của doanh nghiệp nhằm đảm bảo thu được những khoản nợ trong hạn một cách tốt nhất. + Khoản nợ quá hạn thông thường  Cho vay tiếp: đây là phương thức lấy nợ để nuôi nợ, nó cũng là cách kéo dài thời gian trả nợ của doanh nghiệp. Tuy nhiên chỉ với những khách hàng là những doanh nghiệp có năng lực trong kinh doanh và nhạy cảm với cơ chế thị trường thì phương pháp này mới đem lại hiệu quả tích cực.  Chuyển một phần nợ vay của Ngân hàng thành vốn góp của Ngân hàng vào doanh nghiệp. Phương thức xử lý này được áp dụng khi khả năng sinh lời của hoạt động đầu tư cao nhưng do ganh nặng nợ nần lớn khả năng đèêu hàng quản lý doanh nghiệp kém nên doanh nghiệp làm ăn không có hiệu quả. Ngân hàng tham gia vào đây nhằm giúp doanh nghiệp giảm bớt được nợ, thay đổi phần nào cơ cấu vốn cổ phần và cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp đưa doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hơn. - Đối với những khoản nợ quá hạn. Khi nhận thấy có dấu hiệu NQH xuất hiện như doanh nghiệp chậm chễ trong việc nộp báo cáo tài chính, né tránh trì hoãn khi cán bộ tín dụng tới kiểm tra tình hình sản xuất kinh doanh, có sự gia tăng các khoản phải trả thì cán bộ tín dụng phải nhanh chóng nắm bắt tình hình và có biện pháp xử lý thích hợp. + Hướng khai thác: Nếu doanh nghiệp vẫn còn khả năng duy trì sản xuất kinh doanh, vẫn còn ý thức trả nợ thì không nên đẩy doanh nghiệp đến chỗ phá sản mà nên kết hợp với doanh nghiệp giải quyết dần các khoản nợ bằng cách tư vấn cho doanh nghiệp về việc đổi mới quy trình sản xuất, chuyển sang hoạt động trên thị trường mới, đề nghị doanh nghiệp phát hành cổ phiếu, trái phiếu để tăng thêm vốn kinh doanh. + Hướng xử lý: Nếu Ngân hàng nhận thấy rõ việc tổ chức khai thác nợ là không đem lại kết quả thì xử lý dứt điểm khoản nợ này bằng cánh phát mại tài sản đảm bảo nợ vay hoặc thực hiện các biện pháp pháp lý để thu hồi lại các khoản nợ vay. 3.2.3. Tập trung sức đào tạo và bồi dưỡng năng lực nghiệp vụ trong đội ngũ CBCNV Đội ngũ cán bộ tín dụng luôn được coi là bộ mặt của Ngân hàng vì họ là những người trực tiếp tiếp xúc với khách hàng, trực tiếp thoả mãn nhu cầu của khách hàng, khách hàng có ấn tượng tốt với Ngân hàng hay không cũng là do đội ngũ cán bộ tín dụng. Chính vì vậy không thể đạt được sự tiến bộ thực sự về chất lượng và quy mô tín dụng nếu không có sự hợp tác và cam kết đầy đủ của toàn bộ tập thể cán bộ, nhân viên có đạo đức nghề nghiệp, có trình độ nghề nghiệp, nhận thức xã hội và hiểu biết pháp luật. Ngân hàng đầu tư và phát triển Nam Định từ trước tới nay đã có một đội ngũ cán bộ tín dụng năng động, nhiệt tình những trình độ chuyên môn và kinh nghiệm chưa cao nên để phù hợp với tình hình hiện nay, đội ngũ cán bộ tín dụng của Ngân hàng cần phải được đào tạo, bồi dưỡng và bổ sung thêm các kỹ năng: - Kỹ năng bán hàng: Cán bộ tín dụng phải có kỹ năng nhất định về marketing để thu hút khách hàng, nắm vững nghiệp vụ tín dụng để cho vay được nhiều và đảm bảo chất lượng, tạo ấn tượng ban đầu tốt đẹp cho khách hàng. - Kỹ năng tìm hiểu điều tra: Cán bộ tín dụng phải biết cách thu thập và khai thác thông tin từ khách hàng và các nguồn khác để phục vụ cho hoạt động nghiệp vụ của mình. - Kỹ năng phân tích: Cán bộ tín dụng trên cơ sở thông tin có được phải nêu bật được điểm mạnh, điểm yếu của khách hàng, chỉ ra được những rủi ro có thể xảy ra khi đặt quan hệ tín dụng với khách hàng. - Kỹ năng đàm phán: Cán bộ tín dụng phải biết thương lượng với khách hàng về các vấn đề có liên quan đến các điều khoản đã quy định trong chế độ, thể lệ cho vay. Đặc biệt là đối với những khách hàng hộ gia đình, Công ty tư nhân, doanh nghiệp mới thành lập chưa có những hiểu biết cơ bản về quan hệ tín dụng với Ngân hàng, đòi hỏi cán bộ tín dụng phải giải thích đầy đủ, hợp lý, hợp tình về việc tuân thủ những quy tắc tín dụng có như thế số lượng hợp đồng tín dụng được ký kết mới nhiều và tương đối an toàn. Bên cạnh những kiến thức về chuyên môn và nghiệp vụ, cán bộ tín dụng còn cần phải thường xuyên cập nhật kiến thức về thị trường về những quy định của Nhà nước, có liên quan đến lĩnh vực đầu tư như quy định về bảo vệ môi trường, quy định về quy hoạch, kiến trúc và xây dựng, quy định về chế độ tài chính đối với từng loại hình doanh nghiệp, quy định về khấu hao TSCĐ, chế độ tiền lương, tiền thưởng và BHXH, quy định về thuế đất và sử dụng đất do UBND tỉnh và thành phố ban hành dựa trên khung giá do chính phủ quy định, quy định về các loại thuế, miễn giảm ưu đãi và khuyến khích đầu tư và hệ thống các tiêu chuẩn cho phép đối với từng nghành nghề. Ngân hàng cần chọn lọc bồi dưỡng lớp cán bộ đầu đàn về quản trị điều hành, đào tạo nâng cao nắm bắt những kỹ thuật đáp ứng hiện đại hoá Ngân hàng. Đồng thời Ngân hàng cần tổ chức tốt việc phân phối các quỹ của doanh nghiệp: quỹ khen thưởng phúc lợi, khuyến khích phát triển sản xuất… nhằm động viên người lao động hăng say nhiệt tình, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật đạt năng suất lao động cao. Trong hoạt động Ngân hàng cần có chế độ khen thưởng thích đáng và chhế độ xử phạt nghiêm minh cho từng cán bộ. Có như thế mới nâng cao tinh thần trách nhiệm làm việc hết mình của các CBCNV trong Ngân hàng. 3.2.4. Thực hiện nghiêm túc quy trình thẩm định Quy trình thẩm định là một khâu quan trọng để quyết định cho vay. Vì vậy để mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng thì quy trình thẩm định càng phải được thực hiện nghiêm túc cẩn thận. Khi thẩm định cần dựa trên các yếu tố sau: - Khả năng cho vay của Ngân hàng. - Dự án đầu tư - đối tượng cho vay, có thích hợp với hoàn cảnh kinh tế và phù hợp với chính sách phát triển kinh tế của chính phủ hay không. - Khả năng hoàn trả của khách hàng. Dựa trên các yếu tố này, thẩm định sẽ xem xét các điểm chính: Thứ nhất: Tính cách. Cán bộ tín dụng phải có được những bằng chứng cho thấy rằng khách hàng có mục tiêu rõ ràng khi xin vay và có kế hoạch trả nợ nghiêm túc. Nếu không biết chắc chắn lý do khách hàng xin vay thì cán bộ tín dụng cần phải tiến hành điều tra để được câu trả lời xác đáng. Khi mục tiêu xin vay đã được làm rõ, cán bộ tín dụng phải quyết định xem nó có phù hợp với chính sách cho vay hiện tại của Ngân hàng hay không? Trách nhiệm tính trung thực, mục đích vay vốn nghiêm túc, kế hoạch trả nợ rõ ràng là những tiêu chuẩn tạo dựng nên tính cách của khách hàng trong cách nhìn nhận của cán bộ tín dụng. Thứ hai: Năng lực. Cán bộ tín dụng phải chắc chắn rằng khách hàng có đủ năng lực vay vốn và có đủ tư cách pháp lý trong việc kí kết hợp đồng vay vốn. Thứ ba: Dòng tiền mặt. Đây là nội dung có ý nghĩa quan trọng đối với yêu cầu xin vay và thường tập trung vào câu hỏi: Liệu người vay có khả năng tạo tạo ra một dòng tiền mặt đủ lớn để đáp ứng yêu cầu hoàn trả cho Ngân hàng món vay không? Nhìn chung khách hàng vay vốn chỉ có ba nguồn có thể được sử dụng để hoàn trả khoản vay. Dòng tiền huy động bằng cách phát hành nợ hay chứng khoán vốn. Tuy nhiên, Ngân hàng nên quan tâm nhiều hơn tới dòng tiền tạo ra từ doanh thu bán hàng và xem đây là một nguồn chính để thanh toán nợ. Thứ tư: TSTC. Trong việc đánh giá TSTC dành cho khoản vay, cán bộ tín dụng phải đặt ra câu hỏi: người vay có sở hữu một tài sản nào với giá trị dòng tương xứng với khoản vay hay không? Cán bộ tín dụng phải đăc biệt nhạy cảm với những đặc điểm như : Thời gian sử dụng, tình trạng hiện tại và mức độ chuyên môn hoá thể hiện ở tài sản của khách hàng. Thứ năm: Các điều kiện môi trường. Cán bộ tín dụng phải nhận biết được những xu hướng tiến triển gần đây của hãng cũng như của nghành mà hãng hoạt động, thấy được mức độ tác động của những thay đổi trong nền kinh tế với khoản cho vay. Thứ sáu: Khả năng cho vay của Ngân hàng. Sau khi xem xét các vấn đề trên và quyết định cho vay. Nếu lượng tín dụng vượt mức phán quyết của Ngân hàng thì có thể làm đầu mối cho một dự án đồng tài trợ. Như vậy, làm tốt quá trình thẩm định không những giảm được rủi ro tín dụng mà còn tạo được cơ hội cho Ngân hàng mở rộng quy mô tín dụng một cách an toàn. 3.2.5. Tăng cường giám sát, quản lý món vay Khi hợp đồng tín dụng đã được kí kết, Ngân hàng đã cấp tiền cho khách hàng thì không phải là Ngân hàng ngồi cho đến khi hết thời hạn để thu nợ mà Ngân hàng phải tăng cường giám sát , quản lý món vay: xem xét khách hàng sử dụng tiền vay có đúng mục đích, đúng tiến độ hay không? Quá trình sản xuất kinh doanh có những thay đổi bất lợi gì, có dấu hiệu lừa đảo hay làm ăn thua lỗ?... Quá trình này cho phép Ngân hàng thu thập thêm các thông tin về khách hàng. Nếu các thông tin phản ánh chiều hướng tốt, cho thấy chất lượng tín dụng đang được đảm bảo. Ngược lại, khi chất lượng khoản cho vay bị đe doạ thì Ngân hàng cần có các biện pháp xử lý kịp thời (một số biện pháp đã đề cập trong giải pháp lành mạnh hoá năng lực tài chính). 3.2.6. Tăng cường và nâng cao hiệu quả của công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ Ngoài công tác giám sát món vay do cán bộ tín dụng tiến hành, Ngân hàng cần phải tăng cường tổ chức kiểm tra, kiểm soát nội bộ. Công tác này phải do những cán bộ có trình độ chuyên môn nhất định, có đủ khả năng đánh giá, phân tích tình hình doanh nghiệp cũng như Ngân hàng và phải không liên quan đến hoạt động cho vay, thu nợ. Nhiệm vụ của công tác này là thường xuyên kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện chính sách, thủ tục cho vay, quy trình tín dụng, năng lực trình độ cán bộ tín dụng trong việc thực hiện nghiệp vụ cho vay. Qua đó tìm ra những sai sót, vướng mắc và có những biện pháp khắc phục nhằm tối ưu hoá hoạt động tín dụng của Ngân hàng. 3.2.7. Từng bước hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng tiếp tục đầu tư có hiệu quả, đúng hướng, nhằm duy trì, ổn định và nâng cấp các sản phẩm ứng dụng hiện có đáp ứng cao nhất các nhu cầu nghiệp vụ trước mắt. Tiếp nhận công nghệ dưới hình thức chuyển giao từ Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam. Tăng cường năng lực của đội ngũ cán bộ kỹ thuật đủ số lượng và chất lượng thông qua tuyển dụng và đào tạo. Củng cố, tiến tới kiện toàn bộ phận công nghệ thông tin của chi nhánh đủ sức phục vụ nhiệm vụ và giải quyết được chương trình đơn đảm bảo nhu cầu hoạt động thường xuyên của chi nhánh. Tóm lại: Trên đây là một số giải pháp cơ bản với mục đích nhằm nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Nam Định. Giải pháp này sẽ phát huy kết quả khi có sự nỗ lực của Ngân hàng, khách hàng và sự quan tâm chỉ dạo của cơ quan Nhà nước. 3.3. Một số kiến nghị 3.3.1. Đối với Ngân hàng đầu tư và phát triển Nam Định Để hoạt động tín dụng mang lại hiệu quả cao hơn nữa, Ngân hàng cần phải luôn đổi mới để đạt được những thành quả cao hơn. - Tổ chức đào tạo, đào tạo lại cán bộ, nâng cao trình độ nghiệp vụ, tay nghề để có đủ năng lực làm việc đáp ứng đòi hỏi trước tình hình mới, thực thi nhiệm vụ đúng thể lệ, quy tắc trong cơ chế thị trường phục vụ khách hàng tốt. - Để củng cố và nâng cao chất lượng tín dụng và các hoạt động Ngân hàng, trước hết phải làm tốt công tác thẩm định từ cơ sở, rõ trách nhiệm cá nhân, không ngừng củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của đội ngũ kiểm toán nội bộ, trong hệ thống thống nhất từ TW đến chi nhánh. Tăng cường vai trò và chức năng hoạt động độc lập tương đối của đội ngũ kiểm tra, kiểm toán nội bộ. - Tăng cường công nghệ thông tin và ứng dụng tin học, gắn với đào tạo, bổ sung cán bộ có trình độ chuyên sâu để khai thác có hiệu quả mạng lưới công nghệ được trang bị: Tính lãi tiết kiệm, quản lý vốn, lãi suất cho vay bình quân, lãi đầu vào, đầu ra, quản lý hồ sơ cán bộ, đáp ứng yêu cầu quản trị điều hành, thực hiện nghiệp vụ chuyên môn ở chi nhánh. - Để thực hiện lành mạnh tài chính từ các chi nhánh, việc xử lý nợ cho vay dài hạn từ các năm trước đê nghị được xử lý từng giai đoạn bằng nguồn vốn của Nhà nước( của NHNN, của Bộ tài chính ) các chi nhánh tự cân đối trang trải rủi ro tín dụng thương mại và đảm bảo kinh doanh có lãi. - Về nghiệp vụ cho vay cầm cố giấy tờ có giá: Thực chất giấy tờ có giá là giấy nhận nợ của các tổ chức được phép phất hành, an toàn của giấy tờ có giá là tuỳ thuộc vào năng lực tài chính, khả năng thanh toán và tín nhiệm của tổ chức phát hành. Người chủ sở hữu giấy tờ có giá được Ngân hàng cầm cố cho vay vốn, đơn giản thủ tục giấy tờ khi vay vốn: ( chỉ cần đơn xin vay kèm theo giấy tờ có giá cầm cố ). Hiện nay thủ tục còn rườm rà khách hàng kêu ca. - Quy trình đảm bảo tiền vay có nhiều vướng mắc, không đồng bộ với các quyết định khác về dân sự. Do vậy khi gặp rủi ro phải xử lý bằng đảm bảo tiền vay khó thực hiện, do tính phức tạp cuả nó và tính pháp lý không đầy đủ của tài sản đảm bảo tiền vay. - Tài sản thế chấp vốn vay. Trong đó đất đai là tài sản đi thuê, trả nợ tiền hàng năm bởi vậy giá trị đất để thế chấp rất thấp, tài sản trên đất lại giảm giá trị khi nó không gắn với đất. Từ đó, khi gặp rủi ro phải xử lý bất động sản càng khó khăn trong việc thu hồi nợ vay. 3.3.2. Đối với khách hàng đăc biệt là các doanh nghiệp Để tín dụng Ngân hàng tăng trưởng an toàn và hiệu quả phải luôn có điều kiện cần và điều kiện đủ. Điều kiện cần đó là những yếu tố liên quan đến các mặt hoạt động của Ngân hàng, còn điều kiện đủ là các hoạt động liên quan đến doanh nghiệp. Hoạt động của doanh nghiệp tăng trưởng tốt sẽ tạo điều kiện thuận lợi tạo nên năng lực cạnh tranh dài hạn, năng lực tài chính tăng sức mạnh của nền kinh tế, là nền tảng vững chắc cho hoạt động Ngân hàng. Vì thế, để hoạt động của doanh nghiệp tốt hơn có một số kiến nghị sau đây: - Luôn có ý thức tuân thủ nghiêm chỉnh quy định của pháp luật. - Phải luôn trung thực với các thông tin xin vay vốn, phải đảm bảo sự cần thiết với những dự án xin vay vốn. - Cơ cấu tổ chức, bộ máy quản lý phải đảm bảo phù hợp với điều kiện kinh tế hiện nay. - Các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, đội ngũ lãnh đạo không có năng lực, ỷ lại vào Nhà nước nên tiến hành sáp nhập và cổ phần hoá doanh nghiệp nhằm tìm ra ban lãnh đạo có năng lực, có trách nhiệm với doanh nghiệp. 3.3.3. Về phía NHNN NHNN cần thực hiện nhanh có hiệu quả chương trình cải tổ, cơ cấu lại nghành Ngân hàng Việt Nam tạo uy tín cho các NHTM Việt Nam. Thu hút các dự án chương trình quốc tế, hỗ trợ nghành Ngân hàng Việt Nam về đào tạo cán bộ quản lý và nâng cao trình độ nghiệp vụ quản lý, thẩm định dự án, đánh giá dự án, phân tích rủi ro cho cán bộ Ngân hàng; trang bị công nghệ Ngân hàng hiện đại. Sửa đổi cơ chế chính sách về cho vay, bảo lãnh theo hướng nâng cao trình độ tự chủ tự chịu trách nhiệm cho các NHTM tăng thu nhập cho các cán bộ tín dụng Ngân hàng. Hỗ trợ việc nâng cấp hệ thống thông tin quản lý cho các Ngân hàng TM quốc doanh. Có thể nói toàn bộ hệ thống thông tin quản lý hiện đại của các Ngân hàng TM chưa đáp ứng được yêu ccầu đòi hỏi về cvung cấp thông tin kế toán, tài chính của ban quản lý điều hành của NHTM và Ngân hàng Nhà nước. Tuy nhiên, việc nâng cấp hệ thống thông tin quản lý đòi hỏi chi phí rất lớn và vượt quá khả năng tài chính cho các Ngân hàng TM quốc doanh. Để đầu tư đồng bộ hệ thống công nghệ thông tin vào đào tạo cán bộ khai thác và xử lý theo yêu cầu quản lý. Tổ chức tốt việc cung cấp thông tin cho các NHTM, mà trước hết là đưa ra một số thông số tài chính của các chỉ tiêu chủ yếu phản ánh tình hình thực tế của Ngân hàng nói chung. Tăng cường công tác thanh tra đối với Ngân hàng nhằm kiểm tra chấp hành và thực hiện các quy định của các Ngân hàng để ngăn chặn kịp thời các sai phạm dẫn tới rủi ro cho Ngân hàng. 3.3.4. Đối với cơ quan Nhà nước Ban hành các hệ thống pháp luật có tính chất chặt chẽ cao để ổn định hoàn thiện môi trường pháp lý tạo một chỗ dựa vững chắc cho Ngân hàng và doanh nghiệp. Từng bước hoàn thiện các hoạt động trên thị trường chứng khoán, rỡ bỏ dần dần các rào cản về vốn, loại bỏ các hạn chế. Về khả năng tiếp cận tới các thị trường nước ngoài, để tạo điều kiện dễ dàng huy động vốn phát triển sản xuất và thông qua đó Ngân hàng sẽ đa dạng hoá được hình thức huy động vốn cũng như các loại hình đầu tư nhằm giảm rủi ro hoạt động Ngân hàng. Nên có một kênh thu thập thông tin về tất cả các doanh nghiệp; các thông tin có liên quan đến hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ Ngân hàng từ các tổ chức tín dụng, các cơ quan trong nước ngoài nước, các văn bản pháp quy của Nhà nước, của nghành; đồng thời cũng cần sắp xếp phân loại và xử lý thông tin để cung cấp cho các Ngân hàng nhanh nhất và chính xác nhất. Để huy động được nhiệm vụ nhàn rỗi từ dân cư và các tốt chức kinh tế, nhà nước phải tạo dựng một lòng tin của nhân dân bằng cách làm trong sạch bộ máy lãnh đạo, công khai hoá các hoạt động của Nhà nước, xây dựng chính sách phát triển kinh tế một cách ổn định và vững chắc. Cần kết hợp với các NHTM, cần đẩy mạnh các chương trình truyền thông kêu gọi sự đóng góp của dân cư, phát hành nhiều loại công trái xây dựng tổ quốc. Đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp chủ động tìm kiếm các đối tác liên quan và liên kết với các tổ chức kinh tế trong và ngoài nứơc nhằm huy đông thêm vốn đầu tư và các nguồn lực khác. Kết luận Trong những năm qua hệ thống NHVN đã đổi mới một cách căn bản về mô hình tổ chức, cơ chế điều hành và nghiệp vụ... Có thể nói hoạt động của hệ thống Ngân hàng đã có những đóng góp đáng kể trong sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế đất nước. Ngân hàng đầu tư và phát triển Nam Định với phương châm hoạt động: Hiệu quả kinh doanh của khách hàng là mục tiêu hoạt động của Ngân hàng; các dự án, phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là cơ hội kinh doanh của Ngân hàng; cùng lên thuyền với khách hàng, thuận lợi, khó khăn của doanh nghiệp cũng là thuận lợi khó khăn của Ngân hàng, đã phát huy sức manh của mình đóng góp một phần vào sự nghiệp đó. Cùng với phương châm hoạt động Ngân hàng đầu tư và phát triển Nam Định đã khẳng định hoạt động tín dụng ngày càng tối ưu hoá và vấn đề nâng cao chất lượng tín dụng là cần thiết và cấp bách, giải quyết được vấn đề này là mục tiêu giúp cho Ngân hàng nâng cao vị thế và đứng vững trong cạnh tranh. Với thực tế trên, em đã chọn đề tài “Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với Ngân hàng đầu tư và phát triển Nam Định” làm chuyên đề tốt nghiệp và mong muốn góp phần giúp Ngân hàng đầu tư và phát triển Nam Định nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của mình. Từ những tìm hiểu, nghiên cứu về thực trạng cũng như thuận lợi khó khăn trong hoạt động cho vay của Ngân hàng đầu tư và phát triển Nam Định em đã đề xuất một số ý kiến nhằm đóng góp vào việc nâng cao chất lượng tín dụng của Ngân hàng, góp phần vào sự phát triển chung của hệ thống Ngân hàng đầu tư và phát triển Nam Định, xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp hơn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Nam Định.pdf
Luận văn liên quan