Bên cạnh đó, các doanh nghiệp XNK cần đẩy mạnh hoạt động Marketing XNK
để hạn chế rủi ro dẫn đến mất khả năng thanh toán với ngân hàng. Những diễn biến trên
thị trường thế giới phức tạp khó có thể lường trước, hơn nữa cơ sở vật chất kỹ thuật của
các doanh nghiệp chưa đủ sức mạnh cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Do vậy, có được
một chiến lược marketing hiệu quả, hợp lý là cần thiết. Trên cơ sở nắm bắt thông tín,
doanh nghiệp sẽ có phương thức, chiến lược thâm nhập vào thị trường XNK, sẽ có
những quyết định về sản phẩm, giá cả đúng đắn góp phần mở rộng và đẩy mạnh hoạt
động kinh doanh XNK của mình.
64 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2349 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng tín dụng xuất nhập khẩu tại Ngân hàng Thương mại Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thanh toán, cho thuê tài
chính,... làm giảm tính hấp dẫn đối với khách hàng. Hơn nữa, tron gkhi cho vay lại quá
tập trung vào khâu lưu thông vì vậy rủi ro rất lớn.
- Chi nhánh vẫn chưa có cơ sở bảo quản hàng hoá, chưa nắm được các lô hàng
thế chấp một cách chắc chắn. Do vậy, khi khách hàng cố tình không hoàn trả nợ thì chi
nhánh đành chịu.
- Công tác đào tạo cán bộ còn chưa kịp với yêu cầu và nhiệm vụ mới, các cán bộ
xử lý nghiệp vụ còn lúng túng, thiếu kinh nghiệm như cho vay vượt quá quyền hạn giải
quyết, cho vay không thẩm định kỹ (không có tài sản thế chấp hoặc nếu có lại không tự
quản lý mà để khách hàng quản lý, thậm chí mở L/C không đưa hết các điều kiện hợp
đồng...), nắm bắt thông tin chưa nhanh nhạy theo kịp biến động của thị trường dẫn đến
tình trạng chi nhánh luôn phải đối phó với sự lừa dảo khi thực hiện hợp đồng tín dụng
tài trợ XNK. Đây là một trng những nguyên nhân dẫn đến những thiếu sót, những vụ
việc đổ vỡ gây ảnh hưởng đến uy tín của chi nhánh.
- Bên cạnh đó, phương thức quản lý các món vay XNK ở Ngân hàng chưa hợp
lý. Quyết định và quản lý các món vay ở NHNT Hà Nội là phân công đều cho các cán
bộ tín dụng. Điều này có lợi là mở rộng tầm hiểu biết cho các cán bộ tín dụng sang lĩnh
vực XNK. Nhưng như thế sẽ gây cản trở lớn cho các món vay được thực hiện có hiệu
quả vì để thực hiện một khoản vay tín dụng XNK đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có hiểu
biết sâu về thị trường, luật pháp quốc tế của các nước về hoạt động XNK. Ngoài ra, chi
nhánh vẫn chưa hạch toán độc lập kết quả tín dụng XNK với hoạt động tín dụng khác
mặc dù hoạt động tín dụng tài trợ XNK là nhiệm vụ chính của Ngân hàng. Điều này
cũng ảnh hưởng phần nào đến việc đánh giá kết quả kinh doanh và vạch ra phương
hướng của hoạt động tín dụng tài trợ XNK tại Ngân hàng trong thời gian tới.
- Hiện nay, Đảng và Nhà nước đang có xu hướng chuyể dịch các nghiệp vụ tài
trợ XNK sang các Ngân hàng nước ngoài, các Ngân hàng liên doanh, Ngân hàng cổ
phần thương mại. Do vậy, chi nhánh phải chịu sự cạnh tranh khốc liệt. Nhiều dự án có
hiệu quả trong lĩnh vực xuất khẩu cà phê, hải sản... đã rơi vào chi nhánh Ngân hàng
nước ngoài. Điều dó đã ảnh hưởng rất nhiều đến hoạt động tín dụng tài trợ XNK của
NHNT Hà Nội.
2/ Nguyên nhân
a- Nguyên nhân khách quan
Hệ thống NHNT ra đời tư cơ chế quản lý kinh tế quan liêu bao cấp, cơ chế thị
trường đang hình thành với nhiều thử thách và phức tạp. Hậu quả của khủng hoảng kinh
tế xã hội, sự đổ vỡ của các tổ chức tín dụng năm 1989 đã để lại trong xã hội một tư
tưởng nặng nề về tâm lý. Lưu thông hàng hoá tiền tệ chậm, một loạt doanh nghiệp phá
sản. Các chính sách Nhà nước thiếu đồng bộ, môi trường pháp lý không đảm bảo an
toàn kinh doanh. Từ sau đổi mới, bên cạnh các nhân tố tích cực, hàng loạt các yếu tố
tiêu cực xuất hiện cùng với sự bung ra của sản xuất xã hội, nhiều công ty, xí nghiệp hữu
danh vô thực ra đời tìm mọi thủ đoạn chiếm đoạt tài sản Ngân hàng.
Thứ nhất: Môi trường pháp lý.
Môi trường pháp lý chưa đầy đủ và thiếu đồng bộ nên đã gây ra những khó khăn
vướng mắc cho chi nhánh trong quá trình hoạt động kinh doanh. Các NHNT hiện nay
hoạt động dưới sự điều chỉnh của luật Ngân hàng và các tổ chức tín dụng, hệ thống luật
và dưới luật của chính phủ. Một số quy định trong luật còn xa rời với thực tiễn như:
- Thể lệ tín dụng của các Ngân hàng còn nhiều vướng mắc. Thứ nhất, không cho
phép doanh nghiệp có nợ quá hạn vay. Đối với các doanh nghiệp khi gặp khó khăn
trong sản xuất kinh doanh thì vốn là vấn đề giải quyết mọi ách tắc lại không được đáp
ứng. Ngân hàng cho vay để cứu doanh nghiệp nếu thành công thì có thành tích, còn nếu
rủi ro thì bị truy tội cố ý làm trái hoặc ít nhất cũng là thiếu tinh thần trách nhiệm. Thứ
hai, theo quy định, nếu NHNT nào thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh mở L/C mà phát sinh
nợ quá hạn thì sẽ không được thực hiện nghiệp vụ này cho đến khi giải quyết song số
nợ quá hạn đó. Chính vì vậy, trong năm 1991, NHNT Hà Nội có nợ quá hạn phát sinh
từ nghiệp vụ này nên đến nay Ngân hàng vẫn chưa được thực hiện các nghiệp vụ bảo
lãnh mở L/C trả chậm do chưa thu hồi được nợ.
- Quy chế chính sách của Nhà nước trong việc xử lý tài sản thế chấp còn nhiều
bất cập như Ngân hàng không thể tự đứng ra bán tài sản thế chấp để thu nợ mà phải
được sự đồng ý và có giấy uỷ quyền của tài sản. Trên thực tế, khi gặp con nợ chây ỳ
không hợp tác thì Ngân hàng chỉ còn cách khởi kiện tại toà án. Việc xử lý sẽ kéo dài
thậm chí đi đến chỗ bế tắc nếu con nợ liên quan đến vụ án hình sự hoặc bỏ trốn. Theo
quy định thì Ngân hàng chỉ được giải chấp tài sản nếu người vay trả hết nợ hoặc có tài
sản thế chấp bổ sung cho khoản nợ còn thiếu. Tuy nhiên, đại đa số khách hàng yêu cầu
Ngân hàng giải chấp để họ tự bán tài sản trả nự Ngân hàng, trong khi trị giá bán tài sản
trả nợ Ngân hàng, trong khi trị giá bán tài sản thế chấp thấp hơn nhiều so với nợ vay và
nguồn vay không có tài sản nào khác để thế chấp cho Ngân hàng, hoặc họ đã ngừng sản
xuất kinh doanh chuẩn bị phá sản.
+ Quy chế lập quỹ dự phòng rủi ro không phù hợp. Quỹ dự phòng rủi ro được
hình thành từ lợi nhuận ròng, tổ chức tín dụng trong khi lợi nhuận của Ngân hàng còn
thấp chưa kể một số Ngân hàng bị thua lỗ. Tỷ lệ này là 10% thì quá tháp không hể đủ
bù đắp rủi ro tín dụng và sự mất mát của các tài sản có của Ngân hàng. Mặt khác, theo
quy định, quỹ rủi ro chỉ được bù đắp cho các nguyên nhân khách quan, trong khicác kết
hợp khoản rủi ro do nguyên nhân khách quan thì phần lớn không thu hồi đủ vốn sau khi
truy cứu trách nhiệm bồi thường dẫn đến mất vốn của Ngân hàng mà thực chất là tiền
gửi khách hàng và khả năng thanh toán của Ngân hàng.
+ Hoạt động tín dụng tài trợ XNK liên quan đến nhiều ban ngành trong nước như
Bộ Thương mại, Tổng cục hải quan, Bộ công nghiệp Việt Nam... Vì vậy, nó chịu sự
điều chỉnh của nhiều luật mà các luật ở nước ta còn có sự đan chéo, gây nhiều khó khăn
cho các quyết định của trọng tài quốc tế trong nước và vụ kiện.
+ Chính sách ngoại thương của Nhà nước chưa thực sự nhất quán. Nhiều hình
thức cấp bách ban hành chưa lâu đã thay đổi, lúc thì khuyến khích nhập khẩu mặt hàng
này, lúc thì cấp hạn ngạch thuế cao để hạn chế nó. Điều này ảnh hưởng đến hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó dẫn đến những rủi ro cho hoạt động Ngân hàng như
ứ đọng vốn, không thu hồi được vốn về.
Thứ hai: Chính sách lãi suất và tỷ giá
Lãi suất cho vay vẫn là vấn đề bức xúc khiến hệ thống Ngân hàng ta phải tập
trung giải quyết. Mặc dù đã tổ chức được nhiều cuộc thảo luận xoay quanh vấn đề này
song cho đến nay lãi suất cho vay của hệ thóng Ngân hàng nước ta vẫn còn cao so với
chi phí lạm phát và lãi suất trên thị trường khu vực. Trong điều kiện tỷ giá ổn định
nhiều doanh nghiệp đã chấp nhận nợ quá hạn ngoại tệ để sử dụng ngoại tệ ngoài sự
kiểm soát của Ngân hàng. Ngoại tệ thông qua NHTM đã biến thành nội tệ. Doanh
nghiệp kiểm soát của Ngân hàng. Ngoại tệ NHTM đã biến thành nội tệ. Doanh nghiệp
lợi dụng điều này để kinh doanh trên lưng Ngân hàng với hình thức tinh vi như cho
doanh nghiệp khác vay thậm chí là cho chính Ngân hàng vay lại một nội tệ với lãi suất
cao để hưởng chênh lệch. Tất cả điều này đều tạo ra rủi ro tiền mặt cho nguồn vốn hoạt
động của Ngân hàng, kết quả là ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng.
Thứ ba: Môi trường kinh doanh
Hiện nay, điều kiện Việt Nam chưa cho phép mở rộng các hình thức tín dụng
XNK:
+ Thương phiếu là công cụ cổ điển được sử dụng lâu đời trong quan hệ thương
mại ở các nước phát triển, nhưng đến nay, ở Việt Nam vẫn chưa được sử dụng.
+ Thị trường hối đoái chưa phát triển, các nghiệp vụ mà các Ngân hàng, nhà xuất
khẩu có thể tham gia để phòng tránh rủi ro như forward, options, future chưa hình
thành.
+ Nhà nước chưa có chính sách, chiến lược đủ mạnh ủng hộ hoạt động XNK như
cung cấp thông tin, phát triển mạng lưới tin học, viễn thông tạo tiền đề cho hoạt động
XNK.
Bên cạnh đó, trong năm 2002, hoạt động kinh tế của cả nước nói chung và thủ đô Hà
Nội nói riêng tiếp tục chịu ảnh hưởng của những khó khăn của kinh tế thế giới. Thị
trường trong nước có sức mua giảm sút, hàng hoá chậm luân chuyển tạo ra nguy cơ
giảm phát trong nền kinh tế. Kinh tế đôi ngoại có một số khó khăn mới: thị trường
XNK giá cả giảm sút, đầu tư nước ngoài bị thu hẹp... đã tác động lớn đến hoạt động
Ngân hàng. Đặc biệt đối với NHNT Hà Nội, điều này còn khó khăn hơn nhiều vì hầu
hết các doanh nghiệp đều là kinh tế địa phương với quy mô sản xuất kinh doanh nhỏ,
khả năng hấp thụ vốn thấp...
Tỷ giá một đồng ngoại tệ thay đổi thất thường, đặc biệt tỷ giá đồng đô la tăng
nhanh ảnh hưởng đến nhập khẩu phục vụ sản xuất trong nước. Mặt khác một số mặt
hàng nông sản xuống giá liên tục cũng ảnh hưởng lớn đến xuất khẩu và kết quả kinh
doanh của các đơn vị xuất khẩu gặp khó khăn.
Thứ tư: Thiên tai lũ lụt
Thiên tai lũ lụt hạn hán cũng là nguyên nhân gây ra rủi ro bất khả kháng cho doanh
nghiệp, nó đem lại thiệt hại về kinh tế và e ngại về tâm lý cho các tổ chức kinh doanh
và cá nhân. Những thiệt hại này khiến cho các doanh nghiệp vốn đã làm ăn không hiệu
quả để trả gốc lẫn lãi cho khoản vay khi đến lại càng gặp khó khăn nghiêm trọng hơn.
Do vậy tỷ lệ nợ quá hạn của Ngân hàng tăng lên làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng
của Ngân hàng.
Thứ năm: Về phía doanh nghiệp XNK
+ Vốn tự có của doanh nghiệp xuất khẩu nhỏ: phần lớn các doanh nghiệp Việt
Nam là doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp tồn tại và hoạt động dựa vào nguồn
vón Ngân hàng là chính. Vì vậy, khi được Ngân hàng cho vay thì lợi nhuận sinh lời
không đủ trả lãi cho Ngân hàng. Ngoài ra còn vì nhiều doanh nghiệp có vốn tự có thấp
nhưng Ngân hàng bắt buộc phải cho vay để thực hiện các mục tiêu của chính phủ. Và
khi các doanh nghiệp này làm ăn không có hiệu qủa thì Ngân hàng phải tự ganh chịu rủi
ro.
+ Phương án kinh doanh của nhiều doanh nghiệp không hợp lý: Sự bất hợp lý thể
hiện qua việc nghiên cứu thị trường, dự đoán mức tiêu thụ không chính xác, đán giá lại
công suất, máy móc không khớp với nguyên liệu đầu vào dẫn đến không hoàn thành
lịch trả nợ cho Ngân hàng. Các doanh nghiệp nhập máy móc thiết bị bằng trả chậm còn
nhiều vốn xây dựng cơ bản do ngân sách Nhà nước cấp. Song do nguồn vốn này được
cấp không đúng hạn hoặc bị cắt giảm nên không đảm bảo đúng tiến độ thi công, ảnh
hưởng đến khả năng trả nợ đúng han của doanh nghiệp.
+ Do mới chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường, kiến thức của doanh
nghiệp về hoạt động tín dụng, về hợp đồng thương mại còn hạn chế gây bất lợi cho
Ngân hàng (doaNgân hàng nghiệp bị ép mua với giá cao, chất lượng không đảm bảo,
công nghệ lạc hậu thiếu đồng bộ, quy định phương án trả nợ không hợp lý dẫn đến
nguồn thu không được bù đắp và trả nợ Ngân hàng). Ngoài một số doanh nghiệp còn
không thực hiện đúng cam kết khi vay vốn như không mua bảo hiểm tài sản, sử dụng
vốn sai mục đích.
b- Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất : Năng lực cho vay của Ngân hàng
Do NHNT Hà Nội là chi nhánh trực thuộc NHNT Việt Nam nên phần lớn những
dự án cho vay tài trợ XNK của Ngân hàng đều phải thôngqua NHNT Việt Nam xem xét
và quyết định. Đồng thời theo quy định, NHNT Hà Nội chỉ được cho vay đối với các
doanh nghiệp trên địa bàn thủ đô. Nhưng phần lớn những doanh nghiệp này lại là doanh
nghiệp vừa và nhỏ nên cũng rất hạn chế quy mô cho vay của Ngân hàng.
Thứ hai: Trình độ bất cập của cán bộ Ngân hàng trong kinh tế thị trường
Nhận thức về bản chất tín dụng không đầy đủ dẫn đến đơn giản, sơ sài trong chấp hành
quy định. Cán bộ tín dụng thiếu trình độ hiểu biết về pháp luật, thể lệ tập bán thương
mại và thanh toán quốc tế, trình độ ngoại ngữ không đáp ứng được nhu cầu nghiệp vụ.
Một cán bộ quản lý tín dụng XNK nếu tính theo dư nợ thì bằng hàng chục cán bộ quản
lý cho vay hộ sản xuất (năm 2000, dư nợ cho vay XNK tại chi nhánh chiếm 71% tổng
dư nợ), điều đó thể hiện hiệu quả đầu tư XNK nhưng trái lại cũng thể hiện khả năng rủi
ro lớn nếu như cán bộ tín dụng đó không được trang bị đầy đủ kiến thức tổng hợp và
kinh nghiệm đạo đức kinh doanh. Ngân hàng chưa có đội ngũ chuyên gia giỏi về lĩnh
vực khoa học kỹ thuật, công nghệ mới nên lúng túng trong việc thẩm định các dự án
lớn, nhất là các dự án năng suất có vốn đầu tư và nhập khẩu thiết bị nước ngoài. Thực
trạng đội ngũ cán bộ tín dụng NHNT Hà Nội hiện nay là vấn đề đáng được lưu tâm, số
cán bộ có thâm niên trên 10 năm thì chưa được đào tạo lại để có đủ kiến thức kinh
doanh theo cơ chế thị trường, số cán bộ mới vào thì còn thiếu kinh nghiệm và tri thức
thực tế trong thị trường chằng chịt những mối quan hệ phức tạp.
Thứ ba: Chấp hành thể lệ tín dụng và quy trình nghiệp vụ
Những trường hợp rủi ro trong tín dụng có nguyên nhân quan trọng là việc chấp
hành không nghiêm chỉnh thể lệ tín dụng và quy trình nghiệp vụ của cán bộ Ngân hàng.
Thể hiện trong việc thẩm định và lập hồ sơ vay vốn. Có trường hợp cán bộ lập hồ sơ
giải khai tăng tài sản thế chấp để rút vốn Ngân hàng và vay ké, là kết quả của hai
nguyên nhân sâu xa sau đây:
+ Việc xác định giá trị tài sản thế chấp do cán bộ Ngân hàng t hực hiện mang
tính chủ quan.
+ Việc lập hồ sơ cho vay và hồ sơ tài sản thế chấp không được tách độc lập với
chức năng tín dụng.
Quản lý nợ vay còn thể hiện và hồ sơ tài sản thế chấp không được tách độc lập
với chức năng tín dụng.Quản ý nợ vay còn thể hiện thiếu trách nhiệm, gia h ạn nợ,
chuyển nợ quá hạn không đúng quy trình nghiệp vụ, đảo nợ nội tệ với ngoại tệ (vay
đồng tiền này để trả nợ đồng tiền khác), dẫn đến tình trạng nợ xấu chạy vòng quanh,
nguy cơ mất vốn Ngân hàng ngày càng lớn.
Thứ tư: Cơ sở vật chất và giờ làm việc
Chi nhánh NHNT Hà Nội xây dựng trụ sở năm 1992. Sang năm 2001, trụ sở đã
trở nên chật chội. Điều này trước tiên sẽ ảnh hưởng đến tâm lý khách hàng. Khách
hàngđến với Ngân hàng sẽ tin cậy hơn nếu Ngân hàng có cơ sở vật chất tốt. Song ở đây
phòng tín dụng không đủ diện tích để kê bàn tiếp khách. Hơn nữa, cơ sở vật chất như
vậy sẽ ảnh hưởng đến điều kiện làm việc của Ngân hàng.
Bên cạnh đó, giờ làm việc của chi nhánh sẽ không cạnh tranh được với Ngân
hàng nước ngoài. Vì vậy Ngân hàng đóng cửa vào lúc 16 giờ trong khi giờ đóng cửa
của hàng nước ngoài là 18 giờ.
Trong thời gian tới, nếu chi nhánh NHNT Hà Nội khắc phục được những tồn tại
sau đây thì chi nhánh sẽ luôn là người bạn tin cậy của khách hàng trong lĩnh vực tài trợ
XNK nói riêng và lĩnh vực kinh doanh nói chung
Chương III: Giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng tín dụng xuất nhập khẩu tại
NHNT Hà Nội
3.1 Phương hướng hoạt động công tác nhiệm vụ công tác năm 2003 của
NHNT Hà Nội
1/ Phương hướng chung
Để có được kết quả kinh doanh tốt hơn trong năm 2003, chi nhánh sẽ tiếp tục đổi
mới và phát triển theo các định hướng sau:
a- Tiếp tục bám sát định hướng phát triển của NHNT Việt Nam cũng như định
hướng phát triển kinh tế xã hội của thành phố. Tiếp tục đẩy mạnh huy động vốn thông
qua nhiều hình thức:Đa dạng hoá sản phẩm với chất lượng cao,mở rộng phát triển màng
lưới,duy trì việc đánh giá phân loại khách hàng tiền gửi để có những biện pháp thu hút
khách hàng,khuyếch trương và quảng bá các sản phẩm mới.Phấn đấu tốc độ tăng trưởng
nguồn vốn huy động tăng 15% so với năm 2002, đặc biệt là nguồn vốn ngoại tệ.
b- Đẩy mạnh công tác sử dụng vốn của chi nhánh. Mở rộng tín dụng để đổi mới
nâng cao chất lượng đầu tư tín dụng nhiều biện pháp và luôn đảm bảo phương châm “an
toàn, hiệu quả”. Tập chung xử lý nợ quá hạn, hạn chế tối đa rủi ro trong kinh doanh,
giải quyết tốt mua bán ngoại tệ, đáp ứng cơ bản nhu cầu của khách hàng theo đúng
hướng hoạt động và sản xuất kinh doanh trong nước. Phấn đấu mức dư nợ tới năm 2002
tăng 26% so với năm 2000. Tiếp tục bám sát các đơn vị có nợ quá hạn và các cấp chủ
quan của đơn vị để cùng xử lý thu hồi nợ. Mục tiêu của năm 2001 là mức dư nợ quá hạn
xuống dưới 2,5%.
c- ổn định tổ chức và vận hành theo mô hình mới - Ngân hàng bán lẻ. Tiếp tục
quan tâm đào tạo và đào tạo lại cán bộ kết hợp với việc nghiên cứu khoa học. Bổ sung
thêm cán bộ mới tuyển dụng vào các phòng nghiệp vụ và thực hiện tốt các giao dịch
trong chương trình mới.
Tạo điều kiện cho cán bộ học thêm kiến thức chuyên môn, ngoại ngữ và trình độ
để thực hiện tốt nhiệm vụ kinh doanh.
d- Triển khai đầu tư xây dựng mới: Xúc tiến việc cải tạo sửa chữa nhà 344 Bà
triệu,để chuyển hoạt động của chi nhánh về đây và triển khai dự án xây dựng mới lại trụ
sở chính 78 Nguyễn Du,đáp ứng nhu cầu phục vụ hoạt động kinh doanh của ngân hàng
trong thiên niên kỷ mới.
2/ Phương hướng trong hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu
Một Ngân hàng muốn thành công trong hoạt động kinh doanh thì mọi hoạt động
của Ngân hàng phải nỗ lực, chung sức góp phần tạo uy tín cho Ngân hàng. Khi đó Ngân
hàng sẽ có nhiều khách hàng quen. Các khách hàng này sử dụng dịch vụ của Ngân hàng
từ đó sẽ mang lại lợi ích cho từng lĩnh vực mà Ngân hàng kinh doanh.
Tại NHNT Hà Nội cũng vậy, một định hướng chung như thế sẽ tạo điều kiện
thuận lợi cho hoạt động tín dụng tài trợ XNK. Để hoàn thiện hoạt động này chi nhánh
đề ra định hướng: Đẩy mạnh đầu tư cho nhóm khách hàng chiến lược, mở rộng tìm
kiếm các dự án có hiệu quả, phục vụ kinh doanh XNK và kinh tế đối ngoại của thủ đô
để đầu tư. Tiến tới đa dạng hoá các loại hình tính dụng tài trợ XNK nhằm khai thác tối
ưu nguồn vốn hiện có.
3.2. Giải pháp hoàn thiện hoạt động tín dụng tài trợ XNK tại NHNT Hà Nội
Qua việc nghiên cứu thực trạng hoạt động tín dụng XNK của chi nhánh NHNT
Hà Nội trong vài năm gần đây, chúng ta thấy rằng bên cạnh những hoạt động đạt được
hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động tín dụng tài trợ XNK nói riêng vẫn tồn tại
những vướng mắc cần giải quyết. Căn cứ vào mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế của
Đảng và Nhà nước, dựa vào phương hướng nhiệm vụ hoạt động trong những năm tới
của chi nhánh và từ thực tiễn hoạt động của NHNT Hà Nội, em xin mạnh dạn nêu ra
một số giải pháp và đề xuất sau.
3.2.1. Nhóm giải pháp về quản trị điều hành
1/ Đẩy mạnh hoạt động huy động vốn
Định hướng tín dụng XNK của chi nhánh phải phù hợp với chính sách phát triển
kinh tế xã hội của Nhà nước và nằm trong chiến lược kinh doanh của Ngân hàng.
Điều kiện kiên quyết đảm bảo tăng trưởng tín dụng là tăng trưởng nguồn vốn. Có
huy động vốn được nhiều thì Ngân hàng mới có thể cho vay hoặc đa dạng hoá hoạt
động kinh doanh phục vụ khách hàng và ngược lại, việc sử dụng vốn khuyến khích
Ngân hàng đẩy mạnh đa dạng các hình thức huy động. Chính vì vậy, chi nhánh phải tiếp
tục mở rộng khai thác các nguồn vốn theo các hướng:
- Xây dựng đề án phát hành kỳ phiếu ra nước ngoài trên thị trường vốn quốc tế:
NHNTHà Nội đã có uy tín trong hệ thống Ngân hàng quốc tế và thị trường trong và
ngoài nước. Đây là cơ sở quan trọng nhất để huy động vốn bằng kỳ phiếu và kinh doanh
trên thị trường chứng khoán quốc tế. Vấn đề quyết định thành công trong nghiệp vụ này
là đội ngũ nhân viên có đủ trình độ kinh nghiệm nghề nghiệp. Trước hết nên phát hành
kỳ phiếu trung gian với các Ngân hàng đại lý có uy tín. Mặc dù thực hiện mua mỗi giới
hiệu quả chưa cao nhưng nghiệp vụ đảm bảo an toàn và làm tiền đề cho chiến lược kinh
doanh lâu dài. Sau khi thâm nhập vào thị trường tiền tệ, lựa chọn và thử nghiệm, Ngân
hàng sẽ từng bước thành lập văn phòng đại diện và chi nhánh tại các thị trường này để
nhanh chóng hoàn hập với cộng đồng Ngân hàng quốc tế.
- Tiếp tục khuyến khích dân cư gửi tiền vào chi nhánh bằng các chính sách tăng
lãi xuất tiền gửi cả VNĐ lẫn ngoại tệ, cả ngắn hạn lẫn trung và dài hạn. Đối với khách
hàng truyền thống, Ngân hàng nên có các phần thưởng xứng đáng, có chính sách ưu đãi
riêng.
- Chi nhánh cần sử dụng thế mạnh uy tín của mình để tranh thủ nguồn vốn đầu tư
của Ngân sách Nhà nước dành cho các ngành kinh tế mũi nhọn, các hoạt động kinh
doanh XNK.. và thông qua mối quan hệ đối ngoại của hệ thống NHNT, chi nhánh nên
đẩy mạnh vốn vay dài hạn ở các tổ chức quốc tế.
2/ Định hướng chiến lược tài trợ
Chuyển hướng tài trợ từ cho vay thương vụ có tính chất riêng lẻ thụ đọng sang
cho vay theo dự án khép kín chu trình lưu thông hàng hoá từ sản xuất đến tiêu thụ. Việc
lựa chọn và thẩm định dự án đầu tư trở thành nhân tố có ý nghĩa quan trọng nhất đối với
sự thành công của Ngân hàng. Một dự án mặc dù đá được các cơ quan chuyên môn có
thẩm quyền thẩm định và phê duyệt, nhưng trước khi quyết định cho vay, Ngân hàng
cần phải thẩm định xem xét lại:
- Tính pháp lý của bộ hồ sơ bao gồm hồ sơ dự án và hồ sơ xây dựng theo điều
kiện xây dựng của Nhà nước, hồ sơ mua sắm thiết bị theo quy chế đấu thầu và quy định
của bộ thương mại (nếu có thiết bị nhập khẩu), hồ sơ tín dụng theo quy định của Ngân
hàng.
- Phương án vay và trả nợ của dự án tính toán các nguồn vốn và nguồn tài trợ, dự
kiến biến động của các thông số ảnh hưởng đến nguồn trả nợ.
- Thẩm định nhóm chi tiêu hiệu quả: thời gian hoàn vốn, hiệu quả ròng (NPV),
thể lệ hoàn vốn nội bộ, tỷ suất lợi nhuận...
Đối với dự án có giá trị lớn vượt giới hạn tỷ lệ vốn có của doanh nghiệp và Ngân
hàng, nên sử dụng hình thức cho vay đồng tài trợ thay bằng việc cho vay doanh nghiệp
có dư nợ tại Ngân hàng hiện nay.
3.2.2 Giải pháp về nghiệp vụ tín dụng tài trợ XNK
a-Đổi mứoi nhận thức tín dụng trong cơ chế thị trường
Thực tiễn tín dụng ngân hàng sau 10 đổi mới là bằng chứng chuyển sang hoạt
động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Tuy
nhiên như nhiều nhà kinh doanh đánh giá, vẫn còn nhiều biểu hiện tư tưởng bao cấp,
nhận thức không đúng về tín dụng trong nền kinh tế thị trường.
Theo nguyên tắc của thị trường "ngân hàng phải bán những gì thị trường cần chứ
không bán những thứ mà ngân hàng có", bởi vậy trước hết là các điều kiện sử dụng vốn
quyết định quy mô, tính chất và thời hạn nguồn vốn. Hay nói cách khác, xây dựng thị
trường đầu ra ổn định lâu dài là quyết định thắng lợi chiến lược kinh doanh của ngân
hàng. Trong thời gian qua, nhiều thời kỳ ngân hàng đọng vốn hàng tỷ đồng, vốn huy
động luân chuyển chậm, vừa gây lãng phí cho nền kinh tế vừa làm mất vốn Việt Nam vì
vốn vay phải trả lãi và phí đầu vào. Do đó giải pháp cơ bản trong nghiệp vụ tín dụng là:
- Đổi mới cách tiếp cận khả năng vay vốn của doanh nghiệp. Chỉ có những pháp
nhân, thể nhân có quyền tự chủ về kinh tế, tự chủ về tài chính mới có đủ năng lực pháp
lý để vay vốn ngân hàng. Những dự án cho vay chỉ định, được chính phủ cho phép ưu
đãi về các điều kiện vay như miễn thế chấp tài sản, miễn ký quỹ không căn cứ vào tỷ lệ
vốn tự có của ngân hàng và doanh nghiệp cũng phải yêu cầu làm rõ trách nhiệm của cơ
quan:
+ Cơ quan thẩm định dự án
+ Cơ quan phê duyệt cấp các loại hồ sơ giấy phép
+ Cơ quan bảo hành
+ Hội đồng xét và phê duyệt đấu thầu xây dựng và mua sắm thiết bị
Kiên quyết không cho vay các dự án không có hiệu quả và khả năng trả nợ kể cả
những khoản có sự chỉ đạo, định hướng của các cơ quan chính quyền, địa phương, bộ
ngành.
b- Nâng cao chất lượng thẩm định dự án XNK
Cũng như đối với các loại tín dụng khác, quy trình tín dụng XNK được chia
thành 3 giai đoạn theo thời gian và tính chất khoản vay.
* Giai đoạn thẩm định trước khi cho vay
Đây là giai đoạn khởi đầu và quan trọng nhất thể hiện khả năng tiếp cận dự án và
khách hàng của ngân hàng. Đối với những doanh nghiệp truyền thống có quan hệ uy tín
được cán bộ tín dụng thường xuyên theo dõi thì chỉ cần tập trung thẩm định phương án
kinh doanh của khách hàng. Dù là phương án cho vay vốn lưu động hay cố định thì
những nội dung cơ bản cần xem xét là:
+ Khẳng định thị trường tiêu thụ hàng hoá dịch vụ trong phương án kinh doanh
với các yếu tố khu vực thị trường tiêu thụ, giá cả, chất lượng cạnh tranh, quan hệ của
doanh nghiệp trên thị trường, các đối tác bán hàng và mua hàng, thu thập thông tin của
các ngân hàng và các doanh nghiệp khác, sử dụng hệ thống thông tin phòng ngừa rủi ro
bằng phương pháp thống kê, so sánh, tổng hợp và đánh giá sản phẩm trong mối quan hệ
với chính sách Nhà nước có so sánh trên thị trường quốc tế.
+ Thẩm định lại toàn bộ số liệu, dữ liệu và các chỉ tiêu của dự án kinh doanh
theo hệ thống các phương pháp và công thức có sẵn hoặc nạp dữ liệu cho máy tính theo
chương trình được cài đặt sãn.
* Giai đoạn phê duyệt và giải ngân
Mặc dù hồ sơ vay được cácn bộ tín dụng thẩm định đầy đủ, nhưng khâu xem xét
phê duyệt là không thể thiếu. Vì thực tế, không thể có một cán bộ tín dụng lý tưởng lại
sự hiểu biết toàn diện được cả nghiệp vụ ngân hàng và kiến thức tổng hợp về thị trường,
khoa học kỹ thuật, luật pháp,... nên khả năng đánh giá của họ không thể đầy đủ và hoàn
toàn đúng.
Kế toán là người kiểm soát cuối cùng trước khi giải ngân kiêm tra và lưu trữ tài
sản thế chấp, cầm cố, hợp đồng tín dụng và khê ước vay tiền, trước khi phát tiền vay
hoặc chuyển tiền thanh toán và lưu hồ sơ giải ngân như các loại chứng từ có giá.
* Giai đoạn kiểm tra sau
Đây là giai đoạn kiểm nghiệm tính chính xác, khách quan của phương án kinh
doanh đã được ngân hàng thẩm định:
+ Kiểm tra mục đích sử dụng vốn vay: về nguyên tắc, vốn vay chỉ được sử dụng
đúng mục đích trong phương án kinh doanh. Việc phát triển tiền vay bằng tiền mặt,
ngân phiếu, sec, sẽ gây khó khăn cho khả năng kiểm soát của ngân hàng. Giải pháp tốt
nhất là giải pháp vốn vay qua tài khoản cho khách hàng vay là bắt buộc đối với doanh
nghiệp và khuyến khích cá nhân hộ sản xuất.
+ Thu hồi và xử lý nợ
Đối với nợ quá hạn, số tiền thu nợ từ khách hàng bao gồm trị giá của phần vốn
gốc và phần lãi. Nếu hạch toán thu gốc toàn bộ tiền thu thì ngân hàng sẽ giảm được dư
nợ quá hạn nhưng không có thu nhập, còn nếu hạch toán thu lãi trước thì sẽ mất vốn.
Bởi vậy, theo nguyên tắc bảo toàn vốn thì ngân hàng cần thu gốc trước, đơn vị ngân
hàng nào còn có nợ quá hạn thì không có thu nhập. Hiện nay, một số ngân hàng hạch
toán thu nợ quá hạn cả gốc và lãi theo tỷ lệ 50/50 là không hợp lý.
c- Quản lý tài sản thế chấp cầm cố
- Xây dựng hệ thống kho tàng đủ tiêu chuẩn quản lý vật tự, hàng hoá... dùng làm
tài sản thế chấp. Hoạt động kinh doanh kho bãi được thực hiện theo các chế độ khoán
tài chính của công ty thu mua. Về nguyên tắc, tài sản thế chấp cầm cố cho khoản vay
phải là những tài sản được hình thành trước và độc lập với vốn vay. Nhưng nếu ngân
hàng có kho bãi đầy đủ điều kiện an toàn, có thể chấp nhận tài sản hình thành từ vốn
vay để làm hàng hoá vật tư đảm bảo việc giải chấp trên cơ sở thanh toán của người vay.
- Bảo hiểm tài sản, hàng hoá để phòng ngừa rủi ro bất khả kháng như thiên tai, lũ
lụt, hoả hoạn,... tài sản do ngân hàng quản lý cần được bảo hiểm. Ngân hàng có thể thực
hiện bằng hợp đồng thoả thuận với các tổ chức bảo hiểm trong nước và ngoài nước
buộc người vay phải mua bảo hiểm cho hàng hoá thế chấp cầm cố với ngân hàng.
- Thành lập các công ty mua bán, khai thác tài sản thế chấp tồn đọng của các tổ
chức tín dụng. Căn cứ vào thực trạng giá trị của tài sản tồn đọng và khả năng của công
ty, tổ chức tín dụng chuyển giao tài sản tồn đọng cho công ty dưới hình thức uỷ thác
hoặc trên cơ sở hợp đồng chuyển nhượng theo thoả thuận, giúp tổ chức tín dụng thu hồi
vốn và khai thác sử dụng tài sản tồn đọng có hiệu quả. Việc xử lý cần tập trung tháo gỡ
những vướng mắc về cơ chế thủ tục pháp lý: có cơ chế cho phép ngân hàng được để lại
tài sản thế chấp cho doanh nghiệp tiếp tục khai thác theo phương án sản xuất kinh
doanh mới, giúp doanh nghiệp có nguồn trả nợ; ngân hàng được quyền trực tiếp ký hợp
đồng uỷ quyền bán tài sản với trung tâm bán đấu giá, không qua các trung gian những
tài sản thuộc diện xử lý của toà án.
d- Quản lý rủi ro trong tín dụng tài trợ XNK
Ngoài những nhân tố rủi ro khách quan và chủ quan trong tín dụng thông
thường, tín dụng tài trợ XNK còn chịu ảnh hưởng lớn của hai nhân tố lãi suất và tỷ giá
của các đồng tiền giao dịch. Sự biến động thường xuyên của hai nhân tố, nếu tạo thêm
thuận lợi cho ngân hàng trong nghiệp vụ tín dụng thì sẽ gây thiệt hại cho khách hàng và
ngược lại.
Để quản lý rủi ro đối với lãi suất và tỷ giá, các ngân hàng nước ngoài áp dụng
các giải pháp nghiệp vụ kinh doanh hối đoái trên thị trường tiền tệ với các công cụ chủ
yếu sau:
+ Hợp đồng mua bán kỳ hạn
+ Nghiệp vụ SWAP về lãi suất
+ Hợp đồng quyền chọn về lãi suất và tỷ giá
Với các điều kiện về con người và cơ sở vật chất, thông tin và các quan hệ uy tín
trên thị trường quốc tế hiện nay. NHNT Hà Nội có thể áp dụng các hình thức kinh
doanh này nhằm tăng thu nhập về dịch vụ, đồng thời quản lý được các rủi ro về biến
động của thị trường tiền tệ. Để triển khai được các nghiệp vụ này, ngân hàng cần có đủ
các điều kiện chủ quan sau:
1. Đề án kinh doanh hiệu quả và các giải pháp bảo đảm an toàn phòng ngừa các
rủi ro.
2. Có quy trình phù hợp với các quy chế của ngân hàng Nhà nước và thực tiễn
kinh doanh của ngân hàng. Quan trọng nhất là đảm bảo quản lý chặt chẽ phán quyết,
trạng thái hối đoái, hệ thống kiểm tra, kiểm soát và thông tin tiếp thị.
3. Có đủ điều kiện về con người và trang bị kỹ thuật và công nghệ ngân hàng
e- Đa dạng hoá các hình thức tín dụng tài trợ XNK
Hiện nay, NHNT Hà Nội chưa thực hiện tài trợ XNK dưới các hình thức như
phát hành thư bảo lãnh với người nước ngoài, bao thanh toán, thuê mua tài chính....
Trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam và giới hạn nguồn vốn kinh doanh của mình,
NHNT Hà Nội không thể áp dụng ngay được các hình thức này. Song, trong những năm
tới, ngân hàng nên cố gắng áp dụng tốt hình thức tín dụng bảo lãnh và tín dụng trả góp.
Về tín dụng trả góp: Đối với các doanh nghiệp nhập máy móc thiết bị từ nước
ngoài, thời gian sử dụng khá lâu nên nhu cầu vay vốn trung và dài hạn lớn. Để giúp cho
các doanh nghiệp này chi nhánh cấp tín dụng cho họ theo đó các doanh nghiệp này
được phép trả dần theo số tiền vay theo định kỳ. Sở hữu không nhất thiết phải cùng vốn
trung và dài hạn để cho các doanh nghiệp này vay mà có thể dùng vốn ngắn hạn (nguồn
vốn mà chi nhánh có ưu thế nhất) để cho vay vì các doanh nghiệp sẽ trả định kỳ theo
thoả thuận với chi nhánh.
Về nghiệp vụ bảo lãnh: Ngân hàng Nhà nước đã ban hành quyết định số 196
QĐ-NH14 ngày 16/9/1994 về việc "Quy chế và nghiệp vụ bảo lãnh cho các ngân hàng".
Quyết định số 196 QĐ-NH14 hướng dẫn thực hiện các loại bảo lãnh dự thầu, bảo đảm
thực hiện hợp đồng, bảo đảm hoàn trả tiền ứng trước, bảo đảm thanh toán, bảo đảm chất
lượng sản phẩm theo hợp đồng, đảm bảo hoàn trả vốn vay. Trong những năm vừa qua
thực hiện các loại hình bảo lãnh theo quyết định 196, các ngân hàng thương mại đã bảo
lãnh cho rất nhiều doanh nghiệp tham gia đấu thầu thực hiện hợp đồng.... giúp cho việc
triển khai thực hiện dự án, thu hút vốn và công nghệ cho sự phát triển nền kinh tế đất
nước. Bên cạnh những mặt được đó, qua hơn 8 năm thực hiện quy chế bảo lãnh theo
quyết định 196 NH - QĐ14 đã bộc lộ một số tồn tại bất hợp lý. Với những kinh nghiệm
của các ngân hàng khác trong việc thực hiện nghiệp vụ này và bài học của bản thân
mình, NHNT Hà Nội cần phải có nhận thức đúng về hình thức tín dụng bảo lãnh.
Đây là hình thức tín dụng có tầm quan trọng trong việc giải quyết vấn đề vốn và
đẩy mạnh tốc độ lưu thông hàng hoá, nhưng mặt trái của nó là gây ra hậu quả nghiêm
trọng nêu không hiểu đúng bản chất và tính phức tạp của loại hình tín dụng này. Khi
nghiên cứu về tư bản ngân hàng, C.Mác đã coi tín dụng bảo lãnh là loại đặc biệt - loại
tín dụng chữ ký, mặc dù ngân hàng không xuất tiền vay nhưng lại chịu rủi ro như đối
với số tiền vay cùng loại. Thật đáng tiếc là hiện nay vẫn nhiều ngân hàng quan niệm
không đúng về bảo lãnh, coi đó chỉ là dịch vụ ngân hàng. Mức chi phí dịch vụ bảo lãnh
hiện nay trung bình khoảng 1,2%/năm tưởng rằng đã cao vì ngân hàng không phải bỏ
vốn, nhưng xét về mặt giá trị thì mức phí này thấp hơn so với lãi suất tín dụng, trong
khi về mức rủi ro cho vay và bảo lãnh là như nhau. Chưa kể ngân hàng phải bỏ ra một
tỷ lệ vốn nhất định từ nguồn vốn kinh doanh để trích lập quỹ bảo lãnh nhằm phòng
ngừa rủi ro.Một số ngân hàng thực hiện bảo lãnh cho doanh nghiệp nhập khẩu hàng từ
nước ngoài, sau đó lại tiếp tục bảo lãnh cho doanh nghiệp mua hàng trong nước, trong
khi việc kiểm soát hàng hoá không thể chặt chẽ vì quá nhiều con nợ từ bán buôn đến
bán lẻ chịu. Có khi thư bảo lãnh phát hành đi rồi nhưng bị lãng quên khi đến hạn thanh
toán mới hay tài sản mà ngân hàng chịu trách nhiệm trả thay không biết đang nằm ở
những đâu.Bên cạnh đó, các ngân hàng thương mại không biết hạch toán trả thay doanh
nghiệp, hạch toán ký quỹ bảo lãnh và quỹ rủi ro bảo lãnh vào tài khoản nào.
Do đó, khi NHNT Hà Nội áp dụng hình thức bảo lãnh XNK thì cần lưu ý các
điều trên và thực hiện quy trình nghiêm ngặt như một khoản cho cho vay cùng loại:
+ Thẩm định và lập đủ hồ sơ tín dụng
+ Phân kỳ kế hoạch thu nợ
+ Kiểm tra quản lý vốn như quy trình tín dụng
+ Tổ chức hạch toán nội bảng và ngoại bảng đầy đủ.
3.2.3. Chiến lược con người và công nghệ ngân hàng
a- Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng
Công nghệ ngân hàng là một yếu tố quan trọng tạo nên sức cạnh tranh của một
ngân hàng thương mại, thể hiện:
- Tiết kiệm chi phí, đẩy mạnh tốc độ thanh toán và lưu chuyển tiền tệ, tập trung
và sử dụng có hiệu quả vốn kinh doanh.
Thực hiện kế toán giao dịch tức thời tại quầy, kiểm tra kiểm soát từ xa các
nghiệp vụ thị trường liên ngân hàng, quản lý thông tin báo coá thống kê và thông tin
phòng ngừa rủi ro, quản lý lưu trữ hồ sơ tín dụng, kế toán ngân hàng. Đảm bảo an toàn
hiệu quả nghiệp vụ thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại tệ.
Công nghệ tin học của thế giới ngày nay đang mở ra những cơ hội thuận lợi cho
ngân hàng ngoại thương Hà Nội trong chiến lược hiện đại hoá ngân hàng. Trong năm
tới, ngân hàng cần tập trung thực hiện từng bước chiến lược đó như sau:
Thứ nhất: Triển khai mạnh thanh toán trực tiếp với hệ thống SWIFT, đảm bảo
luân chuyển vốn, chứng từ nhanh chóng, chính xác và quản lý vốn ngoại tệ tập trung,
củng cố hệ thống thanh toán liên hoàn nội bộ qua mạng vi tính, đảm bảo thông tin cập
nhật. Thực hiện thí điểm nối mạng với một số doanh nghiệp lớn và dần dần nhân rộng
cho mạng lưới khách hàng có điều kiện.
Thứ hai: Từng bước hiện đại hoá các phương tiện thanh toán không dùng tiền.
Sử dụng thẻ thanh toán của ngân hàng và doanh nghiệp, thẻ rút tiền tự động, đảm bảo
cho khách hàng gửi tiền một nơi mà có thể rút tiền bất cứ chi nhánh nào trong cả nước.
Thứ ba: Nâng cấp cơ sở hoạt động và các phương tiện làm việc của ngân hàng
b- Đào tạo, tuyển chọn cán bộ tín dụng
Con người luôn là nhân tố quyết định thành công mọi hoạt động sản xuất xã hội.
Chúng ta chuyển đỏi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường
theo định hướng XHCN và bắt đầu sự nghiệp công nghiệp hoá đòi hỏi: "xây dựng đội
ngũ cán bộ ngân hàng có phẩm chất tốt, kến thức và năng lực về nghiệp vụ ngân hàng,
áp dụng được công nghệ hiện đại và có trình độ ngoại ngữ là yếu tố quyết định chất
lượng và hiệu quả hoạt động ngân hàng". Để đạt được yêu cầu đó, NHNT Hà Nội cần
tập trung vào chiến lược con người với nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất: công tác đào tạo và đào tạo lại
Một trong những nguyên nhân chất lượng tín dụng toàn ngành thấp là do chuyên
môn nghiệp vụ chưa cao, nhận thức không đầy đủ về quy luật thị trường và sản xuất
hàng hoá. Do đó, đây là những mục tiêu để chi nhánh xây dựng các giải pháp trong bộ
trong hoạch định chiến lược đào tạo và đào tạo lại cán bộ nhân viên.
Trước hết là công tác quy hoạch cán bộ các cấp, cần phải trang bị lại kiến thức
cơ bản theo hai hình thức đào tạo tập trung và đào tạo định hướng, giúp cán bộ, công
nhân viên ngân hàng tự học để có đủ trình độ phù hợp với cương vị đã đảm nhận. Cần
phá bỏ triệt để tư tưởng cho đi học các đối tượng không nằm trong quy hoạch như sắp
xếp nghỉ hưu, sức khoẻ hoặc năng lực không đủ điều kiện làm việc, cán bộ kỷ luật,...
Các đối tượng đào tạo theo hướng tập trung, chuyên ngành. Trước hết ưu tiên
cho cán bộ tín dụng, kế toán và triển khai chương trình phổ cập tin học. Đào tạo hoặc
tuyển dụng tổ chuyên gia tin học có khả năng xây dựng các đề án tin học và lập trình
các nghiệp vụ phát sinh của ngân hàng.
Khuyến khích học ngoại ngữ đối với cán bộ chuyên môn, học chuyên môn đối
với cán bộ chuyên ngữ và cán bộ nghiên cứu khoa học ngoài giờ bằng các hình thức
khen thưởng vật chất hoặc nâng mức lương.
Thứ hai: Công tác tuyển chọn và sử dụng cán bộ
Tuyển chọn và sử dụng cán bộ là những nội dung quan trọng trong tiêu chuẩn
hoá và trẻ hoá cán bộ. Khác với những năm đầu thập kỷ 90, càng khác xa với thời kỳ
kinh tế bao cấp, hầu hết số người được đào tạo trong trường chưa thể có đủ ngay kiến
thức tổng hợp, thậm chí chưa đáp ứng được công việc trong điều kiện hiện đại, chưa nói
đến sự phát triển tron tương lai. Việc tuyển chọn cán bộ trẻ thay thế lớp người sắp nghỉ
hưu có ý nghĩa quyết định trong tương lai phát triển của ngân hàng. Kinh nghiệm từ các
doanh nghiệp nước ngoài cho thấy, hình thức tài trợ cho sinh viên và các cơ sở đào tạo:
trường đại học, viện nghiên cứu, trung tâm đào tạo,... đã mang lại kết quả tốt cho Ngân
hàng về đội ngũ nhân tài trẻ có năng lực và yêu cầu.
Ngân hàng cần thực hiện tốt chế độ thi tuyến để có lớp người mới thực sự về
chất. Những năm qua, việc thi tuyển chủ yếu tập trung vào ngoại ngữ cần phải đưa ra
các môn thi chuyên ngành khác để lựa chọn cho cán bộ có đủ năng lực toàn diện về
chuyên môn và nhận thức xã hội. Có được lớp người mới, số người cũ sẽ tự đào thải
nếu không có ý thức vươn lên và thiếu ý thức trong công việc. Làm tốt công tác tuyển
chọn cán bộ, chi nhánh sẽ dần khắc phục tình trạng vừa thừa vừa thiếu cán bộ như hiện
nay.
Thứ ba: Đối với cán bộ làm tín dụng XNK thì các yêu cầu và tiêu dùng chuẩn về
năng lực cao hơn không những kiến thực nghiệp vụ mà cần trang bị cho họ trình độ cơ
bản về thương mại, pháp luật, ngoại ngữ... nơi nào chưa có đủ điều kiện về cán bộ thì
kiên quyết không cho thực hiện nghiệp vụ thanh toán quốc tế.
3.2.4. Chính sách khách hàng
Khách hàng là nguyên nhân tồn tại và phát triển của NHTM. Nên khách hàng
quyết định cơ cấu, quy mô nguồn vốn và sử dụng vốn của ngân hàng, thể hiện uy tín và
năng lực cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường trong và ngoài nước. Để thực hiện tốt
chính sách khách hàng, ngân hàng có thể vận dụng các hình thức, biện pháp sau đây:
Thứ nhất: Phân loại khách hàng
Đánh giá đúng khách hàng trước hết dựa vào quan hệ tín dụng của họ với Ngân
hàng. Căn cứ chủ yếu để phân loại khách hàng là năng lực tài chính và kinh doanh. Cần
phải phân tích khách quan và đúng đắn các loại nợ quá hạn để phân loại khách hàng,
nhưng quan trọng nhất vẫn là việc thực hiện của các chi nhánh ngân hàng cơ sở cho
từng đối tượng phù hợp với thực tiễn sinh động. Sử dụng cơ chế lãi suất ưu đãi cho cả
đối tượng khách hàng lớn, truyền thống cũng như khách hàng đang gặp khó khăn.
Thứ hai: Tổ chức hội nghị khách hàng
Đây là hình thức tổ chức hoạt động có hiệu quả cho cả ngân hàng và khách hàng.
Thông qua các hội nghị khách hàng, khách hàng có điều kiện tiếp xúc và trao đổi thông
tin với nhau, đồng thời tạo cơ hội cho họ và ngân hàng hiểu về khó khăn vướng mắc để
có các giải pháp cùng nhau tháo gỡ.
Tổ chức một hội nghị khách hàng cũng cần phải coi trọng về khâu chất lượng,
trước hết là công tác thẩm định lựa chọn khách hàng, thăm dò và xây dựng nội dung hội
nghị để có đề tài trọng tậm, đồng thời tạo được không khí cởi mở để thông qua khách
hàng mà đánh giá năng lực, phẩm chất của cán bộ ngân hàng.
Một hình thức hội nghị phổ biến hiện nay của các ngân hàng nước ngoài là hội
thảo chuyên đề do một ngân hàng chủ trì với sự tham gia của các bạn hàng là ngân hàng
và doanh nghiệp với nhiều nội dung phú như: trao đổi kinh nghiệm, tổ chức thảo luận
về nghiệp vụ mới và về biện pháp quản lý rủi ro.
Thứ ba: Từ tư vấn tiếp thị đến hợp tác kinh doanh.
Ngân hàng là người tư vấn có hiệu quả nhất về phương diện tài chính cho dự án
kinh doanh của khách hàng. Trong ngoại thương, vai trò tiếp thị của ngân hàng rất quan
trọng, giúp khách hàng tìm kiếm thị trường, bạn hàng và sản phẩm mới. Tham gia cấp
tín dụng và bảo lãnh tín dụng hàng hoá xuất khẩu.
Trong các nước tư bản, từ lâu tư bản ngân hàng đã thâm nhập vào tư bản công
nghiệp và thương nghiệp, quản lý khép kín toàn bộ các khâu sản xuất và lưu thông. Sự
sát nhập đó tạo nên sức mạnh tổng hợp của tập đoàn về tài chính, kinh doanh và tiêu thụ
hàng hoá.
3.3. Kiến nghị
3.3.1 Đối với các cơ quan quản lý vĩ mô
Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải có một môi trường pháp lý ổn
định và đồng bộ, đảm bảo cho các doanh nghiệp kinh doanh bình đẳng trước pháp luật,
các quan hệ kinh tế xã hội được điều chỉnh theo định hướng XHCN.
Thứ nhất: Hoàn thiện môi trường pháp lý ổn định đồng bộ và nhất quán
Trách nhiệm về hành chính và kinh tế cần được quy định rõ ràng đối với các cơ
quan, cá nhân ban hành văn bản, ra quyết định như quyết định thành lập doanh nghiệp,
cấy giấy phép kinh doanh, thẩm định phê duyệt các dự án đầu tư ký xét duyệt các hồ sơ
đề nghị bảo lãnh vay vốn, cấp vốn... Từng bước đưa ra các văn bản quy phạm pháp luật
vào thực tiễn sản xuất xã hội bằng việc triển khai nghiệm minh và đồng bộ giữa các cơ
quan hành pháp, bắt đầu từ công an, hải quan, biên phòng, thuế vụ. Triệt để ngăn chặn
các hoạt động buôn lậu trốn thuế, làm hàng giả gây hậu quả trực tiếp và gián tiếp đến
tín dụng ngân hàng.
Theo điều 12 NĐ 178 về việc giữ tài sản và giấy tờ của tài sản cầm cố thế chấp
có quy định "Nếu tài sản có đăng ký quyền sở hữu... tổ chức tín dụng phải giữ bản
chính giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản". Thực tế hiện nay, các tổ chức tín dụng
chưa nắm rõ được danh mục các tài sản theo quy định phải đăng ký quyền sở hữu và cơ
quan chức năng cấp chứng nhận quyền sở hữu đó. Vì vậy, Chính phủ cần ban hành văn
bản pháp lý quy định cụ thể về đăng ký quyền sở hữu tài sản.
Để đảm bảo tín dụng tài trợ XNK của NHTM có hiệu quả, trước hết chính sách
XNK cần được hoàn thiện đồng bộ với chiến lược phát triển và kế hoạch của nền kinh
tế quốc dân. Rà soát lại khả năng của các doanh nghiệp có giấy phép kinh doanh XNK
và cho phép các doanh nghiệp có hàng XNK ổn định được phép XNK trực tiếp. Bộ
thương mại cần quy định trách nhiệm cho các cơ quan cấp giấy phép đối với chất lượng
và giá cả hàng hoá nhập khẩu, đặc biệt là thiết bị công nghệ.
Thứ hai: Chính sách trợ giá và bảo hiểm XNK
Có thể nói, một số hàng xuất khẩu của ta hiện nay chịu thua thiệt nhiều do thiếu
vốn và cơ chế chính sách, đặc biệt là mặt hàng nông sản: gạo, cà phê, hạt điều,... Những
dự án nhập khẩu thiết bị đòi hỏi phải được đầu tư đồng bộ tránh tình trạng như nhiều dự
án do chi nhánh cho vay đều chậm tiến độ thi công, các nguồn đầu vào (nguyên liệu,
nhân lực, cán bộ chuyên gia lành nghề) chưa được quy hoạch hợp lý trong khi hạn vay
của các khoản tín dụng trong nước đã hết hạn, gây khó khăn cho ngân hàng.
Nhằm bảo hiểm và khuyến khích hoá XNK Việt Nam, nhất là đối với hàng nông
sản cần nhanh chóng thành lập tổ chức bảo hiểm xuất khẩu với các thành viên chủ yếu
từ Chính phủ, các ngân hàng, Bộ Thương mại và các bộ ngành liên quan thực hiện hai
chức năng cơ bản sau:
+ Tư vấn và thông tin tiếp thị cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh XNK
+ Cấp tín dụng người mua và bảo hiểm hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam
Thứ ba: Nhà nước cần nhanh chóng thực thi các biện pháp xử lý tài sản thế chấp
Hiện nay số lượng tài sản thế chấp ở ngân hàng khó lớn, gây khó khăn cho hoạt
động kinh doanh của ngân hàng. Theo nghị định 178/1999/NĐ-CP, khi khách hàng
không trả được nợ thì tổ chức tín dụng được xử lý tài sản thế chấp thu hồi vốn. Tuy
nhiên, hiện nay việc xử lý tài sản thế chấp theo đúng trình tự pháp luật để ngân hàng thu
hồi vốn hiện còn rất phức tạp, nên hầu hết việc xử lý tài sản thế chấp đều được thực
hiện theo phương thức thoả thuận giữa tổ chức tín dụng và khách hàng vay, để khách
hàng tự nguyện bán tài sản thế chấp trả nợ ngân hàng... song số lượng này không nhiều.
Nhà nước cần thường xuyên giám sát, thanh tra các hoạt động tín dụng của ngân hàng
từ khâu đầu cho đến khâu tháo gỡ những vướng mắc trong xử lý tài sản thế chấp. Cần
đơn giản hoá các thủ tục hành chính pháp lý để tạo điều kiện cho tài sản được mua bán
chuyển nhượng dễ dàng, góp phần giảm nợ quá hạn của ngân hàng xuống đến mức cho
phép tài sản mang tính hình thức thủ tục trong việc vay vốn của ngân hàng.
3.3.2. Đối với NHNT Việt Nam
Với tốc độ phát triển kinh tế vượt bậc như hiện nay, mối quan hệ kinh doanh
hiện nay, nhất là lĩnh vực tài trợ XNK không ngưng được mở rộng sang các nước, các
khu vực mới. Vì vậy, NHNT Hà Nội phải tận dụng mọi cơ hội để tăng cường các mối
quan hệ đại lý các ngân hàng nước ngoài. NHNT Việt Nam đã có 35 năm kinh nghiệm
phát triển. Với thời gian phát triển như vậy, Ngân hàng đã tạo được quan hệ với 1600
ngân hàng nước ngoài. Vì thế, NHNT Việt Nam cần giúp đỡ NHNT Hà Nội, để chi
nhánh tăng cường các mối quan hệ đại lý của mình, hạn chế những khó khăn do vấn đề
này gây nên.
NHNT Việt Nam cần định kỳ trao đổi kinh nghiệm nghiệp vụ trong toàn hệ
thống để đúc rút kinh nghiệm nâng cao chất lượng công tác, góp phần giữ vững thị phần
của ngân hàng ngoại thương trong hoạt động tín dụng tài trợ XNK.
3.3.3. Đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh XNK
ở nước ta hiện nay, để nâng cao hiệu quả tín dụng ngân hàng cho hoạt động
XNK thì bên cạnh những kiến nghị đưa ra đối với cơ quan quản lý vĩ mô, ngân hàng
ngoại thương Việt Nam thì nhất thiết phải đưa ra những kiến nghị đối với những doanh
nghiệp XNK - một tác nhân quan trọng trong mối quan hệ tín dụng đối với các ngân
hàng thương mại.
Do trình độ còn non kém trong lĩnh vực ngoại thương của các cán bộ tại doanh
nghiệp XNK nên đã tạo những bất lợi cho chính doanh nghiệp và ngân hàng. Để khắc
phục nhược điểm này không còn cách nào khác là các khách hàng phải tự nâng cao
trình độ nghiệp vụ của mình như:
+ Các nhà kinh doanh XNK phải có trình độ về ngoại thương và thanh toán quốc
tế.
+ Đào tạo đội ngũ cán bộ trẻ có năng lực, nghiệp vụ chuyên môn cao, trình độ
ngoại ngữ tốt để có thể tiếp cận với những phương tiện tín dụng quốc tế hiện đại.
+ Cử cán bộ di dự các lớp nâng cao trình độ nghiệp vụ do các trường đại học
hoặc tổ chức trong và ngoài nước đào tạo. Mời chuyên gia về giảng dạy, tư vấn trong
lĩnh vực ngoại thương.
+ Cần có chế độ thưởng phạt và kích thích tinh thần làm việc của các thành viên
trong doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp XNK cần đẩy mạnh hoạt động Marketing XNK
để hạn chế rủi ro dẫn đến mất khả năng thanh toán với ngân hàng. Những diễn biến trên
thị trường thế giới phức tạp khó có thể lường trước, hơn nữa cơ sở vật chất kỹ thuật của
các doanh nghiệp chưa đủ sức mạnh cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Do vậy, có được
một chiến lược marketing hiệu quả, hợp lý là cần thiết. Trên cơ sở nắm bắt thông tín,
doanh nghiệp sẽ có phương thức, chiến lược thâm nhập vào thị trường XNK, sẽ có
những quyết định về sản phẩm, giá cả đúng đắn góp phần mở rộng và đẩy mạnh hoạt
động kinh doanh XNK của mình.
Hoạt động tín dụng của Ngân hàng cho doanh nghiệp XNK sẽ có hiệu quả cao
nếu các doanh nghiệp XNK chấp hành tuyệt đối các nguyên tắc điều kiện thoả thuận khi
vay vốn ngân hàng. Cụ thể, là phải sử dụng vốn đúng mục đích như cam kết trong đơn
xin vay vốn. Những tài sản mà doanh nghiệp đã mang thế chấp cầm cố tại chi nhánh thì
không được quyền chuyển nhượng, cầm cố hay bán cho các cá nhân khác khi chưa trả
đủ nợ cho Ngân hàng. Nếu doanh nghiệp còn dư nợ thì không được bằng cách này hay
cách khác thiếu trung thực để được tiếp tục vay vốn tại Ngân hàng.
Mục lục
Chương I: Một số vấn đề cơ bản về tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng thương
mại.
1.1.. Một số vấn đề cơ bản về hoạt động xuất nhập khẩu trong nền kinh tế
1.1.1. Sự cần thiết của hoạt động xuất nhập khẩu.
1.1.2. Nhu cầu tài trợ xuất nhập khẩu
1.1.3. Các nguồn tài trợ cho hoạt động xuất nhập khẩu.
1.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hoạt động xuất nhập khẩu.
1.2.1. Khái niệm, vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hoạt động xuất nhập khẩu .
1.2.1.1. Khái niệm.
1.2.1.2. Vai trò.
1.2.2. Các hình thức tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng thương mại.
1.3. Các yếu tố ảnh hưỡng tới hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của NHTM ở
Việt Nam.
Chương II : Thực trạng hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại NHNT Hà Nội .
2.1. Khái quát về NHNT Hà Nội .
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của NHNT Hà Nội .
2.1.2. Cơ cấu tổ chức của NHNT Hà Nội .
2.1.3. Tình hình 1 số hoạt động kinh doanh chính của NHNT Hà Nội .
2.1.3.1. Về huy động vốn.
2.1.3.2. Về cho vay.
2.1.3.3. Về hoạt động kinh doanh ngoại tệ.
2.2. Thực trạng hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu tại NHNT Hà Nội .
2.3. Đánh giá hoạt động tín dụng tài trợ xuất khẩu nhập khẩu tại Ngân hàng ngoại
thương Hà Nội
2.3.1 Những mặt đạt được
2.3.2 Những tồn tại và nguyên nhân
Chương III: Giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng tín dụng xuất nhập khẩu tại NHNT
Hà Nội
3.1 Phương hướng hoạt động và nhiệm vụ công tác năm 2003 của NHNT Hà Nội
3.2. Giải pháp hoàn thiện hoạt động tín dụng tài trợ XNK tại NHNT Hà Nội
3.2.1. Nhóm giải pháp về quản trị điều hành
3.2.2 Giải pháp về nghiệp vụ tín dụng tài trợ XNK
3.2.3. Chiến lược con người và công nghệ ngân hàng
3.2.4. Chính sách khách hàng
3.3. Kiến nghị
3.3.1 Đối với các cơ quan quản lý vĩ mô
3.3.2. Đối với NHNT Việt Nam
3.3.3. Đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh XNK
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng tín dụng xuất nhập khẩu tại NHNT Hà Nội.pdf